Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Hỏi:Ở trong ba cõi, trên trời dưới đất, cõi này phương khác,sáu đường bốn châu, quầnsanh muôn loài, tất cả đều học Phật, chẳng biếtthuở xưa Phật trước học ai mà chứng Bồ-đề, đời tônlà Phật ?
Câuhỏi này nói gọn cho dễ hiểu: Hiện giờ tất cả chúng tatôn sùng Phật, học theo đức Phật. Vậy khi xưa Phật họcai mà thành Phật ?
Ðáp:Phật vốn không học, do tỏ ngộ trí tự nhiên vô sư, phápthân rộng lớn, tròn đồng thái hư, chân không trong lặngnhiệm mầu, lặng sáng không gì trên, cao vượt khỏi ba cõi,ngang khắp mười phương, suốt cả xưa nay, nghiễm nhiên thườngtrụ, vô vi vô tướng, chánh giác Bồ-đề, chẳng sanh chẳngdiệt, ứng hiện còn mãi, tuyệt không gì sánh bằng, đờitôn là Phật. Lại nói: Phật là tánh giác, chúng sanh là tìnhmê. Phật giác ngộ pháp tánh tròn sáng, lóng trong, nhất nhưkhông tịch; chúng sanh thì mê tình vọng khởi mãi mãi thọthân trong ba cõi. Nên kinh Lăng Nghiêm nói: "Thanh tịnh sẵnvậy, tại sao chợt sanh núi sông, quả đất ?".
Hỏixưa đức Phật học ai, đáp rằng đức Phật không học ai,Ngài tỏ ngộ trí tự nhiên vô sư rồi Ngài nhận ra Pháp thânrộng lớn tròn đồng thái hư, thường trụ chẳng sanh chẳngdiệt, nên người đời tôn xưng Ngài là Phật.
Nhưchúng ta đã biết, ngày xưa đức Phật lúc còn làThái tử, Ngài rời hoàng cung để đi tu, Ngài cũng tìm tớicác vị đạo sĩ để tu. Ðầu tiên Ngài gặp nhóm đạo sĩBạt-già, nhóm này tu khổ hạnh để cầu sanh về cõi Trờichớ không cầu giác ngộ, giải thoát. Thái tử thấy cáchtu của họ không đúng với mục tiêu mình nhắm, nên Ngàibỏ đi. Ngài tìm đến núi Tần-già gặp đạo sĩ A-la-lam,chỉ trong một thời gian ngắn Thái tử đã thâu nhiếp hếtpháp yếu của A-la-lam chứng từ sơ thiền đến vô sở hữuxứ định. Nhưng hướng tu của A-la-lam không đạt đến chỗgiải thoát như ước nguyện của Thái tử, nên Ngài từ giãra đi, tìm đến đạo sĩ lừng danh là Uất-đầu-lam-phất.Ở Uất-đầu-lam-phất Ngài tu không bao lâu đạt được tầngThiền cao nhất là phi tưởng phi phi tưởng định. Pháp tuUất-đầu-lam-phất không khác đạo sĩ A-la-lam, nên Thái tửcũng từ giã vị này vào rừng tu khổ hạnh một mình. Tháitử tu khổ hạnh trong rừng theo sử kể lại đến sáu năm,thân thể còn da bọc xương mà vẫn không đạt được mụcđích, cho nên Ngài từ bỏ. Sau cùng Ngài ăn uống lại bìnhthường rồi đến dưới gốc cây Bồ-đề ngồi Thiền, saubốn mươi chín ngày đêm Ngài chứng đạo tức là tỏ ngộpháp thân. Như vậy sự tỏ ngộ của Ngài không có ai dạy,nên Ngài tuyên bố ta học đạo không có thầy. Do thiền địnhmà trí vô sư Ngài sáng tỏ, tức là ngộ được Pháp thânthành Phật. Ðiều này cho chúng ta thấy rằng mục đích củaThái tử đi tu là giải thoát sanh tử, muốn đạt được điềuđó phải nhận ra Pháp thân bất sanh bất diệt. Thế nhưngcác vị đạo sĩ dạy tu cuối cùng chỉ chứng đến phi tưởngphi phi tưởng định, nên Ngài không chấp nhận từ giã họra đi. Vì giác ngộ thành Phật tức là ngộ được trí vôsư hay Pháp thân không sanh không diệt tròn sáng trùm khắp.Từ đó Ngài tuyên bố thoát ly sanh tử, không còn sanh trởlại trong tam giới nữa. Mục tiêu mà Ngài tìm kiếm bao nămđã được khám phá. Như vậy thành Phật, tỏ ngộ trí vôsư, hay chứng pháp thân tên gọi tuy khác nhưng chỉ có mộtkết quả là giác ngộ giải thoát.
NơiThái tử có trí vô sư, vậy nơi chúng ta có không? - Trí vôsư ai ai cũng có, muốn chứng được chúng ta phải thiền địnhnhư Thái tử Tất-đạt-đa khi xưa. Chúng ta tu chủ yếu làgạn lọc hết vọng tưởng cho tâm an định. Khi tâm an địnhtrí vô sư hiển hiện rõ ràng, chúng ta thấy biết đúng nhưthật. Thấy biết như thế không ai dạy chúng ta cả, PhậtTổ, thầy bạn chỉ trợ duyên thôi, chính chúng ta phải tựtu, chớ không ai tu thế được. Chúng ta học nơi sách vởthì sách vở chỉ là phương tiện, còn tu để phát minh trívô sư mới là đạt đến chỗ cứu cánh. Như những nhà báchọc muốn có những phát minh mới, họ phải đóng cửa phòngthí nghiệm, ngồi trong đó nghiền ngẫm suốt tháng suốt năm,cho tới một lúc nào đó họ phát minh ra điều mà họ đangtìm kiếm. Vậy sự phát minh đó ai dạy? Nếu có người dạythì không gọi là phát minh, không có người dạy mà biếtlà do trí vô sư phát sáng chớ gì? Như vậy bất luận làngười thế gian hay người tu nếu dồn hết tâm lực vào mộtviệc, tâm an định thì trí vô sư nơi mình hiện sáng, chớkhông có gì lạ hết. Ai có trải qua những kinh nghiệm nàythì không có nghi ngờ. Nếu ngộ lớn thì nhận ra pháp thân,ngộ nhỏ thì chợt hiểu nghĩa lý thâm sâu của câu kệ haybài kinh mình học từ lâu mà không hiểu. Lúc đó đâu cóthầy dạy, chỉ do tâm định rồi phát sáng, đó là trí vôsư đã có sẵn nơi mỗi người, không phải là cái mới lạhay ai cho, cũng không phải một mình Thái tử mới có mà chínhlà cái có sẵn nơi mỗi người. Thái tử ngộ trí vô sư nênngười đời mới tôn Ngài là Phật. Trí vô sư chỉ cho Phậtpháp thân, Phật pháp thân mới không sanh không diệt. Còn PhậtThích Ca ở Ấn Ðộ thì có sanh có diệt, nếu Ngài không diệtthì ngày nay chúng ta gặp Ngài. Như vậy, tất cả chúng taai cũng có Phật pháp thân và ai cũng có sắc thân phàm thếtục, sắc thân phàm thế tục thì tạm bợ sanh diệt, phápthân thì bất sanh bất diệt thoát ly sanh tử mới là tốithượng, ai nhận ra Phật pháp thân và hằng sống với phápthân gọi là chứng quả Phật. Còn nếu mang thân này mà khôngngộ được Phật pháp thân, dù cho tài giỏi tới đâu cũngchưa phải là Phật. Sau đây Ngài dẫn kinh Lăng Nghiêm: Bảnthể vốn thanh tịnh, tại sao chợt sanh ra núi sông, quả đất,con người muôn vật. Thì đây trả lời:
Dạyrằng:
Chântánh lóng trong, vốn không có mờ tối. Vọng từ không dấylên mà cảm đến gió thức. Song do gió thức thổi cho tâmđộng, nhân tâm lay động mà kích phát thêm gió cảnh. Nhângió cảnh nổi dậy mãnh liệt nên khởi vọng niệm. Do mộtniệm vọng sanh mà ba cõi bắt đầu thành lập. Ba cõi bêntrong là sắc thân của ta; ba cõi bên ngoài tức là trời đất,thế giới, núi sông, quả đất, hết thảy muôn vật.
Ðứngvề mặt chân tánh thì bản thể lóng trong không mờ tối,nhưng vọng từ tâm rỗng lặng dấy khởi, do đó sanh ra gióthức, gió thức thổi làm cho tâm động, do tâm dao động kíchphát thêm gió cảnh, nhân gió cảnh nổi dậy mãnh liệt nênkhởi vọng niệm. Tại sao tâm đang yên lặng lại chợt sanhgió thức ? Ví dụ như chúng ta đang ngồi yên, tâm không suynghĩ gì hết. Bất chợt nhớ đến chuyện hôm qua, vừa dấyniệm nhớ là thức phân biệt theo liền, nào là chuyện hômqua hay dở, tốt xấu, đúng sai, thành ra có vọng tưởng nhấtđịnh. Ðó là gặp gió cảnh thổi tới làm tâm dao động.Tâm dao động rồi khởi suy nghĩ thêm về việc xảy ra hômqua hay dở, đúng sai, tốt xấu... Vọng niệm dấy khởi liênmiên, nên vọng sanh ra ba cõi. Ba cõi bên trong là sắc thân,ba cõi bên ngoài là trời đất núi sông muôn vật. Như vậyđể thấy rằng có lúc tâm mình rất yên tỉnh, chợt có mộtniệm dấy lên tức là gió thức nổi dậy, nếu chúng ta chạytheo niệm phân biệt thì gió nghiệp cảnh thổi đến làm chotâm ta dao động nhiều hơn.
Vídụ chúng ta đang ngồi yên chợt nhớ hôm qua cô A nói mìnhcâu: Cô đó giả bộ tu hành. Vọng niệm này vừa dấy lênchúng ta liền phân biệt cô A nói như vậy là khinh khi mình.Niệm phân biệt tiếp theo là động lực thúc đẩy mình đứngdậy đi kiếm cô A để trách móc. Do đó sanh ra đủ thứ chuyệnlôi thôi. Như vậy để thấy rằng chúng ta ai cũng sẵn cótâm thể thanh tịnh, nhưng chợt bất giác để vọng niệmdấy khởi, mà vọng niệm dấy khởi thì có đủ thứ âm thanhhình tướng, đủ chuyện phải quấy, hơn thua, vui buồn, sướngkhổ v.v... Nếu người biết tu ngay lúc vừa dấy niệm biếtnó là hư dối, không theo thì lần hồi vọng niệm sẽ thưadần. Ðối với cảnh bên ngoài cũng bớt tâm phân biệt trởvề với cái tâm nguyên thủy sẵn có của mình. Tóm lại khởiniệm phân biệt, nên tạo nghiệp đi trong sanh tử. Niệm khởikhông theo thì sống với tâm như như dứt sanh tử, rất đơngiản. Thế nên biết thì thấy ý nghĩa của sự tu hành, khôngbiết thì thấy cực nhọc, ngồi lâu đau chân, gục lên gụcxuống không ích lợi chi cả. Tuy nhiên, tu đạt tới chỗ thôngsuốt rồi thì công phu nhẹ nhàng và tâm lúc nào cũng sángsuốt an vui.
Giảirằng:
Thanhtịnh đến tột cùng thì sáng thông, đạt tịch và chiếuthì bao gồm cả hư không, rồi nhìn trở lại thế gian, giốngnhư việc trong mộng. Pháp thân trong trẻo và lặng lẽ vốnkhông có nhơ sạch riêng khác, chân tánh lắng trong, đâu cóThánh phàm sai biệt. Ðều bởi có mê ngộ, đến nỗi khiếnthành chẳng đồng. Kinh nói: Bốn đại vốn không, năm uẩnchẳng phải có. Từ không mà khởi vọng, rồi vọng sanh mọithứ sắc. Ðã trái với lẽ không sanh không hóa, lại hằngcó hóa, có sanh. Trọn là buông tâm phóng chạy, hoàn toàn khônggiác tánh hồi quang, lấy huyễn làm chân, trái không theo sắc.Bản tánh chân như từ ban sơ, vốn tròn sáng, rỗng lặng vôvi, từ khi huyễn có sắc thân, vọng thức, mà kết nhân kếtquả, vọng sự vọng lý, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệpvọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp,thấm thêm vào sự mê hoặc mà thành thân, đi đi lại lại,theo nghiệp thọ báo. Thức thần đã theo nghiệp, rồi theonghiệp thọ thân, ra nơi này vào nơi kia, bỏ kia sanh đây,lên xuống trong sáu đường, qua lại nơi ba cõi lành dữ chẳngđồng, muôn loài sai khác, giàu sang nghèo hèn, tùy hạnh nghiệpmà sanh, chẳng phải không nhân mà mong được quả. Thế gianmộng huyễn, há được dài lâu ? Muốn chứng chân thường,hãy xuất gia theo Phật, học đạo vô thượng, vượt cao lênquả thù thắng. Ðạo vô thượng, tức là pháp tánh chân như.Nếu ngộ pháp tánh chân như, trong trẻo tròn đầy, rỗng rangvắng lặng, thì vọng tình dần dần dứt sạch, chánh giáctrong sáng tròn thành, không xưa không nay, vượt cao lên ba cõi,chẳng sanh chẳng diệt, ngang khắp mười phương, tròn đồngthái hư, bình đẳng như vậy, hằng chứng Bồ-đề.
Thanhtịnh đến tột cùng thì sáng thông, đạt tịch và chiếuthì bao gồm cả hư không, rồi nhìn trở lại thế gian, giốngnhư việc trong mộng.Nếu tâm thanh tịnh thì thấu suốt lý tịch và chiếu. NgàiVĩnh Gia Huyền Giác nói "tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnhtỉnh vọng tưởng sai". Tỉnh tỉnh là chiếu, lặng lặng làtịch. Ngược lại "lặng lặng tỉnh tỉnh phải, lặng lặnghôn trầm sai". Lặng lặng là tịch, tỉnh tỉnh là chiếu.Ðó là gốc của sự tu, nếu thiếu một trong hai cái thì sựtu không đạt kết quả. Tịch mà chiếu, chiếu mà tịch. Chúngta ngồi Thiền tỉnh sáng mà không vọng tưởng thì đúng,còn tỉnh táo mà vọng tưởng đủ thứ thì sai. Ngược lạinếu ngồi Thiền tâm lặng lẽ mà tỉnh sáng thì đúng, nếutâm lặng lẽ nhưng mơ mơ ngủ gục thì sai. Như vậy chiếumà tịch hoặc tịch mà chiếu thì đúng, nếu chiếu mà loạntưởng hoặc tịch mà hôn trầm vô ký thì sai. Tự mình xétlại công phu của mình thì biết đúng sai, không nên để lệchhai yếu tố chính đó. Chúng ta rà soát lại pháp mình đangtu thì không lầm lẫn. Nếu đạt được tịch và chiếu thìbao gồm cả hư không, nhìn lại thế gian thấy như việc trongmộng.
Nhữngpháp hữu vi hữu hình thì hữu hoại, vô thường chi phốikhông chừa một ai, từ những cảnh vật chung quanh cho đếnthân này, chẳng khác nào nằm ngủ mê, mộng thấy đủ thứ,khi thức dậy thì không có gì cả. Ðó là lẽ thật mỗi ngườichúng ta nên chiêm nghiệm cho kỹ để lo tu.
Phápthân trong trẻo và lặng lẽ vốn không có nhơ sạch riêngkhác, chân tánh lắng trong, đâu có Thánh phàm sai biệt. Ðềubởi có mê ngộ, đến nỗi khiến thành chẳng đồng. Kinhnói: Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Từ khôngmà khởi vọng, rồi vọng sanh mọi thứ sắc. Ðã trái vớilẽ không sanh không hóa, lại hằng có hóa, có sanh. Trọn làbuông tâm phóng chạy, hoàn toàn không giác tánh hồi quang,lấy huyễn làm chân, trái không theo sắc.
Ýđoạn này nói rằng chúng ta có tánh giác sáng suốt mà bỏgiác chạy theo mê, tức là bối giác hiệp trần. Pháp thânhay chân tánh của chúng ta vốn trong trẻo lặng lẽ, khôngnhơ sạch không Thánh phàm, bởi có mê có ngộ nên chẳng đồngnhau. Thân tứ đại chẳng thật có, năm uẩn sắc, thọ, tưởng,hành, thức vốn không. Do từ cái thể chân không không giữtự tánh, nên khởi vọng tưởng thành ra có đủ thứ sắc,như vậy đã trái với cái lẽ không sanh không hóa của phápthân, cho nên sanh sanh hóa hóa liên tục. Chúng ta mãi buôngtâm chạy theo ngoại cảnh, không chịu xoay lại tánh giác củamình - tức là không hồi quang phản chiếu. Chúng ta lầm chocái sắc thân bốn đại năm uẩn tạm bợ giả dối này làthật, bỏ cái thể không, chạy theo hình sắc bên ngoài. Nhưtrước có nói chúng ta chạy theo âm thanh sắc tướng mà quênmình có cái hay nghe hay thấy không tướng mạo, không có gìphá hoại được nó.
Bảntánh chân như từ ban sơ, vốn tròn sáng, rỗng lặng vô vi,từ khi huyễn có sắc thân, vọng thức, mà kết nhân kếtquả, vọng sự vọng lý, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệpvọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp,thấm thêm vào sự mê hoặcmà thành thân, đi đi lại lại, theo nghiệp thọ báo.
Ðoạnnày Ngài nói cũng hết tình hết lý. Từ ban sơ bản tánh củachúng ta vốn tròn sáng rỗng lặng, nhưng khi huyễn có sắcthân rồi thì sanh vọng thức, kết nhân kết quả và sanh rađủ thứ vọng sau này. Ngài thấy thân là huyễn, còn chúngta thấy thân huyễn hay thật? Trả lời được điều nàylà xác định rõ rệt hướng đi của mình. Nếu thấy thânhuyễn thì đang đi trên con đường giác ngộ, nếu thấy thânthật thì đang đi trên con đường mê lầm. Tuy nhiên nhiềukhi chúng ta tự mâu thuẫn với mình, miệng thì nói tôi muốnđi đường giác ngộ, nhưng ý lại tham đắm sắc thân, vìcho sắc thân là thật. Như vậy, tu thì muốn giác ngộ, màthấy sắc thân này là thật, ý muốn nó tồn tại lâu dài,thế là mê. Do đó chúng ta thường bị cái mâu thuẫn làmkhổ mình: đi tu thì nguyện đi theo con đường giác ngộ củaPhật Tổ, mà cứ quay đầu nhìn theo hướng mê của phàm phu,làm sao thấy đường giác mà đi ? Cho nên tiến không nổimà lùi cũng không xong. Có người tu năm bảy năm mà chẳngthấy an lạc chỉ thấy toàn phiền não ! Thỉnh thoảng tôinghe một số người tu kể người này sân giận nhiều, ngườikia lắm phiền não, người nọ hay cãi lẫy với huynh đệ,ít nghe họ nói đến tâm định trí sáng, thấy thân này nhưhuyễn, mọi việc xảy ra không còn dính mắc. Nếu nói chuyệnđang đi trên đường giác ngộ như ý nguyện ban đầu củamình thì vui lắm. Như vậy muốn tu tiến chúng ta phải khẳngđịnh hướng nhắm của mình, đi đường nào phải hướngtheo lối ấy. Việc này rất dễ và đơn giản, chúng ta nhấtđịnh phải chọn một bỏ một: hoặc thấy thân này huyễn,hoặc thấy thân này thật.
Thấythân huyễn là thấy bằng tâm chớ không phải nói suông bằngmiệng. Thấy thân huyễn thì bị mắng chưởi thậm tệ cũngkhông buồn, được khen ngợi tâng bốc cũng không mừng, khổvui được mất không làm động tâm v.v... Nếu miệng nói thântôi huyễn hóa, nhưng ai chê một câu là mặt bí xị ý khôngvui, ai khen một lời là mặt mày hớn hở, nhớ mãi không quên,đó là thấy thân tôi thật. Cứ lấy cây thước tám gió đolòng mình thì biết rõ ta thấy thân huyễn hay thật. Chúngta phải mạnh dạn chọn một bỏ một, để khẳng định hướngđi của mình. Trong số Tăng Ni ở đây (Thiền Viện Trúc Lâm),khi đi tu ai cũng phát nguyện đi trên con đường giác ngộcho đến ngày viên mãn, quyết chí như vậy thật là phi thường.Song vào chùa một thời gian cạo tóc, thọ giới xong, lý đángphải tu tiến, nhưng thỉnh thoảng cũng có người sụt lùi,hoặc lọt hẳn xuống hố mê. Tôi thấy thương quá đưa gậykéo họ lên, đẩy đi một hồi lại lọt xuống nữa. Cứkéo lên lọt xuống hoài, thật khổ cho kẻ rơi xuống mà cũngnhọc nhằn cho người kéo lên ! Thế nên tôi mong quí vị pháttâm đi tu phải giữ tâm nguyện như lúc ban đầu thì thànhđạo có dư. Muốn thế phải thật sự thấy thân như huyễn.Chúng ta sống mấy mươi năm tưởng chừng dài lắm, thậtra ngày qua ngày, hết sáng tới tối, loay hoay nhìn lại mấychục năm thấy như giấc mộng. Nếu thấy thân này như huyễn,cuộc sống như giấc mộng thì không có chuyện phiền nãoxảy ra. Tại không chịu hồi quang phản chiếu, cứ phóng tâmchạy theo cảnh, nên mới sanh ra các thứ: vọng sự vọng lý,vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọngsở, vọng tưởng vọng chấp, thấm sâu vào tạng thức trởthành mê hoặc, do hoặc tạo nghiệp, mà có thân thọ báo đitrong tam giới.
Thứcthần đã theo nghiệp, rồi theo nghiệp thọ thân, ra nơi nàyvào nơi kia, bỏ kia sanh đây, lên xuống trong sáu đường,qua lại nơi ba cõi lành dữ chẳng đồng, muôn loài sai khác,giàu sang nghèo hèn, tùy hạnh nghiệp mà sanh, chẳng phải khôngnhân mà mong được quả. Thế gian mộng huyễn, há đượcdài lâu ? Muốn chứng chân thường, hãy xuất gia theoPhật, học đạo vô thượng, vượt cao lên quả thù thắng.
ÐâyNgài nói thêm, nếu chúng ta mê muội thì thần thức sẽ theonghiệp thọ thân trong ba cõi sáu đường, tùy theo nghiệp đãtạo mà thọ quả báo tốt xấu khác nhau. Thế nên, trên thếgian từ thân người cho đến cảnh sống chung quanh không aigiống ai cả. Trong đoạn này có một câu. Muốn chứng chânthường, hãy xuất gia theo Phật,tôi xin sửa "Muốn chứngchân thường hãy khéo tu học Phật" cho phù hợp với hoàncảnh hiện tại. Vì người tại gia hay xuất gia nếu khéotu học Phật đều có lợi ích. Theo quan niệm của quần chúng,muốn giác ngộ giải thoát thì phải xuất gia, cạo tóc mặcáo nhuộm vào chùa ở. Như thế thì những người lỡ có giađình con cái muốn giác ngộ giải thoát phải làm sao ? Bỏgánh nặng cho người khác gánh để đi tu phải không ? Mộtngười cho đến một ngàn người như thế thì ai lo cho giađình, ai lo xây dựng xã hội đất nước ? Con cái lớn rồinó tự lo liệu còn có thể được, nếu con mới năm ba tuổibỏ lại cho vợ hoặc chồng nuôi làm sao nuôi nổi ? Có nhữngtrường hợp ban đầu ham tu quá bỏ vợ con vô chùa, tu mộtthời gian thấy vợ con nheo nhóc rồi hoàn tục lo cho vợ con.Như vậy đạo đời gì cũng dở dang không trọn vẹn. Cho nêntôi khuyên quí vị đã lỡ có gia đình, muốn giác ngộ giảithoát hãy noi theo gương ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, Ngài làmquan, thê thiếp nhiều, mà lúc sắp tịch, quí bà khóc lóc,Ngài vẫn tự tại ra đi không chút lưu luyến. Tu như Ngàimới giỏi, học tu theo Phật mà không xa lánh gia đình xã hội,tu như vậy không ai than phiền trách móc mìnhchi cả. Nếu ai cũng vô chùa tu hết thì nguy lắm.
Ðạovô thượng tức là pháp tánh chân như. Nếungộ pháp tánh chân như, trong trẻo tròn đầy, rỗngrang vắng lặng thì vọng tình dần dần dứt sạch, chánh giáctrong sáng tròn thành, không xưa không nay, vượt cao lên ba cõi,chẳng sanh chẳng diệt, ngang khắp mười phương, tròn đồngthái hư, bình đẳng như vậy, hằng chứng Bồ-đề.
Ðoạnnày nói về kiến tánh tức là nhận được bản tánh củamình, nên mới diễn tả bản tánh tròn sáng trong trẻo lặnglẽ. Nhưng vì dấy niệm tạo nghiệp mà có sanh tử. Nếu biếtthân sanh tử là huyễn hóa, cảnh vật không thật thì trởvề thể tánh trong sáng tròn lặng ấy. Ngược lại thì cứchìm đắm không biết chừng nào ra khỏi.
ThânPhật siêu ba cõi, tịch quang đầy thái hư. ThânPhật tức là Pháp thân vượt ra ba cõi: dục giới, sắc giớivà vô sắc giới, lặng lẽ sáng suốt đầy cả thái hư. Tịchlà lặng, quang là sáng tức là tỉnh, ai ngồi Thiền mà tâmlặng và tỉnh là đang sống với Pháp thân của chính mình.Hiệnhình trăng trong nước, mãi làm thầy trời người.Báothân hay ứng thân do Pháp thân ứng hiện, giống như có bóngmặt trăng hiện trong nước là do mặt trăng thật trên hưkhông. Ví dụ đêm rằm trời không mây, chúng ta nhìn vào hồnước trong thấy có bóng mặt trăng hiện dưới đáy nước,mặt trăng dưới đáy hồ nước là bóng chớ không phải mặttrăng thật ? Nếu thật thì ta thử vớt xem có vớt đượckhông ? Nếu nói không thì sao có mặt trăng dưới nước ?Thấy có mặt trăng mà vớt không được, cho nên không phảithật có. Thấy rõ ràng có bóng mặt trăng nên không phảithật không. Cũng vậy hóa thân, báo thân của Phật hiện rađể làm thầy trời người đó là từ pháp thân ứng hiện,giống như bóng mặt trăng hiện trong nước, không phải thậtcó cũng không phải thật không. Cho nên Phật Thích Ca đã thànhPhật, thân ba mươi hai tướng tốt sáng chói như vàng ròngmà vẫn bị vô thường chi phối, ngày nay chỉ còn một chútít xá lợi Phật thờ trong các bảo tháp rải rác trên khắpthế giới mà thôi.ThânPhật siêu ba cõi,Tịchquang đầy thái hư.Hiệnhình trăng trong nước,Mãilàm thầy trời người.Âm:Phậtthân siêu tam giới,Tịchquang mãn thái hư.Hiệnhình thủy trung nguyệt,Vĩnhtác thiên nhân sư.
Hỏi:Hai ngôi Phật và pháp, ngôi nào trước, ngôi nào sau ? Nếunói Phật có trước, Phật nàynươngtheo pháp nào mà được thành đạo nên gọi là Phật ? Nếubảo pháp có trước, pháp này do Phật nào nói nên gọi làpháp?
Lạihỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ?
Ðáp:Phật vốn có trước pháp, cũng có sau pháp.
Hỏi:Thế nào là Phật pháp trước sau?
Ðáp: Nếu y cứ chân như thật tế, thì chân Phật không hình,tròn đồng thái hư, đối diện ở trước mắt, lặng sángkhông gì trên, đâylà Phật thật không hình tướng, Phật có trước.
Ðoạnnày nêu lên câu hỏi: Phật có trước hay pháp có trước,nếu Phật có trước thì Phật nương pháp nào tu để đượcthành Phật ? Nếu nói pháp có trước thì pháp này do Phậtnào nói ? Câu trả lời không dứt khoát: Phật có trước phápmà cũng có sau pháp. Hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau? Ðáprằng: Nếu y cứ Phật pháp thân thì Phật có trước.
Lạinói:Ngàinói thêm bài kệ để giải thích ý nghĩa Phật có trước:Tacó một thân Phật, người đời ít kẻ biết.Ai cũng cómột vị Phật mà ít ai biết đến vị Phật đó. Khôngmột giọt tro bùn, không một điểm màu sắc.Vị Phậtđó không do tro bùn làm nên, cũng không có điểm màu sắcgì cả. Vàng ròng khó đúc thành, gỗ đá khó chạm khắc.Dùng vàng ròng đúc không được vị Phật này, dùng gỗ khắcchạm cũng không được. Thợ trời tạo chẳng nên, trộmđất trộm chẳng được.Thợ khéo ở trên trời cũngkhông tạo được, mà kẻ trộm ở dưới đất cũng khôngăn cắp được vị Phật này. Nước lửa chẳng can chi,nghiễm nhiên gió chẳng khác.Vị Phật này vào nước khôngchìm, gặp lửa không cháy, gió thổi chẳng rung rinh. Lặngsáng đầy thái hư, đoan nghiêm rất kỳ đặc.Phật phápthân lặng lẽ rỗng sáng tròn đầy như thái hư, rất trangnghiêm và kỳ đặc. Tròn sáng có một thân, hóa thân ngàntrăm ức.Thể thì tròn sáng cómột, khi ứng hóa thì có trăm ngàn muôn ức thân.Phậtpháp thân là Phật thật có sẵn nơi mọi người, chớ khôngriêng của ai. Về sau, người đời không nhận được Phậtpháp thân, nên mới dùng phương tiện đắp thành tượng Phật.Tượng Phật là Phật có hình tướng phỏng theo dáng hóa thânhoặc báo thân mà đắp, chớ Phật thật thì không có thân.Tacó một thân Phật,Ngườiđời ít kẻ biết.Khôngmột giọt tro bùn,Khôngmột điểm màu sắc.Vàngròng khó đúc thành,Gỗđá khó chạm khắc.Thợtrời tạo chẳng nên,Trộmđất trộm chẳng được.Nướclửa chẳng can chi,Nghiễmnhiên gió chẳng khác.Lặngsáng đầy thái hư,Ðoannghiêm rất kỳ đặc.Trònsáng có một thân,Hóathân ngàn trăm ức.Âm:Ngôhữu nhất khu Phật,Thếnhân thiểu giả thức.Vônhất trích hôi nê,Vônhất điểm thái sắc.Hoànkim nan đào dung,Mộcthạch nan tạc khắc.Thiêncông tạo bất thành,Ðịađạo thâu bất đắc.Thủyhỏa bất thường can,Nghiễmnhiên phong bất thắc.Tịchquang mãn thái hư,Ðoannghiêm thậm kỳ đặc.Viênminh hữu nhất khu,Hóathân thiên bá ức.
NênThiền sư Xuyên Lão nói: "Phật vàng chẳng độ lò đúc, Phậtgỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước".
Tụng:NênThiền sư Xuyên Lão nói: "Phật vàng chẳng độ lò đúc, Phậtgỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước.Câu này Thiền sư Xuyên Lão lặp lại câu nói của ngài TriệuChâu. Ngài Triệu Châu nói: Phật vàng không độ đượclò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất khôngđộ được nước, Phật thật ngồi ở trong.Tượng Phậtbằng vàng nếu để vào lò đúc thì không độ được lòđúc, mà bị lò đúc nung chảy ra nước; tượng Phật bằnggỗ đem để vào lửa bị lửa đốt thành tro. Tượng Phậtbằng đất đem để vào nước, nước thấm ướt, đất rãra. Bây giờ có thêm Phật xi-măng, Phật thạch cao không độđược cáicái búa, vì búađập vào thì xi-măng bể, thạch cao bể. Chỉ có ông Phậtngồi ở trong điện Tỳ-lô của mỗi người, là không cóthứ gì làm tiêu hoại được. Khi Phật ấy hóa hiện thânra thì độ được tất cả mọi chúng sanh. Ngài Xuyên Lãotụng thêm:BaPhật hình nghi chẳng phải chân, con ngươi trong mắt trướcmặt xem.Ba hình chỉ cho Phật bằng vàng, Phật bằng gỗ,Phật bằng đất. Phật được tạc bằng một trong ba chấtloại ấy dù có khéo đẹp thế mấy cũng không thật. Phậtthật ở trong thân giả của mỗi người giống như con ngươisáng nằm trong mắt ở trước mặt. Phải ngay đó mà nhậnchớ đừng tìm kiếm ở đâu xa.BaPhật hình nghi chẳng phải chân,Conngươi trong mắt trước mặt xem.Nếuhay biết được trong nhà báu,Hoanúi chim kêu một dáng xuân.ỨngPhật, Hoá Phật, đều không thật,Bónghình muôn thứ thảy là quyền.Cáigì có tướng đều hư vọng,ChânPhật không hình vốn tự nhiên.Âm:TamPhật hình nghi tổng bất chân,Nhãntrung đồng tử tiền diện nhân.Nhượcnăng thức đắc gia trung bảo,Ðềđiểu sơn hoanhất vạn xuân.ỨngPhật, Hóa Phật giai vô thật,Ảnhtượng thiên bang tổng thị quyền.Phàmsở hữu tướng giai hư vọng,ChânPhật vô hình bổn tự nhiên.
Nếuhay biết được trong nhà báu, hoa núi chim kêu một dáng xuân.Nếu biết được mình có kho báu, tức là nhận được tánhPhật chân thật của mình thì nhìn hoa dại mọc ở kẽ đátrên núi, nghe tiếng chim hót trên cành cây, thấy đâu đâucũng là cảnh xuân tươi đẹp. Ai biết trở về tánh Phậtchân thật của chính mình thì tất cả cảnh, tất cả hiệntượng bên ngoài đều tươi sáng đẹp đẽ như hoa chim trongmùa xuân.
ỨngPhật, Hóa Phật đều không thật, bóng hình muôn thứ thảyđều quyền.Phật ứng thân, Phật hóa thân đều khôngphải Phật thật, vì có hình có bóng tất cả đều là quyềnlà tạm không phải thật. Cái gì có tướng đều hư vọng,chân Phật không hình vốn tự nhiên.Chỉ có vị Phậtchân thật không hình tướng là tự nhiên sẵn vậy. Ngài XuyênLão tụng như thế để nhắc chúng ta nhớ trở về với vịPhật thật của mình, không mắc kẹt nơi âm thanh, sắc tướnggiả dối bên ngoài.
Hỏi:Thế nào Pháp có trước ?
Ðáp:Nếu y cứ pháp tánh tịch diệt, thì chân kinh không quyển,rỗng trơn bặt dấu vết, nghĩa ấy như sao trời sáng rực,lặng lẽ quên lời, biển chân giáo sóng bủa mênh mông, baola pháp giới, lặng lẽ sáng soi tự tại, suốt tột xưa nay,dọc ngang khắp trời đất, đây là chân kinh không quyển,pháp có trước. Nếu y cứ pháp tịch diệt, đó là pháp trướcPhật sau.
Thôngthường ai cũng hiểu theo lịch sử thì, đức Phật Thích Casau khi thành đạo nói pháp trong bốn mươi chín năm, dạy chomọi người tu hành hiện còn ghi chép trong Tam tạng kinh điển,pháp đó có sau, Phật có trước, vì Phật thành đạo rồimới nói pháp. Nhưng ngài Chân Nguyên lại nói pháp có trước,nên ở đây nêu câu hỏi: Thế nào là pháp có trước ?Ðây giải thích pháp có trước là pháp tánh tịch diệt sẵncó của tất cả chúng ta, do ngộ được pháp đó mới thànhPhật, nên nói pháp có trước, Phật có sau. Pháp này cũnggọi là chân kinh không quyển. Bởi vì pháp này chỉ cho thểchân thật không có tướng mạo, nên không có dấu vết củavăn tự, không có lời ghi chép, không có sách in thành quyển,đó là cái tịch diệt sẵn có muôn đời.
Kinhnói :Tấtcả chư Phật đều nhân nơi pháp tánh tịch diệt mà đượcthành Phật. Nên kinh Lăng Già nói: "Lìa tướng văn tự, lìatướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận,mới có thể chứng Phật". Nên biết, pháp tánh tịch diệtlà thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau. Vì vậykinh nói: "Có Phật không Phật, pháp tánh vẫn thường trụ.Có kinh không kinh, pháp thân vẫn hằng như vậy". Một phápmà có ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật,chân kinh, pháp tánh pháp thân vốn đồng một thể, không cótướng khác. Nếu có người huệ lớn, trí bậc thượng, chóngngộ chân không, pháp tánh như vậy, chân Phật không hình,chân kinh không quyển, chân đạo không lý, chân pháp khônglời, sẽ sớm được viên chứng quả Bồ-đề.Cácpháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng, Phật tửhành đạo rồi, đời sau được làm Phật.Các pháp từ xưa tới giờ,tướngnóthườngvắnglặng, người Phật tử đời này hành đạo rồi, đời sausẽ được làm Phật. Ngày xưa có một Thiền tăng nghe haicâu kệ đầu: "Các pháp từ xưa nay tướng thường tự vắnglặng", Ngài nghi ngờ tại sao các pháp từ xưa đến nay tướngthường tự vắng lặng? Ngài ôm ấp thắc mắc mãi trong lòng.Một sáng mùa xuân đang ngồi trước cửa chùa, thấy muônhoa đua nở và nghe chim hoàng oanh đậu trên cành hót líu lo,Ngài hoát nhiên ngộ đạo, liền đọc tiếp hai câu thơ:Xuânđến trăm hoa nở,Hoàngoanh hót trên cành.(1)Cácpháp từ xưa nay,Tướngthường tự vắng lặng.Phậttử hành đạo rồi,Ðờisau được làm Phật.Âm:Chưpháp tùng bản lai,Thườngtự tịch diệt tướng.Phậttử hành đạo dĩ,Laithế đắc tác Phật.
Ngàingộ là vì nhận ra rằng, các pháp thể tánh nó vốn lặnglẽ, mà tướng của nó thì tùy duyên, duyên hợp thì muônsự muôn vật hiện tiền, như hoa nở chim hót khi mùa xuânđến. Ngộ đạo là thấy cùng tột bản thể của sự vật,cũng như nhận ra thể tánh của chính mình, đồng thời cũngbiết rõ tướng dụng sinh động của các pháp không lầm lẫn.Người học đạo thấu suốt cùng tột chỗ này thì khôngnhững đời sau thành Phật mà ngay hiện tại cũng đã giácngộ.
Tấtcả chư Phật đều nhân nơi pháp tánh tịch diệt mà đượcthành Phật. Nên kinh Lăng Già nói: "Lìa tướng văn tự, lìatướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận,mới có thể chứng Phật".Chứng Phật quả là không mắckẹt ở văn tự, không mắc kẹt ở lời nói, cũng không mắckẹt ở cái tâm duyên theo cảnh, dứt hết những bàn luận suông mới chứng được Phật quả. Chứng Phật quả là ngộđược pháp tánh tịch diệt, pháp tánh ấy lìa tất cả tướngvăn tự, ngôn ngữ, tâm duyên, hí luận. Nên biết pháp tánhtịch diệt là thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau.Phật do ngộ pháp tánh tịch diệt mà thành Phật, nên nóipháp có trước, Phật có sau. Vì vậy kinh nói: Có Phật,không Phật, pháp tánh vẫn thường trụ, có kinh không kinh,Pháp thân vẫn hằng như vậy.Dù cho có Phật ra đời haykhông Phật ra đời, pháp tánh vẫn thường trụ không biếnđổi. Dù có kinh hay không có kinh, Pháp thân vẫn hằng nhưvậy. Pháp tánh hay Pháp thân không rời nhau. Một pháp màcó ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật, chânkinh, Pháp tánh, Pháp thân vốn đồng một thể, không có tướngkhác.Nói thì có nhiều tên như chân Phật, pháp tánh, phápthân... nhưng thể của nó thì đồng không khác.
Nếucó người huệ lớn, trí bậc thượng chóng ngộ chân không,pháp tánh như vậy, chân Phật không hình, chân kinh không quyển,chân đạo không lý, chân pháp không lời, sẽ sớm đượcviên chứng quả Bồ-đề.Nếu người có trí tuệ lớn bậc thượng thì mau ngộ đượclý chân không. Ðây nói chân Phật không hình, chân kinh khôngquyển, chân đạo không lý, chân pháp không lời. Bây giờchúng ta thấy tượng Phật đúc bằng đồng hay thạch cao,xi-măng, hoặc gỗ, đó là Phật tượng, có tướng giả dối.Còn chân Phật thì không hình tướng, vì Phật thật là Phậtpháp thân bất sanh bất diệt. Còn Phật hóa thân như PhậtThích Ca ở Ấn Ðộ sống tám mươi năm cũng là Phật sanhdiệt. Chân kinh không quyển là chỉ cho pháp tánh, không phảiquyển kinh bằng giấy mực chữ nghĩa. Chân đạo thì khôngcó lý lẽ còn lý lẽ không phải là chân. Chân pháp khôngcó lời, lời nói ngôn ngữ là do niệm khởi; niệm khởi lờinói là tướng sanh diệt không phải là chân. Người ngộ đượcnhư thế thì chứng quả Phật viên mãn.
Phápthân thanh tịnh Phật vô tướng, tịch quang tròn lặng đồnghư không.Pháp thân tức Phật thân không tướng mạo, nhưng ánh sánglặng lẽ trùm cả hư không. Hình nghi chẳng mượn dùngtiếng cầu, dung mạo dính gì với sắc pháp.Hình tướngkhông thể dùng tiếng mà cầu được, dung mạo không dínhdáng gì với sắc pháp. Tóm lại: Pháp thân thanh tịnh lặnglẽ, hằng giác hằng tri không có tướng mạo nên không dínhdáng gì với mọi hình sắc, âm thanh.Muônpháp đồng về biển tánh chân, một trần chẳng nhiễm vốnnguồn linh.Biển pháp tánh chân thật là thể của muôn pháp, nên muônpháp thảy đều trở về đó. Nếu không nhiễm một tí bụitrần ấy là trở về nguồn linh của chúng ta. Rành rànhhiển lộ chân thân Phật, lồ lộ Như Lai đối mặt luôn.Người trở về nguồn linh thì chân thân Phật hiện rõ ràng,không bị che khuất, cho nên nói: Như Lai luôn luôn đối diệnở trước mắt. Như Lai là tên khác của Pháp thân, Pháp thânthường hiển lộ ngay trước mắt của mọi người. Trong nhàthiền có một từ ngữ kiến tánh, kiến tánh tức là nhậnra Pháp thân hay thấy tánh, nhưng thấy bằng cách nào, bằngcái nhìn của con mắt phải không ? Thấy tánh tức là nhậnra nơi mình có tánh thấy chân thật, nếu không có tánh thấythì chúng ta không thể nhận thấy được tất cả ngườivật chung quanh. Tuy nhiên, người sáng mắt thấy người thấyvật biết mình có tánh thấy, vậy người mù mắt không thấycảnh vật họ có tánh thấy không ? Họ không thấy sự vậtnhưng họ thấy tối đen, cái nhận biết của họ hiển lộở các cơ quan khácnhư mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm v.v...Phápthân thanh tịnh Phật vô tướng,Tịchquang tròn lặng đồng hư không.Hìnhnghi chẳng mượn dùng tiếng cầu,Dungmạo dính gì với sắc pháp.Muônpháp đồng về biển tánh chân,Mộttrần chẳng nhiễm vốn nguồn linh.Rànhrành hiển hiện chân thân Phật,Lồlộ Như Lai đối mặt luôn.Âm:Thanhtịnh pháp thân vô tướng Phật,Tịchquang viên trạm đẳng hư không.Hìnhnghi phi giả dĩ thanh cầu,Dungmạo khởi quan ư sắc pháp.Vạntượng đồng qui chân tánh hải,Nhấttrần bất nhiễm bổn linh nguyên.Ðườngđường hiển hiện Phật chân thân,Lộlộ Như Lai thường đối diện.
Trongkinh Lăng Nghiêm đức Phật dạy Ngài A-nan về tánh thấy quaví dụ nắm tay và con mắt. Phật dạy người không có bàntay thì tuyệt nhiên không có nắm tay, còn người mù mắt thìkhông phải hoàn toàn không thấy. Cho nên Phật bảo ngài A-nan:
-Ông thử ra đường hỏi những người mù anh thấy cái gì? Chắc chắn người mù trả lời: thấy trước mắt tối đen.
NgàiA-nan bạch Phật:
-Người mù thấy tối đen sao gọi là thấy ?
Phậtdạy:
-Người mù thấy tối đen so với người sáng mắt ở trongphòng tối, hai cái tối ấy có khác nhau không ?
-Không khác.
-Nếu người mù khi chữa lành bệnh, mắt sáng thấy đượccảnh vật, cũng giống như người mắt sáng ở trong nhà tốicó đèn sáng, họ cũng thấy cảnh vật.
Nhưvậy, ai cũng có cái thấy hết, nhưng người sáng mắt thìnhìn thấy người thấy vật rõ ràng, người mù thì thấyở trước tối đen. Tánh thấy lúc nào cũng hiện tiền trướcmắt mình, nhưng không bao giờ mình dùng mắt thấy nó được,song biết mình có tánh thấy là khi mình thấy người vậtbên ngoài. Vì nó không có hình tướng làm sao thấy đượcnó ? Như vậy thì mọi người đều có cái hay thấy, tứclà có tánh thấy, mà có tánh thấy là một phần Pháp thânhiển lộ, đó là Như Lai lồ lộ ngay trước mặt. Nên nhớlồ lộ trước mặt không phải Phật hiện trước mặt mìnhthấy bằng mắt, mà Như Lai lồ lộ ở sáu căn của mình,tại mình không chịu nhận. Chúng ta có thói quen hễ thấyngười thì khởi nghĩ người đó tên gì, đẹp xấu, tánhtình dễ chịu hay khó chịu, dòng suy tư kéo đi một mạch,cái thấy không dừng ngang chỗ thấy, mà cái thấy theo dòngnghĩ tưởng nên quên mất tánh thấy, nên chư Tổ dạy chúngta đối duyên xúc cảnh thấy như mù, nghe như điếc. Nếuthấy người thấy vật mà không khởi niệm đẹp xấu, nghemà không phân biệt dở hay đó là thấy như mù nghe như điếc.Giả sử chúng ta thấy có một người đi ngang qua, nếu khôngđể ý phân biệt, có ai đó hỏi: Cô có thấy người đi ngangqua không ? - Có. Nhưng hỏi: Người ấy đẹp hay xấu, cao haythấp... ? Ðáp: Không biết. Như vậy là thấy tức như khôngthấy. Chúng ta thì không như thế mà thấy cái gì là phảiphăng tìm cho ra gốc rễ, đó là chạy theo vọng tưởng phânbiệt, mà quên Như Lai ở nơi mình đang hiển lộ.
Nếuluận về pháp văn tự đó là Phật trước, pháp sau. Vì sao? Bởi chư Phật lúc tột ban đầu tu hành, là tự chứng cănbản trí tuệ, pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật.Ðến khi thành Phật xong, mới nương nơi hóa thân trăm ứcở cõi biến hóa, vận dụng thần thông, thị hiện mọi thứ,sau đó nói rộng các thứ ngôn từ, các thứ thí dụ, cácthứ cơ quan, các thứ nghĩa lý, sắn bìm lá bối, kết tậpvăn tự, nương sự mà đặt tên, kinh này luận nọ, sắp xếpthứ tự rồi gom lại làm từng quyển, thành tạng kinh mườihai bộ, rồi để lại lời dặn dò, lưu truyền ở đời,mở rộng phương tiện chỉ đường, chỉ lối mà tiếp hóachúng sanh.
Nếucăn cứ vào ba tạng giáo điển thì Phật có trước, phápcó sau, vì đức Phật Thích Ca thành Phật rồi mới thuyếtpháp giáo hóa chúng sanh. Pháp do Phật nói được ghi chép lạithành pho thành quyển, đó là Phật trước pháp sau. Trong đoạnnày có những từ ngữ hơi khó hiểu đó là"sắn bìm lá bối".Ngày xưa ở Ấn Ðộ ghi chép những lời Phật dạy trên lábối rồi kết lại thành thiên. Sau này con ngườivăn minh tiến bộ, sản xuất giấy mực, những lời Phậtdạy được in trên giấy thành quyển hẳn hoi, lưu truyềncho chúng ta học đến ngày nay. Chữ sắn bìm là chỉ cho nhữngdây leo, ý nói những lời Phật dạy dù được ghi chép đểlại thành ba tạng Kinh, Luật, Luận, cũng chỉ là phương tiệnđể cho chúng sanh nương theo tu hành, nó không phải là Phápthân chân thật của chúng ta.
LờiPhật dạy được kết tập lại thành tạng gồm mười haibộ.
1-Khế kinh: Là những lời Phật dạy đúng với chân lý đượcghi lại bằng văn xuôi.
2-Ứng tụng: Khi có duyên cớ gì đó, Phật phát lên những lờitụng.
3-Ký biệt: Thọ ký riêng từng đệ tử tu hành bao nhiêu kiếpthành Phật ở đâu...
4- Trùngtụng: Khi giảng xong bài kinh, Phật lập lại ý trên bằngbài tụng.
5- Tựthuyết: Phật tự kêu các Tỳ-kheo lại thuyết giảng, khôngchờ thưa hỏi.
6-Nhân duyên: Tùy theo nhân duyên mà Phật giải thích về nhânduyên các pháp.
7-Thí dụ: Khi giảng muốn cho dễ hiểu Phật cho ví dụ.
8-Bổn sự: Kinh kể lại những đời quá khứ của Ngài.
9- Bổnsanh: Kinh Phật kể lại những đời quá khứ của đệ tử.
10-Phương quảng: Những bài kinh có ý nghĩa rộng lớn.
11-Vị tằng hữu: Kinh nói lên điều chưa từng có ở đệ tử.Ví dụ ngài A-nan là thị giả chưa từng có. Phật cần cáigì vừa ngó là Ngài biết đem tới liền.
12-Luận nghị: Kinh bàn luận, phán đoán đúng sai, chân giả đểcho người học nắm vững để tu.
Mườihai bộ kinh không phải là mười hai bộ riêng biệt, mà làmười hai thể loại nói kinh của Phật, trong một quyển kinhcó nhiều thểloạinhưkinhPháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm... Trong kinh có mỗi phần riêng nóivề lý nghĩa riêng gọi là một bộ. Kinh điển có mấy ngànquyển, Phật nói không ngoài mười hai thể loại này.
Chúngsanh ban đầu nương theo kinh giáo mà xuất gia học đạo, minhtâm kiến tánh, thành công chứng quả, đây là Phật trướcpháp sau. Nếu người lượng cao, đủ đại trí tuệ, liềnchóng ngộ trí tự nhiên, không Phật, không kinh, không thầy,Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bình đẳng, quán thậttướng của thân, quán Phật cũng vậy. Bởi, quán thật tướngcủa thân, tức là Pháp thân rỗng rang diệu hữu, Phật vàta đều vô tướng, trong lặng nhiệm mầu, nhất như, trònđồng thái hư, chân không bình đẳng. Dù học ngàn kinh muônluận, rốt ráo cũng không vượt ngoài lý này, cuối cùng làviên chứng Phật Pháp thân.
Chúngsanh nương theo Pháp Phật dạy tu hành ngộ đạo chứng quảPhật cũng gọi là Phật trước pháp sau. Nếu người nào cótrí tuệ rộng lớn, chóng ngộ trí vô sư không Phật khôngkinh, không thầy, Pháp thân vốn rỗng lặng, cùng Phật bìnhđẳng. Chúng ta học tất cả Kinh tất cả Luận và tu đểchứng được Pháp thân,Pháp thân thì không cònngôn ngữ, không còn giáo lý để học, chỉ là thể tánh tịchdiệt sẵn có của tất cả chúng ta. Phật chứng được Phápthân, chúng ta tu cũng chứng được Pháp thân, đó là chỗbình đẳng rốt ráo.
*
(1)Pháp Hoa Giảng giải (Thích Thanh Từ) trang 112