Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 4

27/06/201101:54(Xem: 2290)
III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 4

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ

B. GIẢNG GIẢI
III-KỆ KIẾN TÁNH(Ðoạn 4)

Gượngnói đến đi, mà thật không có đến đi. Thế nào là thậtkhông có đến đi ? - Chỉ kinh Bát-nhã làm chứng, nói: "Tướngkhông của các pháp đó, chẳng sanh chẳng diệt". Sanh diệtđã không, thì đến đi đâu có. Ðây là khí âm dương biếnhóa, ngưng tụ thành hình mà người sanh ra. Sắc thânbốnđại dụ như hòn bọt nổi, có sanh có diệt. Còn Pháp thântròn sáng thì rỗng rang, rộng lớn, đích thực là biển tánhTỳ-lô, không có lay động, vốn không từ đâu đến, cũngkhông đi về đâu, tánh đồng với hư không, biết khắp mọinơi. Vì vậy gọi là xưa nay vô vi, vẫn hằng thường trụ,chân không lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng tháihư, không thiếu không dư, sáng thông bát ngát, trong lặng nhưnhư, đối diện ngay trước mắt, tại sao chẳng hội? Kinhnói: "Chân Phật pháp thân giống như hư không". Ðây thậtlà Pháp thân tức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư khôngcùng với Pháp thân không có tướng khác, chư Phật cùng vớichúng sanh không có tánh khác. Chẳng ngộ tự tánh tức gọichúng sanh, giác biết tự tánh nên gọi chư Phật. Ðó là chân Phậtvốn không hình tướng, đầy khắp cảhưkhông, thế giới, đâu có đến đi?

Gượngnói đến đi mà thật không có đến đi. Thế nào là thậtkhông có đến đi? Chỉ kinh Bát-nhã làm chứng, nói: Tướngkhông của các pháp đó, chẳng sanh chẳng diệt.
Ngài dẫnvăn kinh Bát-nhã để giải thích lý không đến không đi. Trongkinh Bát-nhã nói "tướng không của các pháp chẳng sanh chẳngdiệt", chẳng sanh diệt thì đâu có đến đi. Vì các phápdo duyên hợp không có thật thể cố định, nên nói tướngcủa nó là không, tướng không đó chẳng sanh diệt nên khôngđến đi. Ðây là khí âm dương biến hóa, ngưng tụ thànhhình mà người sanh ra. Sắc thân bốn đại dụ như hòn bọtnổi, có sanh có diệt. Còn Pháp thân tròn sáng thì rỗng rang,rộng lớn, đích thực là biển tánh Tỳ-lô, không có lay động,vốn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, tánh đồngvới hư không, biết khắp mọi nơi.Ở trên giải thíchrằng sanh từ vô vi đến, tử trở về vô vi, vì chữ vô vilà chỉ cho thể tánh bất sanh bất diệt của con người vàcủa muôn pháp. Kế đây Ngài giải thích theo bên Nho thân ngườicó ra là do khí âm dương biến hóa ngưng tụ mà thành hình,còn theo nhà Phật thân người là do tứ đại duyên hợp. Sắcthân do tứ đại hợp, dụ như hòn bọt nổi chợt sanh chợtdiệt, thế mà chúng ta cứ cho rằng sống sáu bảy mươi nămlà lâu dài, xứng đáng. Nhưng đối vớicon mắt của nhà Phật thời gian sáu bảy mươi năm khôngnghĩa lý gì cả, như bóng con ngựa chạy qua cửa sổ thậtlà mau. Chúng ta nhìn xuống biển thấy những hòn bọt nổitrên mặt biển và mặt biển, vậy cái nào ngắn cái nào dài? Hòn bọt tụ rồi tan, không có nghĩa lý gì cả đối vớimặt biển. Cũng vậy, nơi mỗi chúng ta sẵn có Pháp thân trònsáng, rộng lớn thênh thang, đây gọi là biển tánh Tỳ-lô,Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân. Thế mà chúng ta quên cáiPháp thân, lại nhận cái thân tứ đại duyên hợp tạm bợ,chợt còn chợt mất, giống như nhận hòn bọt mà quên mặtbiển thênh thang. Tuy nhiên hòn bọt tụ tán không ngoài mặtbiển. Tụ ví cho sanh, tán ví cho tử, nên nói sanh từ vô viđến, tử từ vô vi đi, vô vi chỉ cho Pháp thân bất sanh bấtdiệt. Như vậy căn cứ trên Pháp thân thì thân này sanh ratừ Pháp thân và thân này hoại đi cũng trở về Pháp thân.Ngài ví dụ sắc thân như hòn bọt, Pháp thân như mặt biểnthênh thang, thế mà chúng ta cứ lo lắng bảo vệ sắc thânnên quên mất Pháp thân, giống như người ra biển nâng niuhòn bọt, mà quên mặt biển. Hòn bọt dễ vỡ lại nâng niu,còn mặt biển thênh thang rộng lớn thì quên, người như thếPhật nói là người đáng thương xót. Chúng ta là người quámê muội, nên lo bảo vệ sắc thân sớm còn tối mất, màquên Pháp thân chân thật không bao giờ mất. Ví như ngườira biển thấy bọt nước nổi chìm cốlấy tay vớt mà quên đi mặt biển thênh thang. PhậtTổ thương hết lòng chỉ dạy cho chúng ta nhận ra, trở vềsống với cái chân thật của mình. Như vậy chúng ta mớithấy tầm quan trọng của sự tu. Tu không phải tìm kiếm nhữngcái được mất trên thế gian này mà phải nhận ra và sốngtrọn vẹn với Pháp thân sẵn ở nơi mình.

Vìvậy gọi là xưa nay vô vi vẫn hằng thường trụ,chân không lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng tháihư, không thiếu không dư, sáng thông bát ngát, trong lặng nhưnhư đối diện ngay trước mắt, tại sao không hội.Ngài nói pháp thân thường trụ, thật tướng rành rành, thênhthang trùm khắp, lồ lộ, đối diện trước mắt. Vậy đốidiện trước mắt là chỗ nào ? - Chúng ta nhìn thấy bình hoa,nhìn thấy đồng hồ ở trước mắt là đối diện trướcmắt phải không ? Nếu thế là chúng ta chạy theo cảnh bênngoài, mà quên rằng đối diện trước mắt là cái hay thấybình hoa, hay thấy đồng hồ. Bình hoa và đồng hồ là vậttụ tán sanh diệt, còn cái hay thấy bình hoa hay thấy đồnghồ là cái không sanh diệt, không bao giờ mất. Nếu khôngcó bình hoa, không có đồng hồ nó vẫn thấy bầu trời haymây nước... Cái hay thấy không bao giờ mất, nhưng khởi niệmtìm kiếm thì sai, chỉ thầm nhận mình có cái hay thấy làđược rồi. Bởi vì nếu không có cái hay thấy thì làm saothấy bình hoa, thấy đồng hồ, thấy trời, thấy mây ? Thấyđược những sự vật nhưthế là do chúng ta có cái hay thấy hay biết, nhận rõràng không nghi. Nhưng cái hay thấy không có tướng mạo nênnói nó phi sắc, phi không, phi tất cả; phi tất cả nhưng chẳngphải không, chẳng phải không chớ không phải không ngơ. Ðólà chỗ rất khó mà người học Phật phải sáng suốt mớinhận ra chỗ này. Như vậy cái thấy hiện trước mắt, màchúng ta không biết không nhận ra. Nhưng vừa dấy niệm tìmnó ở đâu, nó liền bị che khuất, tìm mãi không được,tuy nhiên nó cũng tại đó không mất. Còn không tìm nó thìnó hiện tiền sáng rỡ, song phải khéo nhận, nếu không khéonhận thì không biết mình có nó. Nhớ, đừng nghe nói đốidiện trước mắt rồi nghĩ cái ở bên ngoài, mà hướng rangoài tìm kiếm là sai lầm. Ðối diện mà không phải đốidiện, nó hiện tiền ở trước mắt chúng ta phải khéo nhận.

Kinhnói: Chân Phật pháp thân giống như hư không.Ðây nóichân Phật pháp thân giống như hư không. Xin nói kỹ chỗ nàycho quí vị hiểu kẻo lầm: như chúng ta nhìn thấy bình hoa,cái hay thấy bình hoa có giống như hư không không ? - Giốngở chỗ không tướng mạo, nhưng hư không thì không thấy đượcsự vật, mà cái hay thấy thì thấy biết được sự vật.Như vậy cái hay thấy giống hư không mà không phải là hưkhông. Ðây thực là Pháp thân tức hư không, hư không tứcPháp thân.Như chúng ta nhìnlên trời thấy có mây, cái khoảng cách từ mây đếnmình xa nhau, nhưng nó có bị trở ngại gì không ? Mây và cáithấy khác nhau, mây có hình tướng, cái thấy không có tướngmạonên hòa trong hư không, không có cái gì làm trở ngại, do khôngtrở ngại nên cái thấy tức là hư không, nên nói Pháp thântức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư không cùng Phápthân không có tướng khác, chư Phật cùng chúng sanh không cótánh khác.Hư không và Pháp thân của mình không có tướngkhác, nếu có tướng khác thì không hòa lẫn trong hư khôngđược, hay nói khác đi cái thấy cái nghe của mình không cótướng khác với hư không, cho nên tiếng động, hình ảnhchúng ta nghe thấy đều không ngăn ngại. Nhưng chúng ta đừnghiểu rằng Pháp thân là hư không, vì nếu nó là hư khôngthì Pháp thân không thấy, không nghe, Pháp thân có thấy cóbiết nên không phải hư không, nhưng hai cái Pháp thân và hưkhông hòa lẫn nhau. Cũng như chúng ta thấy ánh sáng và hưkhông là một hay khác ? Hư không là sáng hay tối ? Tự nókhông sáng tối, mà do mặt trời, mặt trời chiếu thì hưkhông sáng, mặt trời khuất thì hư không tối. Như vậy sángtối là từ nơi hư không hay từ nơi mặt trời, mà hư khôngcó sáng tối ? Nhưng tối sáng không khác với hư không, chonên trong khi sáng chúng ta không thể phân biệt chỗ nào làánh sáng, chỗ nào là hư không,vì thể nó không hai. Pháp thân của mình hòa lẫn vớihư không cũng như vậy, nó lẫn nhau mà không phải một cũngkhông phải khác. Ðó là chỗ hết sức khó hiểu.

Chẳngngộ tự tánh tức gọi chúng sanh, giác biết tự tánh nêngọi chư Phật.Con người có tánh giác nhưng vì quên nêngọi là chúng sanh, nếu nhận ra và sống được với tánhgiác thì gọi là Phật. Phật thì giải thoát sanh tử, chúngsanh thì bị sanh tử khổ đau trói buộc. Vì chúng sanh luônluôn chạy theo cái sanh diệt, gìn giữ thương tiếc thân mạng,nên mất thân này tìm thân khác, tụ tán liên miên, cho nênPhật nói chúng sanh luân hồi vô số kiếp, luôn chịu đaukhổ trong cái vòng lẩn quẩn này. Bây giờ chúng ta tu chủyếu là phải giác ngộ nhận ra pháp thân bất sanh bất diệtsẵn có nơi mình, nên ở đây Ngài nói: Ðó là chân Phậtvốn không hình tướng, đầy khắp cả hư không, thế giớiđâu có đến đi.

Songpháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn khôngmột vật, chẳng rơi vào các số. Tuy vô vi, chẳng rơi vàocác số, mà cũng hay ứng vật hiện hình, ẩn hiện cùng bày,sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lý, làm ra muôn việc.Ðó chính là mọi người trong mười hai giờ đi đứng nằmngồi, thấy nghe hiểu biết, nhướng mày chớp mắt, ứng cơtiếp vật, giơ tay động chân, một thể tròn sáng, sáu cănvận dụng, ứng với tiếng với âm, hay thấy hay nghe, biếtnói biết bàn, biện rõ phải quấy.

SongPháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn khôngmột vật, chẳng rơi vào các số.Ðây nói Pháp thân thênh thang rỗng lặng, không một vật vàkhông rơi vào các số, tức là danh số của thế gian. Ngàinói trọn không một vật, Lục Tổ nói xưa naykhông một vật. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng thì "nói in tuồngmột vật tức chẳng trúng".

NgàiNam Nhạc Hoài Nhượng đến tham vấn Lục Tổ, Tổ hỏi:-Ở đâu đến ?

-Ở Tung Sơn đến.

Tổhỏi:

-Vật gì đến ?

Sưthưa:

-Nói in tuồng một vật tức không trúng.

Khithấy ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến, Lục Tổ hỏi: Vậtgì đến là muốn gạn xem Ngài đã nhận ra pháp thân chưa.Ngài phải ở trong chúng tám năm mới nhận ra và trả lời:Nói in tuồng một vật tức không trúng. Nếu bây giờ chúngta bị hỏi như trên sẽ trả lời: - Dạ con đem một cái túicó đựng ba cái y... Khi bậc thầy hỏi như thế là muốn dòxem chúng ta đã nhận ra Pháp thân bất sanh bất diệt chưa? Pháp thân bất sanh bất diệt đó không có hình tướng, nênkhông phải là một vật. Nghe ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng trảlời: Nói một vật tức chẳng trúng. Lục Tổ sợ Ngài rơivào không, nên hỏi gạn lại: "Có tu chứng không ?". Ngài đáp"Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được". Tuchứng tức chẳng không, tức là có tu, nhiễm ô tức chẳngđược, tức là thể thanh tịnh không bị cái gì làm nhiễmnhơ. Nghe thế Tổ biết Ngài đã nhận ra và sống được nênấn chứng: "Ông như thế ta cũng như thế".Tuyvô vi chẳng rơi vào các số mà cũng hay ứng vật hiện hình,ẩn hiện cùng bày, sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọilý làm ra muôn việc.Pháp thân không phải hình thức màẩn trong sự vật hình thức để hiện ra muôn sự muôn việc.Nơi chúng ta cái hay thấy biết được người vật, và nócòn sáng tạo ra sự vật nữa. Ví dụ chúng ta thấy hoa hồng,nếu thấy và chỉ biết hoa hồng, ngang đó thì hết việckhông có gì để nói. Nhưng thấy hoa hồng chúng ta bèn phânbiệt hoa hồng đẹp, rồi ghi nhớ và cầm bút vẽ đượccái hoa hồng. Như vậy cái hay thấy không có hình tướng nhưngnó có thể biến hiện thiên hình vạn tướng, nên nói "Phápthân vô vi mà hay ứng vật hiện hình, ẩn hiện cùng bày,sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lý làm ra muôn việc".Ngài dạy tiếp: Ðó chính là mọi người trong mười haigiờ đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết, nhướng màychớp mắt, ứng cơ tiếp vật, giơ tay động chân, một thểtròn sáng, sáu căn vận dụng, ứng với tiếng với âm, haythấy hay nghe, biết nói biết bàn, biện rõ phải quấy.Trong sắc thân bằng xương thịt của chúng ta có ẩn Phápthân bất sanh bất diệt. Bởi có Pháp thân ẩn ở sắc thânnên khiến chúng ta biết đi đứng nằm ngồi, nhướng màychớp mắt, thấy nghe hay biết... Như vậy sắc thân do đấtnước giólửa hợpthành, nếu không có Pháp thân ẩn trong đó thì không hiệnra những hành động. Từ hành động nếu chúng ta biết phảnchiếu, nhận ra Pháp thân và biết đó là dụng của Pháp thânthì tốt. Nếu chúng ta cứ chạy theo hành động,rồi tưởng mọi hành động là thật thì chúng ta sẽ đi sâutrong mê lầm. Chúng ta biết cái dụng của pháp thân thì tuyhành động mà hằng sống với Pháp thân. Nhưng điều nàyhơi khó nếu không khéo sẽ bị lầm, vì Pháp thân ứng hiệnnó có lẫn những vọng tưởng. Ví dụ chúng ta đang ngồichợt khởi lên ý nghĩ đi ra vườn, chúng ta liền đứng dậyđi, khi khởi niệm đi thì có nghĩ, nhưng khi đi từng bướcthì không nghĩ. Hoặc khi chúng ta mở mắt nhìn cảnh vật thấytrời mây cây cối đủ thứ, thấy rõ ràng mà không khởiniệm thì không có lỗi. Nếu thấy mà phân biệt trời bữanay đẹp trong sáng, hoặc mây đen sắp mưa, nếu có xen vàonhững kinh nghiệm, những ý tưởng thì đã biến cái thậtthành cái giả mất rồi, từ cái bất sanh biến thành cáisanh diệt. Cho nên cũng một cái biết mà gọi là chân, cũngmột cái biết mà gọi là vọng. Như chúng ta thấy một đóahoa biết là đóa hoa thì không có lỗi, nếu khởi niệm đóahoa này đẹp, đóa hoa kia xấu, khởi niệm phân biệt so sánhđẹp xấu là lệch lạc rồi. Cái biết có so sánh phân biệtlà biết trong mê vọng, còn trong sanh diệt; cái biết khôngso sánh phân biệt đẹp xấu là biết trong tỉnh sáng an nhiên.Thế nên chư Tổ cũng ăn cơm mặc áo, đi lại như chúng tamà các Ngài thường tự tại. Còn chúng ta thì ăn cơm, mặcáo đi lại mà thường vọng tưởng điên đảo. Như vậy cũngsống cũng hoạt động như nhau mà một bên chân, một bênvọng. Tuy nhiên nếu không hiểu khi ở gần các Ngài ta sẽxem thường, cho rằng các Ngài khờ khạo không phân biệt lanhlẹ như chúng ta, nhưng cái phân biệt nhạy bén đó sẽ đưachúng ta đi trong đường sanh tử luân hồi. Hằng ngày cácNgài ăn cơm chỉ biết ăn cơm, mặc áo chỉ biết mặc áo,chúng ta ăn cơm thì thấy cơm ngon cơm dở, mặc thì khen đẹpchê xấu v.v... Bởi biết theo sanh diệt cho nên đi trong sanhdiệt. Biết phân biệt nhạy bén dường như khôn, nhưng đólà cái khôn của người dại. Biết sống an nhiên với tâmbất sanh bất diệt thoạt nhìn như ngu ngốc, nhưng đó làcái dại của người khôn, người biết sống nên được anlạc thảnh thơi. Người tu phải xét kỹ chỗ này.

Nóinăng đó là gì ? Cái gì biết hỏi đáp ? Ðây chínhlà Pháp thân của mọi người, là tự tánh chân không, hayứng ra âm thanh, miệng lưỡi mà hỏi đáp. Ðấy là tánh chânkhông người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, ở Thánhchẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, không đổi khác, không cũmới, không quá khứ hiện tại vị lai, rỗng rang bình đẳng,trong lặng tròn sáng, từ vô lượng kiếp đến nay đặc biệthiện tiền, gió thổi chẳng động, mưa rưới chẳng ướt,lửa đốt chẳng cháy, mặt trời rọi nóng chẳng khô, chùynhọn dùi chẳng phủng, đao cắt chẳng đứt, thuốc nhuộmchẳng đen, đá mài chẳng mòn, sương rét chẳng lạnh, nướctưới chẳng thấm, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không mộtvật, không thể nắm bắt, lồ lộ trước mắt, rõ ràng soikhắp. Ðây là Pháp thân thanh tịnh chân không, không hình khôngtướng, tròn đồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ. Songhư không rộng lớn, bao trùm cả trời đất, xuyên suốt núisông, tột cả xưa nay, vững mãi như vậy. Nên biết, núi sông,quả đất trọn là hoa đốm trong hư không, sắc thân bốnđại là âm dương huyễn hóa, "phàm cái gì có tướng đềulà hư vọng".

Nóinăng đó là gì ? Cái gì biết hỏi đáp ?Ðây đặt câu hỏi cái gì biết nói năng, cái gìbiết hỏi đáp. Nếu không có cái biết ẩn nơi thân thì làmsao khiến ngôn ngữ phát ra để thưa hỏi. Nhưng khi phát rathưa hỏi rồi lập thành câu và phân biệt đúng sai v.v...là đã cách xa cái biết rồi ! Ðây chính là Pháp thân củamọi người, là tự tánh chân không.Pháp thân hay ứngra âm thanh ở miệng lưỡi mà có hỏi đáp. Như vậy tấtcả những hoạt động của chúng ta đều có Pháp thân ngầmtrong đó. Trong kinh Lăng Nghiêm gọi là chơn tâm, nhưng khônggiữ tự tánh chơn tâm nên dấy khởi vọng động, do đó khihỏi đáp thêm nhiều phân biệt, sanh ra vui buồn bực bộiv.v... cách quá xa cái biết không sanh diệt của mình. Ðấylà tánh chân không người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành,ở Thánh chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, không đổi khác,không cũ mới, không quá khứ hiện tại vị lai, rỗng rangbình đẳng, trong lặng tròn sáng, từ vô lượng kiếp đếnnay đặc biệt hiện tiền, gió thổi chẳng động, mưa rướichẳng ướt, lửa đốt chẳng cháy, mặt trời rọi nóng chẳngkhô, chùy nhọn dùi chẳng phủng, đao cắt chẳng đứt, thuốcnhuộm chẳng đen, đá mài chẳng mòn, sương rét chẳng lạnh,nước trời chẳng thấm, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, khôngmột vật, không thể nắm bắt, lồ lộ trước mắt, rõ ràngsoi khắp.Ngài nói tánh chân không của chúng ta sẵn đủhiện tiền, không có gì phá hoại nó được, do đó đứcPhật thường lấy chất kim cang cứng chắc để dụ cho nó.Vì kim cang là chất kim loại có thể phá vỡ các kim loạikhác, mà các kim loại khác không thể phá hoại được chấtkim cang. Như tôi và quí vị đều có cái hay thấy, vậy cóai cắt đứt hay nhuộm đen, dùi thủng cái hay thấycủa tôi và của quí vị được không ? Nếupháhoại không được mới là cái thật của mình.

Vídụ có một buổi chiều chúng ta thấy bầu trời phủ mâyđen chuyển mưa. Thấy như vậy thì ngang đó không có lỗigì cả. Nếu thêm ý nghĩ có mây đen chắc chắn trời sẽmưa, nhưng một lát sau gió thổi, mây tan dần và trời khôngmưa. Hoặc nghĩ rằng tuy có mây đen nhưng có lẽ trời khôngmưa vì một lát gió thổi mây tan hết. Tuy nhiên trời vẫnđổ mưa ầm ầm. Như vậy khi xúc cảnh chúng ta không thêmmột ý nghĩ phân biệt phán đoán, cảnh ở trước mắt thếnào thấy như thế ấy, không thêm bớt gì cả thì tâm an nhiênsáng suốt. Nếu thấy cảnh mà chúng ta đem những kinh nghiệmcủa quá khứ để so sánh với cái thấy hiện tại, rồi quyếtđịnh đúng sai; thì đã rơi vào cái đối đãi hai bên. Hễcòn đối đãi là còn sanh diệt, còn sanh diệt là còn khổđau. Chúng ta thấy mây đen thì biết mây đen, thấy mây trắngthì biết mây trắng, gió thổi qua thì biết gió thổi qua v.v...Như vậy đủ rồi, đừng kèm theo cái kinh nghiệm quá khứđúng sai chi cả. Qua đoạn nàychúng ta thấy ngài Chân Nguyên nói hết tình hết lýcho chúng ta hiểu, nhận ra cái sẵn có của mình không gì pháhoại được, nó hiện tiền trước mắt, rõ ràng soi khắp,thế mà có mấy ai chịu nhận.

Ðâylà Pháp thân thanh tịnh chân không, không hình không tướng,trònđồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ.Vì Pháp thân không hình tướng nên nó trùm khắp hiện tiền,không thiếu vắng lúc nào. Song hư không rộng lớn, bao trùmcả trời đất, xuyên suốt núi sông, tột cả xưa nay, vữngmãi như vậy. Nên biết, núi sông, quả đất trọn là hoa đốmtrong hư không, sắc thân bốn đại là âm dương huyễn hóa,"phàm cái gì có tướng đều là hư vọng".Ở trước nóisắc thân tứ đại như hòn bọt ở trong biển, Pháp thân nhưmặt biển. Ðoạn này nói pháp thân trùm khắp không sanh khôngdiệt, núi sông và cả quả địa cầu là cái tướng sanh diệthư ảo như hoa đốm trong hư không. Pháp thân bất sanh bấtdiệt vững chắc không có gì phá hoại được, thân tứ đạido âm dương huyễn hóa hợp thành, song chúng ta chỉ nhận cáitạm bợ giả dối mà quên cái chân thật hiện tiền. Kếđến Ngài dẫn một câu trong kinh Kim Cang: "Phàm cái gì cótướng đều là hư vọng". Có tướng như quả đất tồn tạihàng tỉ năm, nhưng một ngày nào đó nó cũng bể nát. Quảđất sống hàng tỉ năm mà sánh với Pháp thân tuổi thọnó còn nhỏ, huống là sắc thân của chúng ta. Pháp thân vínhư hòn ngọc, sắc thân ví như hạt cát đen thui nhỏ xíu,như vậy đối với hai cái đó người có trí chọn cái nào? Dĩ nhiên là chọn hòn ngọc. Còn chúng ta thì chọn hạt cátnhỏ xíu mà quên hòn ngọc, cho nên đức Phật nói chúng sanhmê muội đáng thương. Nếuchúng ta sáng suốt thì sẽ nhận ra nơi mình có hòn ngọc vôgiá không có gì sánh bằng.

Chânkhông thì không tướng, muôn kiếpcòn mãi, đó là thân vô vi, là thân chân Phật. Bởi thậttướng của chân Phật vốn là chân không diệu hữu, thậttướng của chân không là thật tướng vô tướng. Không tướngchẳng tướng, đó gọi là thật tướng. Thật tướng củapháp thân ấy, trong lặng tròn sáng, rỗng rang rộng lớn, baogồm một thể, tròn đồng thái hư trùm cả mười phươngđủ khắp muôn vật.

Chânkhông thì không tướng, muôn kiếp còn mãi, đó là thân vôvi, là thân chân Phật. Bởi thật tướng của chân Phật vốnlà chân không diệu hữu, thật tướng của chân không là thậttướng vô tướng, không tướng chẳngtướng, đó gọi là thật tướng.Ðoạn này có những từ ngữ hơi khó hiểu; không tướng,chẳng tướng, đó gọi là thật tướng.Không tướng tứclà không có tướng, chẳng tướng là sao? Chẳng tướng tứclà có tướng. Ðã là không tướng lại còn có tướng làmchi ? Bởi vì ở đây dùng từ ngữ chân không diệu hữu, chânkhông là không tướng, diệu hữu thì có tướng. Chúng ta sốngđược với Pháp thân, từ Pháp thân sẽ lưu xuất ra tấtcả pháp thế gian đó là diệu hữu. Hữu mà diệu thì hữuđó nằm trong phần tỉnh giác, hữu mà không diệu là hữucủa thế gian sanh diệt. Do đó nói chân không diệu hữu làkhi ta ngộ được lý chân không rồi thì mọi hành động tạotác của ta đều phù hợp với tánh giác nên gọi là diệuhữu. Như vậy người tu ngộ được chân không rồi chẳngphải là không ngơ, mà vận dụng diệu hữu làm lợi ích chochúng sanh, chuyển hóa chúng sanh mê lầm trở thành giác ngộsáng suốt, tất cả việc làm đó đều là diệu hữu, trởvề với chân không thì mọi hành động biến thành diệu hữu,đi trong tất cả loại, làm tất cả việc để lợi ích chomọi người đó là diệu dụng của chân không. Cho nên đâynói "thật tướng của chân Phật vốn là chân không diệuhữu". Thật tướng của Phápthân ấy, trong lặng tròn sáng, rỗng rang rộng lớn, bao gồmmột thể, tròn đồng thái hư trùm cả mười phương, đủkhắp muôn vật.Ðoạn này Ngài nói thêm để giải thíchvề chân không diệu hữu.

Songtừ thuở ban sơ chưa có trời đất, chưa có cha mẹ, mộtthể chân không, thái hư bình đẳng, lặng lẽ sáng rỡ nhưvậy, tự tại viên dung. Trạng thái đó, không hình không tướng,không đầu không đuôi, không trong không ngoài, không nhỏ khônglớn, không một không khác, không sáng không tối, không thôkhông tế, chẳng phải không chẳng phải có, chẳng phải mởchẳng phải đóng, chẳng phải tụ chẳng phải tan, chẳngphải thành chẳng phải hoại, chẳng phải động chẳng phảitịnh, chẳng phải lại chẳng phải qua, chẳng phải sâu chẳngphải cạn, chẳng phải ngu chẳng phải trí, chẳng phải tráichẳng phải thuận, chẳng phải thông chẳng phải bít, chẳngphải giàu chẳng phải nghèo, chẳng phải mới chẳng phảicũ, chẳng phải tốt chẳng phải xấu, chẳng phải cứng chẳngphải mềm, không sanh không diệt, không qua không lại, khôngđi không đứng, không ngồi không nằm, không già không trẻ,không cao không thấp, không tên không hiệu, không mặt khôngmày, không nam không nữ, không sắc không thanh, không gan khôngphổi, không thịt không máu, không xương không tủy, khôngtóc không da, không xanh không vàng, không đen không trắng, khôngxuân không hạ,không thu khôngđông, không thời không tiết, không số không kiếp, khôngđầu không cuối, không trước không sau, không trên không dưới,không giữa không bên, không trong không ngoài, không kia khôngđây, không sanh không tử, không động không lay, không dàikhông ngắn, không vuông khôngtròn,khôngtội không phước, vôlậu vô vi, không tâm không tánh, không lẻ không đôi, khôngđược không mất, bởi lược bày tướng đối đãi mà tạmnói, đâu thể nói tột hết ý nghĩa kia.

Ðoạnnày Ngài nêu lên nhiều cái chẳng phải rất là dài, nhưngtóm lại chỉ có một ý chính là pháp thân không tướng mạonên không có tất cả những tướng đối đãi như ở trên.Tất cả những cái đối đãi như giàu nghèo, ngu trí v.v...không dính dáng gì đến pháp thân, nếu chúng ta còn dính mắcnhững thứ đó mà đòi chứng Pháp thân thì không bao giờđược, khi nào dứt hẳn tâm đối đãi thì pháp thân hiệntiền. Nhưng chúng ta thì quen sống theo cái hai bên, giả sửnhìn người nào đó thì chúng ta liền phê phán: người đóđẹp xấu, lùn cao, đen trắng v.v... thêm nữa là có duyênvới mình hay không có duyên, bận theo những cái đối đãi,cho nên chúng ta quên mất cái thật của mình. Nếu từ sángtới chiều chúng ta thấy người thấy vật mà không khởitâm phân biệt đối đãi thì tâm chúng ta không dao động vìhơn thua yêu ghét. Như vậy ở ngay cuộc đời này người tỉnhcũng sinh hoạt bình thường, sinh hoạt trong tỉnh táo sángsuốt thì được an vui, còn người mê cũng sinh hoạt, nhưngsinh hoạt trong mê tối, nên gặp việc bất như ý thì sanhbuồn phiền đau khổ. Như thấy tiền của, họ cho rằng tiềncủa là quí, do đó lòng tham dấy khởi thúc dục làm nhiều,nhưng làm bị thất bại hay gặp chướng ngại thì bị đaukhổ. Xét cho cùng cái gốc của khổ đau là do nhìn sự vậttheo chiều đối đãi sanh diệt, theo đối đãi là theo cáisi mê, do si mê nên lòng tham dấy khởi, tham không được thìnổi sân. Si tham sân luôn luôn xoay vần mãi trong tâm, khiếncho chúng ta sanh tử luân hồi không dứt.

Lìatất cả tướng rõ một chẳng một, gọilà"một vật" lại chẳng trúng lý. Rõ vô trụ chẳng phải một,nhận pháp môn chẳng hai. Pháp thân chân thật vốn không hìnhtướng, tròn sáng rộng lớn, trong lặng như thái hư, rộngthì pháp giới chẳng thể chứa, hẹp thì một mảy lông khôngchỗ lập. Nếu y cứ nơi thật tế thì vốn khôngcó sắc thân, người ngộ được thì hư không chẳng sanh hoa.Người rõ suốt thì hoàn toàn không một điểm che mờ. Vôvị chân nhân rành rành đối trước mắt, chớ chấp vào sắcthân, thân như điện chớp; chớ tham đắm phước báo, phướctợ mây nổi, sanh tử toàn không, đâu có gì đến đi, giảgọi là chúng sanh thôi. Bỏ sự nghiệp đi xuất gia, ẩn náunơi núi rừng giác ngộ gọi là tu hành. Tự giác, giác tha,và giác hạnh được viên mãn gọi là Phật.

Phápthân thì lìa tất cả tướng, rõ một chẳng phải một, nênnói một vật cũng chẳng trúng, hay là cái lý một vật cũngchẳng trúng. Rõ vô trụ chẳngphảimột thì nhận ra pháp môn không hai. Như vậy là biết phápmôn không hai mà chẳng phải một. Pháp thân chân thật thìkhông hình tướng, trong lặng sáng suốt rộng lớn như tháihư, rộng thì pháp giới không thể dung chứa, hẹp thì mộtmảy lông không chỗ dựng lập. Chỗ thật tế là chỗ chânthật tức là chân lý. Nếu căn cứ vào chỗ chân thật mànói thì sắc thân vốn không thật, mà người ngộ sắc thânkhông thật thì hư không chẳng sanh ra hoa đốm. Ví dụ trưanắng chúng ta nhìn ra hư không một hồi lâu chúng ta lấy taydụi mắt, thấy ở ngoài trời có những tia chớp chớp. Nhữngtia chớp chớp đó gọi là hoa đốm. Những hoa đốm đó dochúng ta dụi mắt mà thấy chớ nó không thực có trong hưkhông. Pháp thân dụ cho hư không, hoa đốm dụ cho sắc thântứ đại. Chúng ta mê thấy có thân thật dụ cho dụi mắtthấy hư không có hoa đốm. Nếu chúng ta tỉnh thấy đúngchân lý thì sắc thân vốn không thật, chỉ có Pháp thân thênhthang trùm khắp là thật nên nói: y cứ nơi thật tế thìvốn không có sắc thân, người ngộ thì hư không chẳng sanhhoa.Người nào rõ được lý này thì không có gì che mờđược họ. "Vô vị chân nhân" là con người chân thật khôngcó ngôi vị chỉ cho Phật tánh, nó hiện rành rành trướcmắt chúng ta, không ở đâu xa hết, chúng ta đừng mắc kẹtvào sắc thân, vì sắc thân chợt có chợt không, như lằnđiện chớp xẹt qua rồi mất, không bền không thật. Ngàinhắc chúng ta tu không nên quá tham đắm phước báo, vì phướcbáu như mây nổi. Nhưng bây giờ đa số Phật tử ham tu phướchơn, có người quan niệm rằng rán làm việc phước thiện,đời này sung sướng, đời sau sung sướng hơn. Với cái nhìncủa Ngài thì phước báo như mây nổi, sanh tử không thậtnên nói sanh tử toàn không, đâu có gì đến đi, danh từ chúngsanh cũng giả lập để gọi vậy thôi. Ngài lại nhắc thêmcho người xuất gia: Bỏ sự nghiệp đi xuất gia, ẩn náunơi núi rừng, giác ngộ gọi là tu hành. Tự giác, giác tha,và giác hạnh được viên mãn gọi là Phật.Người xuấtgia phải tu cho giác ngộ mới xứng đáng gọi là tu hành, chúngta tu lơ mơ thì chưa xứng đáng.

Lạinói:thân ta hiện nay đây, là do bốn đại hòa hợp, dụ như bốncon rắn độc đồng nhốt chung một cái rương; hai con rắnđất và nước tánh nó nặng chìm xuống, hai con rắn gió vàlửa thì tánh nhẹ bay lên, đến lúc tan hoại thì mỗi thứtrở về chỗ của nó. Nghĩa là tóc, lông, răng, móng, da thịt,gân xương, tủy não, cấu bẩn... đều trở về đất; nướcmắt nước mũi, máu mủ, mồ hôi, nước miếng đàm dãi, tinhkhí, đại tiện, tiểu tiện... đều trở về nước; hơi ấmtrở về lửa; động chuyển trở về gió, bốn đại mỗithứ rã tan, thì thân huyễn hiện nay sẽ ở chỗ nào? Rõbiết sắc thân bốn đại, năm ấm nhóm họp rỗng mà nó hiệncó ra; như đá nháng, điện xẹt, khởi diệt chẳng lìa ngayđây mà trở về không.Sóng to nước lặng, vốn tự như, đâu cóđến đi. Sắc thân ngoại vật không thật, như mộng huyễn,không hoa; trong cõi chân tịnh thì pháp thân như vậy, lặngsáng chiếu khắp, thường trụ ở trước mắt.

Ngàinói thân tứ đại của chúng ta giống như bốn con rắn độcnhốt chung ở trong rương. Tôi nói nhốt chung trong cái lu chodễ hiểu, tạm đặt tên cho nó là rắn hổ lửa, rắn nước,rắn hổ mây và rắn hổ đất. Bốn con rắn này ở chung nhưngkhông hợp nhau. Muốn nó hòa hợp, con này không cắn con kia,chúng ta phải tìm cách can ngăn, luôn luôn cung cấp thức ănthức uống đầy đủ để nuôi nó sống, thế mà nó cứ cựlộn với nhau hoài. Chúng ta thì rán tìm đủ cách để hòahợp chúng, song bản chất bốn con rắn nghịch nhau, nên làmcho chúng ta rất gian nan khổ sở. Giả sử chúng ta là ngườibàng quan nhìn thấy người hàng xóm nhốt bốn con rắn trongmột cái lu nuôi nấng tử tế. Bỗng một hôm cái lu bể bốncon rắn chạy mỗi con mỗi nơi. Người nuôi rắn thấy tiếcbèn kiếm bốn con rắn khác đem về nuôi nữa, chúng ta cótức cười không ? Cũng vậy sắc thân tứ đại đất nướcgió lửa hợp thành, chúng ta lo nuôi nấng kỹ lưỡng, ngàyba bữa, cung cấp món ngon vật lạ mà nó ưa thích. Khéo léocách mấy chúng ta cũng không thể làm vừa lòng cả bốn. Giảsử khi thấy trong người nóng, tìm đồ mát ăn vô, nóng hạxuống, nhưng thủy đại tăng lên. Chúng ta vừa lo tìm bốnđại bên ngoài để bồi bổ cho bốn đại bên trong, vừalo cung cấp vừa lo điều hòa từ sáng tới chiều, từ ngàynày sang năm nọ, suốt đời như thế thật là khổ nhọc.Như chúng ta ở trong chùa, khuya thức dậy lo chuẩn bị thứcăn cho buổi sáng; công tác ít tiếng đồng hồ lại lo chuẩnbị ăn trưa; ngồi Thiền vài tiếng lại lo thức uống chobuổi chiều. Lo cung cấp thức ăn thức uống đầy đủ màchưa yên, bốn đại không điều hòa sanh ra bệnh hoạn đủthứ. Bệnh thì phải lo tìm thầy tìm thuốc để điều hòa,cứ lo bồi bổ, điều hòa gìn giữ, nhưng nó đâu có tồntại lâu dài, một ngày nào đó nó cũng tan rã. Giống nhưcái lu bể bốn con rắn chạy mỗi con mỗi nơi. Ðó là hìnhảnh vô thường Phật nêu lên trong kinh Niết Bàn. Cuộc sốngcủa chúng ta giống như "dã tràng xe cát biển Ðông, vô tìnhlượn sóng cướp công nhọc nhằn". Cả cuộc đời làm mộtviệc không có kết quả mà cứ làm hoài ! Ngài nói sắc thânnhư mộng như huyễn như hoa đốm trong hư không, thế mà chúngta cho là quí và cả đời lo cho nó không biết chán, lo hếtđời này lo sang đời khác, cứ chạy đuổi theo nó, rồi khổkiếp này sang kiếp nọ. Nói bốn cái khổ của sanh già bệnhchết, chỉ xét qua cái khổ về thân bệnh cũng đủ chán chườngsợ hãi. Thử hỏi ai có thân mà không có bệnh, mà bệnh làgây chướng ngại cho cuộc sống không phải ít. Nhức đầu,đau bụng, ung thư, đau gan, đau phổi... bệnh nào dù ít dùnhiều đều gây chướng ngại. Những chứng bệnh của thânđều là những hiện tượng nghịch nhau của bốn đại; nónghịch nhau là chúng ta bất an, bất an thì phải tìm cách điềuhòa cho nó được bình an, nhưng bình an tạm thời chớ khôngphải vĩnh viễn. Ta có cố gắng cách mấy cuối cùng bốnđại cũng rã tan. Do đó người tu không nên làm công việccủa người nuôi rắn, mà phải nhận ra pháp thân lặng sángchiếu khắp, thường trụ ở trước mắt, được như thếchúng ta mới thảnh thơi an nhàn. Còn lo bắt bốn con rắn nuôihoài là còn đau khổ, rất đáng thương.

Vốntừ vô vi đến,
Lạitừ vô vi đi.
Nayngộ thân vô vi,
Thườngtrụ chỗ vô vi.
Âm:
Bổntùng vô vi lai,
Hoàntùng vô vi khứ.
Kimngộ vô vi thân,
Thườngtrụ vô vi xứ.
Vốntừ vô vi đến, lại từ vô vi đi.Ở trước đã có câu hỏi: Thân này từ đâu đến, chếtrồi đi về đâu ? Ðáp: Thân này từ vô vi đến, chết từvô vi đi. Ở đây Ngài lặp lại câu đáp trong bài kệ: Vốntừ vô vi đến, lại từ vô vi đi.Vô vi là chỉ cho phápthân bất sanh bất diệt. Như vậy hỏi thân này từ đâu đến? Ðáp: từ chỗ không sanh diệt đến. Chết trở về đâu,trở về chỗ không sanh diệt. Trả lời như vậy chúng ta đừnglầm rồi bị kẹt. Trở về vô vi là khi nào chúng ta khôngcòn tạo nghiệp. Nếu còn tạo nghiệp thì vẫn phải đi trongsanh tử luân hồi. Nay ngộ thân vô vi, thường trụ chỗvô vi.Nghĩa là ngộ cái lý không sanh diệt thì thườngtrụ ở chỗ không sanh diệt tức là hằng sống với phápthân.
Cóvật trước trời đất,
Khônghình vốn lặng yên.
Haylàm chủ muôn vật,
Chẳngtheo bốn mùa dời.
Âm:
Hữuvật tiên thiên địa,
Vôhình bổn tịch liêu.
Năngvi vạn vật chủ,
Bấttrục tứ thời diêu.

PhóÐại Sĩ
Bàikệ này của ngài Phó Ðại Sĩ chớ không phải của ngài ChânNguyên.Cóvật trước trời đất, không hình vốn lặng yên.Khi trời đất chưa sanh là đã có pháp thân. Pháp thân khônghình tướng, vốn lặng lẽ yên tịnh. Hay làm chủ muônvật, chẳng theo bốn mùa dời.Nghĩa là Pháp thân (vô vi)của chúng ta nó có trước trời đất, nó không tướngmạo mà thường yên lặng, nó làm chủ muôn vậtvà không bị thời tiết bốn mùa chi phối.
Cóhình, giả chóng mất,
Khôngtướng, thật lâu bền.
Trờiđất mặc tạo hóa,
Phápthân thường trụ luôn.
Âm:
Hữuhình giả tốc vong,
Vôtướng thật cửu trường.
Cànkhôn nhậm tạo hóa,
Phápthân nguyên trụ thường.
Cóhình, giả chóng mất, không tướng, thật lâu bền.Cái gì có hình tướng thì hư dối, vì hư dối nên không tồntại lâu dài, cái gì không có tướng mạo thì tồn tại bấtdiệt. Vậy chúng ta kiểm lại trong thân chúng ta xem cái nàocó hình tướng, cái nào không hình tướng. Sắc thân củachúng ta do bốn đại duyên hợp có hình tướng, cho nên nóhư dối chóng hoại. Nhưng nơi thân chúng ta có cái hay thấyhay nghe, cái đó không có hình tướng, cho nên không có gìphá hoại được, đó là Pháp thân chân thật của mỗi người.Trờiđất mặc tạo hóa, Pháp thân thường trụ luôn.Ở trongkhoảng trời đất này mặc cho tạo hóa xoay vần,nhưng Pháp thân thì thường trụ không mất.Pháp thân tức là cái hay thấy hay nghe của mỗi người.
Trướctrời đất, mẹ cha chưa sanh,
Tịchquang tròn lặng ấy nguồn linh.
Rộnglớn vô vi trùm pháp giới,
Códuyên đáng độ ứng theo hình.
Âm:
Thiênđịa phụ mẫu vị sanh tiền,
Tịchquang viên trạm thị linh nguyên.
Quảngđại vô vi chu pháp giới,
Ứngvật tùy hình độ hữu duyên.
Bàinày diễn tả Pháp thân thường trụ. Trước trời đất,mẹ cha chưa sanh, tịch quang tròn lặng ấy nguồn linh.Phápthân có trước khi có trời đất, trước khi cha mẹ sanh, Phápthân lặng lẽ sáng suốt nên gọi là nguồn linh. Rộng lớnvô vi trùm pháp giới, có duyên đáng độ ứng theo hình.Pháp thân không tướng mạo nhưng rộng lớn trùm cả phápgiới, tùy theo chúng sanh nào có duyên thì ứng thân hóa độ,tùy theo loại, theo hình tướng mà hiện ra. Tóm lại, Phápthân chưa từng sanh diệt nên nó có trước trời đất, trướckhi cha mẹ sanh thân này, nó lặng lẽ trong sáng trùm khắptất cả, và tùy duyên ứng hiện thân để hóa độ chúngsanh.
Sángsiêu nhựt nguyệt vững như như,
Soisuốt càn khôn rực thái hư.
Phậtvới chúng sanh đều một tánh,
Trònđồng không thiếu cũng không dư.
Âm:
Minhsiêu nhựt nguyệt trấn như như,
Chiếutriệt càn khôn thước thái hư.
Phậtdữ chúng sanh giai nhất tánh,
Viênđồng vô khiếm diệc vô dư.
Sángsiêu nhật nguyệt vững như như, soi suốt càn khôn rực tháihư.Pháp thân sáng suốthơn mặt trời mặt trăng, nó an trụ không có gì làm cho nódao động, nên nói vững như như. Mặt trời mặt trăng cònbị mây che khuất, còn pháp thân thì sáng soi cả càn khônvũ trụ không có chỗ nào thiếu vắng. Phật với chúngsanh đều một tánh, tròn đồng không thiếu cũng không dư.Phật và chúng sanh đồng một tánh sáng suốt, không thiếukhông dư. Như một trăm ngọn đèn đồng một tánh sáng, ánhsáng giống nhau nhưng hình tướng của ngọn đèn khác nhau.Cũng vậy, Phật và chúng sanh tướng mạo khác nhau, nhưng tánhgiác thì đồng nhau.
Sángngời một kẻ chủ nhân ông,
Lặngyên chẳng động ở Linh cung.
Trongđây nếu được không ngăn ngại,
Bảnthể thiên nhiên tự rỗng không.
Âm:
Hoànghoàng nhất cá chủ nhân ông,
Tịchnhiên bất động tại Linh cung.
Ðãnđắc thử trung vô quái ngại,
Thiênnhiên bản thể tự hư không.
Sángngời một kẻ chủ nhân ông, lặng yên chẳng động ở Linhcung.Nghĩa là chúng tađều có tánh sáng suốt rạng ngời, tánh sáng suốt rạngngời đó là chủ nhân ông của chúng ta. Cho nên Thiền sưSư Nhan suốt ngày ngồi trên tảng đá thỉnh thoảng tự gọi:"Ông chủ !". Lại ứng thinh: "Dạ!". Bèn bảo: "Tỉnh tỉnh,chớ bị người lừa gạt !", để nhắc nhở mình đừng quênông chủ sáng suốt của mình. Ông chủ đó sáng suốt, màlặng yên ở Linh cung. Linh là sáng suốt, tánh giác sáng suốtlặng lẽ nên nói là Linh cung chớ không có cung nào khác cả.Trongđây nếu được không ngăn ngại, bản thể thiên nhiên tựrỗng không.Nếu ở trong chỗ chân thật không ngăn ngạithì bản thể tự rỗng không, rỗng không mà sáng suốt chớkhông phải không ngơ. Những bài trênnóivềPháp thân,kế đến Ngài phối hợp tinh thần Tịnh độ.
Dèà tự tánh vốn như như,
Rỗnglặng sáng tròn rực thái hư.
Chamẹ chưa sanh, mày mặt thật,
Trởvề đâu chẳng gặp y ư ?
Âm:
Dèà tự tánh bổn như như,
Khôngtịch viên quang thước thái hư.
Phụmẫu vị sanh chân diện mục,
ÐôngTây qui khứ tất phùng cừ.
Dèà tự tánh vốn như như, rỗng lặng sáng tròn rực tháihư.Tự tánh Di Ðà làchỉ cho tánh giác của chính mình, tự tánh ấy tuổi thọvô lượng, vì nó vốn như như, ánh sáng vô lượng vì nóvốn tròn sáng. Hơn nữa tự tánh Di Ðà rỗng rang lặng lẽmà sáng rực cả bầu trời. Cha mẹ chưa sanh, mày mặt thật,trở về đâu chẳng gặp y ư ?Mày mặt thật là chỉ tựtánh, khi cha mẹ chưa sanh đã có mày mặt thật rồi. Khi trởvề tức là khi chúng ta quay lại với chính mình thì gặp đượcmày mặt thật chớ có gì lạ đâu. Bản tánh sáng suốt, Phápthân, tự tánh Di Ðà, chủ nhân ông v.v... bao nhiêu tên gọicũng đều chỉ cái ấy. Nếu chúng ta nhận ra tánh giác thìmọi điều mong muốn đều được viên mãnnhư ý.
Quangminh lặng chiếu khắp hà sa,
PhàmThánh đồng về chung một nhà.
Pháptánh viên dung trùm sát hải,
Lặngtrong thường trụ tát-bà-ha.
Âm:
Quangminh tịch chiếu biến hà sa,
PhàmThánh đồng quy cộng nhất gia.
Pháptánh viên dung chu sát hải,
Trạmnhiên thường trụ tát-bà-ha.
Bàikệ này nguyên bản chữ hán. Hai câu Quang minh lặng chiếukhắp hà sa, phàm Thánh đồng về chung một nhàlà hai câuđầu của bài kệ tám câu của Tú Tài Trương Chuyết trìnhkiến giải. Ở đây ngài Chân Nguyên mượn hai câu đầu củaTú Tài Trương Chuyết, rồi Ngài thêm hai câu sau. Ngài dẫncái thấy của người xưa cộng với cái thấy của mình đểdiễn tả Pháp thân bất diệt. Ngài nói Pháp thân sáng suốtlặng lẽ chiếu soi khắp cả thế gian, ai cũng có Pháp thânnên nói phàm Thánh đồng chung một nhà, pháp tánh viên dungtrùm sát hải, lặng trong thường trụ tát-bà-ha.Pháp tánhchỉ cho Pháp thân của mọi người, nó trùm khắp cõi nướcnhiều như biển cả, nó lặng lẽ trong sáng mà thường trụviên mãn. Ý Ngài nói trong bài kệ này là tất cả chúng taai cũng có sẵn pháp tánh, pháp tánh ấy sáng suốt trùm khắpnên nói là chung một nhà. Nếu nhận được nó thì mọi điềumong muốn được như ý viên mãn.
Mộtcái xưa nay, một cái không,
Trongkhông ẩn hiện thể lại đồng.
Khôngđầu không cuối không bờ mé,
Thườnglặng sáng luôn thường biến thông.
Âm:
Nhấtcá tùng lai nhất cá không,
Khôngtrung ẩn hiện thể hoàn đồng.
Vôđầu vô vĩ vô biên tế,
Thườngtịch thường quang thường biến thông.
Mộtcái xưa nay, một cái không, trong không ẩn hiện thể lạiđồng.Nghĩa là cái màtừ xưa nhẫn đến ngày nay nó không có hình tướng, có khiẩn có khi hiện mà bản thể giống nhau. Không đầu khôngcuối không bờ mé, thường lặng sáng luôn thường biến thông.Trải qua ba thời quá khứ hiện tại vị lai nó không có giớihạn, nó thường trong lặng thông suốt không ngăn ngại. Ðólà diệu dụng của Pháp thân.
Trongánh tịch quang viên mãn giác,
Trênđảnh Tỳ-lô mặc tung hoành.
Hiệntại Như Lai luôn đối diện,
Tùycơ cảm đến cứu quần sanh.
Âm:
Thườngtịch quang trung viên mãn giác,
Tỳ-lôđảnh thượng nhậm tung hoành.
Ðươngxứ Như Lai hằng đối diện,
Tùycơ phó cảm cứu quần sanh.
Trongánh tịch quang viên mãn giác, trên đảnh Tỳ-lô mặc tung hoành.Ánh tịch quang là ánh sáng trong trẻo sáng suốt chỉ cho tánhgiác viên mãn của chúng ta, nên gọi là viên mãn giác. Tỳ-lôlà Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân, nếu sống được vớiPháp thân thì ngang dọc tự do không có gì ngăn ngại, tứclà sống với ông Phật của chính mình thì được tự do tựtại. Hiện tại Như Lai luôn đối diện, tùy cơ cảm đếncứu quần sanh.Như Lai luôn đối diện tức là Phật hiệnnơi tai, nơi mắt... Ở tất cả các cơ quan đều có Phậtmà chúng ta không biết. Phật hiện tiền không lúc nào thiếuvắng, đầy đủ diệu dụng tùy theo căn cơ, tùy theo cảmứng mà cứu độ chúng sanh.
Tịnhđộ rành rành ngay trước mắt,
Chẳngnhọc khảy tay đến Tây thiên.
Phápthân trang trọng siêu ba cõi,
Hóahiện Di Ðà ngồi chín sen.
Âm:
Tịnhđộ phân minh tại mục tiền,
Bấtlao đàn chỉ đáo Tây thiên.
Phápthân nghiễm hỷ siêu tam giới,
Hóahiện Di Ðà tọa cửu liên.
Tịnhđộ rành rành ngay trước mắt, chẳng nhọc khảy tay đếnTây thiên.Chúng ta tu cứ ngỡ rằng Tịnh độ ở cõi Cực-lạcphương Tây và mong cầu về bên ấy. Ở đây Ngài nói Tịnhđộ ở ngay trước mắt. Thế nào là Tịnh độ ở trướcmắt ? Tại chúng ta đang sống trong phiền não nên nhìn cáigì cũng thấy phiền não mà không thấy Tịnh độ. Ví dụngày nào trời nắng nóng nực, chúng ta than: trời nóng quá,phải đi tưới cây kiểng, phải đổ mồ hôi... khổ cựcquá ! Trời đổ mưa chúng ta than: trời mưa đường sá lầylội, đi lại khó khăn, đi chơi không được... Như vậy nắngkhông ưa mà mưa cũng không chịu, chúng ta chỉ thấy phiềnnão chớ đâu có thấy Tịnh độ ! Lại thêm hôm nay nhìn ravườn thấy cây kia khô cành, cây nọ bị sâu ăn, phải losăn sóc v.v... khổ quá ! Nhiều lúc nhìn cảnh vật tôi liêntưởng đến những chuyện như trên cũng thấy tức cười.Thiên nhiên rất là vô tư, đâu có vui buồn, sướng khổ,thời tiết cũng vô tư mưa nắng, cây cối đủ duyên thì tươitốt, thiếu duyên thì sâu bệnh. Tại chúng ta lúc nào cũngmuốn tất cả cảnh vật phải theo ý của mình. Do tâm quátham cầu như ý nên lúc đi chơi thì muốn trời nắng ráo,lúc tưới cây thì muốn trời mưa to để khỏi tưới cho khỏe.Chúng ta muốn nhiều quá, muốn không được thì sanh phiềnnão rồi trách trời trách đất. Trời đất chẳng có tâmtranh giành hơn thua, thế mà chúng ta còn không bằng lòng, huốnglà những người phàm sống chung quanh mình, họ có lúc khỏelúc mệt, khi vui khi buồn, làm sao vừa ý mình được ! Lúcmình vui thấy người khác buồn là bực bội, lúc mình buồnthấy người khác cười cũng tức. Ðối với thiên nhiên chúngta không vừa ý, đối với người chung quanh chúng ta khôngbằng lòng, làm sao ta thấy Tịnh độ ở trước mắt. Nếuchúng ta chịu khó tu, gỡ những phiền não bỏ đi thì nhìncái gì cũng đẹp, trời mưa thì có vẻ đẹp của trời mưa,trời nắng có vẻ đẹp của trời nắng. Người vui có vẻđẹp của người vui, người buồn có vẻ đẹp của ngườibuồn, thiên nhiên có quyền mưa nắng, người đời có quyềnbuồn vui. Nếu mình ôm phiền não nhìn trời đất thiên hạthì thấy cái gì cũng phiền não cả. Ở chung năm bảy chụcngười, đi ra đi vào đụng vớinhau,cả ngày buồn giận, tu như vậy bao giờ hết phiền não?Tu không khó, khó là tại chúng ta mang cặp kính màu phiềnnão, nếu chịu gỡ cặp kính phiền não để xuống thì chúngta thấy Tịnh độ ở trước mắt. Ví dụ chúng ta muốn yêntĩnh nên tìm chỗ vắng ngồi, chợt có người đến vỗ vaihỏi chuyện. Mình đang muốn yên mà lại vỗ vai hỏi chuyệnlàm mất sự yên tĩnh, nên nổi giận. Bị vỗ vai đã khôngyên rồi, mà nổi giận lại càng bất an. Thôi thì ngườita vỗ vai hỏi chuyện, mình trả lời câu hỏi của người;từ tâm thanh tịnh lưu xuất nói năng thì đâu có lỗi. Nếugặp người hỏi chuyện tào lao, hơn thua phải quấy thì tachỉnh lại đừng theo là tốt. Khéo biết tu thì trên thếgian này mở mắt nhìn người nhìn cảnh đâu đâu cũng làTịnh độ. Nếu không biết tu cứ đeo mang phiền não thì nhìnđâu cũng thấy khổ: Thấy người vui mình có tâm sự buồncho nên bực bội là khổ. Mình đang vui thấy người khác mặtmày bí xị, mình không hài lòng cũng khổ. Như vậy ngườiở ngoài làm cho ta khổ hay chính ta nhìn người qua cặp kínhphiền não của mình mà khổ ? Hơn nữa vui buồn là chuyệncủa mỗi người, tại sao mình vui buồn cũng muốn cho ngườivui buồn theo mình? Xét kỹ ở thế gian này không ai giốngai, mặt mày không giống, cá tính không giống, người ưa cáinày kẻ thích cái kia. Ngồi ăn chung một bàn, người thíchđậu hũ, kẻ ưa rau muống luộc chấm tương... Khẩu vị khôngai giống ai. Như vậy muốn người giống mình, họ không giốngthì phiền não có vô lý không? Chúng ta phải gỡ cặp kínhphiền não thì thấy cõi Tịnh độ ở trước mắt, thấy Tịnhđộ trước mắt thì khảy móng tay là thấy cõi Tây phươngliền.Phápthân trang trọng siêu ba cõi, hóa hiện Di Ðà ngồi chín sen.Nếu thấy Phật ngồi chín phẩm tòa sen, đó là thấy Phậthóa thân. Phật pháp thân thì trùm khắp vượt qua ba cõi, khôngcó chia cấp bậc. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy việctu hành không phải đi tìm ở đâu xa, mà ngay ở trước mắt.Ngày nào không có phiền não thì người vật xung quanh mìnhđều tốt đẹp. Còn ngày nào phiền não thì người vật xungquanh mình đều xấu xa, thấy người nào cũng dễ ghét, thấyvật gì cũng không bằng lòng. Như vậy là do phiền não làmgốc, khiến cho người vật xung quanh xấu xa đen tối.
III-KỆ KIẾN TÁNH(Ðoạn3)

VI-

Ðạt-maTây đến một chữ không,
Toàny tâm địa để dụng công.

Chínnăm ngó vách không lời nói,

Mộtsớm truyền tâm Huệ Khả thông.

Âm:

Ðạt-maTây lai nhất tự vô,
Toànbằng tâm địa dụng công phu.
Cửuniên diện bích vô ngôn thuyết,
Nhấtđán truyền tâm Huệ Khả sư.
Ðạt-maTây đến một chữ không, toàn y tâm địa để dụng công.Chínnăm ngó vách không lời nói, mộtsớm truyền tâmHuệ Khả thông.Tổ Ðạt-ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa không truyền dạy mộtchữ, nên nói một chữ không, Ngài chỉ nương nơi pháp môntâm địa để chỉ dạy người dụng công tu. Trong nhà Phậtthường nói tâm địa, tâm là tâm con người, địa là đất.Tâm địa chỉ cho tâm chân thật của chúng ta giống như mặtđất, tất cả người vật trên thế gian đều nương nơiđất mà đứng vững sanh tồn. Cũng thế tất cả những điềuthấy nghe, hiểu biết cũng đều lưu xuất từtâm, tâm tạo thành tất cả cho nên nói là tâm điạ.Suốt chín năm ở chùa Thiếu Lâm Tổ ngồi ngó vách khôngnói một lời, một hôm ngài Thần Quang tìm tới cầu chỉdạy, Tổ truyền cho pháp an tâm, Ngài ngộ cho nên được đổitên là Huệ Khả, nên nói Huệ Khả thông. Thần Quang trướckhi gặp Tổ đã dụng công tu hành đáng kể, nhưng chưa ngộ.Nghe Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Ðộ sang ở tại chùa ThiếuLâm, bèn đến yết kiến. Thần Quang đã đủ lễ nghi mà Tổvẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Ngàitự nghĩ: "Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nayta chưa được một trong muôn phần của các Ngài". Hôm ấynhằm tiết Ðông nên tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứngyên ngoài tuyết chấp tayhướng về Tổ ? Ðến sáng tuyết ngập đến đầu gối màgương mặt Ngài vẫn thản nhiên. Tổ thấy thế thương tình,xoay ra hỏi:-Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc gì ?

NgàiThần Quang thưa:

-Cúi xin Tổ từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.

Tổquở:

- Diệu đạo vô thượng của chưPhật,dù nhiều kiếptinh tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn điều khó nhẫn,còn không thể được, huống là dùng một chút khó nhọc nàymà cầu được sao ?

ThầnQuang nghe dạy lén lấy con dao chặt cánh tay để trước Tổtỏ lòng thiết tha cầu đạo của mình. Tổ khen:

-Chư Phật xưa vì pháp quên thân mạng, nay ngươi chặt cánhtay để cầu pháp, tâm cầu đạo như thế cũng khá đó. Tổnhận làm đệ tử và đặt tên là Huệ Khả.

Câuchuyện Thần Quang chặt tay cầu đạo thực hư chúng ta chưakiểm chứng được. Nhưng hình ảnh đứng trong tuyết lạnhthấu xương, quên thân cầu đạo của Ngài là tấm gươngsáng cho kẻ hậu sanh như chúng ta noi theo. Ngài quên thân cầuđạo mới ngộ, do đó mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâmấn cho Ngài làm Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa. Câucuối bài kệ là muốn nhắc lại lịch sử truyền thừa Tổvị này.

VII-

Mộtđiểm đèn tâm đuốc tuệ sanh,
Truyềnnhau bốn mắt đã phân rành.
Nốihương tiếp lửa luôn sáng mãi,
Soikhắp đất trời độ hữu tình.
Âm:
Nhấtđiểm tâm đăng tuệ cự sanh,
Tươngtruyền tứ mục thái phân minh.
Liênphương tục diệm quang vô tận,
Phổchiếu càn khôn độ hữu tình.
Mộtđiểm đèn tâm đuốc tuệ sanh, truyền nhau bốn mắt đã phânrành.một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh.Nốihương tiếp lửa luôn sáng mãi, soi khắp đất trời độ hữutình.VIII-Ở trên nói Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấncho ngài Huệ Khả làm vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa, cho nênkhi được truyền tâm ấn ngài Huệ Khả suy tôn Tổ Ðạt-malà Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Sự truyền tâm đó tượngtrưng bằng ngọn đèn hay cây đuốc. Ðèn tâm, đuốc trí tuệcho nên câu đầu nói Tuy nhiên người nào ngộ cũng được thắp sáng đèn tâm,đuốc tuệ chớ không riêng gì ngài Huệ Khả. Ðèn tâm đuốctuệ được truyền bằng bốn mắt nhìn nhau. Khi xưa, ở hộiLinh Sơn Phật đưa cành hoa sen lên nhìn khắp đại chúng, nhìntới Ma-ha-ca-diếp, Ma-ha-ca-diếp nhìn Phật mỉm cười, liềnđược truyền tâm, sau này Thiền sư Chân Nguyên hỏi "Bao nămdồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào,là sao ?". Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Ngài,Ngài nhìn lại, liền cảm ngộ, được truyền tâm. Còn bâygiờ thầy trò nhìn nhau hoài sao chẳng được truyền tâm ?Lỗi đó tại đâu ? Tại cây đuốc của chúng ta chưa cháy,tại tâm nghĩ suy của chúng ta chưa dừng.Người ngộ được bản tâm rồi đem cái thấy cáingộ của mình tiếp nối chỉ dạy cho người sau, cho nên gọilà nối hương tiếp lửa. Bởi vì đạo đức ví như mùi hương,mùi hươngđạođứckhông bị gió thổi cuốn theo chiều gió. Cho nên trong kinh nóimùi hương của thế gian thì theo gió thổi đi, còn mùi hươngcủa đạo đức thì gió hướng nào cũng không ngại hết,mùi hương đức hạnh dù ngược gió mà vẫn bay khắp cảmuôn phương. Như vậy chỉ có hương đạo đức là không ngạigió, nối hương là nối mùi hương đạo đức. Tiếp lửalà mồi đèn tiếp đuốc để cho nó sáng mãi ở cõi nhângian. Vì đạo Phật lấy sự giác ngộ làm chủ yếu, và víánh sáng giác ngộ như ánh sáng của ngọn đuốc, của mặttrời mặt trăng. Cho nên thế gian này có người giác ngộthì thế gian có ánh sáng, nếu không người giác ngộ thìthế gian sẽ tối tăm. Do đó bổn phận của người tu làphải tu cho sáng đạo, rồi chỉ dạy mọi người để đèntrí tuệ luôn luôn được thắp sáng ở cõi thế gian nhiềutăm tối này. Nên nói ánh sáng trí tuệ soi khắp để độchúng hữu tình.
ChânPhật, chân kinh thảy ở tâm,
Khobáu nhà mình chớ chạy tầm.

Cóai thử hỏi đâu là Phật ?
Ngaykhi hỏi đáp tại mắt, âm (lời).
Âm:
ChânPhật chân kinh tổng tại tâm,
Tựgia bảo tạng mạc tha tầm.

Hữunhân thí vấn Phật hà tại,
Ứngđối đương thời tại nhãn âm.
ChânPhật, chân kinh thảy ở tâm, kho báu nhà mình chớ chạy tầm.Cóai thử hỏi đâu là Phật ? Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm(lời).Phật thật kinh thật đều ở trong tâm, đó là kho báu củamình đừng chạy ra ngoài để tìm kiếm. Chúng ta có thói quenhễ nói đến Phật thì nghĩ rằng Phật thờ ở chùa, nóiđến kinh thì chỉ thấy kinh là những pho sách ghi chép lờiPhật dạy để trong tủ. Nhưng Phật ngồi trên bàn, kinh đểtrong tủ có phải là chân Phật chân kinh mà ngài Chân Nguyênnói ở đây không ? Phật ngồi trên bàn là Phật tượng, nhìnPhật tượng chúng ta phải nhớ lại ông Phật thật của mình,ông Phật của mình thì giác và linh động nói năng đi lạilà Phật thật. Còn Phật tượng thì ngồi im lìm không nóinăng hoạt động, sao gọi là Phật thật được ? Kinh nằmtrong tủ thì ghi chép những lời Phật dạy, nương lời dạyấy chúng ta tu ngộ được bản tâm, mở sáng mắt tuệ. Bảntâm và mắt tuệ không phải là giấy mực chữ nghĩa. KinhViên Giác nói rằng: Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nươngtheo ngón tay để nhìn thấy mặt trăng, chớ ngón tay khôngphải là mặt trăng. Cũng thế kinh ghi lại những lời Phậtdạy để chúng ta đọc ngộ được bản tâm, nhưng nếu chúngta chỉ đọc lời Phật mà không ngộ bản tâm thì chưa phảilà chân kinh. Chân kinh chân Phật đều là tự tâm. Vì Phậtlà giác, mà giác là tâm mình giác, Phật tượng vô tri khônggiác. Tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác, mà kinh bằnggiấy mực văn tự không trigiác, nên không phải là chân kinh.ChânPhật chân kinh, kho báu gốc từ tâm mình mà ra chớ không phảiở ngoài. Như vậy muốn thấy Phật thật thấy kinh thật,thì ngay nơi tâm mình là kho báu vô tận ai ai cũng sẵn đủ.Quay lại kho báu nhà mình thì có đầy đủ tất cả chớ chạytìm ở đâu cho nhọc.Nếu hỏi đâu là Phật thì đáp: Lời hỏi mắtnhìn, ngay khi hỏi đáp là Phật. Thiền sư Huệ Hải khi đếnchỗ Mã Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ hỏi:

-Ông đi đâu ?

Sưthưa:

-Con đến cầu Phật pháp.

Tổbảo:

-Kho báu nhà mình không đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cáigì ?

Sưthưa:

-Thế nào là kho báu nhà mình ?

Tổbảo:

- Chínhkhi ngươi hỏi ta đó là kho báu của ngươi,đầy đủ tất cả, tự do sử dụng đâu nhờ tìm cầu bênngoài.

Cáithưa hỏi là kho báu, vì lời nói phát xuất từ tâm, nên mớiphát ra âm thanh, phát ra cái nhìn đều từ tâm Phật, nhưngtại sao chúng ta không chịu nhận ? Bởi vì từ thuở bé chođến lớn chúng ta có thói quen hễ mắt thấy sắc, tai nghetiếng thì phân biệt đẹp xấu hay dở. Mũi lưỡi thân ýcũng lại như vậy. Chúng ta luôn luôn chạy theo phân biệt,phân biệt rành rẽ thì gọi là người khôn. Ví dụ hôm nayPhật tử cúng dường cho chư Tăng một bữa ăn. Ăn xong Phậttử đó hỏi: Thưa Thầy thức ăn hôm nay ngonkhông ? Phải trả lời như thế nào ? Nếu nói ngon thì họvui, còn nói tôi ăn chỉ biết ăn thì họ buồn. Bởi vì họcố tình nấu cho ngon để cúng dường cho quí thầy, thế mànói ăn chỉ biết ăn thì họ buồn, nếu nói ngon thì họ rấtlà hoan hỷ. Cho nên khi ăn phải biết ngon hay dở, lại ngonnhiều ngon ít nữa. Như vậy tất cả sinh hoạt ở thế gianđều huân tập cho chúng ta thói quen phân biệt rành rẽ, màphân biệt thì đã rơi vào tìnhthức chúng sanh, chớ không phải là tâm Phật giác ngộ.Nếutâm giác ngộ thì thấy nghe hay biết rất rành rẽ mà khôngcó tình thức phân biệt xen vào, điều này nói nghethì dễ nhưng rất khó làm. Vì, môi trường gia đình xã hộiluôn luôn tạo cơ hội thuận tiện lôi cuốn chúng ta chạytheo thức tình phân biệt. Do đó, ông Phật của chính mìnhẩn khuất mất tiêu. Như vậy Phật cũng rất gần ta mà cũngrất xa ta. Nếu tỉnh Phật ở ngay lời hỏi câu đáp, ngaynơi bốn mắt nhìn..., nếu mê chạy theo tình thức phân biệthay dở, khen chê tốt xấu thì không bao giờ nhận ra kho báucủa chính mình. Chủ yếu bốn câu kệ này Ngài chỉ cho chúngta nhận ra Phật thật kinh thật ngay nơi tâm mình, đó là khobáu sẵn có của chính mỗi người. Kho báu đó không có xalạ mà ngay nơi lời hỏi câu đáp, ngay nơi mắt thấy tai nghecủa chính mình, đừng nên chạy đi đâu tìm kiếm nhọc nhằn.

IX-

Chânkinh chẳng đổi vốn như thường,
Chưatừng mở miệng hiện tỏ tường.
Nghĩtoan nắm bắt lầm qua mất,
Mộtchữ vô sanh thẳng thừa đương.
Âm:
Chânkinh bất dịch bổn như thường,
Vịtằng khai khẩu hiển đường đường.
Bấtkhả nghĩ trì sai thác quá,
Vôsanh nhất cú trực thừa đương.
Chânkinh chẳng đổi vốn như thường, chưa từng mở miệng hiệntỏ tường.Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất, một chữ vô sanh thẳngthừa đương.X-Chân kinh làchỉ cho tâm Phật xưa nay nó vốn như vậy không hề thay đổi.Nó đã có sẵn không đợi nói, không đợi đọc tụng mớicó kinh, mà kinh đã hiện đầy đủ không có ẩn giấu chútnào cả. Cho nên nói "chưa từng mở miệng hiện tỏ tường".Vừa khởi nghĩ tìm chân kinh, thì lầm quamất. Chỉ ngay tâm phẳng lặng hiện tiền hằng giác hằngtri không khởi diệt là tâm vô sanh luôn luôn bảo nhậm ngaynơi đó mà sống đừng quên, thế nhưng chúng ta quen sốngvới tâm sanh diệt, cho nên thấy cái đồng hồ liền hỏihiệu gì, sản xuất ở đâu tốt hay xấu, bền hay không bền...Thấy không nhớ mình có cái hay thấy, mà khởi lên nhiềuniệm là sanh chớ không còn vô sanh. Ví dụ có người đi từtrên chùa xuống tới cổng nội viện, bất thần có ngườikêu tên chửi, lúc đó vị ấy có tỉnh giác vô sanh đượckhông ? Có ngoại duyên chạm đến là sanh liền. Có khi sanhnhững cái tốt đẹp hiền lành, cũng có khi sanh những thứdữdằn xấu xa. Cho nên sống với cái vô sanh không phải chuyệnđơn giản dễ làm. Ngồi một mình ở một mình khả dĩ giữđược, còn khi đối duyên xúc cảnh rất khó giữ. Bởi vìgặp cảnh thì niệm sanh diệt dấy khởi khó dừng được,cho nên chủ yếu của sự tu hành là đừng để cái sanh diệtchi phối, luôn luôn sống với cái tâm vô sanh đó là cái gốccủa sự tu.
Khôngvăn không chữ đấy chân kinh,
Mộtquyển trường không quá phân minh.
Miệngnói còn xa ba ngàn dặm,
Tainghe thêm tiến chục vạn trình.
Âm:
Vôvăn vô tự thị chân kinh,
Trườngkhông nhất quyển thái phân minh.
Khẩutuyên thượng cách tam thiên lý,
Nhĩthính tăng dao thập vạn trình.
Khôngvăn không chữ đấy chân kinh, một quyển trường không quáphân minh.Miệngnói còn xa ba ngàn dặm, tai nghe thêm tiến chục vạn trình.XI-Chân kinh thìkhông có văn tự chữ nghĩa, tuy không văn tự chữ nghĩa, nhưngquyển kinh này rất là rành rẽ, trùm khắp cả hư không.Kinh này vì không văn tự chữ nghĩa, nên mở miệng nói thìxa ba ngàn dặm, nếu dùng tai nghe thì càng xa hơn đến mườivạn trình, tức là mười vạn cây số. Như vậy không dùngngôn ngữ để diễnđạt chân kinh, không dùng tai ngheđể nghe chân kinh mà chỉcó tâm vô sanh là hiển bày chân kinh rồi. Tóm lại, ý bốncâu kệ nói chân kinh vốn không ngôn ngữ không văn tự, nótrùm cả hư không. Dùng ngôn ngữ không diễn đạt được,dùng tai nghe lại càng xa hơn. Chỉ sống với tâm vô sanh làđầy đủ chân kinh.
ChânPhật chân kinh vốn một đồng,
Tịchquang tròn lặng suốt hư không.
Thậttế nhất như gồm mọi lý,
Tạmbày muôn pháp độ quần mông.
Âm:
ChânPhật chân kinh bổn nhất đồng,
Tịchquang viên trạm đẳng hư không.

Thậttế nhất như bao chúng lý,
Quyềnkhai vạn pháp độ quần mông.
ChânPhật chân kinh vốn một đồng, tịch quang tròn lặng suốthư không.Thậttế nhất như gồm mọi lý, tạm bày muôn pháp độ quần mông.

XII-
Phật thật kinhthật vốn đồng một thể, ánh sáng lặng lẽ của nó xuyênsuốt hư không. Như vậy nói chân Phật chân kinh tuy hai tênmà chỉ là một pháp thân thanh tịnh trongsáng trùm khắp cả hư không chớ không có gì lạ.Bờ mé chân thật thì nhất như không lý lẽ, nhưng bao trùmmọi lý lẽ, nên tạm bày ra muôn pháp để hóa độ ngườimê muội. Thế nên Tổ Qui Sơn nói: "Thật tế lý địa bấtthọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp".Nghĩa là chỗ chân thật thì không dính một mảy bụi, màtrong cửa vạn hạnh (cửa phương tiện) thì không xả bỏmột pháp nào. Ðể thấy rằng mọi phương tiện đều y cứnơi thể chân thật mà lập, lập phương tiện là vì kẻ mêmuội giáo hóa cho họ thức tỉnh.
Lýmầu Phật pháp không văn tự,
Cơhuyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn.
Rộngtiếp người sau thông một tuyến,
Thượngcăn mắt thấy đạo tâm còn.
Âm:
Phậtpháp diệu lý vô văn tự,
Tổđạo huyền cơ mạc ngữ ngôn.
Hoằngtiếp hậu lai thông nhất tuyến,
Thượngcăn mục kích đạo tâm tồn.
Lýmầu Phật pháp không văn tự, cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữngôn.Lý nhiệm mầu củaPhật pháp thì không dùng văn tự, cơ huyền của chư Tổ thìchẳng dùng ngôn ngữ. Nghĩa là lý nhiệm mầu của Phật phápchỉ dùng tâm ấn tâm, chớ không dùng văn tự giải thích,và cơ huyền đạo của chư Tổ thì không dùng ngôn ngữ, vìngôn ngữ là đầu mối của sự phân biệt. Thế nên các Ngàithường dùng hành động để chỉ thẳng cho người học đạonhận ra cái chân thật. Nếu có tạm mượn ngôn ngữ đểchỉ thì ngôn ngữ ấy không làm cho người học đạo mắckẹt vào phân biệt đối đãi.Sauđây là những câu chuyện không dùng ngôn ngữ của các Thiềnsư. Có người tới hỏi Thiền sư Ðả Ðịa: Thế nào làPhật ? Ngài cầm cây gậy đập xuống ba cái. Ðó là ngônngữ gì ? Ngài Lâm Tế đến hỏi Tổ Hoàng Bá: Thế nào làđại ý Phật pháp ? Ba lần hỏi ba lần bị đánh. Ðó làngôn ngữ gì ?Nhữngcơ huyền như thế không có ngôn ngữ, nhưng người hỏi khéonhận thì nhận được cái chỗ không ngôn ngữ. Không khéonhận thì khóc lóc khổ sở hoặc ra về tay không.

Rộngtiếp người sau thông một tuyến, thượng căn mắt thấy đạotâm còn.Vì rộng độ người sau nên lập bày phương tiện,người thượng căn nếu nhận được cái chân thật thì tâmđạo của họ còn mãi không bao giờ mất. Tóm lại bài kệnày ý nói, lý mầu của Phật pháp không dùng văn tự, phươngtiện chỉ bày chỗ huyền diệu của chư Tổ không dùngngữngôn, nhưng vì độ người sau cho nên tạm lập bày phươngtiện, người thượng căn nhân phương tiện đó nhận ra cáichân thật thì đạo tâm không bao giờ mất.

XIII-

Tâmtông Bát-nhã ai lãnh ngộ,
Rõràng tự tánh tức Như Lai.
Kẻkẻ viên thành đồng chứng Phật,
Ngườingười đầy đủ chẳng cầu ai.
Âm:
Bát-nhãtâm tông thùy lãnh ngộ,
Liễuminh tự tánh tức Như Lai.
Cácá viên thành đồng chứng Phật,
Nhânnhân cụ túc bất cầu ai (tha).
Tâmtông Bát-nhã ai lãnh ngộ, rõ ràng tự tánh tức Như Lai.Kẻkẻ viên thành đồngchứngPhật,người người đầy đủ chẳng cầu ai.

XIV-
Tâm tông là tông chủ đích chỉ thẳng về tâm, chỉ thẳnglý Bát-nhã tột cùng, hỏi ai lãnh ngộ chỗ không có ngườikhông có pháp. Thì rõ ràng tự tánh mình tức là Phật, tứclà Như Lai, tức là Bát-nhã.Nếu nhận được tự tánh của mình là Phật thì ai ai cũngthành Phật quả hết, và mọi người sẵn đủ tánh Phậtthì không còn cầu xin, không còn trông cậy vào người khác.Ý bốn câu kệ này nói người ngộ được tâm tông Bát-nhãthì biết rõ tự tánh mình là Phật và tất cả mọi ngườiđều sẽ thành Phật, mọi người đều sẵn đủ tánh Phậtnên không cầu xin ai cả.
Kinh,Lục trùng trùng phương tiện biển,
Cơduyên Phật Tổ lưới giáo bao.
Mộttông vô trụ tâm ấn Phật,
Muônpháp hữu vi bọt nước xao.
Âm:
Kinh,Lụctrùng trùng phương tiện hải,
PhậtTổ cơ duyên giáo võng bao.
Vôtrụ nhất tông Phật tâm ấn,
Hữuvi vạn pháp thủy phù bào.
Kinh,Lục trùng trùng phương tiện biển, cơ duyên Phật Tổ lướigiáo bao.Mộttâm vô trụ tâm ấn Phật, muôn pháphữu vi bọt nước xao.XV-Câu này phá chấp niệm muốn đọc hết Kinh hếtLục. Ngài nói, Kinh lời dạy của Phật, Lục là lời dạycủa Tổ. Kinh Lục chỉ là phương tiện, nhiều như biển cả.Còn cơ duyên của Phật Tổ giáo hóa chúng sanh là lưới giáobao trùm tất cả. Nói về Kinh Lục của Phật Tổ chúng tathấy Ðại Tạng Kinh chữ Hán trên năm ngàn quyển,nhưng chúng ta giỏi lắm đọc được vài trăm quyển là cùng.Còn Lục của chư Tổ thì Thiền tạng gom lại có một trămlẻ một quyển. Phương tiện thì nhiều. Nhưng:Chỉ một tâm vô trụ đólà tâm ấn của chư Phật, còn các pháp hữu vi sanh diệt vínhư bọt nước ngoài biển cả bị sóng vỗ là tan ngay. Tómlại ý bài kệ nói Kinh Lục là phương tiện truyền bá củaPhật Tổ nhiều như biển, cơ duyên giáo hóa của Phật Tổlà lưới giáo bao trùm tất cả mọi người. Phương tiệntuy nhiều nhưng người học đạo ngộ được tâm vô trụ,tâm vô trụ là tâm ấn của chư Phật. Người ngộ đượctâm ấn của chư Phật thì thấy các pháp hữu vi chỉ là vôthường tạm bợ như hòn bọt ngoài biển cả.
Bathuở Như Lai truyền diệu chỉ,
Haingười bốn mắt đối nhìn nhau.
Nguồnlinh nước pháp sa giới chảy,
Ðuốctuệ sáng thông cõi cõi nào.
Âm:
Tamthế Như Lai truyền diệu chỉ,
Nhịnhân tứ mục nhãn tương giao.
Linhnguyên pháp thủy lưu sa giới,
Tuệchúc quang thông sát hải dao.
Bathuở Như Lai truyền diệu chỉ, hai người bốn mắt đốinhìn nhau.Nguồnlinh nước pháp sa giới chảy, đuốc tuệ sáng thông cõi cõinào.Chonên Tổ sư Ðại Huệ nói: "Học đạo vốn không nhiều pháp,chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép. Ðời nay nếu chẳnglãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đờiđời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thânngười, chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma,mầm linh giống trí, đồng tử đi xuất gia, theo Phật tu hành,một nghe ngàn ngộ". Giả sử tham học như trên mà chưa triệt,vẫn kết chủng duyên Phật; tu mà chưa thành, còn hơnquả trời người. Chúngsanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ.Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡngtrông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu tự mìnhchẳng đoạn trừ nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứuđộ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơiđời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đếnnay, chẳng thể thành Phật ? Phải biết tự tu, tự độ, Phậtchẳng thể độ. Nên biết,phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tậnlý này. Hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực.Ba đời chưPhật truyền yếu chỉ qua bốn mắt nhìn nhau. Nếu bốn mắtnhìn nhau mà nhận ra yếu chỉ nhiệm mầu của đạo thì:Nguồn sáng suốt nhiệm mầu chảy khắp hết hằngsa cõi nước và ánh sáng của ngọn đuốc trí tuệ thông hếttất cả chỗ. Ý bài kệ nói rằng: ba đời chư Phật truyềndiệu chỉ nếu người nào qua bốn mắt nhìn nhau mà ngộ đượcthì nguồn sáng suốt chảy khắp sa giới và ánh sáng trí tuệchiếu soi tất cả cõi. Chúng ta thấy ngài Chân Nguyên ngộở chỗ bốn mắt nhìn nhau nên kết thúc mười lăm bài kệ,ở bài kệ thứ mười lăm Ngài chỉ thẳng: Bốn mắt nhìnnhau là cái gốc nhận ra tâm mìnhlà Phật. Sau đó truyền bá mãi không cùng tận.

Sauđây là dẫn lời ngài Ðại Huệ, một Thiền sư nổi tiếngở Trung Hoa đời Tống. Ngài nói rằng: Học đạo vốn khôngnhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép,Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo đượctrí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đườngác, kiếp kiếp chẳng mất thân người.Chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loàiquân ma.Mầm linh giống trí, đồng tử xuất gia theo Phật tuhành, một nghe ngàn ngộ.nghĩa là người học đạo lấy cái ngộ tự tánh làm cănbản. Bởi vì chúng ta tu mà không nhận ra tự tánh sẵn cócủa mình thì chưa giác ngộ, cho nên nói lấy tin ngộ làmkhuôn phép. Người chỉ tinngộ tự tánh, tuy ngay trong đời này chưa lãnh ngộ như nhữngngười căn cơ nhạy bén, cũng gieo được trí Bát-nhã trênđất tánh của mình. Người nhận được bản tánh thì đờiđời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp tái sanh vẫn đượclàm người. Người tin mình có tự tánh thì đời sau khôngsanh vào nhà ngoại đạo tà kiến, cũng chẳng kẹt vào quânma. Người tin mình có tự tánh đãsẵn có mầm linh, sẵn hạt giống trí nên còn bé (đồng tử)đã theo Phật xuất gia tu hành, một nghe ngàn ngộ tức lànghe một câu mà ngộ cả ngàn câu.Nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu nghĩa là sao ? Nhưchúng ta tu Thiền khi nghe một câu nói của một vị Tổ màngộ, thì một ngàn câu của chư Tổ ta đều thông suốt. Nhưvậy chỉ cần ngộ một câu là mọi câu đều thông suốt,cho nên nói một nghe ngàn ngộ. Cũng như các vị tham công ánmà ngộ thì giải được tất cả các công án.

Giảsử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyênPhật, tu mà chưa thành, còn hơn quảtrời người.Chúngsanh phảigắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ.Nếuchẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trôngPhật đến cứu độ, không có lẽ ấy.Nếutự mình chẳng đoạn nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đếncứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiệnnơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúngsanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đếnnay chẳng thể thành Phật ?phải biết tự tu tự độ,Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phânnửa ở ta, xét cho tường tận lý này, hãy gắng sức tựtu chớ ỷ lại vào tha lực.NgàiChân Nguyên nói: Giả sửngườitham học nhưtrên mà chưa thấu triệt vẫn có chủng duyên với Phật, tuytu chưa thành chánh quả nhưng vẫn hơn quả vị ở cõi trờicõi người. Chúng ta tu làphải tự độ mình, chớ Phật không thể độ được. Ởđây nói như thế cũng hơi cực đoan, đoạn sau sẽ bù lại.Nếu mình chẳngthật tâm tu, trai giới không giữ, mà cứ trông cầu Phậtđến cứu độ thì không bao giờ có Phật đến cứu.Nếu tu mà cứ mong Phật tớicứu độ thì ở đây Ngài nói, Phật ra đời ứng thân vôsố sao Phật không độ cho mọi người hết mê ? Thực tếthì chúng sanh còn nhiều mê lầm, vậy thì trông cậy Phậtđộ bằng cách cầu xin khấn nguyện có được như ý không? Chắc chắn là không. Cho nên Ngài nhắc chúng ta phải tựtu tự độ chớ Phật không thể độ mình được. Tuy nhiênphân nửa ở Phật phân nửa ở ta. Câu này có an ủi chúngta một chút. Phân nửa nào ở Phật, phân nửa nào ở ta ?Ví dụ đứa học trò đến trường học, nó học được lànhờ thầy dạy, nếu nó không học thì không thuộc bài. Nhưvậy thầy giáo dạy là phân nửa của thầy, nó học thuộcbài là phân nửa của nó. Nhờ phân nửa của thầy và phânnửa của nó mà làm thành cho đứa học trò. Cũng vậy đứcPhật đem chánh pháp truyền bá chỉ dạy, chúng ta hiểu rồiphải nỗ lực thực hành, phân nửa của Phật cộng với phânnửa của chúng ta thì mới viên mãn sự tu hành, chớ khôngphải cực đoan một bên. Như vậy khi tu chúng ta tha thiếtlạy Phật cầu gia bị, mà cũng phải học hiểu lời dạycủa Ngài, ứng dụng tu thì mới được thành tựu viên mãn.Ngài khuyên chúng ta phải xét cho kỹ lý này để nỗ lựctu hành, không nên ỷ lại vào kẻ khác. Một người học tròỷ lại vào ông thầy thì người học trò đó sẽ hư. Cũngvậy, người tu mà cứ ỷ lại nơi Phật không chịu tu thìsẽ không đạt kết quả.

Xưađức Phật Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phậtcòn tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấyGiới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tựtánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, nhưnhư đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng khôngcó lý khác. Nên biết người có trí phải lập chí, phướchuệ song tu, chân như riêng chứng. Niệm niệm từ bi, cửacửa lợi ích, thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiệntiếp dẫn người sau. Người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏngộ, nếu chưa thành mong khiến cho chóng thành. Kinh nói: tàithí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí nhưmặt trời sáng đầy khắp mười phương. Tự tánh nếu mê,phước làm sao cứu? Thân người khó được, Phật pháp khógặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, lòng tin khósanh, bạn lành khó hội ngộ. Phước duyên kim cải, mừng đãhợp nhau. May thay như rùa mù gặp được bộng cây. Chúng tabỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ? Chớ tham đắmdanh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình, lô�i nướctrèo non, kính lễ thưa hỏi.

Xưađức Phật Bổn sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phậtcòn tại thế lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấyGiới làm thầy.Phật tức là tâm, tâm tức là Phật, tự tánh xưanay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đólà chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lýkhác.Nên biếtngười có trí phải lậpchí,phước huệ song tu, chân như riêng chứng, niệm niệm từ bi,cửa cửa lợi ích.Thườngnói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau,người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thànhthì mong khiến cho chóng thành.Ðây là dẫn lời Phật dạy trong kinh DiGiáo. Ngài nói Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. VậyPhật mà Ngài nói đây không phải Phật ở Ấn Ðộ, mà làPhật tâm của mỗi người chúng ta. Phật tâm của chúng taxưa nay vốn rỗng lặng, nhiệm mầu, tròn sáng, như như khôngđộng, ấy mới là chân Phật. Dẫu cho Phật Thích Ca còn tạithế cũng như vậy chớ không có lý nào khác. Ngài dạy rằng người có trí tuệthì khi tu hành phải lập chí cho vững, phải phước huệ songtu, phải chứng ngộ chân như của chính mình. Mỗi niệm mỗiniệm phải phát khởi tâm từ bi, phải khéo vận dụng phươngtiện thiện xảo đểlàm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ quên và bỏ họ.Ngài dạy rằng muốn làmlợi ích cho người sau, thì phải nói pháp nhiệm mầu củakinh Bát-nhã cho họ hiểu. Người chưa ngộ thì giúp cho họtỏ ngộ, người chưa thành tựu công phu làm cho họ thànhtựu công phu. Nhưng muốn thực hiện được điều nói trên,trước hết chúng ta phải tỏ ngộ, phải thành tựu công phutu hành. Nếu chúng ta chưa tỏ ngộ chưa thành tựu công phutu hành mà giúp cho người tỏ ngộ, thì e rằng không có kếtquả. Ðó là điều tối quan trọng trong việc lợi tha. Nếukhông hiểu chỗ này, nhiều khi chúng ta nhiệt tình quá, muốnlàm cho người ngộ mà chính mình chưa ngộ, dù có làm thếmấy cũng không tới đâu.

Kinhnói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, phápthí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương.Tự tánh nếu mê phước làm sao cứu.Ngàidẫn lời trong kinh nói người bố thí tiền của, giống nhưngọn đèn sáng để ở trong căn phòng, tuy có ánh sáng nhưngchỉ sáng trong phạm vi nhỏ hẹp. Còn pháp thí tức là đemPhật pháp giảng dạy cho mọi người nghe, thì lợi ích rấtnhiều, như ánh sáng mặt trời soi khắp mười phương. Vídụ như chúng ta có một trăm ngàn đồng đem ra bố thí, thìchỉ giúp được một vài gia đình qua cơn thiếu thốn, vậychỉ cứu được cái khổ tạm thời. Còn nếu chúng ta thâmnhập Phật pháp thì một buổi giảng, một hai ngàn ngườinghe, hiểu, ứng dụng tu lợi ích rất nhiều. Hơn nữa họnghe Phật pháp họ tu, để hết khổ an vui lâu dài thì chúngta sẽ cứu được cái khổ vĩnh viễn. Như vậy bố thí phápPhật không có giới hạn nên ví như mặt trời soi sáng mườiphương. Bố thí tiền của có giới hạn nên ví như ngọnđèn có ánh sáng soi trong một phạm vi nhỏ hẹp. Hiểu rõnhư thế nên người tu hành phải thâm nhập chánh pháp, đemra giảng dạy để cứu khổ vô minh cho chúng sanh, đó mớilà việc quan trọng. Còn chúng ta làm ra tiền để giúp đỡngười nghèo, đó chỉ là việc thiện nhỏ thôi. Bởi vì sứcngười có chừng mực, tiền của có giới hạn, biết bao nhiêutiền của mà chia cho đủ, chỉ có bố thí pháp là khắp cùngkhông giới hạn. Ngài nói nếu người mê không nhận ra tự tánh, tức tánhPhật của mình thì dù có làm việc phước thiện bao nhiêuđi nữa, cũng không cứu được họ. Cho nên muốn cứu mìnhthì trước hết phảinhậnra tự tánh. Ví dụ như có người còn rất nhiều tham sânsi, phiền não đủ thứ, nhưng họ có nhiều tiền đem ra bốthí giúp đỡ người này người kia. Tuy làm việc bố thílà có phước, nhưng vẫn không cứu được cái mê của họ,vì họ chưa nhận ra tánh giác của chính mình. Cho nên ngườitu mà mê tự tánh là điều đáng sợ, chúng ta không nên xemthường. Có nhiều người nói tôi tu sơ sơ, hoặc tôi tu phướclà đủ rồi, cho nên suốt đời lo giúp người này, cứu khổngười kia, mà quên cứu mình, chuyện giác ngộ đối vớihọ rất là xa xôi.

Thânngười khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy,chánh pháp khó nghe, tín tâm khó phát sanh, bạn lành khó hộingộ.Ngài nói được sanh thân làm người là cái khó thứnhất. Cho nên Phật tử đã được thân người, sáu căn đầyđủ, mà gặp chuyện buồn khổ đòi tự tử là không hiểuđạo, chẳng những mang tiếng ngu, mà còn bị người ta chêcười, Phật tử mà không xứng đáng là con Phật. Phật tửgặp chuyện buồn tự tử còn bị người đời chê ngu, khôngxứng đáng là đệ tử Phật, huống nữa là người xuấtgia. Người xuất gia gặp chuyện buồn đòi tự tử có thểtha thứ được không ? Người xuất gia hiểu đạo, biết thânnày khó được, nương thân giả tạm để tu hành như ngườinương bè qua sông, qua chưa tới bờ mà đòi phá bè là chuyệnlàm của kẻ ngu. Người tu mà đòi tự tử là ý phạm giớisát, mình tự sát mình đáng ăn đòn không biết bao nhiêu gậy.Chúng ta tu nếu chưa được an lạc thì phải khéo léo chuyểnhóa nội tâm cho được an lạc. Hơn nữa được thân ngườirất khó mà tự tử là hủy hoại thân, người hủy hoạithân là người đáng chêtráchnhất.Cho nên ở trong chùa mà nói tự tử thật là khó nghe.

Cáikhó thứ hai là Phật pháp khó gặp. Song có người nói muốngặp Phật pháp, thì đến các nhà phát hành kinh sách thỉnhbao nhiêu cũng có, sao nói khó gặp ? Kinh Phật để lại rấtnhiều, nói Phật pháp khó gặp là khó chỗ nào ? Chúng ta đừnghiểu rằng gặp Phật pháp là thấy được quyển kinh Phật,mà gặp ở đây là nghe Phật pháp nhận hiểu để ứng dụngtu, đó mới là khó. Hiểu Phật pháp là khó, còn xem kinh bằngmắt là chuyện dễ. Thế mà có người cầm quyển kinh Phậtlên xem thì buồn ngủ, ngồi trong giảng đường nghe giảngthì ngủ gục, còn xem truyện, xem tiểu thuyết thì quên ănbỏ ngủ, xem truyền hình suốt ngày, nhất là xem phim chưởngđấm đá với nhau, suốt ngày không biết chán. Như vậy vớingười không biết tu gặp kinh Phật xem bằng mắt cũng làchuyện khó, huống là nhận hiểu Phậtpháp bằng tâm để ứng dụng tu lại càng khó hơn.

Cáikhó thứ ba là Thánh tăng khó gặp. Ðiều này dĩ nhiên, nhấtlà ở thời kỳ mạtpháp,phàm Tăng thì dễ kiếm, chớ Thánh tăng thì rất khó gặp.

Cáikhó thứ tư là chánh pháp khó nghe. Người đời thường nói"Thuốc đắng đã tật lời thật trái tai". Chánh pháp là phápchân chánh đúng đắn nói lên lẽ thật của con người vàsự vật. Ví dụ có người thấy chúng ta liền khen thầy làngười có phước tướng, thông minh... nói như vậy rất làdễ nghe và cảm thấy vui trong lòng. Nếu họ nói thầy làcái túi da hôi thúi, là cái bô đựng đồ dơ được đậykín và sơn vẽ bên ngoài. Nói như vậy là nói sự thật màngười nghe cảm thấy khó chịu không vui. Chánh pháp khó nghelà khó ở chỗ đó. Vì chánh pháp luôn nói lên sự thật màmọi người muốn che đậy.

Cáikhó thứ năm là tín tâm khó phát sanh. Tại sao khó ? Giả sửtôi nói tụng kinh chừng bảy biến thì được phước nhiều,đó là điều dễ tin, nếu tôi nói quí vị hãy tin tâm mìnhlà Phật, đó là điều khó tin. Bởi vì có nhiều người khinghe nói tâm mình là Phật thì lắc đầu từ chối con khôngdám tin đâu, con không có phần chỉ mong cầu phước báo ởcõi nhơn thiên thôi. Tin tâm mình là Phật ít người dám tincho nên nói lòng tin khó phát sanh.

Cáikhó thứ sáu là bạn lành khó hội ngộ, tức là bạn lànhkhó gặp. Trước hết chúng ta phải phân biệt thế nào làbạn lành, thế nào là bạn dữ. Giả sử ở trong Thiền Viện,nếu có một sư huynh thấy mộtsư đệ đang ngồi Thiền bỏ đi xuống, hôm sau hỏi lý dosư đệ đáp rằng đau bụng. Vài ba lần như thế và lầnnào cũng trả lời có lý do. Sư huynh biết sư đệ này đangmang bệnh lười biếng cho nên rầy rà: đệ tu hành gì màlười biếng quá, cưng chiều cái thân này lắm,phải nỗ lực vượt qua chớ ! Nghenhưthếsưđệ nọ hết muốn gần sư huynh. Nhưng nếu có mộtsư huynh khác nghe sư đệ nói đau bụng, thì lấy dầu xoa,nghe than buồn ngủ thì bảo đi ngủ, nghe nói đau chân thìbảo thôi đừng rán, coi chừng bệnh à... Một người rầyquở, một người săn sóc an ủi, chúng ta thử xét ai là bạnlành ? Nếu trong Thiền Viện năm chục chúng mà có ba chụcvị thương sư đệ giống như vị sư huynh thứ hai thì sưđệ tu có tiến không ? Chắc chắn là không tiến. Như vậyngười khó khăn rầy rà để thúc đẩy mình tiến lên đólà bạn lành. Người dễ dãi chìu chuộng theo cái sở thíchcủa mình, làm cho mình tu không tiến đó là bạn chẳng lành.Tổ Qui Sơn có dạy "Gần gũi bạn lành như đi trong sươngmóc, tuy thấy chẳng ướt áo, nhưng lần lần thấm nhuận.Lân la đứa dữ ắt nhiễm lấy hung hăng gây ra nhiều tộilỗi, quả báo ngay trước mắt". Song theo thường tình thìbạn dữ dễ gần hơn bạn lành. Ðó là chuyện trong chùa.Sau đây là chuyện ngoài đời. Ví dụ có một Phật tử namđi ngang qua quán rượu, có người bạn đang ngồi uống rượutrong quán kêu vô nài ép bảouống,Phật tử ấy từ chối, bị người bạn chê cười cho rằngđàn ông mà không có chí khí của kẻ nam nhi, giống như đànbà. Giả sử lúc đó Phật tử kia nhận lời mời của ngườibạn uống rượu say sưa. Nhưng có người bạn thứ hai canrằng: Bạn là Phật tử đã thọ qui giới uống rượu làphạm giới cấm của Phật. Quí vị xét coi người ép uốngrượu và người la rầy khuyên can không cho uống rượu, ngườinào là bạn lành ? Quí vị thích người nào hơn ? Dĩ nhiênlà thích người ép uống, nhưng người đó đem đến điềukhông tốt cho mình. Như vậy bạn chẳng lành dễ gần hơnlà bạn lành, cho nên nói bạn lành khó hội ngộ. Chúng talà người học đạo phải biết rõ ai là bạn lành, để gầngũi được thấm nhuần những điều tốt, ai là bạn chẳnglành phải khéo dùng phương tiện để chuyển hóa họ, nếukhông đủ đạo lực thì không nên gần nhiều, gần nhiềusẽ có hại cho việc tiến tu. Xét qua sáu điều khó đượcNgài nêu ở trên, đa số chúng ta đều có đủ. Như vậy làquá tốt, nếu người nào chưa đủ thì hãy rán tạo nhânduyên cho đủ.

Phướcduyên kim cải, mừng đã hợp nhau.Người ta thường nói cây kim hạt cải, hai cái đó gặp thìhút vào nhau, ý muốn nói mừng cho mình đã có phước duyêntốt, hội đủ những điều kiện tốt, những điều khó thựchiện được mà mình thực hiện được như: Phật pháp khógặp mà mình gặp, chánh pháp khó nghe mà mình được nghe v.v...

Maythay như rùa mù gặp bô�ng cây.Chúng ta bỏ sựnghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ?Chớtham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quênmình lội nước trèo non kính lễ thưa hỏi.thưahỏi chỗ thâm áo của Phật pháp, có như thế mới không uổngmột đời tu. Nếu đi tu vì mục đích an nhàn, sung sướngcho bản thân thì chưa phải là người thật tâm xuất gia cầuđạo giải thoát.Câu chuyện rùa mù gặpbộng cây, trong kinh A-hàm đức Phật có kể: Có một cái bộngcây trôi giạt ngoài biển cả, sóng gió đưa đẩy nay ở bênÐông, mai qua bên Tây. Có con rùa mù ở dưới đáy biển, mộttrăm năm nó trồi đầu lên một lần, nó muốn tìm bộng câyđể chui vào. Vậy rùa mù tìm được bộng cây dễ hay khó? Rất khó. Ý đức Phật nói con người sau khi mất thân này,muốn được thân trở lại khó như rùa mù tìm gặp bộngcây vậy. Ngày nay chúng ta được thân này thật là có nhiềuphúc duyên, nếu không chịu nỗ lực tu hành theo lời Phậtdạy, khi mất thân này rồi sẽ ra sao ? Chúng ta bỏ nhà,bỏ cha mẹ thân bằng quyến thuộc vào chùa tu, mục đíchcầu cái gì? Phải xét kỹ, cầu no ấm sung sướng, hay cầugiác ngộ, giải thoát khổ sanh tử cho chính mình và chúngsanh ? Ðây là câu hỏi mỗi người phải tự trả lời. Ngài răn nhữnglời hết sức thực tế và tha thiết vô cùng. Chúng ta đitu đừng tham đắm danh lợi vì danh lợi làm chướng ngạisự tu hành. Ði tu thì phải cầu thầy sáng, để hướng dẫnmình tu đúng chánh pháp Phật dạy. Chọn bạn lành để trợnhững duyên tốt cho đường tu được tiến bộ hanh thông.Phải vì Phật pháp quên thânmạng, phải vượt suốibăngrừng để tìm những bậc đạo cao đức trọng mà

Hỏi:Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó.Thế nào là hai việc khó ?

Dạyrằng : Sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Ðây là haiviệc thật rất khó. Song này các người, do hai việc này màbỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minhsư, bạn tốt, cúi đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðạiđức từ bi, mở rộng phương tiệnchỉ bày cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo.

Hỏi:Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân ngườinày sanh từ đâu đến ?

Ðáp:Vốn từ vô vi đến.

Lạihỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết, chết đi vềđâu ?

Ðáp:Lại từ vô vi đi.

Hỏi:Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nàolà hai việc khó ?sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ?Song này các người do hai việcnày mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, thamtìm minh sư, bạn tốt, cuối đầu lễ bái thưa hỏi: Kínhmong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện cho sáng tỏlý này, sớm được ngộ đạo.Câu hỏi này nghe hơi khó hiểu. Thếgian không việc khó, lại nói thếgian có hai việc khó, nếu không việc khóthìlàm gì có hai việc khó ? Ý Ngài muốn nói rằng trên thếgian không có việc gì khó, nhưng xét kỹ có hai việc khó,đó là Ðâylà hai việc rất khó, vì hai điều này là hai điều thắcmắc lớn lao của con người. Tất cả chúng ta đều thắcmắc mình từ đâu đến đây và sau khi chết mình sẽ vềđâu ? Ðó là hai câu hỏi mà tất cả chúng ta không ai giảiđáp được. Chính hai điều này khi xưa đức Phật Thích Calúc còn là Thái tử, Ngài cũng thắc mắc như chúng ta. Và,Ngài quyết phăng tìm cho ra manh mối, bằng cách từ bỏ hoàngcung vượt thành đi tu. Ngày nay chúng ta là người tu theo đứcPhật cũng phải quyết tâm tìm cho ra manh mối. Muốn thựchiện điều đó Ngài dạy: Muốn giải quyết hai mốinghi trên, người học đạo phải lội suối trèo non, tìm thầysáng bạn lành cầu chỉ dạy cho mình tu, khi ngộ đạo thìgiải quyết được hai mối nghi trên. Khi xưa Thái tử Sĩ-đạt-tangồi tu dưới cội Bồ-đề trong suốt bốn mươi chín ngàyđêm. Ðêm cuối cùng khoảng canh hai Ngài chứng được túcmạng minh, biết được đời sống vô số kiếp về trướcnên giải quyết được câu hỏi "ta từđâu đến đây". Khoảng canh ba Ngài chứng được thiênnhãn minh, thấy rõ con người sau khi chết theo nghiệp dẫnđi luân hồi trong lục đạo, kẻ đi lên, người đi xuốngv.v... Như vậy muốn giải đáp câu hỏi thứ nhất ngườitu phải chứng túc mạng minh, giải đáp câu hỏi thứ hai phảichứng thiên nhãn minh. Ngày nay chúng ta tu còn mờ mịt thật làkhó giải quyết được hai mối nghi "sanh từđâu đến,chết đi về đâu".

Hỏi:Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân ngườinày sanh từ đâu đến ?

Ðáp:Vốn từ vô vi đến.

Lạihỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết chết đi vềđâu ?

Ðáp:Lại từ vô vi đi.

Ðếntừ vô vi đến, đi cũng từ vô vi đi. Nhưng vô vi là cái gì? "Vô vi" là từ ngữ của đạo Lão, khi Phật giáo du nhậpvào Trung Quốc, nói đến lý bất sanh bất diệt, các Ngàimượn từ vô vi của đạo Lão để dùng. Nhà Phật dùng từvô vi, là đối lại từ chữ hữu vi. Phàm tất cả sự vậtcó hình tướng ở thế gian có sanh có diệt là hữu vi, phápkhông sanh diệt gọi là vô vi. Hỏi rằng: khi cha mẹ chưa sanhta từ đâu đến ? Ðáp: từ vô vi đến tức là từ chỗ bấtsanh bất diệt đến. Hỏi sau khi chết rồi đi về đâu ? Ðáprằng: trở về chỗ bất sanh bất diệt. Câu đáp này hơigượng một chút, không sát nghĩa lắm. Sauđâytôi giải thích kỹ hơn về câu đáp sanh từ vô vi đến. KinhLăng Nghiêm nói: Chân như không giữ tự tánh hốt nhiên mộtniệm vô minh dấy khởi, tất cả tướng sanh diệt dấy khởitheo nên đi vào sanh tử. Từ chân mà khởi vọng niệm đi vàosanh tử nghe khó hiểu quá. Song tôi ví dụ cho dễ hiểu: Hiệngiờ chúng ta đang mở mắt tỉnh táo, nhưng một lúc sau nghemỏi mệt, gió mát thổi qua chúng ta thiu thiu ngủ gục. Vậythử hỏi ngủ gục đó từ đâu đến ? Có phải từ cái tỉnhtáo hồi nãy đến không ? Nếu không có cái tỉnh làm gì cócái mê, cái mê ngủ gục từ cái tỉnh. Nếu ai đánh thứcchúng ta tỉnh lại thì không còn mê nữa. Như vậy cái mênó đến lúc nào chúng ta không dự biết trước được, cóai biết mình sửa soạn buồn ngủ không ? Chỉ quên cái tỉnhlà bị cái mê xâm chiếm, mê xâm chiếm thì ngủ say mộngmị đủ thứ. Cũng vậy, nếu chúng ta quên tự tánh chân nhưthì sẽ dấy sanh vọng niệm, vì vọng niệm dấy khởi nênsanh ra đủ thứ khổ đau. Cho nên hỏi sanh từ đâu đến ?Ðáp từ vô vi, tức là quên cái không sanh diệt nên dấy niệmsanh diệt rồi đi vào trong sanh tử, chịu sanh tử khổ đau.Khi chết trở về vô vi tức là trở về chỗ không sanh diệt.Nghe như thế có người hiểu lầm cho rằng không tu chết cũngtrở về chỗ không sanh diệt. Hiểu như thế là sai lầm, chúngta phải tu dứt hết mầm sanh diệt mới được trở về chỗkhông sanh diệt, nếu không tu thì vẫn tiếp tục đi trong sanhtử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com