Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Gượngnói đến đi, mà thật không có đến đi. Thế nào là thậtkhông có đến đi ? - Chỉ kinh Bát-nhã làm chứng, nói: "Tướngkhông của các pháp đó, chẳng sanh chẳng diệt". Sanh diệtđã không, thì đến đi đâu có. Ðây là khí âm dương biếnhóa, ngưng tụ thành hình mà người sanh ra. Sắc thânbốnđại dụ như hòn bọt nổi, có sanh có diệt. Còn Pháp thântròn sáng thì rỗng rang, rộng lớn, đích thực là biển tánhTỳ-lô, không có lay động, vốn không từ đâu đến, cũngkhông đi về đâu, tánh đồng với hư không, biết khắp mọinơi. Vì vậy gọi là xưa nay vô vi, vẫn hằng thường trụ,chân không lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng tháihư, không thiếu không dư, sáng thông bát ngát, trong lặng nhưnhư, đối diện ngay trước mắt, tại sao chẳng hội? Kinhnói: "Chân Phật pháp thân giống như hư không". Ðây thậtlà Pháp thân tức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư khôngcùng với Pháp thân không có tướng khác, chư Phật cùng vớichúng sanh không có tánh khác. Chẳng ngộ tự tánh tức gọichúng sanh, giác biết tự tánh nên gọi chư Phật. Ðó là chân Phậtvốn không hình tướng, đầy khắp cảhưkhông, thế giới, đâu có đến đi?
Gượngnói đến đi mà thật không có đến đi. Thế nào là thậtkhông có đến đi? Chỉ kinh Bát-nhã làm chứng, nói: Tướngkhông của các pháp đó, chẳng sanh chẳng diệt.Ngài dẫnvăn kinh Bát-nhã để giải thích lý không đến không đi. Trongkinh Bát-nhã nói "tướng không của các pháp chẳng sanh chẳngdiệt", chẳng sanh diệt thì đâu có đến đi. Vì các phápdo duyên hợp không có thật thể cố định, nên nói tướngcủa nó là không, tướng không đó chẳng sanh diệt nên khôngđến đi. Ðây là khí âm dương biến hóa, ngưng tụ thànhhình mà người sanh ra. Sắc thân bốn đại dụ như hòn bọtnổi, có sanh có diệt. Còn Pháp thân tròn sáng thì rỗng rang,rộng lớn, đích thực là biển tánh Tỳ-lô, không có lay động,vốn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, tánh đồngvới hư không, biết khắp mọi nơi.Ở trên giải thíchrằng sanh từ vô vi đến, tử trở về vô vi, vì chữ vô vilà chỉ cho thể tánh bất sanh bất diệt của con người vàcủa muôn pháp. Kế đây Ngài giải thích theo bên Nho thân ngườicó ra là do khí âm dương biến hóa ngưng tụ mà thành hình,còn theo nhà Phật thân người là do tứ đại duyên hợp. Sắcthân do tứ đại hợp, dụ như hòn bọt nổi chợt sanh chợtdiệt, thế mà chúng ta cứ cho rằng sống sáu bảy mươi nămlà lâu dài, xứng đáng. Nhưng đối vớicon mắt của nhà Phật thời gian sáu bảy mươi năm khôngnghĩa lý gì cả, như bóng con ngựa chạy qua cửa sổ thậtlà mau. Chúng ta nhìn xuống biển thấy những hòn bọt nổitrên mặt biển và mặt biển, vậy cái nào ngắn cái nào dài? Hòn bọt tụ rồi tan, không có nghĩa lý gì cả đối vớimặt biển. Cũng vậy, nơi mỗi chúng ta sẵn có Pháp thân trònsáng, rộng lớn thênh thang, đây gọi là biển tánh Tỳ-lô,Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân. Thế mà chúng ta quên cáiPháp thân, lại nhận cái thân tứ đại duyên hợp tạm bợ,chợt còn chợt mất, giống như nhận hòn bọt mà quên mặtbiển thênh thang. Tuy nhiên hòn bọt tụ tán không ngoài mặtbiển. Tụ ví cho sanh, tán ví cho tử, nên nói sanh từ vô viđến, tử từ vô vi đi, vô vi chỉ cho Pháp thân bất sanh bấtdiệt. Như vậy căn cứ trên Pháp thân thì thân này sanh ratừ Pháp thân và thân này hoại đi cũng trở về Pháp thân.Ngài ví dụ sắc thân như hòn bọt, Pháp thân như mặt biểnthênh thang, thế mà chúng ta cứ lo lắng bảo vệ sắc thânnên quên mất Pháp thân, giống như người ra biển nâng niuhòn bọt, mà quên mặt biển. Hòn bọt dễ vỡ lại nâng niu,còn mặt biển thênh thang rộng lớn thì quên, người như thếPhật nói là người đáng thương xót. Chúng ta là người quámê muội, nên lo bảo vệ sắc thân sớm còn tối mất, màquên Pháp thân chân thật không bao giờ mất. Ví như ngườira biển thấy bọt nước nổi chìm cốlấy tay vớt mà quên đi mặt biển thênh thang. PhậtTổ thương hết lòng chỉ dạy cho chúng ta nhận ra, trở vềsống với cái chân thật của mình. Như vậy chúng ta mớithấy tầm quan trọng của sự tu. Tu không phải tìm kiếm nhữngcái được mất trên thế gian này mà phải nhận ra và sốngtrọn vẹn với Pháp thân sẵn ở nơi mình.
Vìvậy gọi là xưa nay vô vi vẫn hằng thường trụ,chân không lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng tháihư, không thiếu không dư, sáng thông bát ngát, trong lặng nhưnhư đối diện ngay trước mắt, tại sao không hội.Ngài nói pháp thân thường trụ, thật tướng rành rành, thênhthang trùm khắp, lồ lộ, đối diện trước mắt. Vậy đốidiện trước mắt là chỗ nào ? - Chúng ta nhìn thấy bình hoa,nhìn thấy đồng hồ ở trước mắt là đối diện trướcmắt phải không ? Nếu thế là chúng ta chạy theo cảnh bênngoài, mà quên rằng đối diện trước mắt là cái hay thấybình hoa, hay thấy đồng hồ. Bình hoa và đồng hồ là vậttụ tán sanh diệt, còn cái hay thấy bình hoa hay thấy đồnghồ là cái không sanh diệt, không bao giờ mất. Nếu khôngcó bình hoa, không có đồng hồ nó vẫn thấy bầu trời haymây nước... Cái hay thấy không bao giờ mất, nhưng khởi niệmtìm kiếm thì sai, chỉ thầm nhận mình có cái hay thấy làđược rồi. Bởi vì nếu không có cái hay thấy thì làm saothấy bình hoa, thấy đồng hồ, thấy trời, thấy mây ? Thấyđược những sự vật nhưthế là do chúng ta có cái hay thấy hay biết, nhận rõràng không nghi. Nhưng cái hay thấy không có tướng mạo nênnói nó phi sắc, phi không, phi tất cả; phi tất cả nhưng chẳngphải không, chẳng phải không chớ không phải không ngơ. Ðólà chỗ rất khó mà người học Phật phải sáng suốt mớinhận ra chỗ này. Như vậy cái thấy hiện trước mắt, màchúng ta không biết không nhận ra. Nhưng vừa dấy niệm tìmnó ở đâu, nó liền bị che khuất, tìm mãi không được,tuy nhiên nó cũng tại đó không mất. Còn không tìm nó thìnó hiện tiền sáng rỡ, song phải khéo nhận, nếu không khéonhận thì không biết mình có nó. Nhớ, đừng nghe nói đốidiện trước mắt rồi nghĩ cái ở bên ngoài, mà hướng rangoài tìm kiếm là sai lầm. Ðối diện mà không phải đốidiện, nó hiện tiền ở trước mắt chúng ta phải khéo nhận.
Kinhnói: Chân Phật pháp thân giống như hư không.Ðây nóichân Phật pháp thân giống như hư không. Xin nói kỹ chỗ nàycho quí vị hiểu kẻo lầm: như chúng ta nhìn thấy bình hoa,cái hay thấy bình hoa có giống như hư không không ? - Giốngở chỗ không tướng mạo, nhưng hư không thì không thấy đượcsự vật, mà cái hay thấy thì thấy biết được sự vật.Như vậy cái hay thấy giống hư không mà không phải là hưkhông. Ðây thực là Pháp thân tức hư không, hư không tứcPháp thân.Như chúng ta nhìnlên trời thấy có mây, cái khoảng cách từ mây đếnmình xa nhau, nhưng nó có bị trở ngại gì không ? Mây và cáithấy khác nhau, mây có hình tướng, cái thấy không có tướngmạonên hòa trong hư không, không có cái gì làm trở ngại, do khôngtrở ngại nên cái thấy tức là hư không, nên nói Pháp thântức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư không cùng Phápthân không có tướng khác, chư Phật cùng chúng sanh không cótánh khác.Hư không và Pháp thân của mình không có tướngkhác, nếu có tướng khác thì không hòa lẫn trong hư khôngđược, hay nói khác đi cái thấy cái nghe của mình không cótướng khác với hư không, cho nên tiếng động, hình ảnhchúng ta nghe thấy đều không ngăn ngại. Nhưng chúng ta đừnghiểu rằng Pháp thân là hư không, vì nếu nó là hư khôngthì Pháp thân không thấy, không nghe, Pháp thân có thấy cóbiết nên không phải hư không, nhưng hai cái Pháp thân và hưkhông hòa lẫn nhau. Cũng như chúng ta thấy ánh sáng và hưkhông là một hay khác ? Hư không là sáng hay tối ? Tự nókhông sáng tối, mà do mặt trời, mặt trời chiếu thì hưkhông sáng, mặt trời khuất thì hư không tối. Như vậy sángtối là từ nơi hư không hay từ nơi mặt trời, mà hư khôngcó sáng tối ? Nhưng tối sáng không khác với hư không, chonên trong khi sáng chúng ta không thể phân biệt chỗ nào làánh sáng, chỗ nào là hư không,vì thể nó không hai. Pháp thân của mình hòa lẫn vớihư không cũng như vậy, nó lẫn nhau mà không phải một cũngkhông phải khác. Ðó là chỗ hết sức khó hiểu.
Chẳngngộ tự tánh tức gọi chúng sanh, giác biết tự tánh nêngọi chư Phật.Con người có tánh giác nhưng vì quên nêngọi là chúng sanh, nếu nhận ra và sống được với tánhgiác thì gọi là Phật. Phật thì giải thoát sanh tử, chúngsanh thì bị sanh tử khổ đau trói buộc. Vì chúng sanh luônluôn chạy theo cái sanh diệt, gìn giữ thương tiếc thân mạng,nên mất thân này tìm thân khác, tụ tán liên miên, cho nênPhật nói chúng sanh luân hồi vô số kiếp, luôn chịu đaukhổ trong cái vòng lẩn quẩn này. Bây giờ chúng ta tu chủyếu là phải giác ngộ nhận ra pháp thân bất sanh bất diệtsẵn có nơi mình, nên ở đây Ngài nói: Ðó là chân Phậtvốn không hình tướng, đầy khắp cả hư không, thế giớiđâu có đến đi.
Songpháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn khôngmột vật, chẳng rơi vào các số. Tuy vô vi, chẳng rơi vàocác số, mà cũng hay ứng vật hiện hình, ẩn hiện cùng bày,sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lý, làm ra muôn việc.Ðó chính là mọi người trong mười hai giờ đi đứng nằmngồi, thấy nghe hiểu biết, nhướng mày chớp mắt, ứng cơtiếp vật, giơ tay động chân, một thể tròn sáng, sáu cănvận dụng, ứng với tiếng với âm, hay thấy hay nghe, biếtnói biết bàn, biện rõ phải quấy.
SongPháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn khôngmột vật, chẳng rơi vào các số.Ðây nói Pháp thân thênh thang rỗng lặng, không một vật vàkhông rơi vào các số, tức là danh số của thế gian. Ngàinói trọn không một vật, Lục Tổ nói xưa naykhông một vật. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng thì "nói in tuồngmột vật tức chẳng trúng".
Khithấy ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến, Lục Tổ hỏi: Vậtgì đến là muốn gạn xem Ngài đã nhận ra pháp thân chưa.Ngài phải ở trong chúng tám năm mới nhận ra và trả lời:Nói in tuồng một vật tức không trúng. Nếu bây giờ chúngta bị hỏi như trên sẽ trả lời: - Dạ con đem một cái túicó đựng ba cái y... Khi bậc thầy hỏi như thế là muốn dòxem chúng ta đã nhận ra Pháp thân bất sanh bất diệt chưa? Pháp thân bất sanh bất diệt đó không có hình tướng, nênkhông phải là một vật. Nghe ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng trảlời: Nói một vật tức chẳng trúng. Lục Tổ sợ Ngài rơivào không, nên hỏi gạn lại: "Có tu chứng không ?". Ngài đáp"Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được". Tuchứng tức chẳng không, tức là có tu, nhiễm ô tức chẳngđược, tức là thể thanh tịnh không bị cái gì làm nhiễmnhơ. Nghe thế Tổ biết Ngài đã nhận ra và sống được nênấn chứng: "Ông như thế ta cũng như thế".Tuyvô vi chẳng rơi vào các số mà cũng hay ứng vật hiện hình,ẩn hiện cùng bày, sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọilý làm ra muôn việc.Pháp thân không phải hình thức màẩn trong sự vật hình thức để hiện ra muôn sự muôn việc.Nơi chúng ta cái hay thấy biết được người vật, và nócòn sáng tạo ra sự vật nữa. Ví dụ chúng ta thấy hoa hồng,nếu thấy và chỉ biết hoa hồng, ngang đó thì hết việckhông có gì để nói. Nhưng thấy hoa hồng chúng ta bèn phânbiệt hoa hồng đẹp, rồi ghi nhớ và cầm bút vẽ đượccái hoa hồng. Như vậy cái hay thấy không có hình tướng nhưngnó có thể biến hiện thiên hình vạn tướng, nên nói "Phápthân vô vi mà hay ứng vật hiện hình, ẩn hiện cùng bày,sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lý làm ra muôn việc".Ngài dạy tiếp: Ðó chính là mọi người trong mười haigiờ đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết, nhướng màychớp mắt, ứng cơ tiếp vật, giơ tay động chân, một thểtròn sáng, sáu căn vận dụng, ứng với tiếng với âm, haythấy hay nghe, biết nói biết bàn, biện rõ phải quấy.Trong sắc thân bằng xương thịt của chúng ta có ẩn Phápthân bất sanh bất diệt. Bởi có Pháp thân ẩn ở sắc thânnên khiến chúng ta biết đi đứng nằm ngồi, nhướng màychớp mắt, thấy nghe hay biết... Như vậy sắc thân do đấtnước giólửa hợpthành, nếu không có Pháp thân ẩn trong đó thì không hiệnra những hành động. Từ hành động nếu chúng ta biết phảnchiếu, nhận ra Pháp thân và biết đó là dụng của Pháp thânthì tốt. Nếu chúng ta cứ chạy theo hành động,rồi tưởng mọi hành động là thật thì chúng ta sẽ đi sâutrong mê lầm. Chúng ta biết cái dụng của pháp thân thì tuyhành động mà hằng sống với Pháp thân. Nhưng điều nàyhơi khó nếu không khéo sẽ bị lầm, vì Pháp thân ứng hiệnnó có lẫn những vọng tưởng. Ví dụ chúng ta đang ngồichợt khởi lên ý nghĩ đi ra vườn, chúng ta liền đứng dậyđi, khi khởi niệm đi thì có nghĩ, nhưng khi đi từng bướcthì không nghĩ. Hoặc khi chúng ta mở mắt nhìn cảnh vật thấytrời mây cây cối đủ thứ, thấy rõ ràng mà không khởiniệm thì không có lỗi. Nếu thấy mà phân biệt trời bữanay đẹp trong sáng, hoặc mây đen sắp mưa, nếu có xen vàonhững kinh nghiệm, những ý tưởng thì đã biến cái thậtthành cái giả mất rồi, từ cái bất sanh biến thành cáisanh diệt. Cho nên cũng một cái biết mà gọi là chân, cũngmột cái biết mà gọi là vọng. Như chúng ta thấy một đóahoa biết là đóa hoa thì không có lỗi, nếu khởi niệm đóahoa này đẹp, đóa hoa kia xấu, khởi niệm phân biệt so sánhđẹp xấu là lệch lạc rồi. Cái biết có so sánh phân biệtlà biết trong mê vọng, còn trong sanh diệt; cái biết khôngso sánh phân biệt đẹp xấu là biết trong tỉnh sáng an nhiên.Thế nên chư Tổ cũng ăn cơm mặc áo, đi lại như chúng tamà các Ngài thường tự tại. Còn chúng ta thì ăn cơm, mặcáo đi lại mà thường vọng tưởng điên đảo. Như vậy cũngsống cũng hoạt động như nhau mà một bên chân, một bênvọng. Tuy nhiên nếu không hiểu khi ở gần các Ngài ta sẽxem thường, cho rằng các Ngài khờ khạo không phân biệt lanhlẹ như chúng ta, nhưng cái phân biệt nhạy bén đó sẽ đưachúng ta đi trong đường sanh tử luân hồi. Hằng ngày cácNgài ăn cơm chỉ biết ăn cơm, mặc áo chỉ biết mặc áo,chúng ta ăn cơm thì thấy cơm ngon cơm dở, mặc thì khen đẹpchê xấu v.v... Bởi biết theo sanh diệt cho nên đi trong sanhdiệt. Biết phân biệt nhạy bén dường như khôn, nhưng đólà cái khôn của người dại. Biết sống an nhiên với tâmbất sanh bất diệt thoạt nhìn như ngu ngốc, nhưng đó làcái dại của người khôn, người biết sống nên được anlạc thảnh thơi. Người tu phải xét kỹ chỗ này.NgàiNam Nhạc Hoài Nhượng đến tham vấn Lục Tổ, Tổ hỏi:-Ở đâu đến ?-Ở Tung Sơn đến.
Tổhỏi:
-Vật gì đến ?
Sưthưa:
-Nói in tuồng một vật tức không trúng.
Nóinăng đó là gì ? Cái gì biết hỏi đáp ? Ðây chínhlà Pháp thân của mọi người, là tự tánh chân không, hayứng ra âm thanh, miệng lưỡi mà hỏi đáp. Ðấy là tánh chânkhông người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, ở Thánhchẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, không đổi khác, không cũmới, không quá khứ hiện tại vị lai, rỗng rang bình đẳng,trong lặng tròn sáng, từ vô lượng kiếp đến nay đặc biệthiện tiền, gió thổi chẳng động, mưa rưới chẳng ướt,lửa đốt chẳng cháy, mặt trời rọi nóng chẳng khô, chùynhọn dùi chẳng phủng, đao cắt chẳng đứt, thuốc nhuộmchẳng đen, đá mài chẳng mòn, sương rét chẳng lạnh, nướctưới chẳng thấm, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không mộtvật, không thể nắm bắt, lồ lộ trước mắt, rõ ràng soikhắp. Ðây là Pháp thân thanh tịnh chân không, không hình khôngtướng, tròn đồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ. Songhư không rộng lớn, bao trùm cả trời đất, xuyên suốt núisông, tột cả xưa nay, vững mãi như vậy. Nên biết, núi sông,quả đất trọn là hoa đốm trong hư không, sắc thân bốnđại là âm dương huyễn hóa, "phàm cái gì có tướng đềulà hư vọng".
Nóinăng đó là gì ? Cái gì biết hỏi đáp ?Ðây đặt câu hỏi cái gì biết nói năng, cái gìbiết hỏi đáp. Nếu không có cái biết ẩn nơi thân thì làmsao khiến ngôn ngữ phát ra để thưa hỏi. Nhưng khi phát rathưa hỏi rồi lập thành câu và phân biệt đúng sai v.v...là đã cách xa cái biết rồi ! Ðây chính là Pháp thân củamọi người, là tự tánh chân không.Pháp thân hay ứngra âm thanh ở miệng lưỡi mà có hỏi đáp. Như vậy tấtcả những hoạt động của chúng ta đều có Pháp thân ngầmtrong đó. Trong kinh Lăng Nghiêm gọi là chơn tâm, nhưng khônggiữ tự tánh chơn tâm nên dấy khởi vọng động, do đó khihỏi đáp thêm nhiều phân biệt, sanh ra vui buồn bực bộiv.v... cách quá xa cái biết không sanh diệt của mình. Ðấylà tánh chân không người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành,ở Thánh chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, không đổi khác,không cũ mới, không quá khứ hiện tại vị lai, rỗng rangbình đẳng, trong lặng tròn sáng, từ vô lượng kiếp đếnnay đặc biệt hiện tiền, gió thổi chẳng động, mưa rướichẳng ướt, lửa đốt chẳng cháy, mặt trời rọi nóng chẳngkhô, chùy nhọn dùi chẳng phủng, đao cắt chẳng đứt, thuốcnhuộm chẳng đen, đá mài chẳng mòn, sương rét chẳng lạnh,nước trời chẳng thấm, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, khôngmột vật, không thể nắm bắt, lồ lộ trước mắt, rõ ràngsoi khắp.Ngài nói tánh chân không của chúng ta sẵn đủhiện tiền, không có gì phá hoại nó được, do đó đứcPhật thường lấy chất kim cang cứng chắc để dụ cho nó.Vì kim cang là chất kim loại có thể phá vỡ các kim loạikhác, mà các kim loại khác không thể phá hoại được chấtkim cang. Như tôi và quí vị đều có cái hay thấy, vậy cóai cắt đứt hay nhuộm đen, dùi thủng cái hay thấycủa tôi và của quí vị được không ? Nếupháhoại không được mới là cái thật của mình.
Vídụ có một buổi chiều chúng ta thấy bầu trời phủ mâyđen chuyển mưa. Thấy như vậy thì ngang đó không có lỗigì cả. Nếu thêm ý nghĩ có mây đen chắc chắn trời sẽmưa, nhưng một lát sau gió thổi, mây tan dần và trời khôngmưa. Hoặc nghĩ rằng tuy có mây đen nhưng có lẽ trời khôngmưa vì một lát gió thổi mây tan hết. Tuy nhiên trời vẫnđổ mưa ầm ầm. Như vậy khi xúc cảnh chúng ta không thêmmột ý nghĩ phân biệt phán đoán, cảnh ở trước mắt thếnào thấy như thế ấy, không thêm bớt gì cả thì tâm an nhiênsáng suốt. Nếu thấy cảnh mà chúng ta đem những kinh nghiệmcủa quá khứ để so sánh với cái thấy hiện tại, rồi quyếtđịnh đúng sai; thì đã rơi vào cái đối đãi hai bên. Hễcòn đối đãi là còn sanh diệt, còn sanh diệt là còn khổđau. Chúng ta thấy mây đen thì biết mây đen, thấy mây trắngthì biết mây trắng, gió thổi qua thì biết gió thổi qua v.v...Như vậy đủ rồi, đừng kèm theo cái kinh nghiệm quá khứđúng sai chi cả. Qua đoạn nàychúng ta thấy ngài Chân Nguyên nói hết tình hết lýcho chúng ta hiểu, nhận ra cái sẵn có của mình không gì pháhoại được, nó hiện tiền trước mắt, rõ ràng soi khắp,thế mà có mấy ai chịu nhận.
Ðâylà Pháp thân thanh tịnh chân không, không hình không tướng,trònđồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ.Vì Pháp thân không hình tướng nên nó trùm khắp hiện tiền,không thiếu vắng lúc nào. Song hư không rộng lớn, bao trùmcả trời đất, xuyên suốt núi sông, tột cả xưa nay, vữngmãi như vậy. Nên biết, núi sông, quả đất trọn là hoa đốmtrong hư không, sắc thân bốn đại là âm dương huyễn hóa,"phàm cái gì có tướng đều là hư vọng".Ở trước nóisắc thân tứ đại như hòn bọt ở trong biển, Pháp thân nhưmặt biển. Ðoạn này nói pháp thân trùm khắp không sanh khôngdiệt, núi sông và cả quả địa cầu là cái tướng sanh diệthư ảo như hoa đốm trong hư không. Pháp thân bất sanh bấtdiệt vững chắc không có gì phá hoại được, thân tứ đạido âm dương huyễn hóa hợp thành, song chúng ta chỉ nhận cáitạm bợ giả dối mà quên cái chân thật hiện tiền. Kếđến Ngài dẫn một câu trong kinh Kim Cang: "Phàm cái gì cótướng đều là hư vọng". Có tướng như quả đất tồn tạihàng tỉ năm, nhưng một ngày nào đó nó cũng bể nát. Quảđất sống hàng tỉ năm mà sánh với Pháp thân tuổi thọnó còn nhỏ, huống là sắc thân của chúng ta. Pháp thân vínhư hòn ngọc, sắc thân ví như hạt cát đen thui nhỏ xíu,như vậy đối với hai cái đó người có trí chọn cái nào? Dĩ nhiên là chọn hòn ngọc. Còn chúng ta thì chọn hạt cátnhỏ xíu mà quên hòn ngọc, cho nên đức Phật nói chúng sanhmê muội đáng thương. Nếuchúng ta sáng suốt thì sẽ nhận ra nơi mình có hòn ngọc vôgiá không có gì sánh bằng.
Chânkhông thì không tướng, muôn kiếpcòn mãi, đó là thân vô vi, là thân chân Phật. Bởi thậttướng của chân Phật vốn là chân không diệu hữu, thậttướng của chân không là thật tướng vô tướng. Không tướngchẳng tướng, đó gọi là thật tướng. Thật tướng củapháp thân ấy, trong lặng tròn sáng, rỗng rang rộng lớn, baogồm một thể, tròn đồng thái hư trùm cả mười phươngđủ khắp muôn vật.
Chânkhông thì không tướng, muôn kiếp còn mãi, đó là thân vôvi, là thân chân Phật. Bởi thật tướng của chân Phật vốnlà chân không diệu hữu, thật tướng của chân không là thậttướng vô tướng, không tướng chẳngtướng, đó gọi là thật tướng.Ðoạn này có những từ ngữ hơi khó hiểu; không tướng,chẳng tướng, đó gọi là thật tướng.Không tướng tứclà không có tướng, chẳng tướng là sao? Chẳng tướng tứclà có tướng. Ðã là không tướng lại còn có tướng làmchi ? Bởi vì ở đây dùng từ ngữ chân không diệu hữu, chânkhông là không tướng, diệu hữu thì có tướng. Chúng ta sốngđược với Pháp thân, từ Pháp thân sẽ lưu xuất ra tấtcả pháp thế gian đó là diệu hữu. Hữu mà diệu thì hữuđó nằm trong phần tỉnh giác, hữu mà không diệu là hữucủa thế gian sanh diệt. Do đó nói chân không diệu hữu làkhi ta ngộ được lý chân không rồi thì mọi hành động tạotác của ta đều phù hợp với tánh giác nên gọi là diệuhữu. Như vậy người tu ngộ được chân không rồi chẳngphải là không ngơ, mà vận dụng diệu hữu làm lợi ích chochúng sanh, chuyển hóa chúng sanh mê lầm trở thành giác ngộsáng suốt, tất cả việc làm đó đều là diệu hữu, trởvề với chân không thì mọi hành động biến thành diệu hữu,đi trong tất cả loại, làm tất cả việc để lợi ích chomọi người đó là diệu dụng của chân không. Cho nên đâynói "thật tướng của chân Phật vốn là chân không diệuhữu". Thật tướng của Phápthân ấy, trong lặng tròn sáng, rỗng rang rộng lớn, bao gồmmột thể, tròn đồng thái hư trùm cả mười phương, đủkhắp muôn vật.Ðoạn này Ngài nói thêm để giải thíchvề chân không diệu hữu.
Songtừ thuở ban sơ chưa có trời đất, chưa có cha mẹ, mộtthể chân không, thái hư bình đẳng, lặng lẽ sáng rỡ nhưvậy, tự tại viên dung. Trạng thái đó, không hình không tướng,không đầu không đuôi, không trong không ngoài, không nhỏ khônglớn, không một không khác, không sáng không tối, không thôkhông tế, chẳng phải không chẳng phải có, chẳng phải mởchẳng phải đóng, chẳng phải tụ chẳng phải tan, chẳngphải thành chẳng phải hoại, chẳng phải động chẳng phảitịnh, chẳng phải lại chẳng phải qua, chẳng phải sâu chẳngphải cạn, chẳng phải ngu chẳng phải trí, chẳng phải tráichẳng phải thuận, chẳng phải thông chẳng phải bít, chẳngphải giàu chẳng phải nghèo, chẳng phải mới chẳng phảicũ, chẳng phải tốt chẳng phải xấu, chẳng phải cứng chẳngphải mềm, không sanh không diệt, không qua không lại, khôngđi không đứng, không ngồi không nằm, không già không trẻ,không cao không thấp, không tên không hiệu, không mặt khôngmày, không nam không nữ, không sắc không thanh, không gan khôngphổi, không thịt không máu, không xương không tủy, khôngtóc không da, không xanh không vàng, không đen không trắng, khôngxuân không hạ,không thu khôngđông, không thời không tiết, không số không kiếp, khôngđầu không cuối, không trước không sau, không trên không dưới,không giữa không bên, không trong không ngoài, không kia khôngđây, không sanh không tử, không động không lay, không dàikhông ngắn, không vuông khôngtròn,khôngtội không phước, vôlậu vô vi, không tâm không tánh, không lẻ không đôi, khôngđược không mất, bởi lược bày tướng đối đãi mà tạmnói, đâu thể nói tột hết ý nghĩa kia.
Ðoạnnày Ngài nêu lên nhiều cái chẳng phải rất là dài, nhưngtóm lại chỉ có một ý chính là pháp thân không tướng mạonên không có tất cả những tướng đối đãi như ở trên.Tất cả những cái đối đãi như giàu nghèo, ngu trí v.v...không dính dáng gì đến pháp thân, nếu chúng ta còn dính mắcnhững thứ đó mà đòi chứng Pháp thân thì không bao giờđược, khi nào dứt hẳn tâm đối đãi thì pháp thân hiệntiền. Nhưng chúng ta thì quen sống theo cái hai bên, giả sửnhìn người nào đó thì chúng ta liền phê phán: người đóđẹp xấu, lùn cao, đen trắng v.v... thêm nữa là có duyênvới mình hay không có duyên, bận theo những cái đối đãi,cho nên chúng ta quên mất cái thật của mình. Nếu từ sángtới chiều chúng ta thấy người thấy vật mà không khởitâm phân biệt đối đãi thì tâm chúng ta không dao động vìhơn thua yêu ghét. Như vậy ở ngay cuộc đời này người tỉnhcũng sinh hoạt bình thường, sinh hoạt trong tỉnh táo sángsuốt thì được an vui, còn người mê cũng sinh hoạt, nhưngsinh hoạt trong mê tối, nên gặp việc bất như ý thì sanhbuồn phiền đau khổ. Như thấy tiền của, họ cho rằng tiềncủa là quí, do đó lòng tham dấy khởi thúc dục làm nhiều,nhưng làm bị thất bại hay gặp chướng ngại thì bị đaukhổ. Xét cho cùng cái gốc của khổ đau là do nhìn sự vậttheo chiều đối đãi sanh diệt, theo đối đãi là theo cáisi mê, do si mê nên lòng tham dấy khởi, tham không được thìnổi sân. Si tham sân luôn luôn xoay vần mãi trong tâm, khiếncho chúng ta sanh tử luân hồi không dứt.
Lìatất cả tướng rõ một chẳng một, gọilà"một vật" lại chẳng trúng lý. Rõ vô trụ chẳng phải một,nhận pháp môn chẳng hai. Pháp thân chân thật vốn không hìnhtướng, tròn sáng rộng lớn, trong lặng như thái hư, rộngthì pháp giới chẳng thể chứa, hẹp thì một mảy lông khôngchỗ lập. Nếu y cứ nơi thật tế thì vốn khôngcó sắc thân, người ngộ được thì hư không chẳng sanh hoa.Người rõ suốt thì hoàn toàn không một điểm che mờ. Vôvị chân nhân rành rành đối trước mắt, chớ chấp vào sắcthân, thân như điện chớp; chớ tham đắm phước báo, phướctợ mây nổi, sanh tử toàn không, đâu có gì đến đi, giảgọi là chúng sanh thôi. Bỏ sự nghiệp đi xuất gia, ẩn náunơi núi rừng giác ngộ gọi là tu hành. Tự giác, giác tha,và giác hạnh được viên mãn gọi là Phật.
Phápthân thì lìa tất cả tướng, rõ một chẳng phải một, nênnói một vật cũng chẳng trúng, hay là cái lý một vật cũngchẳng trúng. Rõ vô trụ chẳngphảimột thì nhận ra pháp môn không hai. Như vậy là biết phápmôn không hai mà chẳng phải một. Pháp thân chân thật thìkhông hình tướng, trong lặng sáng suốt rộng lớn như tháihư, rộng thì pháp giới không thể dung chứa, hẹp thì mộtmảy lông không chỗ dựng lập. Chỗ thật tế là chỗ chânthật tức là chân lý. Nếu căn cứ vào chỗ chân thật mànói thì sắc thân vốn không thật, mà người ngộ sắc thânkhông thật thì hư không chẳng sanh ra hoa đốm. Ví dụ trưanắng chúng ta nhìn ra hư không một hồi lâu chúng ta lấy taydụi mắt, thấy ở ngoài trời có những tia chớp chớp. Nhữngtia chớp chớp đó gọi là hoa đốm. Những hoa đốm đó dochúng ta dụi mắt mà thấy chớ nó không thực có trong hưkhông. Pháp thân dụ cho hư không, hoa đốm dụ cho sắc thântứ đại. Chúng ta mê thấy có thân thật dụ cho dụi mắtthấy hư không có hoa đốm. Nếu chúng ta tỉnh thấy đúngchân lý thì sắc thân vốn không thật, chỉ có Pháp thân thênhthang trùm khắp là thật nên nói: y cứ nơi thật tế thìvốn không có sắc thân, người ngộ thì hư không chẳng sanhhoa.Người nào rõ được lý này thì không có gì che mờđược họ. "Vô vị chân nhân" là con người chân thật khôngcó ngôi vị chỉ cho Phật tánh, nó hiện rành rành trướcmắt chúng ta, không ở đâu xa hết, chúng ta đừng mắc kẹtvào sắc thân, vì sắc thân chợt có chợt không, như lằnđiện chớp xẹt qua rồi mất, không bền không thật. Ngàinhắc chúng ta tu không nên quá tham đắm phước báo, vì phướcbáu như mây nổi. Nhưng bây giờ đa số Phật tử ham tu phướchơn, có người quan niệm rằng rán làm việc phước thiện,đời này sung sướng, đời sau sung sướng hơn. Với cái nhìncủa Ngài thì phước báo như mây nổi, sanh tử không thậtnên nói sanh tử toàn không, đâu có gì đến đi, danh từ chúngsanh cũng giả lập để gọi vậy thôi. Ngài lại nhắc thêmcho người xuất gia: Bỏ sự nghiệp đi xuất gia, ẩn náunơi núi rừng, giác ngộ gọi là tu hành. Tự giác, giác tha,và giác hạnh được viên mãn gọi là Phật.Người xuấtgia phải tu cho giác ngộ mới xứng đáng gọi là tu hành, chúngta tu lơ mơ thì chưa xứng đáng.
Lạinói:thân ta hiện nay đây, là do bốn đại hòa hợp, dụ như bốncon rắn độc đồng nhốt chung một cái rương; hai con rắnđất và nước tánh nó nặng chìm xuống, hai con rắn gió vàlửa thì tánh nhẹ bay lên, đến lúc tan hoại thì mỗi thứtrở về chỗ của nó. Nghĩa là tóc, lông, răng, móng, da thịt,gân xương, tủy não, cấu bẩn... đều trở về đất; nướcmắt nước mũi, máu mủ, mồ hôi, nước miếng đàm dãi, tinhkhí, đại tiện, tiểu tiện... đều trở về nước; hơi ấmtrở về lửa; động chuyển trở về gió, bốn đại mỗithứ rã tan, thì thân huyễn hiện nay sẽ ở chỗ nào? Rõbiết sắc thân bốn đại, năm ấm nhóm họp rỗng mà nó hiệncó ra; như đá nháng, điện xẹt, khởi diệt chẳng lìa ngayđây mà trở về không.Sóng to nước lặng, vốn tự như, đâu cóđến đi. Sắc thân ngoại vật không thật, như mộng huyễn,không hoa; trong cõi chân tịnh thì pháp thân như vậy, lặngsáng chiếu khắp, thường trụ ở trước mắt.
Ngàinói thân tứ đại của chúng ta giống như bốn con rắn độcnhốt chung ở trong rương. Tôi nói nhốt chung trong cái lu chodễ hiểu, tạm đặt tên cho nó là rắn hổ lửa, rắn nước,rắn hổ mây và rắn hổ đất. Bốn con rắn này ở chung nhưngkhông hợp nhau. Muốn nó hòa hợp, con này không cắn con kia,chúng ta phải tìm cách can ngăn, luôn luôn cung cấp thức ănthức uống đầy đủ để nuôi nó sống, thế mà nó cứ cựlộn với nhau hoài. Chúng ta thì rán tìm đủ cách để hòahợp chúng, song bản chất bốn con rắn nghịch nhau, nên làmcho chúng ta rất gian nan khổ sở. Giả sử chúng ta là ngườibàng quan nhìn thấy người hàng xóm nhốt bốn con rắn trongmột cái lu nuôi nấng tử tế. Bỗng một hôm cái lu bể bốncon rắn chạy mỗi con mỗi nơi. Người nuôi rắn thấy tiếcbèn kiếm bốn con rắn khác đem về nuôi nữa, chúng ta cótức cười không ? Cũng vậy sắc thân tứ đại đất nướcgió lửa hợp thành, chúng ta lo nuôi nấng kỹ lưỡng, ngàyba bữa, cung cấp món ngon vật lạ mà nó ưa thích. Khéo léocách mấy chúng ta cũng không thể làm vừa lòng cả bốn. Giảsử khi thấy trong người nóng, tìm đồ mát ăn vô, nóng hạxuống, nhưng thủy đại tăng lên. Chúng ta vừa lo tìm bốnđại bên ngoài để bồi bổ cho bốn đại bên trong, vừalo cung cấp vừa lo điều hòa từ sáng tới chiều, từ ngàynày sang năm nọ, suốt đời như thế thật là khổ nhọc.Như chúng ta ở trong chùa, khuya thức dậy lo chuẩn bị thứcăn cho buổi sáng; công tác ít tiếng đồng hồ lại lo chuẩnbị ăn trưa; ngồi Thiền vài tiếng lại lo thức uống chobuổi chiều. Lo cung cấp thức ăn thức uống đầy đủ màchưa yên, bốn đại không điều hòa sanh ra bệnh hoạn đủthứ. Bệnh thì phải lo tìm thầy tìm thuốc để điều hòa,cứ lo bồi bổ, điều hòa gìn giữ, nhưng nó đâu có tồntại lâu dài, một ngày nào đó nó cũng tan rã. Giống nhưcái lu bể bốn con rắn chạy mỗi con mỗi nơi. Ðó là hìnhảnh vô thường Phật nêu lên trong kinh Niết Bàn. Cuộc sốngcủa chúng ta giống như "dã tràng xe cát biển Ðông, vô tìnhlượn sóng cướp công nhọc nhằn". Cả cuộc đời làm mộtviệc không có kết quả mà cứ làm hoài ! Ngài nói sắc thânnhư mộng như huyễn như hoa đốm trong hư không, thế mà chúngta cho là quí và cả đời lo cho nó không biết chán, lo hếtđời này lo sang đời khác, cứ chạy đuổi theo nó, rồi khổkiếp này sang kiếp nọ. Nói bốn cái khổ của sanh già bệnhchết, chỉ xét qua cái khổ về thân bệnh cũng đủ chán chườngsợ hãi. Thử hỏi ai có thân mà không có bệnh, mà bệnh làgây chướng ngại cho cuộc sống không phải ít. Nhức đầu,đau bụng, ung thư, đau gan, đau phổi... bệnh nào dù ít dùnhiều đều gây chướng ngại. Những chứng bệnh của thânđều là những hiện tượng nghịch nhau của bốn đại; nónghịch nhau là chúng ta bất an, bất an thì phải tìm cách điềuhòa cho nó được bình an, nhưng bình an tạm thời chớ khôngphải vĩnh viễn. Ta có cố gắng cách mấy cuối cùng bốnđại cũng rã tan. Do đó người tu không nên làm công việccủa người nuôi rắn, mà phải nhận ra pháp thân lặng sángchiếu khắp, thường trụ ở trước mắt, được như thếchúng ta mới thảnh thơi an nhàn. Còn lo bắt bốn con rắn nuôihoài là còn đau khổ, rất đáng thương.
Vốntừ vô vi đến, lại từ vô vi đi.Ở trước đã có câu hỏi: Thân này từ đâu đến, chếtrồi đi về đâu ? Ðáp: Thân này từ vô vi đến, chết từvô vi đi. Ở đây Ngài lặp lại câu đáp trong bài kệ: Vốntừ vô vi đến, lại từ vô vi đi.Vô vi là chỉ cho phápthân bất sanh bất diệt. Như vậy hỏi thân này từ đâu đến? Ðáp: từ chỗ không sanh diệt đến. Chết trở về đâu,trở về chỗ không sanh diệt. Trả lời như vậy chúng ta đừnglầm rồi bị kẹt. Trở về vô vi là khi nào chúng ta khôngcòn tạo nghiệp. Nếu còn tạo nghiệp thì vẫn phải đi trongsanh tử luân hồi. Nay ngộ thân vô vi, thường trụ chỗvô vi.Nghĩa là ngộ cái lý không sanh diệt thì thườngtrụ ở chỗ không sanh diệt tức là hằng sống với phápthân.Vốntừ vô vi đến,Lạitừ vô vi đi.Nayngộ thân vô vi,Thườngtrụ chỗ vô vi.Âm:Bổntùng vô vi lai,Hoàntùng vô vi khứ.Kimngộ vô vi thân,Thườngtrụ vô vi xứ.
Bàikệ này của ngài Phó Ðại Sĩ chớ không phải của ngài ChânNguyên.Cóvật trước trời đất, không hình vốn lặng yên.Khi trời đất chưa sanh là đã có pháp thân. Pháp thân khônghình tướng, vốn lặng lẽ yên tịnh. Hay làm chủ muônvật, chẳng theo bốn mùa dời.Nghĩa là Pháp thân (vô vi)của chúng ta nó có trước trời đất, nó không tướngmạo mà thường yên lặng, nó làm chủ muôn vậtvà không bị thời tiết bốn mùa chi phối.Cóvật trước trời đất,Khônghình vốn lặng yên.Haylàm chủ muôn vật,Chẳngtheo bốn mùa dời.Âm:Hữuvật tiên thiên địa,Vôhình bổn tịch liêu.Năngvi vạn vật chủ,Bấttrục tứ thời diêu.PhóÐại Sĩ
Cóhình, giả chóng mất, không tướng, thật lâu bền.Cái gì có hình tướng thì hư dối, vì hư dối nên không tồntại lâu dài, cái gì không có tướng mạo thì tồn tại bấtdiệt. Vậy chúng ta kiểm lại trong thân chúng ta xem cái nàocó hình tướng, cái nào không hình tướng. Sắc thân củachúng ta do bốn đại duyên hợp có hình tướng, cho nên nóhư dối chóng hoại. Nhưng nơi thân chúng ta có cái hay thấyhay nghe, cái đó không có hình tướng, cho nên không có gìphá hoại được, đó là Pháp thân chân thật của mỗi người.Trờiđất mặc tạo hóa, Pháp thân thường trụ luôn.Ở trongkhoảng trời đất này mặc cho tạo hóa xoay vần,nhưng Pháp thân thì thường trụ không mất.Pháp thân tức là cái hay thấy hay nghe của mỗi người.Cóhình, giả chóng mất,Khôngtướng, thật lâu bền.Trờiđất mặc tạo hóa,Phápthân thường trụ luôn.Âm:Hữuhình giả tốc vong,Vôtướng thật cửu trường.Cànkhôn nhậm tạo hóa,Phápthân nguyên trụ thường.
Bàinày diễn tả Pháp thân thường trụ. Trước trời đất,mẹ cha chưa sanh, tịch quang tròn lặng ấy nguồn linh.Phápthân có trước khi có trời đất, trước khi cha mẹ sanh, Phápthân lặng lẽ sáng suốt nên gọi là nguồn linh. Rộng lớnvô vi trùm pháp giới, có duyên đáng độ ứng theo hình.Pháp thân không tướng mạo nhưng rộng lớn trùm cả phápgiới, tùy theo chúng sanh nào có duyên thì ứng thân hóa độ,tùy theo loại, theo hình tướng mà hiện ra. Tóm lại, Phápthân chưa từng sanh diệt nên nó có trước trời đất, trướckhi cha mẹ sanh thân này, nó lặng lẽ trong sáng trùm khắptất cả, và tùy duyên ứng hiện thân để hóa độ chúngsanh.Trướctrời đất, mẹ cha chưa sanh,Tịchquang tròn lặng ấy nguồn linh.Rộnglớn vô vi trùm pháp giới,Códuyên đáng độ ứng theo hình.Âm:Thiênđịa phụ mẫu vị sanh tiền,Tịchquang viên trạm thị linh nguyên.Quảngđại vô vi chu pháp giới,Ứngvật tùy hình độ hữu duyên.
Sángsiêu nhật nguyệt vững như như, soi suốt càn khôn rực tháihư.Pháp thân sáng suốthơn mặt trời mặt trăng, nó an trụ không có gì làm cho nódao động, nên nói vững như như. Mặt trời mặt trăng cònbị mây che khuất, còn pháp thân thì sáng soi cả càn khônvũ trụ không có chỗ nào thiếu vắng. Phật với chúngsanh đều một tánh, tròn đồng không thiếu cũng không dư.Phật và chúng sanh đồng một tánh sáng suốt, không thiếukhông dư. Như một trăm ngọn đèn đồng một tánh sáng, ánhsáng giống nhau nhưng hình tướng của ngọn đèn khác nhau.Cũng vậy, Phật và chúng sanh tướng mạo khác nhau, nhưng tánhgiác thì đồng nhau.Sángsiêu nhựt nguyệt vững như như,Soisuốt càn khôn rực thái hư.Phậtvới chúng sanh đều một tánh,Trònđồng không thiếu cũng không dư.Âm:Minhsiêu nhựt nguyệt trấn như như,Chiếutriệt càn khôn thước thái hư.Phậtdữ chúng sanh giai nhất tánh,Viênđồng vô khiếm diệc vô dư.
Sángngời một kẻ chủ nhân ông, lặng yên chẳng động ở Linhcung.Nghĩa là chúng tađều có tánh sáng suốt rạng ngời, tánh sáng suốt rạngngời đó là chủ nhân ông của chúng ta. Cho nên Thiền sưSư Nhan suốt ngày ngồi trên tảng đá thỉnh thoảng tự gọi:"Ông chủ !". Lại ứng thinh: "Dạ!". Bèn bảo: "Tỉnh tỉnh,chớ bị người lừa gạt !", để nhắc nhở mình đừng quênông chủ sáng suốt của mình. Ông chủ đó sáng suốt, màlặng yên ở Linh cung. Linh là sáng suốt, tánh giác sáng suốtlặng lẽ nên nói là Linh cung chớ không có cung nào khác cả.Trongđây nếu được không ngăn ngại, bản thể thiên nhiên tựrỗng không.Nếu ở trong chỗ chân thật không ngăn ngạithì bản thể tự rỗng không, rỗng không mà sáng suốt chớkhông phải không ngơ. Những bài trênnóivềPháp thân,kế đến Ngài phối hợp tinh thần Tịnh độ.Sángngời một kẻ chủ nhân ông,Lặngyên chẳng động ở Linh cung.Trongđây nếu được không ngăn ngại,Bảnthể thiên nhiên tự rỗng không.Âm:Hoànghoàng nhất cá chủ nhân ông,Tịchnhiên bất động tại Linh cung.Ðãnđắc thử trung vô quái ngại,Thiênnhiên bản thể tự hư không.
Dèà tự tánh vốn như như, rỗng lặng sáng tròn rực tháihư.Tự tánh Di Ðà làchỉ cho tánh giác của chính mình, tự tánh ấy tuổi thọvô lượng, vì nó vốn như như, ánh sáng vô lượng vì nóvốn tròn sáng. Hơn nữa tự tánh Di Ðà rỗng rang lặng lẽmà sáng rực cả bầu trời. Cha mẹ chưa sanh, mày mặt thật,trở về đâu chẳng gặp y ư ?Mày mặt thật là chỉ tựtánh, khi cha mẹ chưa sanh đã có mày mặt thật rồi. Khi trởvề tức là khi chúng ta quay lại với chính mình thì gặp đượcmày mặt thật chớ có gì lạ đâu. Bản tánh sáng suốt, Phápthân, tự tánh Di Ðà, chủ nhân ông v.v... bao nhiêu tên gọicũng đều chỉ cái ấy. Nếu chúng ta nhận ra tánh giác thìmọi điều mong muốn đều được viên mãnnhư ý.Dèà tự tánh vốn như như,Rỗnglặng sáng tròn rực thái hư.Chamẹ chưa sanh, mày mặt thật,Trởvề đâu chẳng gặp y ư ?Âm:Dèà tự tánh bổn như như,Khôngtịch viên quang thước thái hư.Phụmẫu vị sanh chân diện mục,ÐôngTây qui khứ tất phùng cừ.
Bàikệ này nguyên bản chữ hán. Hai câu Quang minh lặng chiếukhắp hà sa, phàm Thánh đồng về chung một nhàlà hai câuđầu của bài kệ tám câu của Tú Tài Trương Chuyết trìnhkiến giải. Ở đây ngài Chân Nguyên mượn hai câu đầu củaTú Tài Trương Chuyết, rồi Ngài thêm hai câu sau. Ngài dẫncái thấy của người xưa cộng với cái thấy của mình đểdiễn tả Pháp thân bất diệt. Ngài nói Pháp thân sáng suốtlặng lẽ chiếu soi khắp cả thế gian, ai cũng có Pháp thânnên nói phàm Thánh đồng chung một nhà, pháp tánh viên dungtrùm sát hải, lặng trong thường trụ tát-bà-ha.Pháp tánhchỉ cho Pháp thân của mọi người, nó trùm khắp cõi nướcnhiều như biển cả, nó lặng lẽ trong sáng mà thường trụviên mãn. Ý Ngài nói trong bài kệ này là tất cả chúng taai cũng có sẵn pháp tánh, pháp tánh ấy sáng suốt trùm khắpnên nói là chung một nhà. Nếu nhận được nó thì mọi điềumong muốn được như ý viên mãn.Quangminh lặng chiếu khắp hà sa,PhàmThánh đồng về chung một nhà.Pháptánh viên dung trùm sát hải,Lặngtrong thường trụ tát-bà-ha.Âm:Quangminh tịch chiếu biến hà sa,PhàmThánh đồng quy cộng nhất gia.Pháptánh viên dung chu sát hải,Trạmnhiên thường trụ tát-bà-ha.
Mộtcái xưa nay, một cái không, trong không ẩn hiện thể lạiđồng.Nghĩa là cái màtừ xưa nhẫn đến ngày nay nó không có hình tướng, có khiẩn có khi hiện mà bản thể giống nhau. Không đầu khôngcuối không bờ mé, thường lặng sáng luôn thường biến thông.Trải qua ba thời quá khứ hiện tại vị lai nó không có giớihạn, nó thường trong lặng thông suốt không ngăn ngại. Ðólà diệu dụng của Pháp thân.Mộtcái xưa nay, một cái không,Trongkhông ẩn hiện thể lại đồng.Khôngđầu không cuối không bờ mé,Thườnglặng sáng luôn thường biến thông.Âm:Nhấtcá tùng lai nhất cá không,Khôngtrung ẩn hiện thể hoàn đồng.Vôđầu vô vĩ vô biên tế,Thườngtịch thường quang thường biến thông.
Trongánh tịch quang viên mãn giác, trên đảnh Tỳ-lô mặc tung hoành.Ánh tịch quang là ánh sáng trong trẻo sáng suốt chỉ cho tánhgiác viên mãn của chúng ta, nên gọi là viên mãn giác. Tỳ-lôlà Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân, nếu sống được vớiPháp thân thì ngang dọc tự do không có gì ngăn ngại, tứclà sống với ông Phật của chính mình thì được tự do tựtại. Hiện tại Như Lai luôn đối diện, tùy cơ cảm đếncứu quần sanh.Như Lai luôn đối diện tức là Phật hiệnnơi tai, nơi mắt... Ở tất cả các cơ quan đều có Phậtmà chúng ta không biết. Phật hiện tiền không lúc nào thiếuvắng, đầy đủ diệu dụng tùy theo căn cơ, tùy theo cảmứng mà cứu độ chúng sanh.Trongánh tịch quang viên mãn giác,Trênđảnh Tỳ-lô mặc tung hoành.Hiệntại Như Lai luôn đối diện,Tùycơ cảm đến cứu quần sanh.Âm:Thườngtịch quang trung viên mãn giác,Tỳ-lôđảnh thượng nhậm tung hoành.Ðươngxứ Như Lai hằng đối diện,Tùycơ phó cảm cứu quần sanh.
Tịnhđộ rành rành ngay trước mắt, chẳng nhọc khảy tay đếnTây thiên.Chúng ta tu cứ ngỡ rằng Tịnh độ ở cõi Cực-lạcphương Tây và mong cầu về bên ấy. Ở đây Ngài nói Tịnhđộ ở ngay trước mắt. Thế nào là Tịnh độ ở trướcmắt ? Tại chúng ta đang sống trong phiền não nên nhìn cáigì cũng thấy phiền não mà không thấy Tịnh độ. Ví dụngày nào trời nắng nóng nực, chúng ta than: trời nóng quá,phải đi tưới cây kiểng, phải đổ mồ hôi... khổ cựcquá ! Trời đổ mưa chúng ta than: trời mưa đường sá lầylội, đi lại khó khăn, đi chơi không được... Như vậy nắngkhông ưa mà mưa cũng không chịu, chúng ta chỉ thấy phiềnnão chớ đâu có thấy Tịnh độ ! Lại thêm hôm nay nhìn ravườn thấy cây kia khô cành, cây nọ bị sâu ăn, phải losăn sóc v.v... khổ quá ! Nhiều lúc nhìn cảnh vật tôi liêntưởng đến những chuyện như trên cũng thấy tức cười.Thiên nhiên rất là vô tư, đâu có vui buồn, sướng khổ,thời tiết cũng vô tư mưa nắng, cây cối đủ duyên thì tươitốt, thiếu duyên thì sâu bệnh. Tại chúng ta lúc nào cũngmuốn tất cả cảnh vật phải theo ý của mình. Do tâm quátham cầu như ý nên lúc đi chơi thì muốn trời nắng ráo,lúc tưới cây thì muốn trời mưa to để khỏi tưới cho khỏe.Chúng ta muốn nhiều quá, muốn không được thì sanh phiềnnão rồi trách trời trách đất. Trời đất chẳng có tâmtranh giành hơn thua, thế mà chúng ta còn không bằng lòng, huốnglà những người phàm sống chung quanh mình, họ có lúc khỏelúc mệt, khi vui khi buồn, làm sao vừa ý mình được ! Lúcmình vui thấy người khác buồn là bực bội, lúc mình buồnthấy người khác cười cũng tức. Ðối với thiên nhiên chúngta không vừa ý, đối với người chung quanh chúng ta khôngbằng lòng, làm sao ta thấy Tịnh độ ở trước mắt. Nếuchúng ta chịu khó tu, gỡ những phiền não bỏ đi thì nhìncái gì cũng đẹp, trời mưa thì có vẻ đẹp của trời mưa,trời nắng có vẻ đẹp của trời nắng. Người vui có vẻđẹp của người vui, người buồn có vẻ đẹp của ngườibuồn, thiên nhiên có quyền mưa nắng, người đời có quyềnbuồn vui. Nếu mình ôm phiền não nhìn trời đất thiên hạthì thấy cái gì cũng phiền não cả. Ở chung năm bảy chụcngười, đi ra đi vào đụng vớinhau,cả ngày buồn giận, tu như vậy bao giờ hết phiền não?Tu không khó, khó là tại chúng ta mang cặp kính màu phiềnnão, nếu chịu gỡ cặp kính phiền não để xuống thì chúngta thấy Tịnh độ ở trước mắt. Ví dụ chúng ta muốn yêntĩnh nên tìm chỗ vắng ngồi, chợt có người đến vỗ vaihỏi chuyện. Mình đang muốn yên mà lại vỗ vai hỏi chuyệnlàm mất sự yên tĩnh, nên nổi giận. Bị vỗ vai đã khôngyên rồi, mà nổi giận lại càng bất an. Thôi thì ngườita vỗ vai hỏi chuyện, mình trả lời câu hỏi của người;từ tâm thanh tịnh lưu xuất nói năng thì đâu có lỗi. Nếugặp người hỏi chuyện tào lao, hơn thua phải quấy thì tachỉnh lại đừng theo là tốt. Khéo biết tu thì trên thếgian này mở mắt nhìn người nhìn cảnh đâu đâu cũng làTịnh độ. Nếu không biết tu cứ đeo mang phiền não thì nhìnđâu cũng thấy khổ: Thấy người vui mình có tâm sự buồncho nên bực bội là khổ. Mình đang vui thấy người khác mặtmày bí xị, mình không hài lòng cũng khổ. Như vậy ngườiở ngoài làm cho ta khổ hay chính ta nhìn người qua cặp kínhphiền não của mình mà khổ ? Hơn nữa vui buồn là chuyệncủa mỗi người, tại sao mình vui buồn cũng muốn cho ngườivui buồn theo mình? Xét kỹ ở thế gian này không ai giốngai, mặt mày không giống, cá tính không giống, người ưa cáinày kẻ thích cái kia. Ngồi ăn chung một bàn, người thíchđậu hũ, kẻ ưa rau muống luộc chấm tương... Khẩu vị khôngai giống ai. Như vậy muốn người giống mình, họ không giốngthì phiền não có vô lý không? Chúng ta phải gỡ cặp kínhphiền não thì thấy cõi Tịnh độ ở trước mắt, thấy Tịnhđộ trước mắt thì khảy móng tay là thấy cõi Tây phươngliền.Phápthân trang trọng siêu ba cõi, hóa hiện Di Ðà ngồi chín sen.Nếu thấy Phật ngồi chín phẩm tòa sen, đó là thấy Phậthóa thân. Phật pháp thân thì trùm khắp vượt qua ba cõi, khôngcó chia cấp bậc. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy việctu hành không phải đi tìm ở đâu xa, mà ngay ở trước mắt.Ngày nào không có phiền não thì người vật xung quanh mìnhđều tốt đẹp. Còn ngày nào phiền não thì người vật xungquanh mình đều xấu xa, thấy người nào cũng dễ ghét, thấyvật gì cũng không bằng lòng. Như vậy là do phiền não làmgốc, khiến cho người vật xung quanh xấu xa đen tối.Tịnhđộ rành rành ngay trước mắt,Chẳngnhọc khảy tay đến Tây thiên.Phápthân trang trọng siêu ba cõi,Hóahiện Di Ðà ngồi chín sen.Âm:Tịnhđộ phân minh tại mục tiền,Bấtlao đàn chỉ đáo Tây thiên.Phápthân nghiễm hỷ siêu tam giới,Hóahiện Di Ðà tọa cửu liên.