Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II. Kim Cang Kinh

10/07/201103:30(Xem: 11011)
II. Kim Cang Kinh

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG KINH

Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh.
Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập phụng chiếu dịch.

I. PHÁP HỘI NHÂN DO

PHẦN ĐỆ NHỨT

1.- Như thị ngã văn:

2.- Nhứt thời, Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thọ([2]) Cấp Cô Độc viên,...

3.-...Dữ đại Tỳ Khưu chúng, thiên nhị bá ([3]) ngũ thập nhơn cu.

4.- Nhĩ thời, Thế Tôn thực thời, chước ([4]) y trì bát,...

5.- Nhập Xá Vệ đại thành khất thực.

6.- Ư kỳ thành trung, thứ đệ khất dĩ.

7.- Truyền ([5]) chí bổn xứ, phản tự cật ([6]) thâu y bát, tẩy túc dĩ,...

8.- Phu tọa ([7]) nhi tọa.

KINH KIM CANG

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.
Đời Dao Tần, thầy Tam Tạng Pháp sư là Cưu Ma La Thập vưng chiếu phiên dịch.

 

I.- NHÂN DO NÓI PHÁP

PHẦN THỨ NHỨT

1.- Ta nghe như vầy:

2.- Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, nơi nhà Tịnh xá của ông Cấp Cô Độc, cất trong vườn cây ông Kỳ Đà...

3.-...Cùng một ngàn hai trăm mươi thầy đại Tỳ Khưu, cu hội tại đó.

4.- Khi ấy, gần đến giờ ăn của đức Thế Tôn, Ngài bèn mặc y, mang bình bát...

5.-...Vào đại thành, nước Xá Vệ xin ăn.

6.- Ở trong thành, cứ theo thứ lớp mà xin.

7.-...Về đến chỗ ở: dùng cơm xong, đoạn cất y bát, rửa chơn rồi,...

8.-...Lên chỗ pháp tòa, đã sắp đặt, mà ngồi.

II.- THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH

PHẬN ĐỆ NHỊ

9.- Thời Trưởng lão Tu Bồ Đề,...

10.-... Tại đại chúng trung, tức tùng tọa khởi ([8]), thiên đãn hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính, nhi bạch Phật ngôn: "Hy hữu Thế Tôn!".

11.- Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú chúc chư Bồ Tát...

12.- Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn, phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề([9]) tâm,...

13.-...Vân hà ưng trụ ([10]) vân hà hàng phục kỳ tâm?

14.- Phật ngôn: "Thiện tai! Thiện tai ! Tu Bồ Đề! Như nhữ sở thuyết: Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phú chúc chư Bồ Tát.... Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.

15.- Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm...".

- "Dủy ([11]), nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn".

II.- THIỆN HIỆN KHỞI HỎI

PHẦN THỨ HAI

9.- Khi ấy Trưởng lão Tu Bồ Đề...

10.-... Ở trong hàng đại chúng, liền đứng dậy, đến nơi pháp tòa, trịch y nửa thân bên vai hữu, quì gối hữu sát đất, chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng: "Như đức Thế Tôn ! Ít có".

11.-Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay giao phó dặn dò các Bồ Tát...

12.-Bạch đức Thế Tôn! Như có trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,...

13.-... Nên trụ thế nào? Nên hàng phục cái vọng tâm thế nào?.

14.-Phật khen: "Đáng khen cho! Đáng khen cho! Này Tu Bồ Đề! Theo lời ông vừa nói: Như Lai hay đoái tưởng các Bồ Tát, hay giao phó dặn dò các Bồ Tát... Vậy nay, ông hãy lóng nghe. Ta đáng vì ông mà nói.

15.-Như trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên trụ như vậy, nên hàng phục cái tâm như vậy...".

- "Vâng, vâng, bạch đức Thế Tôn! Con nguyện hết lòng muốn nghe".

III.- ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG

PHẬN ĐỆ TAM

16.- Phật cáo Tu Bồ Đề: "Chư Bồ Tát Ma ha tát, ưng như thị hàng phục kỳ tâm:

17.- Sở hữu nhứt thiết ([12]) chúng sanh chi loại:

18.- Nhược noãn sanh ([13]), nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, phi vô tưởng,...

19.-... Ngã giai linh nhập Vô Dư Niết bàn nhi diệt độ chi.

20.- Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên, chúng sanh, thiệt vô chúng sanh đắc diệt độ giả.

21.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát".

IV.- DIỆU HẠNH VÔ TRỤ

PHẦN ĐỆ TỨ

22.- Phú ([14]) thứ: Tu Bồ Đề!.

23.- Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí...

III.- ĐẠI THỪA TÔNG CHÁNH

PHẦN THỨ BA

16.- Phật bảo Tu Bồ Đề: "Các đại Bồ Tát nên hàng phục cái vọng tâm như vậy.

17.- Bằng có cả thảy các loại chúng sanh:

18.- Hoặc sanh trứng, sanh con, sanh chỗ ướt, hóa sanh, hoặc có sắc, không sắc, có tư tưởng, không tư tưởng, chẳng phải có tư tưởng, chẳng phải không có tư tưởng...

19.-... Ta đều khiến cho đặng vào Vô Dư Niết bàn, mà diệt độ.

20.- Diệt độ chúng sanh vô lượng vô số vô biên như vậy, nhưng thiệt chẳng có chúng sanh nào mà đặng diệt độ cả.

21.- Bởi cớ sao? Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát mà còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải là Bồ Tát".

 

IV.- HẠNH MẦU KHÔNG TRỤ

PHẦN THỨ TƯ

22.- Lại nói tiếp: Này Tu Bồ Đề.

23.-... Bồ Tát làm việc bố thí, đúng nơi pháp, thì không có chỗ trụ.

24.- Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí.

25.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng.

26.- Hà dĩ cố? Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lương.

27.- Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Đông phương hư không khả tư lương phủ?".

- "Phất dã, Thế Tôn!".

- "Tu Bồ Đề! Nam, Tây, Bắc phương tứ duy, thượng hạ hư không khả tư lương phủ?".

- "Phất dã, Thế Tôn!".

- "Tu Bồ Đề! Bồ Tát vô trụ tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị: Bất khả tư lương.

Tu Bồ Đề! Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ".

V. - NHƯ LÝ THIỆT KIẾN

PHẦN ĐỆ NGŨ

28.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ?".

29.- "Phất dã, Thế Tôn! Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai.

30.- Hà dĩ cố? Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng".

24.- Là nói: chẳng trụ sắc mà bố thí, chẳng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí.

25.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên bố thí như vậy, chẳng nên trụ tướng.

26.- Bởi cớ sao? Nếu Bồ Tát bố thí chẳng trụ tướng, thì phước đức không thể so lường đặng.

27.- Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Hư không phương Đông, có so lường đặng chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn ! chẳng đặng".

- "Tu Bồ Đề! Còn như hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn hướng bên cạnh, phương trên và phương dưới, có so lường đặng chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn ! chẳng đặng".

"Tu Bồ Đề! Bồ Tát bố thí mà chẳng trụ tướng, thì phước đức lại cũng như vậy: không thể so lường đặng.

Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên trụ theo chỗ Ta dạy đó". (trụ chỗ không trụ).

V.- RÕ LÝ NHƯ NHƯ

PHẦN THỨ NĂM

28.- "Này Tu Bồ Đề! Ý của ông thế nào? Có nên dùng thân tướng mà cho là Như Lai chăng?".

29.- "Bạch đức Thế Tôn! Không. Không nên dùng thân tướng mà cho là Như Lai.

30.- Bởi cớ sao? Bởi Như Lai thường nói thân tướng, tức chẳng phải thân tướng".

31.- Phật cáo Tu Bồ Đề: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai".

VI.- CHÁNH TÍN HY HỮU

PHẬN ĐỆ LỤC

32.- Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh đắc văn như thị ngôn thuyết chương cú, sanh thiệt tín phủ?".

Phật cáo Tu Bồ Đề: "Mạc tác thị thuyết! Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bá tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thiệt.

33.- Đương tri thị nhơn, bất ư nhứt Phật, nhị Phật, tam, tứ, ngũ Phật, nhi chúng ([15]) thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chúng chư thiện căn.

34.- Văn thị chương cú, nãi chí nhứt niệm sanh tịnh tín giả. Tu Bồ Đề! Như Lai tất tri tất kiến thị chư chúng sanh đắc như thị vô lượng phước đức.

35.- Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh vô phục ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng, diệc vô phi pháp tướng".

31.- Phật bảo Tu Bồ Đề: "Phàm chỗ nào có tướng đều là hư vọng, bằng cho các tướng chẳng phải tướng tức rõ đặng Như Lai".

VI.- CHÁNH TÍN ÍT CÓ

PHẦN THỨ SÁU

32.- Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như có chúng sanh nào đặng nghe những câu bài giảng giải như vậy, có sanh lòng tin thiệt chăng?".

Phật bảo Tu Bồ Đề: "Chớ có nói lời ấy. Khi Như Lai diệt độ rồi, sau năm trăm năm sau, có kẻ nào trì giới tu phước mà sanh lòng tin những câu bài ấy, thì lấy đó làm thiệt.

33.- Nên biết người ấy, chẳng những là gieo căn lành trong một kiếp Phật, hai kiếp Phật, ba, bốn, năm kiếp Phật, mà đã gieo các căn lành đến vô lượng ngàn muôn kiếp Phật rồi.

34.- Nghe những câu bài ấy, cho đến nhứt niệm sanh lòng tin chắc thì Tu Bồ Đề này! Như Lai đều biết hết thấy hết, các chúng sanh ấy đặng cái phước đức vô lượng như vậy (gieo căn lành).

35.- Bởi cớ sao? - Bởi các chúng sanh ấy không còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp, cũng không có tướng phi pháp".

36.- Hà dĩ cố? Thị chư chúng sanh, nhược tâm thủ tướng, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả; nhược thủ pháp tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.Hà dĩ cố? Nhược thủ phi pháp tướng, tức trước ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

37.- Thị cố, bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp.

38.- Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết nhữ đẳng Tỳ Khưu tri ngã thuyết pháp như phạt ([16]) dụ giả; pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp?".

VII.- VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT

PHẬN ĐỆ THẤT

39.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Như Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề gia? Như Lai hữu sở thuyết pháp gia?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, diệc vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết.

40.- Hà dĩ cố? - Như Lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp, phi phi pháp.

36.- Bởi cớ sao? - Bởi các chúng sanh ấy, nếu lòng còn chấp tướng, tức còn trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Bằng chấp pháp tướng, cũng là trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả - Bởi cớ sao? Bằng chấp phi pháp tướng, cũng là trước tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

37.- Như thế thì, chẳng nên chấp pháp, cũng chẳng nên chấp phi pháp.

38.- Bởi cái nghĩa ấy, nên ta thường dạy các thầy Tỳ Khưu phải biết Ta nói pháp, ví như cái bè; pháp còn phải bỏ thay, huống chi là chẳng phải pháp".

VII.- KHÔNG CHI ĐẮC THUYẾT

PHẦN THỨ BẢY

39.- "Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? - Như Lai có đặng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có chỗ chi nói pháp ấy chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Như con rõ nghĩa của Phật nói, thì không có định chắc pháp chi kêu là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có định chắc pháp chi mà Như Lai nói.

40.- Bởi cớ sao? Bởi chỗ nói pháp Như Lai đều chẳng chấp, là chẳng nói phi pháp, cũng chẳng phải phi pháp.

41.- Sở dĩ giả hà? - Nhứt thiết Hiền Thánh giai dĩ vô vi pháp, nhi hữu si ([17]) biệt".

VIII.- Y PHÁP XUẤT SANH

PHẬN ĐỆ BÁT

42.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Nhược nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo ([18]) dĩ dụng bố thí, thị nhơn sở đắc phước đức ninh vi đa phủ?".

43.- Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn!

Hà dĩ cố? - Thị phước đức, tức phi phước đức tánhthị cố Như Lai thuyết phước đức đa".

44.- Nhược phục hữu nhân, ư thử kinh trung thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thắng bỉ.

45.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Nhứt thiết chư Phật cập chư Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề pháp giai tùng thử kinh xuất.

46.- Tu Bồ Đề! Sở vị Phật Pháp giả, tức phi Phật Pháp.


41.- Sở dĩ sao? Cả thảy Thánh Hiền đều dùng pháp vô vi mà cũng có hơn kém".

VIII.- NƯƠNG PHÁP XUẤT SANH

PHẦN THỨ TÁM

 

42.- "Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Bằng có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, đem ra mà bố thí, người ấy có đặng phước đức nhiều chăng?".

43.- Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều.

Bởi cớ sao? Bởi phước đức ấy chẳng phải phước đức tánh, cho nên Như Lai nói phước đức nhiều".

44.- Bằng có người thọ trì kinh này, nhẫn đến những tứ cú kệ, lại vì người mà diễn thuyết, thì phước đức này hơn phước đức kia.

45.- Bởi cớ sao? - Tu Bồ Đề, cả thảy chư Phật với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật, đều do nơi kinh này mà có ra.

46.- Này Tu Bồ Đề! Gọi là Phật Pháp ấy, nhưng chẳng phải Phật Pháp.

IX.- NHỨT TƯỚNG VÔ TƯỚNG

PHẬN ĐỆ CỬU

47.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tu Đà Hoàn năng tác thị niệm: Ngã đắc Tu Đà Hoàn quả phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn!

Hà dĩ cố? - Tu Đà Hoàn danh vi Nhập Lưu, nhi vô sở nhập: Bất nhập sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu Đà Hoàn ([19])".

48.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tư Đà Hàm, năng tác thị niệm: Ngã đắc Tư Đà Hàm quả phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn!

Hà dĩ cố? - Tư Đà Hàm danh Nhứt Vãng Lai, nhi thiệt vô Vãng Lai, thị danh Tư Đà Hàm".

49.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? A Na Hàm năng tác thị niệm: Ngã đắc A Na Hàm quả phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn!

Hà dĩ cố? - A Na Hàm danh vi Bất Lai, nhi thiệt vô Bất Lai, thị cố danh A Na Hàm".

50.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? A La Hán năng tác thị niệm : Ngã đắc A La Hán đạo phủ?".

IX MỘT TƯỚNG KHÔNG TƯỚNG

PHẦN THỨ CHÍN

47.- "Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Tu Đà Hoàn có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng quả Tu Đà Hoàn chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn!Không thể đặng.

Bởi cớ sao? - Bởi Tu Đà Hoàn, kêu là quả Nhập Lưu, nhưng không chỗ nhiễm : là chẳng nhiễm sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, nên gọi là Tu Đà Hoàn".

48.- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Tư Đà Hàm có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng quả Tư Đà Hàm chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Không thể đặng.

Bởi cớ sao? Bởi Tư Đà Hàm, kêu là quả Nhứt Vãng Lai, nhưng thiệt không cái tướng Vãng Lai, nên gọi là Tư Đà Hàm".

49.- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? A Na Hàm có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng quả A Na Hàm chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Không thể đặng.

Bởi cớ sao? - Bởi A Na Hàm, kêu là quả Bất Lai, nhưng không chấp cái tướng Bất Lai nên gọi là A Na Hàm".

50.- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? A La Hán có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng đạo A La Hán chăng?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Phất dã, Thế Tôn!

Hà dĩ cố? Thiệt vô hữu pháp danh A La Hán.

Thế Tôn! Nhược A La Hán tác thị niệm: Ngã đắc A La Hán đạo, tức vi trước ngã, nhơn, chúng sanh thọ giả.

51.- Thế Tôn! Phật thuyết ngã đắc Vô Tranh tam muội, nhơn trung tối vi đệ nhứt, thị đệ nhứt, ly dục ([20]) A La Hán.

Thế Tôn ! Ngã bất tác thị niệm : Ngã thị ly dục A La Hán.

52.- Thế Tôn! Ngã, nhược tác thị niệm: Ngã đắc A La Hán đạo, Thế Tôn tức bất thuyết: Tu Bồ Đề thị nhạo A Lan Na hánh ([21]) giả. Dĩ Tu Bồ Đề thiệt vô sở hành, nhi danh Tu Bồ Đề thị nhạo A Lan Na hánh".

X.- TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ

PHẬN ĐỆ THẬP

53.- Phật cáo Tu Bồ Đề: "Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở; ư pháp, hữu sở đắc phủ?".

- "Phất dã, Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thiệt vô sở đắc".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Không thể đặng.

Bởi cớ sao? - Bởi thiệt không có pháp chi, kêu là A La Hán cả.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu A La Hán mà có tưởng như vầy: Tưởng mình đặng đạo A La Hán, tức là trước tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

51.- Bạch đức Thế Tôn! Phật nói con là người đặng pháp Vô Tranh tam muội, thiệt đúng bực nhứt, mà cũng là bực Ly Dục A La Hán thứ nhứt nữa.

Bạch đức Thế Tôn! Con chẳng tưởng như vậy : Tôi mới phải là bực ly dục A La Hán.

52.- Bạch đức Thế Tôn! Bằng con có tưởng như vầy: Con đặng đạo A La Hán thì đức Thế Tôn chẳng có nói : Tu Bồ Đề này ưa làm theo hạnh A Lan Na. Bởi Tu Bồ Đề này thiệt không có làm cái chi, mới gọi là Tu Bồ Đề ưa làm theo hạnh A Lan Na cho".

X.- TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ

PHẦN THỨ MƯỜI

53.- Phật bảo Tu Bồ Đề: "Ý ông thế nào? Như Lai thuở trước ở chỗ Phật Nhiên Đăng; pháp, có chỗ chi đặng chăng?".

"Bạch đức Thế Tôn ! Không - Như Lai khi ở chỗ Phật Nhiên Đăng, thiệt không có chỗ chi đặng pháp cả".

54.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Bồ Tát trang nghiêm Phật độ phủ?".

- "Phất dã, Thế Tôn !

Hà dĩ cố? - Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm thị danh trang nghiêm".

55.- "Thị cố, Tu Bồ Đề! Chư Bồ Tát Ma ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp, sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.

56.- Tu Bồ Đề! Thí như hữu nhơn, thân như Tu Di sơn ([22]) vương, ư ý vân hà? Thị thân vi đại phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đại, Thế Tôn ! Hà dĩ cố? - Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân".

XI.- VÔ VI PHƯỚC THẮNG

PHẬN ĐỆ THẬP NHỨT

57.- Tu Bồ Đề! Như hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng hằng hà, ư ý vân hà? Thị chư hằng hà sa ninh vi đa phủ?".

54.- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Bồ Tát có trang nghiêm Phật độ chăng ?".

- "Bạch đức Thế Tôn ! Không.

Bởi cớ sao? Bởi trang nghiêm Phật độ, nhưng chẳng phải trang nghiêm, chỉ cưỡng danh là trang nghiêm".

55.- Bởi vậy, này Tu Bồ Đề. Các đại Bồ Tát nên sanh tâm thanh tịnh như vậy; chẳng nên sanh tâm trụ sắc, chẳng nên sanh tâm trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp; nên sanh tâm không chỗ chi trụ.

56.- Tu Bồ Đề! Ví như có người, thân bằng núi chúa Tu Di ý ông thế nào - Thân ấy có lớn chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Rất lớn. Bởi cớ sao? - Bởi Phật nói chẳng phải thân, mới gọi là thân lớn".

XI.- VÔ VI PHƯỚC LỚN

PHẦN THỨ MƯỜI MỘT

57.- "Này Tu Bồ Đề! Như dùng số cát trong sông Hằng mà ví dụ có những sông Hằng khác nhiều bằng số cát như vậy - Ý ngươi thế nào? Số cát của những sông Hằng ấy, saocó nhiều chăng?".

58.- Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn! đản chư hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa !".

59.- "Tu Bồ Đề! Ngã kim thiệt ngôn cáo nhữ! Nhược hữu: Thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ thất bảo mãn nhĩ sở hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới dĩ tụng bố thí, đắc phước đa phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: Thậm đa, Thế Tôn!

Phật cáo Tu Bồ Đề: "Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng vị tha nhơn thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức.

XII.- TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO

PHẬN ĐỆ THẬP NHỊ

60.- Phục thứ: "Tu Bồ Đề! Tùy thuyết thị kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng đương tri thử xứ, nhứt thiết thế gian: Thiên, nhơn, A tu la giai ưng cúng dường ([23]) như Phật tháp miếu.

61.- Hà huống, hữu nhơn tận năng thọ trì đọc tụng!

Tu Bồ Đề! Đương tri thị nhơn thành tựu Tối thượng Đệ nhứt hy hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ, tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử".

58.- Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều. Những sông Hằng còn nhiều vô số thay, huống chi là cát!".

59.- "Này Tu Bồ Đề! Nay ta bảo thiệt ngươi! Nếu có trai lành, gái tín nào, dùng bảy báu đầy cả hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới ấy, đem ra mà bố thí, có đặng phước nhiều chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều".

Phật bảo Tu Bồ Đề: "Bằng trai lành, gái tín nào thọ trì theo trong kinh này cho đến những tứ cú kệ và diễn thuyết lại cho người khác, thì phước đức ấy hơn phước đức trước kia".

XII.- TÔN TRỌNG LÝ CHÁNH

PHẦN THỨ MƯỜI HAI

60.- Lại nói tiếp: "Này Tu Bồ Đề! Chỗ nào tứ cú kệ, phải biết chỗ ấy, cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la đều nên cúng dường, cũng như tháp chùa, của Phật vậy.

61.- Huống chi, là người thọ trì, đọc tụng toàn cả kinh này!

- Tu Bồ Đề! Phải biết người ấy thành tựu đặng cái pháp Tối thượng Đệ nhứt ít có. Bằng như chỗ nào có kinh điển này, tức có Phật, hoặc như bực đệ tử tôn trọng vậy".

XIII.- NHƯ PHÁP THỌ TRÌ

PHẬN ĐỆ THẬP TAM

62.- Nhĩ thời Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Đương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì?".

Phật cáo Tu Bồ Đề: "Thị kinh danh vi Kim Cang Bát Nhã Ba la mật dĩ thị danh tự, nhữ đương phụng trì.

63.- Sở dĩ giả hà? - Tu Bồ Đề! Phật thuyết Bát Nhã Ba la mật, tức phi Bát Nhã Ba la mật, thị danh Bát Nhã Ba la mật.

64.- Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu sở thuyết pháp thủ?".

Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Như Lai vô sở thuyết".

65.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Tam thiên đại thiên thế giới sở hữu vi trần thị vi đa phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn !".

Tu Bồ Đề! Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần, thị danh, vi trần. Như Lai thuyết thế giới, phi thế giới, thị danh thế giới.

XIII.- THỌ TRÌ THEO PHÁP

PHẦN THỨ MƯỜI BA

62.- Khi ấy Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Kinh này nên đặt tên chi? Chúng tôi phải phụng trì thế nào?".

Phật bảo Tu Bồ Đề: "Kinh này đặt tên là Kim Cang Bát Nhã Ba la mật. Ông nên dùng nghĩa của danh từ ấy mà phụng trì.

63.- Sở dĩ sao? - Này Tu Bồ Đề! Phật nói Bát Nhã Ba la mật, nhưng chẳng phải Bát nhã ba la mật chỉ cưỡng danh là Bát Nhã Ba la mật.

64.- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? - Như Lai có chỗ chi thuyết pháp chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như Lai không có chỗ chi thuyết pháp cả".

65.- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? - Trong tam thiên đại thiên thế giới có những vi trần, vậy là nhiều chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều".

- Tu Bồ Đề! Những vi trần, Như Lai nói chẳng phải vi trần chỉ cưỡng danh là vi trần. Như Lai nói thế giới, cũng chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới.

66.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ?" - Phất dã, Thế Tôn ! Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai.

Hà dĩ cố? - Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng?".

67.- "Tu Bồ Đề! Nhược hữu thiện nam tử; thiện nữ nhơn, dĩ hằng hà sa đẳng thân mạng([24]) bố thí...

68.- Nhược phục hữu nhơn ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhơn thuyết, kỳ phước thậm đa".

XIV.- LY TƯỚNG TỊCH DIỆT

PHẬN ĐỆ THẬP TỨ

69.- Nhĩ thời Tu Bồ Đề văn thuyết thị kinh, thâm giải nghĩa thu, thế lụy bi khấp, nhi bạch Phật ngôn: "Hy hữu Thế Tôn! Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển; ngã tùng tích lai sở đắc huệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh.

70.- Thế Tôn! Nhược phục hữu nhơn đắc văn thị kinh, tín tâm thanh tịnh, tức sanh thiệt tướng; đương tri thị nhơn thành tựu đệ nhứt hy hữu công đức".

66.- Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? - Nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Không - Chẳng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai.

Bởi cớ sao? - Bởi Như Lai nói ba mươi hai tướng, nhưng chẳng phải tướng, chỉ cưỡng danh là ba mươi hai tướng".

67.- "Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín nào đem thân mạng bằng như số cát sông Hằng mà bố thí...

68.- Nếu lại có người giữ theo trong kinh này mà thọ trì cho đến những tứ cú kệ và diễn thuyết lại cho người khác, thì đặng phước rất nhiều".

XIV.- LÌA TƯỚNG VẮNG LẶNG

PHẦN THỨ MƯỜI BỐN

69.- Khi ấy, Tu Bồ Đề nghe nói kinh này, tỏ đặng cái nghĩa sâu xa, nên sa nước mắt, than khóc mà bạch Phật rằng: "Như đức Thế Tôn ít có! Phật nói kinh điển rất sâu xa dường ấy, tôi từ khi đặng huệ nhãn đến nay, chưa từng nghe đặng kinh như vậy.

70.- Bạch đức Thế Tôn! Nếu lại có người đặng nghe kinh này, mà lòng tin thanh tịnh, bèn sanh thiệt tướng, phải biết người ấy thành tựu cái công đức thứ nhứt ít có".

71.- Thế Tôn! Thị thiệt tướng giả, tức thị phi tướng; thị cố Như Lai thuyết danh thiệt tướng.

72.- Thế Tôn! Ngã kim đắc văn như thị kinh điển, tín giải thọ trì bất túc vi nan.

73.- Nhược đương lai thế, hậu ngũ bá ([25]) tuế, kỳ hữu chúng sanh đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhơn tức vi đệ nhứt hy hữu.

Hà dĩ cố? - Thử nhơn vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.

74.- Sở dĩ giả hà? - Ngã tướng tức thị phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức thị phi tướng.

Hà dĩ cố? - Ly nhứt thiết tướng, tức danh chư Phật".

75.- Phật cáo Tu Bồ Đề: "Như thị ! Như thị !".

76.- Nhược phục hữu nhơn đắc văn thị kinh, bất kinh, bất bố ([26]), bất úy, đương tri thị nhơn, thậm vi hy hữu.

77.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Như Lai thuyết đệ nhứt Ba la mật, tức phi đệ nhứt Ba la mật, thị danh Đệ nhứt Ba la mật.

71.- Bạch đức Thế Tôn! Thiệt tướng ấy, nhưng chẳng phải tướng; cho nên Như Lai nói: Cưỡng danh là thiệt tướng.

72.- Bạch đức Thế Tôn! Con nay đặng nghe kinh điển như vậy, tin hiểu mà thọ trì, chẳng đủ là khó.

73.- Nếu qua đến đời vị lai, sau năm trăm năm sau, có chúng sanh đặng nghe kinh này, tin, hiểu mà thọ trì, thì người ấy thiệt là đệ nhứt rất ít có.

Bởi cớ sao? - Bởi người ấy, không ngã tướng, không nhơn tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng.

74.- Sở dĩ sao? - Ngã tướng tức chẳng phải tướng, mà nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng cũng tức là chẳng phải tướng.

Bởi cớ sao? - Lìa cả thảy tướng, tức là chư Phật?".

75.- Phật bảo Tu Bồ Đề: "Như vậ !, như vậy !".

76.- Lại như có người đặng nghe kinh này, chẳng ngại, chẳng sợ, chẳng nhút nhát, phải biết người ấy rất là ít có.

77.- Bởi cớ sao? Tu Bồ Đề này! Như Lai nói Ba la mật thứ nhứt, (Bát Nhã Ba la mật) nhưng chẳng phải Ba la mật thứ nhứt, chỉ cưỡng danh là Ba la mật thứ nhứt.

78.- "Tu Bồ Đề! Nhẫn nhục Ba la mật, Như Lai thuyết, phi nhẫn nhục Ba la mật, thị danh nhẫn nhục Ba la mật.

79.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Như ngã tích vi Ca Lợi Vương cát triệu thân thể, ngã ư nhĩ thời vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.

Hà dĩ cố? - Ngã ư vãng tích tiết tiết chi giải thời; nhược hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, ưng sanh sân hận.

Tu Bồ Đề! Hựu niệm quá khứ, ư ngũ bá thế tác nhẫn nhục Tiên nhơn, ư nhĩ sở thế, vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.

80.- Thị cố, Tu Bồ Đề! - Bồ Tát ưng ly nhứt thiết tướng, phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm.

81.- Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng sanh vô sở trụ tâm; nhược tâm hữu trụ, tức vi phi trụ.

82.- Thị cố Phật thuyết Bồ Tát tâm, bất ưng trụ sắc bố thí.

78.- Tu Bồ Đề! Nhẫn nhục Ba la mật, Như Lai nói chẳng phải nhẫn nhục Ba la mật, chỉ cưỡng danh là nhẫn nhục Ba la mật.

79.- Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Như ta thuở trước bị vua Ca Lợi cắt đứt thân thể, trong khi ấy, Ta không ngã tướng, không nhơn tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng.

Bởi cớ sao? - Hồi thuở trước, khi Ta bị rã rời xương thịt, nếu Ta có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phải sanh lòng hờn giận.

Tu Bồ Đề! Lại nhớ đến năm trăm năm đời về trước, Ta làm vị Tiên nhẫn nhục, trong cái đời ấy, không ngã tướng, không nhơn tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng.

80.- Bởi vậy, Tu Bồ Đề này! Bồ Tát nên lìa cả thảy tướng, mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

81.- Chẳng nên sanh tâm trụ sắc, chẳng nên sanh tâm trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp, nên sanh tâm, không có chỗ trụ. Bằng tâm có trụ, tức là chẳng phải trụ.

82.- Cho nên, Phật nói tâm của Bồ Tát chẳng nên trụ sắc mà bố thí.

83.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát vị lợi ích nhứt thiết chúng sanh, cố ưng như thị bố thí.

84.- Như Lai thuyết nhứt thiết chư tướng, tức thị phi tướng; hựu thuyết: Nhứt thiết chúng sanh, tức phi chúng sanh.

85.- Tu Bồ Đề! Như Lai thị chơn ngữ giả, thiệt ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả.

86.- Tu Bồ Đề! Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thiệt, vô hư.

87.- Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát tâm, trụ ư pháp nhi hành bố thí, như nhơn nhập ám, tức vô sở kiến. Nhược Bồ Tát tâm, bất trụ pháp nhi hành bố thí, như nhơn hữu mục, nhựt quang minh chiếu kiến chủng chủng sắc.

88.- Tu Bồ Đề! Đương lai chi thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn năng ư thử kinh thọ trì đọc tụng, tức vi Như Lai dĩ Phật trí huệ; tất tri thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức.

83.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát vì lợi ích cho cả thảy chúng sanh, nên phải bố thí như vậy.

84.- Như Lai nói cả thảy tướng, tức là chẳng phải tướng; lại nói: Cả thảy chúng sanh, tức là chẳng phải chúng sanh.

85.- Tu Bồ Đề! Như Lai nói chơn chánh, nói chắc thiệt, nói đúng lý, chẳng nói giả dối, chẳng nói lạ kỳ.

86.- Tu Bồ Đề! Pháp của Như Lai, đặng pháp ấy không thiệt không hư.

87.- Tu Bồ Đề! Nếu lòng của Bồ Tát còn chấp pháp mà làm việc bố thí, thì cũng như người vào chỗ tối, không thấy chi cả. Còn như lòng của Bồ Tát, chẳng chấp pháp mà làm việc bố thí, thì cũng như người đã có con mắt, mà lại được ánh sáng chói rõ của mặt trời thấy tất cả mọi việc.

88.- Tu Bồ Đề! Qua đến đời sau, nếu có trai lành gái tín nào giữ theo kinh này mà thọ trì đọc tụng, tức là Như Lai dùng trí huệ của Phật; biết chắc người ấy, thấy chắc người ấy, đều thành tựu đặng cái công đức vô lượng vô biên.

XV.- TRÌ KINH CÔNG ĐỨC

PHẬN ĐỆ THẬP NGŨ

89.- Tu Bồ Đề! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, sơ nhựt phần dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; trung nhựt phần, phục dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí; hậu nhựt phần, diệc dĩ hằng hà sa đẳng thân bố thí, như thị vô lượng bá thiên vạn ức kiếp, dĩ thân bố thí...

Nhược phục hữu nhơn văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ. Hà huống thơ ([27]) tả thọ trì, đọc tụng, vị nhơn giải thuyết!

90.- Tu Bồ Đề! Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghị ([28]), bất khả xưng lượng vô biên công đức.

91.- Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết.

92.- Nhược hữu nhơn năng thọ trì đọc tụng, quảng vị nhơn thuyết, Như Lai tất tri thị nhơn, tất kiến thị nhơn, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xưng, vô hữu biên.

XV.- CÔNG ĐỨC TRÌ KINH

PHẦN THỨ MƯỜI LĂM

89.- "Tu Bồ Đềnày ! Nếu có trai lành, gái tín nào, buổi mai dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí, buổi trưa lại dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí, buổi chiều cũng dùng thân mạng bằng số cát sông Hằng mà bố thí, dùng thân mạng mà bố thí vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp như vậy...

Bằng lại có người nghe kinh điển này, lòng tin chẳng trái, thì phước đức ấy hơn phước đức bố thí kia. Huống chi là biên tả, thọ trì, đọc tụng và vì người mà giải thuyết!

90.- Tu Bồ Đề! Nói tóm lại, thì kinh này có cái công đức vô biên, không thể bàn nghĩ đặng, không thể cân lường đặng.

91.- Như Lai vì phát khởi cho bực Đại thừa mà nói, vì phát khởi cho bực Tối Thượng thừa mà nói.

92.- Bằng có người hay thọ trì đọc tụng (kinh này) và diễn thuyết rộng khắp ra cho người khác, thì Như Lai đều biết cho người ấy, đều thấy cho người ấy, thành tựu đặng cái công đức vô lượng, vô số, vô biên,

bất khả tư nghì công đức. Như thị nhơn đẳng, tức vi hà ([29]) đảm Như Lai A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

93.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ trì, đọc tụng, vị nhơn giải thuyết.

94.- Tu Bồ Đề! Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhứt thiết thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la sở ưng cúng dường. Đương tri thử xứ, tức vi thị tháp, giai ưng cung kính, tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ".

XVI.- NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG

PHẬN ĐỆ THẬP LỤC

95.- Phục thứ : "Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng thử kinh, nhược vi nhơn khinh tiện, thị nhơn tiên thế tội nghiệp ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhơn khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tức vi tiêu diệt, đương đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề,

không bàn nghĩ đặng. Những hạng người như thế, mới gánh vác nổi cái đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Như Lai.

93.- Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Bằng ưa theo tiểu pháp, thì còn chấp trước về ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến ([30]), thì đối với kinh này không hiểu thấu, không thọ trì, không đọc tụng và cũng không vì người mà giải thuyết đặng.

94.- Tu Bồ Đề! Nơi nào, chốn nào, bằng có kinh này, thì cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la đều nên cúng dường. Phải biết chỗ ấy, tức là Bửu tháp, đều nên cung kỉnh làm lễ chung quanh cùng là dùng các món hương hoa mà rải khắp nơi ấy".

XVI.- THƯỜNG TỊNH TIÊU NGHIỆP

PHẦN THỨ MƯỜI SÁU

95.- Lại nói tiếp: "Này Tu Bồ Đề! Nếu trai lành, gái tín nào thọ trì, đọc tụng kinh này, mà bị chúng khinh dễ, là vì người ấy đời trước mắc tội nghiệp đáng lẽ đọa vào ác đạo, cho nên đời nay bị chúng khinh dễ, như vậy cái tội nghiệp đời trước mới là tiêu diệt, thì sẽ đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

96.- Tu Bồ Đề! Ngã niệm quá khứ vô lượng A tăng kỳ kiếp, ư Nhiên Đăng Phật tiền, đắc trị bát bá tứ thiên vạn ức na do tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự, vô không quá giả. Nhược phục hữu nhơn ư hậu mạt thế, năng thọ trì, đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cúng dường chư Phật, công đức bá phần bất cập nhứt, thiên vạn ức phần, nải chí toán số thí dụ sở bất năng cập.

97.- Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn ư hậu mạt thế hữu thọ trì, đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhơn văn tâm tức cuồng loạn hồ nghi bất tín...

98.- Tu Bồ Đề! Đương tri thị kinh nghĩa, bất khả tư nghì quả báo diệc bất khả tư nghì".

XVII.- CỨU CÁNH VÔ NGÃ

PHẬN ĐỆ THẬP THẤT

99.- Nhĩ thời, Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?".

96.- Tu Bồ Đề! Ta nhớ đời quá khứ, kiếp vô lượng A tăng kỳ, trước Phật Nhiên Đăng, Ta đã có gặp đặng tám trăm bốn ngàn muôn ức na do tha ([31]) chư Phật, Ta thảy đều cúng dường thờ phụng, chẳng có bỏ qua. Nếu lại có người sau đời mạt pháp ([32]) hay thọ trì, đọc tụng kinh này, chỗ đặng cái công đức sánh với cái công đức của Ta cúng dường chư Phật thì công đức của Ta không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần ức; cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.

97.- Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín nào, sau đời mạt pháp thọ trì, đọc tụng kinh này, chỗ đặng công đức...; nếu ta nói cho hết, hoặc có người nghe, lòng bèn rối loạn, hồ nghi chẳng tin.

98.- Tu Bồ Đề! Phải biết nghĩa lý kinh này, không thể bàn nghĩ đặng và sự quả báo kết quả cũng không thể bàn nghĩ đặng".

XVII.- RÁO RỐT KHÔNG TA.

PHẦN THỨ MƯỜI BẢY

99.- Khi ấy Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như có trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên trụ thế nào? Nên hàng phục cái vọng tâm thế nào?".

Phật cáo Tu Bồ Đề: "Thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, đương sanh như thị tâm: Ngã ưng diệt độ nhứt thiết chúng sanh, diệt độ nhứt thiết chúng sanh dĩ, nhi vô hữu nhứt chúng sanh thiệt diệt độ giả".

100.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát.

Sở dĩ giả hà? - Tu Bồ Đề! Thiệt vô hữu pháp, phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả.

101.- Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Như Lai ư Nhiên Đăng Phật sở, hữu pháp đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề phủ?".

102.- "Phất dã, Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, Phật ư Nhiên Đăng Phật sở, vô hữu pháp đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề".

103.- Phật ngôn: "Như thị! Như thị!".

104.- Tu Bồ Đề! Thiệt vô hữu pháp, Như Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

105.- Tu Bồ Đề! Nhược hữu pháp, Như Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề giả, Nhiên Đăng Phật tức bất giữ ngã thọ ký: "Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni".

Phật bảo Tu Bồ Đề: "Như có trai lành, gái tín nào phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải sanh tâm như vầy : Ta phải diệt độ cả thảy chúng sanh, nhưng đã diệt độ cả thảy chúng sanh, mà không có một chúng sanh nào thiệt diệt độ cả".

100.- Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát mà có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thì chẳng phải là Bồ Tát.

Sở dĩ sao? - Này Tu Bồ Đề! Thiệt không có pháp chi mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả.

101.- Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? - Khi Như Lai ở chỗ Phật Nhiên Đăng, có pháp chi mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng?".

102.- "Bạch đức Thế Tôn ! Không. - Như tôi mà tỏ nghĩa của Phật nói thì thuở Phật ở chỗ Phật Nhiên Đăng, không có pháp chi đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả".

103.- Phật nói: "Như vậy ! Như vậy !".

104.- Tu Bồ Đề! Thiệt không có pháp chi mà Như Lai đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả.

105.- Tu Bồ Đề! Bằng có pháp chi mà Như Lai đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì Phật Nhiên Đăng, chẳng thọ ký cho Ta: "Ngươi qua đời sau, sẽ đặng làm Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni".

 

106.- Dĩ thiệt vô hữu pháp đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thị cố Nhiên Đăng Phật dữ ngã thọ ký, tác thị ngôn: "Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệuThích Ca Mâu Ni".

Hà dĩ cố ? Như Lai giả, tức chư pháp như nghĩa.

107.- Nhược hữu nhơn ngôn: Như Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề

- Tu Bồ Đề!- Thiệt vô hữu pháp, Phật đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

108.- Tu Bồ Đề! Như Lai sở đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, ư thị trung vô thiệt vô hư.

109.- Thị cố, Như Lai thuyết: Nhứt thiết pháp giai thị Phật Pháp.

110.- Tu Bồ Đề! Sở ngôn nhứt thiết pháp giả, tức phi nhứt thiết pháp, thị cố, danh nhứt thiết pháp.

111.- Tu Bồ Đề! Thí như nhơn thân trường đại...".

Tu Bồ Đề ngôn: "Thế Tôn! Như Lai thuyết: Nhơn thân trường đại, tức vi phi đại thân, thị danh đại thân".

112.- "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát diệc như thị, nhược tác thị ngôn: Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh, tức bất danh Bồ Tát".

 

106.- Bởi thiệt chẳng có pháp chi mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho nên Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, mà nói như vầy: "Ngươi qua đời sau, sẽ đặng làm Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni".

Bởi cớ sao? - Như Lai ấy, là các pháp đều như.

107.- Nếu có người nói : Như Lai đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác

- Tu Bồ Đề này! Thiệt không có pháp chi Phật đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cả.

108. Tu Bồ Đề này! Như Lai đặng cái đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nơi trong đấy không thiệt không hư.

109.- Bởi vậy Như Lai nói cả thảy pháp, đều là Phật Pháp.

110.- Tu Bồ Đề! Gọi là cả thảy pháp ấy, nhưng cả phải chẳng thảy pháp, chỉ cưỡng danh là cả thảy pháp.

111.- Tu Bồ Đề! Ví như thân người to lớn...".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như Lai nói : thân người to lớn, nhưng chẳng phải thân lớn, mới là thân lớn".

112.- Tu Bồ Đề! Bồ Tát cũng như thế (thân lớn). Nếu có nói lời này: "Ta phải diệt độ vô lượng chúng sanh, thì chẳng gọi là Bồ Tát".

113.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Thiệt vô hữu pháp, danh vi Bồ Tát.

114.- Thị cố Phật thuyết nhứt thiết pháp: Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả.

115.- Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát tác thị ngôn: "Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh Bồ Tát.

116.- Hà dĩ cố? - Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.

117.- Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát thông đạt "Vô ngã" pháp giả, Như Lai thuyết danh chơn thị Bồ Tát".

XVIII.- NHỨT THỂ ĐỒNG QUAN

PHẬN ĐỆ THẬP BÁT

118.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu nhục nhãn phủ?".

- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu nhục nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Thiên nhãn phủ?".

- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Thiên nhãn".

113.- Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Thiệt chẳng có pháp chi gọi là Bồ Tát cả.

114.- Bởi vậy, Phật nói cả thảy pháp không có tướng: Ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

115.- Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát có nói lời này: "Ta phải có trang nghiêm Phật độ", thì chẳng phải là Bồ Tát.

116.- Bởi cớ sao? - Như Lai nói trang nghiêm Phật độ, nhưng chẳng phải trang nghiêm, chỉ cưỡng danh là trang nghiêm.

117.- Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát tỏ thấu pháp "Vô ngã", Như Lai mới gọi hẳn thiệt là Bồ Tát".

XVIII.- XEM ĐỒNG MỘT THỂ

PHẦN THỨ MƯỜI TÁM

118.- "Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Như Lai có Nhục nhãn chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậyNhư Lai có Nhục nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có Thiên nhãn chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy Như Lai có Thiên nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Huệ nhãn phủ?".

- "Như thị, Thế Tôn! Như Lai hữu Huệ nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Pháp nhãn phủ?".

- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Pháp nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Phật nhãn phủ?".

- "Như thị, Thế Tôn ! Như Lai hữu Phật nhãn".

119.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như hằng hà trung sở hữu sa, Phật thuyết thị sa phủ?".

- "Như thị, Thế Tôn. Như Lai thuyết thị sa".

- Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như nhứt hằng hà trung, sở hữu sa, hữu như thị sa đẳng, hằng hà, thị chư hằng hà sở hữu sa số Phật thế giới, như thị ninh vi đa phủ?".

- "Thậm đa, Thế Tôn !".

120.- Phật cáo Tu Bồ Đề: "Nhĩ sở quốc độ trung, sở hữu chúng sanh, nhược can chủng tâm, Như Lai tất tri.

121.- Hà dĩ cố? Như Lai thuyết chư tâm giai vi phi tâm, thị danh vi tâm.

-Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có Huệ nhãn chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai có Huệ nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có Pháp nhãn chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy, Như Lai có Pháp nhãn".

- "Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như Lai có Phật nhãn chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy, Như Lai có Phật nhãn".

119.- Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như cát trong sông Hằng đó, Phật nói là cát chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy; Như Lai nói là cát".

- "Tu Bồ Đề! Ý ngươi thế nào? Như dùng số cát trong một sông Hằng mà ví dụ, có những sông Hằng khác nhiều bằng số cát ấy, rồi có thế giới Phật bằng số cát của những sông Hằng ấy, như thế, thiệt là nhiều chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn ! Rất nhiều".

120.- Phật bảo Tu Bồ Đề: "Những chúng sanh trong quốc độ ấy, có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết cả.

121.- Bởi cớ sao? - Như Lai nói cả thảy tâm, đều chẳng phải tâm, chỉ cưỡng danh là tâm.

122.- Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Đề!

Quá khứ tâm bất khả đắc;

Hiện tại tâm bất khả đắc;

Vị lai tâm bất khả đắc".

XIX.- PHÁP GIỚI THÔNG HÓA.

PHẬN ĐỆ THẬP CỬU.

123.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Nhược hữu nhơn mãn tam thiên Đại thiên thế giới thất bảo dĩ dụng bố thí, thị nhơn dĩ thị nhân duyên, đắc phước đa phủ?".

- "Như thị, Thế Tôn! Thử nhơn dĩ thị nhân duyên, đắc phước thậm đa".

- "Tu Bồ Đề! Nhược phước đức hữu thiệt, Như Lai bất thuyết đắc phước đức đa; dĩ phước đức vô cố, Như Lai thuyết đắc phước đức đa".

XX.- LY SẮC LY TƯỚNG

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP

124.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Phật, khả dĩ cụ túc sắc thân kiến phủ?".

- "Phất dã, Thế Tôn ! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc sắc thân kiến".

122.- Sở dĩ sao? Tu Bồ Đề này!

Tâm quá khứ, không có chi mà đặng;

Tâm hiện tại, không có chi mà đặng;

Tâm vị lai, không có chi mà đặng".

XIX.- PHÁP GIỚI KHẮP ĐỘ

PHẦN THỨ MƯỜI CHÍN

123.- "Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Nếu có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới đem ra mà bố thí, người ấy, dùng nhân duyên như thế, có đặng phước nhiều chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy. Người ấy dùng nhân duyên như thế thì đặng phước rất nhiều".

- "Tu Bồ Đề! Nếu dùng phước đức có hữu vi thì Như Lai chẳng nói là đặng phước đức nhiều. Dùng phước đức không vô vi, Như Lai mới nói là đặng phước đức nhiều".

XX.- LÌA SẮC LÌA TƯỚNG.

PHẦN THỨ HAI MƯƠI

124.- "Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Phật chăng?".

- "Bạch đức Thế Tôn ! Không. Chẳng nên dùng sắc thân cụ túc mà cho là Như Lai đặng".

125.- Hà dĩ cố! - Như Lai thuyết: Cụ túc sắc thân, tức phi Cụ túc sắc thân, thị danh Cụ túc sắc thân".

126.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Như Lai khả dĩ cụ túc chư tướng kiến phủ?".

- "Phất dã, Thế Tôn ! Như Lai bất ưng dĩ cụ túc chư tướng kiến.

Hà dĩ cố? - Như Lai thuyết chư tướng cụ túc, tức phi cụ túc, thị danh cụ túc".

XXI.- PHI THUYẾT SỞ THUYẾT

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP NHỨT

127.- "Tu Bồ Đề! Nhữ vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương hữu sở thuyết pháp. Mạc tác thị niệm.

Hà dĩ cố? - Nhược nhơn ngôn: Như Lai hữu sở thuyết pháp, tức vi báng Phật. Bất năng giải ngã sở thuyết cố.

128.- Tu Bồ Đề! Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp".

129.- Nhĩ thời Huệ Mạng Tu Bồ Đề...

130.- Bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phả hữu chúng sanh, ư vị lai thế văn thuyết thị pháp, sanh tín tâm phủ?".

Phật ngôn: "Tu Bồ Đề! Bỉ phi chúng sanh phi bất chúng sanh.

Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng sanh giả, Như Lai thuyết phi chúng sanh, thị danh chúng sanh".

125.- "Bởi cớ sao? - Như Lai nói Sắc thân Cụ túc, nhưng chẳng phải sắc thân Cụ túc, chỉ cưỡng danh là sắc thân Cụ túc".

126.- "Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng các tướng cụ túc mà cho là Như Lai chăng ?".

- "Bạch đức Thế Tôn ! Không. Chẳng nên dùng các tướng cụ túc mà cho là Như Lai đặng.

Bởi cớ sao? - Bởi Như Lai nói các tướng cụ túc, nhưng chẳng phải cụ túc, chỉ cưỡng danh là các tướng cụ túc".

XXI.- THUYẾT CHẲNG PHẢI THUYẾT

PHẦN THỨ HAI MƯƠI MỐT

127.- "Này Tu Bồ Đề! Ông chớ nói Như Lai có tưởng như vầy: Ta nên có chỗ thuyết pháp. Chớ tưởng như thế.

Bởi cớ sao? - Nếu ông mà nói: Như Lai có thuyết pháp, tức là chê Phật.Đâu có tỏ nghĩa của Ta đặng.

128.- Tu Bồ Đề! Thuyết pháp đó, không có pháp chi mà thuyết chỉ cưỡng danh là thuyết pháp vậy thôi".

129.- Khi ấy, Huệ Mạng Tu Bồ Đề...

130.- Bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Có những chúng sanh ở đời vị lai nghe nói pháp này, có sanh lòng tin chăng?".

Phật nói: "Tu Bồ Đề! Nó chẳng phải chúng sanh, nhưng chẳng phải là không phải chúng sanh.

Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Chúng sanh, chúng sanh ấy, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, chỉ cưỡng danh là chúng sanh".

XXII.- VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP NHỊ

131.- Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Phật đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vi vô sở đắc gia?".

Phật ngôn: "Như thị! Như thị! Tu Bồ Đề! Ngã ư A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nãi chí vô hữu thiểu pháp khả đắc, thị danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề".

XXIII.- TỊNH TÂM HÀNH THIỆN.

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP TAM

132.- Phục thứ: "Tu Bồ Đề! Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

133.- Dĩ vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả.

134.- Tu nhứt thiết thiện pháp, tức đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

135.- Tu Bồ Đề! Sở ngôn thiện pháp giả, Như Lai thuyết: Tức phi thiện pháp, thị danh thiện pháp".

XXII.- KHÔNG PHÁP CHI ĐẶNG

PHẦN THỨ HAI MƯƠI HAI

131.- Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Phật đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là không có chỗ chi đặng sao?".

Phật nói: "Thiệt vậy ! thiệt vậy ! Này Tu Bồ Đề! Ta đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến không có một chút pháp chi mà gọi là đặngấy mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

 

XXIII.- TÂM TỊNH LÀM LÀNH.

PHẦN THỨ HAI MƯƠI BA

132.- Lại nói tiếp: "Này Tu Bồ Đề! Pháp vốn bình đẳng, không có cao thấp, mới gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

133.- Bởi không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả.

134.- Tu cả thảy pháp lành, tức đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

135.- Tu Bồ Đề! Gọi là pháp lành ấy, Như Lai nói : chẳng phải pháp lành, chỉ cưỡng danh là pháp lành".

XXIV.- PHƯỚC TRÍ VÔ TỶ

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP TỨ

136.- Tu Bồ Đề! Nhược tam thiên Đại thiên thế giới trung, sở hữu chư Tu Di sơn vương, như thị đẳng thất bảo tụ, hữu nhơn trì dụng bố thí.

137.- Nhược nhơn dĩ thử Bát Nhã Ba la mật kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì, đọc tụng, vị tha nhơn thuyết, ư tiền phước đức bá phần bất cập nhứt, bá thiên vạn ức phần nãi chí toán số thí dụ, sở bất năng cập.

XXV.- HÓA VÔ SỞ HÓA

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP NGŨ

138.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Nhữ đẳng vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương độ chúng sanh - Tu Bồ Đề! Mạc tác thị niệm.

Hà dĩ cố? - Thiệt vô hữu chúng sanh Như Lai độ giả.

139.- Nhược hữu chúng sanh Như Lai độ giả, Như Lai tức hữu ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

140.- Tu Bồ Đề! Như Lai thuyết hữu ngã giả, tức phi hữu ngã; nhi phàm phu chi nhơn, dĩ vi hữu ngã.

XXIV.- PHƯỚC TRÍ KHÔNG SÁNH

PHẦN THỨ HAI MƯƠI BỐN

136.- Này Tu Bồ Đề! Như trong tam thiên Đại thiên thế giới, có những Tu Di sơn vương, nếu có người góp cả bảy báu lại bằng như thế, dùng mà bố thí.

137.- Bằng có người dùng kinh Bát Nhã Ba la mật này, cho đến những tứ cú kệ, mà thọ trì, đọc tụng và vì người mà diễn thuyết, thì phước đức trước kia, chẳng bằng một phần trăm ngàn, muôn ức cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.

XXV.- HÓA KHÔNG CHỖ HÓA

PHẦN THỨ HAI MƯƠI LĂM

138.- Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Chúng ông chớ nói Như Lai có tưởng như vầy: Ta phải độ chúng sanh. Tu Bồ Đề! Chớ tưởng như vậy.

Bởi cớ sao? - Bởi thiệt không có chúng sanh nào mà Như Lai độ cả.

139.- Nếu có chúng sanh nào mà Như Lai có độ, tức là Như Lai có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

140.- Tu Bồ Đề! Như Lai nói có ta ấy, nhưng chẳng phải có ta mà kẻ phàm phu lại cho là có ta.

141.- Tu Bồ Đề! Phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi phàm phu, thị danh phàm phu".

XXVI.- PHÁP THÂN PHI TƯỚNG

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP LỤC

142.- "Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Khả dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Như thị, như thị. Dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai".

143.- Phật ngôn: "Tu Bồ Đề! Nhược dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai giả, Chuyển Luân ([33]) Thánh Vương tức thị Như Lai?".

Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, bất ưng dĩ tam thập nhị tướng quang Như Lai".

144.- Nhĩ thời, ([34]) Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn:

"Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thinh cầu ngã, Thị nhơn hành tà đạo. Bất năng kiến Như Lai".

XXVII.- VÔ ĐOẠN VÔ DIỆT

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP THẤT

145.- Tu Bồ Đề! Nhữ nhược tác thị niệm, Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

141.- Tu Bồ Đề! Phàm phu ấy, Như Lai nói chẳng phải phàm phu, chỉ cưỡng danh là phàm phu".

XXVI.- PHÁP THÂN KHÔNG TƯỚNG

PHẦN THỨ HAI MƯƠI SÁU

142.- "Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Có nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Thiệt vậy, thiệt vậy. Cũng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai".

143.- Phật bảo: "Tu Bồ Đề! Nếu dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai, thì Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Như Lai?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Như con mà tỏ cái nghĩa của Phật nói, thì chẳng nên dùng ba mươi hai tướng mà cho là Như Lai".

144.- Khi ấy, đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:

"Bằng dùng sắc gọi ta.

Âm điệu nhận rằng ta.

Làm vậy là tà đạo.

Hẳn không thấy đặng ta".

XXVII.- KHÔNG ĐOẠN KHÔNG DIỆT

PHẦN THỨ HAI MƯƠI BẢY

145.- "Này Tu Bồ Đề! Bằng ông tưởng như vầy: "Như Lai chẳng dùng tướng cụ túc mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

Tu Bồ Đề! Mạc tác thị niệm: Như Lai bất dĩ cụ túc tướng cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Tu Bồ Đề! Nhữ nhược tác thị niệm: Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, thuyết chư pháp đoạn diệt. Mạc tác thị niệm.

Hà dĩ cố? - Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư pháp, bất thuyết đoạn diệt tướng".

XXVIII.- BẤT THỌ BẤT THAM

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP BÁT

146.- "Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát dĩ mãn hằng hà sa đẳng thế giới thất bảo trì dụng bố thí.

Nhược phục hữu nhơn tri, nhứt thiết pháp "vô ngã" đắc thành ư nhẫn, thử Bồ Tát thẳng tiền Bồ Tát sở đắc phước đức.

147.- Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Dĩ chư Bồ Tát bất thọ phước đức cố".

148.- Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Vân hà Bồ Tát bất thọ phước đức?".

- "Tu Bồ Đề! Bồ Tát sở tác phước đức; bất ưng tham trước; thị cố thuyết bất thọ phước đức".

Tu Bồ Đề! Chớ tưởng như vậy. Như Lai há chẳng dùng tướng cụ túc mà đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".

Tu Bồ Đề! Bằng ông tưởng như vậy: "Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy, mà nói các pháp đoạn diệt. Chớ tưởng như vậy.

Bởi cớ sao? - Bởi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy, theo pháp, chẳng nên nói cái tướng đoạn diệt".

XXVIII.- KHÔNG NHIỄM KHÔNG THAM

PHẦN THỨ HAI MƯƠI TÁM

146.- "Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát dùng bảy báu đầy cả hằng hà sa số thế giới, đem ra mà bố thí.

Bằng lại có người biết cả thảy pháp "vô ngã" mà thành tựu đặng cái pháp nhẫn, thì Bồ Tát này, chỗ đặng phước đức nhiều hơn Bồ Tát kia.

147.- Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Bởi các Bồ tát ấy chẳng chịu phước đức".

148.- Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát chẳng chịu phước đức?".

- "Tu Bồ Đề! Bồ Tát làm phước đức, chẳng nên tham chấp ; nên mới gọi là chẳng chịu phước đức".

XXIX.- OAI NGHI TỊCH TỊNH

PHẬN ĐỆ NHỊ THẬP CỬU

149.- "Tu Bồ Đề! Nhược hữu nhơn ngôn: "Như Lai" nhược lai, nhược khứ, nhược tọa, nhược ngọa, thị nhơn bất giải ngã sở thuyết nghĩa.

150.- Hà dĩ cố? - "Như Lai" giả vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh "Như Lai".

XXX.- NHỨT HIỆP LÝ TƯỚNG

PHẬN ĐỆ TAM THẬP

151.- Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn dĩ tam thiên đại thiên thế giới, tối ([35]) vi vi trần, ư ý vân hà? - Thị vi trần chúng, ninh vi đa phủ?".

Tu Bồ Đề ngôn: "Thậm đa, Thế Tôn!

Hà dĩ cố? - Nhược thị vi trần chúng, thiệt hữu giả, Phật tức bất thuyết thị vi trần chúng.

Sở dĩ giả hà? - Phật thuyết vi trần chúng, tức phi vi trần chúng, thị danh vi trần chúng.

Thế Tôn! Như Lai sở thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tức phi thế giới, thị danh thế giới.

152.- Hà dĩ cố? - Nhược thế giới thiệt hữu giả, tức thị nhứt hiệp tướng.

XXIX. - OAI NGHI VẮNG LẶNG

PHẦN THỨ HAI MƯƠI CHÍN

149.- "Này Tu Bồ Đề! Nếu có người nói: "Như Lai", hoặc tới, hoặc lui, hoặc ngồi, hoặc nằm, thì người ấy chẳng rõ cái nghĩa lý của Ta nói.

150.- Bởi cớ sao? - "Như Lai" ấy, là không phải từ đâu mà tới, cũng không phải từ đâu mà lui, nên gọi là "Như Lai".

XXX.- LÝ TƯỚNG NHỨT HIỆP

PHẦN THỨ BA MƯƠI

151.- Này Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín dùng tam thiên đại thiên thế giới, đập nát ra làm vi trần, ý ông thế nào? Những vi trần ấy, thế là nhiều chăng?".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Rất nhiều.

Bởi cớ sao? Nếu những vi trần ấy, mà thiệt có, thì Phật chẳng gọi là vi trần.

Sở dĩ sao? - Bởi Phật nói những vi trần, nhưng chẳng phải vi trần, chỉ cưỡng danh là vi trần.

Bạch đức Thế Tôn! Còn Như Lai nói tam thiên đại thiên thế giới, nhưng chẳng phải thế giới, chỉ cưỡng danh là thế giới.

152.- Bởi cớ sao? - Nếu thế giới mà thiệt có, thì tức là tướng nhứt hiệp.

153.- Như Lai thuyết nhứt hiệp tướng tức phi nhứt hiệp tướng, thị danh nhứt hiệp, tướng".

154.- "Tu Bồ Đề! Nhứt hiệp tướng giả, tức thị bất khả thuyết.

155.- Đản phàm phu chi nhơn, tham trước kỳ sự".

XXXI.- TRI KIẾN BẤT SANH

PHẬN ĐỆ TAM THẬP NHỨT

156.- "Tu Bồ Đề! Nhược nhơn ngôn : Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. - Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Thị nhơn giải ngã sở thuyết nghĩa phủ?".

- "Phất dã, Thế Tôn! Thị nhơn bất giải Như Lai sở thuyết nghĩa.

Hà dĩ cố? - Thế Tôn thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức phi ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến".

157.- "Tu Bồ Đề! Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư nhứt thiết pháp, ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải: bất sanh pháp tướng.

Tu Bồ Đề! Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng".

153.- Như Lai nói tướng nhứt hiệp, nhưng chẳng phải tướng nhứt hiệp, chỉ cưỡng danh là tướng nhứt hiệp".

154.- "Tu Bồ Đề! Tướng nhứt hiệp ấy, nói chẳng đặng.

155.- Chỉ vì kẻ phàm phu hay tham chấp sự tướng".

XXXI.- THẤY BIẾT KHÔNG SANH

PHẦN THỨ BA MƯƠI MỐT

156.- "Này Tu Bồ Đề! Bằng người nào nói: Phật nóingã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Người ấy có tỏ nghĩa lý của Ta nói không?

- Bạch đức Thế Tôn ! Không. Người ấy không có tỏ nghĩa lý của Phật nói.

Bởi cớ sao? - Bởi Phật nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, nhưng chẳng phải ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chỉ cưỡng danh là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến vậy thôi".

157.- "Tu Bồ Đề! Phát lòng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó, thì cả thảy pháp, phải biết như vầy, phải thấy như vầy, phải tin rõ như vầy: là chẳng sanh pháp tướng.

Tu Bồ Đề! Sự nói pháp tướng đó. Như Lai nói chẳng phải pháp tướng, chỉ cưỡng danh là pháp tướng".

XXXII. ỨNG HÓA PHI NHƠN

PHẬN ĐỆ TAM THẬP NHỊ

158.- "Tu Bồ Đề! Nhược hữu nhơn dĩ mãn vô lượng A tăng kỳ thế giới thất bảo trì dụng bố thí. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn phát Bồ đề tâm giả, trì ư thử kinh, nãi chí tứ cú kệ đẳng, thọ trì, đọc tụng, vị nhơn diễn thuyết, kỳ phước thắng bỉ".

159.- Vân hà vị nhơn diễn thuyết?

160.- Bất thủ ư tướng, như như bất động.

161.- Hà dĩ cố?

"Nhứt thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn, bào ([36]) ảnh:

Như lộ diệc như điển;

Ưng tác như thị quán".

162.- Phật thuyết thị kinh dĩ, Trưởng lão Tu Bồ Đề cập chư Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, nhứt thiết thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ tín thọ phụng hành.

Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh.

XXXII.- ỨNG HÓA KHÔNG THIỆT

PHẦN THỨ BA MƯƠI HAI

158.- "Này Tu Bồ Đề! Bằng có người nào dùng bảy báu đầy vô lượng vô số thế giới, đem ra mà bố thí... Bằng lại có trai lành, gái tín nào phát tâm Bồ đề, giữ theo kinh này và những tứ cú kệ, mà thọ trì, đọc tụng rồi diễn thuyết lại cho người khác thì phước đức này hơn phước đức kia".

159.- Còn thế nào là vì người mà diễn thuyết ?

160.- "Không chấp tướng, như như chẳng động".

161.- Bởi cớ sao?

"Những pháp hữu vi ấy.

Như: chiêm bao, huyễn mị,

Bọt bào, bóng, chớp, mù.

Nên tưởng đều như vậy".

162.- Phật nói kinh này rồi, Trưởng lão Tu Bồ Đề cùng Tăng, Ni, thiện nam, tín nữ, cả thảy thế gian: Thiên, Nhơn, A tu la, nghe cái thuyết của Phật, đều rất hoan hỷ, tin chịu, phụng hành.

Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.

BÁT NHÃ VÔ TẬN CHƠN NGÔN ([37]):

Nẳng mồ bạt dà phạt đế, bát rị nhã, ba la mật đa dệ, đát điệc tha. Án, hột rị địa rị thất rị, thú rô tri, tam mật lật tri, Phật xả dệ, tá ha.

KIM CANG TÂM ĐÀ RA NI CHƠN NGÔN ([38])

Án, ô luân ni, ta bà ha.

BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN:

Nam mô hát ra đát na đa ra dạ da, khê ra khê ra, cu trụ cu trụ, ma ra ma ra, hổ ra hồng, hạ hạ, tô đát noa hồng, bát mạt noa, ta bà ha.

PHỔ HỒI HƯỚNG CHƠN NGÔN:

Án, ta ma ra, ta ma ra, di ma nẳng, tát cót ra, ma ha chước ca ra hồng.

KIM CANG BỔ KHUYẾT CHƠN NGÔN:

Án, hô lô hô lô, xả dệ, mục khế, tá ha.

Nhứt hồi hướng: Chơn như thiệt tế, tâm tâm khế hiệp.

Nhị hồi hướng: Vô thượng Phật quả Bồ đề, niệm niệm viên mãn.

Tam hồi hướng: Pháp giới nhứt thiết chúng sanh, đồng sanh Tịnh độ.

CHÚ BÁT NHÃ VÔ TẬN ([39]):

Nẳng mồ bạt dà phạt đế, bát rị nhã, ba la mật đa dệ, đát điệc tha. Án, hột rị địa rị thất rị, thú rô tri, tam mật lật tri, Phật xả dệ, tá ha.

CHÚ KIM CANG TÂM ĐÀ RA NI ([40]);

Án, ô luân ni, ta bà ha.

CHÚ BỔ KHUYẾT:

Nam mô hát ra đát na đa ra dạ da, khê ra khê ra, cu trụ cu trụ, ma ra ma ra, hổ ra hồng, hạ hạ, tô đát noa hồng, bát mạt noa, ta bà ha.

CHÚ PHỔ HỒI HƯỚNG:

Án, ta ma ra, ta ma ra, di ma nẳng, tát cót ra, ma ha chước ca ra hồng.

CHÚ KIM CANG BỔ KHUYẾT:

Án, hô lô hô lô, xả dệ, mục khế, tá ha.

Một là hồi hướng: Lý đúng chơn như, lòng lòng tin hiệp.

Hai là hồi hướng: Quả Phật Vô thượng Bồ đề, mỗi niệm viên mãn.

Ba là hồi hướng: Cả thảy chúng sanh trong cõi Pháp giới đồng sanh Cực Lạc.

TÁN

Kim Cang công đức,

Diệu lý nan lương.

Như Lai vị chúng quảng tuyên dương,

Thọ thí ngộ chơn thường,

Dĩ chư hoa hương.

Phổ tán Pháp trung vương.

BỔ KHUYẾT TÂM KINH

THỊ ĐẠI THẦN CHÚ

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh([41]):

Quán tự tại Bồ tát ([42]), hành thâm Bát nhã Ba la mật đa ([43]) thời, chiếu kiến ngũ uẩn ([44]) giai không; độ nhứt thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử! ([45]) Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị ([46]).

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ,

BÀI TÁN:

Kim Cang công đức,

Lý diệu không lường.

Như Lai vì chúng khắp truyền dương;

Vưng chịu tỏ chơn thường,

Dùng các hoa hương.

Rải khắp chỗ Pháp vương.

KINH BỔ ÍCH CHO TÂM

LÀ CHÚ RẤT THẦN THÔNG

Tâm Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa(1).

Quán tưởng sự hữu tình cho tự tại (2) tu hành thâm thấu dùng trí huệ mà đắc đạo (3). Trong thời rõ thấu năm cái tích tụ (4) đều không (giả hiệp): Độ cả thảy khổ ách.

Xá Lợi Tử (5) này! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như thế. (6)

Xá Lợi Tử này! Đó là các pháp: Tướng đều không; không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong cái không không có sắc, không thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý ([47]); vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp ([48]); vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới([49]); vô vô minh([50]), diệc vô vô minh tận([51]); nãi chí vô lão tử([52]), diệc vô lão tử tận ([53]); vô khổ, tập, diệt, đạo([54]). Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đả y Bát nhã Ba la mật đa cố([55]). Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn.

Tam thế chư Phật([56]), y Bát nhã ba la mật đa([57]) cố([58]); đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề; cố tri Bát nhã Ba la mật đa; thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú: Năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú ([59])

tưởng, hành, thức, không nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý (1). Không sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp (2). Không cái giới nhãn cho đến không giới;cái giới ý thức (3); không cái vô minh (4); cũng không hết cái vô minh (5) cho đến không cái lão tử (6)... Cũng không hết cái lão tử (7); không khổ, tập, diệt, đạo; (8) Không chi là trí, cũng không chi là đặng. Bởi cái không chỗ chi mà đặng, nên các vị Bồ Tát nương theo trí huệ mà thành đạo (9). Cái tâm không quái ngại; bởi không quái ngại, nên không khiếp sợ; tránh xa sự mộng tưởng lật ngược; ráo rốt viên mãn.

Chư Phật ba đời (10) cũng đều nương pháp Bát nhã Ba la mật đa (11), nên đặng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (12). Ấy mới biết Bát nhã Ba la mật đa là chú rất thần thông, là chú rất rõ ràng, là chú không chi hơn, là chú không chi bằng bực: Trừ đặng cả thảy sự khổ, chơn thiệt chẳng dối, cho nên mới gọi là: Chú Bát nhã Ba la mật đa(13).

Tức thuyết chú viết:

Yết đế, yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha([60]).

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

THÂU KINH KỆ

Tam đồ vĩnh tức thường ly khổ,

Lục thú hưu tỳ cốt một nhân.

Hà sa hàm thức ngộ chơn như,

Vạn loại hữu tình đăng bỉ ngạn.

TỤNG KINH TÁN

Đoạn nghi sanh tín,

Diệt tướng siêu tông.

Đốn vong nhơn pháp, giải chơn không,

Bát Nhã vị trùng trùng.

Tứ cú dung thông;

Phước đức thán vô cùng.

Nam mô Kỳ Viên Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát. (tam xưng)

Tự qui y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng sanhthâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại.

Hòa nam Thánh chúng.

Bèn niệm chú rằng:

Độ đi độ đi, ráo rốt độ đi, ráo rốt độ chúng đi, cho đặng giác ngộ, chóng mau thành tựu (1).

Tâm kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.

BÀI KỆ THÂU KINH

Ba đường siêu thoát vòng phiền não,

Sáu thú khỏi luân hồi quả báo.

Vô số hữu tình chứng lý chơn,

Các loài hàm thức đều thành đạo.

BÀI TÁN TỤNG KINH

Hết nghi tin thiệt,

Khỏi tướng lìa tông.

Pháp, nhơn mau dứt, tỏ chơn không;

Mùi Bát Nhã trùng trùng,

Tứ cú rõ thông,

Phước đức lớn vô cùng,

Nam mô Kỳ Viên Hội Thượng Phật, Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

Qui y Phật của tự mình, nguyện cho chúng sanh tỏ ngộ đạo cả, phát lòng vô thượng.

Qui y Pháp của tự mình, nguyện cho chúng sanh hiểu thấu kinh tạng, trí huệ rộng lớn.

Qui y Tăng của tự mình, nguyện cho chúng sanh dắt dìu đại chúng, cả thảy không ngại.

Kính lễ chư Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com