Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IV- Giác ngộ và giải thoát

25/04/201105:57(Xem: 5066)
IV- Giác ngộ và giải thoát

THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG
Thích Thông Huệ

Chương 3
CHỨNG NGHIỆM THIỀN

IV- GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT:

Ý nghĩa của sự tu hành, cũng là mục tiêu tối hậu mà người tu luôn nhắm đến, là Giác ngộ và Giải thoát. Giác ngộ là thầm nhận ra và sống với Phật tâm sẵn đủ của chính mình, Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc của phiền não và sanh tử. Bậc Giác ngộ thấy rõ muôn loài chúng sanh đều bình đẳng ở Phật tánh, cũng như muôn ngàn đợt sóng, dù có hình dạng khác nhau nhưng cùng bản chất nước. Thân năm uẩn có sanh có diệt, nhưng sanh diệt thế nào cũng không ngoài thể tánh thường hằng. Các Ngài vẫn ở trong trần lao, làm mọi việc lợi ích cho chúng sanh nhưng không bị trần cảnh chi phối, không bị trói buộc bởi kiết sử và những hệ luỵ của cuộc đời. Hơn thế nữa, các Ngài đã thoát khỏi vòng kềm tỏa của nghiệp lực, tự tại trước sanh tử. Đây chính là sự tự do đích thực mà Đức Phật đã thể nhập và muốn truyền trao cho chúng sanh muôn loài.

Tổ Quy Sơn có nói trong một bài Minh:

Thử tông nan đắc kỳ diệu
Thiết tu tử tế dụng tâm
Khả trung đốn ngộ chánh nhơn
Tiện thị xuất trần giai tiệm.

Chỗ kỳ diệu của tôn chỉ nhà Thiền rất khó nắm bắt, nếu dựa vào thức tình phân biệt của phàm phu. Hành giả phải khẩn thiết chín chắn mà dụng tâm. Khéo công phu thì trong ấy chợt nhận ra chánh nhơn tu hành. Đây là thềm bậc đưa hành giả thoát khỏi trần lao, vì tu nhơn vô sanh mới được quả không sanh diệt. Vậy thế nào là tôn chỉ nhà Thiền?

Bài Tín Tâm Minh của Tam Tổ Tăng Xán viết: “Quy căn đắc chỉ, Tùy chiếu thất tông”. Trở về nguồn cội mới đạt yếu chỉ, phóng chạy ra ngoài thì mất bổn tông. Yếu lý của sự tu hành là trở về nguồn cội, tức xoay lại soi sáng chính mình, tự tri ngay nơi thân tâm mình mà nhận ra bộ mặt thật xưa nay. Về nguồn là đời sống nội tu tự tỉnh, tự sống với chân thân, tự bào mòn tập khí, tự buông xả mọi vọng tưởng chấp trước đảo điên. Nắm vững yếu chỉ thì dù tung hoành ngang dọc, hành giả cũng không ra khỏi quỹ đạo tu hành. Nếu không rõ yếu chỉ, mãi cầu giác ngộ ngoài tâm thì dù công phu tinh cần đến mấy cũng không có kết quả như ý; đôi khi còn ngược lại, vì cố ý tạo tác là có ngã tướng. Công phu càng nhiều, ngã chấp càng lớn, càng tăng trưởng tham vọng chứng đắc, càng làm hại cho pháp thân huệ mạng của mình.

Một vị tăng hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ:
- Thân nầy từ đâu đến, lúc chết đi về đâu?
Ngài trả lời :
- Trên trời dù có đôi vành chuyển
Biển cả ngại gì hòn bọt con.

Hai câu kệ rất nên thơ mà trả lời một cách sâu sắc vấn nạn lớn nhất của đời người. Ai cũng muốn biết thực chất của vấn đề sống chết, có luân hồi hay không, chết là hết tất cả hay còn lại những gì? Những bậc đạt đạo đều thấy rõ, dù trên trời đôi vành nhật nguyệt lặn mọc không dừng, cũng chẳng ảnh hưởng gì đến hư không. Biển cả là tự thể, hòn bọt chỉ là biểu tướng; biển cả mênh mông có ngại gì hòn bọt con sinh diệt? Thân năm uẩn như hòn bọt con, dù sanh ra hay chết đi cũng không ảnh hưởng đến Pháp thân thường trụ. Vạn pháp quy tâm, tâm là nguồn cội phát sinh muôn pháp, là bản thể của vũ trụ vạn loại. Trở về bản tâm là đầy đủ trọn vẹn, không thiếu thốn điều gì. Nhà Phật dù có thiên kinh vạn quyển, tám mươi bốn ngàn pháp môn, cũng chỉ có một mục đích duy nhất là chỉ cho mọi người nhận ra bản tâm.

Lục Tổ bảo :”Chỉ luận kiến tánh, không luận thiền định giải thoát”. Thiền tông chỉ cốt cho hành giả trực nhận bản tâm; và đến khi nhận ra tâm thanh tịnh thường nhiên, hành giả mới thật tu nhơn vô sanh, mới bước chân vào cửa nhà Thiền. Có thể nói, khai ngộ là lẽ sống, là cứu cánh của Thiền; không có khai ngộ thì không phải Thiền. Tuy nhiên, khi nào ta còn ý thức về giác ngộ như một đối tượng, thì giác ngộ vẫn còn xa thẳm. Sự ràng buộc về giác ngộ là một căn bịnh nan y của Thiền giả, vì khơi dậy những khát vọng thầm kín, những nỗi ray rứt trăn trở, làm che lấp cái thấy biết như thật về tất cả các pháp.

Một vị Tăng hỏi Quốc sư Huệ Trung:
- Làm sao được thành Phật ?
Sư đáp:
- Phật và chúng sanh đồng thời dẹp đi, ngay đó giải thoát.
- Làm thế nào được tương ưng?
- Không nghĩ thiện ác, tự thấy Phật tánh.

Qua lời dạy trên, mọi ý niệm lưỡng phân đồng thời bị quét sạch, nhà Thiền gọi là “nhổ đinh tháo chốt”. Hành giả bặt mọi vọng tưởng, chặt đứt sắn bìm, trực nhận chân lý.

Có người hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ :

- Cổ nhân nói tức tâm tứcPhật, vì sao không thấy Phật hiện tiền?
Ngài đáp :
- Mổ trai tìm ngọc tuy khó gặp
Xẻ cá kiếm châu nhọc công thôi.

Bắt con trai mổ tìm ngọc, tuy không phải dễ gặp nhưng nếu kiên trì cũng có ngày tìm thấy, vì ngọc vốn có trong con trai. Còn người xẻ cá mong tìm châu, biết bao giờ thấy được? Người tu cũng thế, đã nắm được yếu chỉ tu hành thì cứ bền lòng vững tiến; khi đủ thời tiết nhân duyên sẽ có kết quả không nghi. Còn người tu theo thức tưởng phân biệt, hướng ngoại cầu huyền, cũng như xẻ cá đòi thấy ngọc thì cũng như chơi trò đuổi bóng, chỉ nhọc công thôi. Đức Phật bảo Hãy đến để mà thấy. “Thấy” tức là kiến tánh, là nhận ra bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Giờ phút chứng nghiệm sâu sắc về bộ mặt thật ấy là giờ phút giác ngộ. Và chỉ có những vị đã giác ngộ mới hiểu rõ thế nào là giải thoát.

Giải thoát thật sự là ở đâu? Theo quan niệm thông thường, giải thoát là cởi bỏ sự trói buộc của gông cùm xiềng xích nơi thân hay những mối lo lắng ràng buộc nơi tâm. Đạo Phật chú trọng đến tâm ý, quan niệm giải thoát là làm chủ được tâm, không dính mắc khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Vì không dính mắc nên không tạo nghiệp - kể cả nghiệp thiện và ác, nên thoát khỏi vòng kềm tỏa của phiền não và luân hồi. Kinh tạng Pali đề cập đến hai loại giải thoát, tùy đạo lực của hành giả. Thời giải thoát là sự giải thoát có hạn cuộc về thời gian, không gian. Ví như khi tọa thiền thấy khinh an, lúc ấy hành giả được giải thoát khỏi những kiết sử; nhưng khi xả thiền, những lo toan hệ lụy của cuộc sống lại ùa đến bủa vây. Đó là chỉ giải thoát trong lúc tọa thiền. Các vị Thiền sư đạt đạo, dù vẫn tiếp duyên, vẫn sinh hoạt như người thường, nhưng các Ngài luôn sống với tâm không, nên tự tại thong dong ở mọi nơi mọi lúc. Ấy là Phi thời giải thoát.

Mặt khác, khi nói đến giải thoát, ta thường tưởng tượng một cảnh giới hoàn toàn tịch lặng, không còn dấu vết của phiền não và vọng tình. Bởi vì chúng ta phân biệt hai bên rất minh bạch: Trắng là trắng, đen là đen, không thể lẫn lộn. Nhà Phật không chủ trương như thế. Do trắng mới có đen và ngược lại, cho nên trắng và đen là hai mặt tương tác tương hỗ với nhau; chúng không chống trái nhau mà lại làm thành cho nhau. Đây là ý nghĩa sâu xa của cái nhìn bất nhị, mà nếu quán triệt được, hành giả sẽ thấy thực tại luôn toàn vẹn không thể phân chia. Phàm phu chạy theo vọng tưởng nên bị phiền não chi phối, đó là mê. Nhị thừa lại lầm cho rằng phiền não có thật, là đối tượng cần trừ diệt. Chỉ có Bồ-tát theo Trung Đạo, lúc cần thiết thì ở trong cõi miền tịch lặng của Thánh nhân; khi muốn độ sanh thì thị hiện đến các cõi, hòa quang đồng trần hành Bồ-tát hạnh. Nước sâu vén áo, nước cạn nhón gót đi qua; nước đục giặc khố, nước trong giặc mũ, tùy duyên mà các Ngài du hí làm lợi lạc quần sanh.

Nhà Thiền luôn cảnh tỉnh “Trạm trạm hắc ám thâm khanh”, trạng thái lặng lẽ là hố sâu đen ngòm ; hay “Vô tâm du cách nhất trùng quan”, vô tâm vẫn còn cách một lớp rào. Nếu cho cảnh giới lặng lẽ là lý tưởng, trạng thái vô tâm là cứu cánh rồi muốn ở mãi trong ấy, hoàn toàn cách ly với thế gian, thì đã có sở thủ sở đắc. Từ đó nẩy sinh ý thức chấp có ta là người chứng (Ngã), có trạng thái yên tĩnh là sở chứng (Ngã sở). Dẹp sạch Ngã phàm nhưng lại sa vào Ngã thánh, nên nhà Thiền gọi làø Si định, là nước chết, là hang động của quỷ.

Nói thế, không phải chúng ta bài bác sự lặng lẽ yên tĩnh, rồi mặc tình tạo tác theo duyên. Đời sống ẩn dật là điều kiện cần cho những hành giả sơ cơ để củng cố và phát triển định lực. Những lúc nhập thất, một mình sống trọn vẹn với bản thân là những cơ hội để hành giả phát minh đại sự. Tuy nhiên, cuộc sống không phải là sự bất động miên viễn, mà là sự lưu chuyển sinh động không ngừng. Và trong dòng luân lưu sinh diệt ấy, lại luôn có một trật tự ổn định mà nhà Phật gọi là Sát-na vĩnh cửu. Sát–na vĩnh cửu chỉ có trong giây phút hiện tại, trong cái bây giờ tuyệt đối, khi tâm hành giả hoàn toàn an định mà liễu liễu thường tri. Tất cả những cảnh giới tâm chứng chưa đến mức nầy đều chỉ là Hoá thành chứ chưa phải Bảo sở.

Như vậy, có giác ngộ là có giải thoát. Giải thoát không thể tìm cầu bên ngoài, mà chính là bản tánh của ta. Nếu giải thoát không phải bản tánh của ta thì không thể nào ta giải thoát được. Vì thế, nếu ta có ý niệm đi tìm giải thoát, thì mâu thuẫn sẽ phát sinh từ trong tâm thức, và ý niệm rong tìm ấy sẽ là một ràng buộc mới. Thiền không chủ trương buông bỏ cái nầy để được cái kia, vì cái nầy và cái kia vốn đồng nguồn. Chỉ khi rời bỏ mọi tư tưởng nhị phân và rong tìm, tự tỉnh phản quan những vận hành của thân tâm, thì một lúc nào đó, ta sẽ có cơ hội trực nhận tự tánh thanh tịnh vốn có xưa nay, ta sẽ rõ thế nào là tự do giải thoát.

Tứ Tổ Đạo Tín khi còn là Sa-di, một hôm đến trước Tam Tổ Tăng Xán thưa:
- Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát
Tam Tổ hỏi:
- Ai trói buộc ngươi ?
Ngài Đạo Tín thưa:
- Không ai trói buộc.
- Đã không ai trói buộc, cầu giải thoát làm gì ?
Ngài Đạo Tín nhân đây đại ngộ.

Các vị Thiền sư luôn muốn học nhơn dứt bặt suy tính phân biệt và ý niệm tìm cầu, tự phản tỉnh và trực nhận chính mình. Có lúc các Ngài phải sử dụng nhiều phương tiện quyền xảo tùy đương cơ, chỉ cốt giúp người khai ngộ. Nhiều người đọc một đoạn kinh hay nghe thuyết pháp, tự nhiên cảm nhận một sự rúng động lạ lùng, có lúc chảy nước mắt hay phát cười ra tiếng. Đây là một biểu hiện khai tâm. Chủng tử Thiền có sẵn trong tàng thức, gặp duyên thích hợp nên sống dậy, nẩy mầm. Chúng ta tu, ít nhất trong đời phải có một lần tiểu ngộ, nếu chưa tỉnh ngộ hay đại ngộ. Tu 5-10 năm mà vẫn mịt mù không rõ đường đi, có thể do ta tu sai đường hoặc không có duyên với pháp môn Thiền. Muốn khế hợp lý thật, ta cần tinh tấn hành trì theo đường lối của bậc Thiện tri thức hướng dẫn. Vị ấy chỉ dạy bảo cho chúng ta đường hướng và phương pháp thích hợp, còn đi hay không và đi như thế nào là việc riêng của mỗi người chúng ta.

Tóm lại, Thiền là công phu, là chứng nghiệm ngay từ bản thân hành giả. Những gì người khác trao truyền, kể cả lời dạy của Phật-Tổ, đều chỉ là những kinh nghiệm bên ngoài, chỉ là những bảng hướng dẫn trên đường xe chạy. Muốn thật sự bình an giải thoát, muốn nhận lại con người thật xưa nay, mỗi người phải tự nỗ lực hành trì, tự phiêu lưu vào mảnh đất tâm của chính mình.

Trong cuộc sống thường nhật, chúng ta luôn luôn đối diện với ngoại cảnh, nhiều lúc bị vọng tưởng dẫn lôi, quay cuồng theo các pháp. Nhưng nhờ biết thắp sáng chánh niệm trên từng động thái của thân tâm, ta có thể kịp thời nhận diện và chuyển hoá chúng. Tâm quá khứ đã qua, tâm hiện tại đang trôi chảy, tâm vị lai chưa đến..., tất cả chỉ là những đợt sóng tâm thức trên biển chân như. Đợt sóng tâm thức là vọng tưởng, dù sanh dù diệt cũng không ngoài mặt biển chân tâm. Chứng nghiệm Thiền là nhận ra bản chất toàn diện bất sanh bất diệt của tâm ngay trên từng đợt sóng vọng tưởng sanh diệt. Nếu không hiểu rõ điều nầy, dù ta học Thiền nói Thiền suốt kiếp cũng không tỏ ngộ lý Thiền. Bởi vì, sự chứng nghiệm Thiền không phải là kết quả của việc học nói suông, mà phải trải qua quá trình thúc liễm thân tâm, bằng ý chí kiên định và sự tinh tấn trường kỳ.

 

II- NỘI DUNG THIỀN TẬP:

1- Lộ trình tâm linh:

Trong Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và nơi đến. Nếu không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ, sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân, như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau, nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập thể.

Thiền sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an. Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệm là bước đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc phiền não có tâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Đây lại là cuộc trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc. Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều mức đôï từ thấp đến cao(5).

Chánh niệm là công phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo ý mình. Chánh niệm tự động soi sáng và chuyển hoá mọi cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm, như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.

Kiến tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái uyên nguyên của vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn lui sụt nữa.

2- Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:

Trước tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiền là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài bác việc tọa thiền. Đây là một điều lầm lẫn lớn lao. Đức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiền là cứu cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không hợp lẽ.

Lúc tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài, ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại, nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa, kết hợp với thiền hành.

Tọa thiền là công phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường vắng hay ngoài bãi biễn ..., vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là lối công phu có tính cách tự do, không theo nguyên tắc cố định. Đơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết. Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước chân. Đến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng, thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Đi trong trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của chính mình. Đi thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.

Trong một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang gắp, nhai, nuốt ...ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai – nhai - nuốt...” thì những động tác ấy không thể nào tự nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì như thế trởû thành vô tri, dần dần quên mất sự sống. Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.

Mặt khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa chén, cuốc đất ... cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt; và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong mọi sinh hoạt bình thường.

Các huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu. Những cuộc trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần Tam hòa(6), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận những ý kiến trái ngược... Tất cả đều là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở. Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh đúng mực từ lời nói đến việc làm.

Các bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng. Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh, còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại, mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân, biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.

Có một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận định rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Đó chỉ là tâm lý phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.

Cổ đức nói:
Phiền não khởi giai do đa sự
Thị phi sanh dĩ thị đa ngôn.

Con người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộc và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng ta có mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối, không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiến là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ thực tại. Đạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện và bao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt. Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của mình.

Thiền sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu vô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Nghĩa:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.

Khi biết vạn pháp đều không thật, đều vô thường, thì sự thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại như các Ngài, nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng có sự trầm tĩnh. Trước khi quyết định một việc gì, ta suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và có lập trường vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận. Đời sống của ta sẽ có ý nghĩa dù thọ mạng ngắn hay dài; ta hiến dâng nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến với ta tương đương như thế.

Một số thiền sinh thường thắc mắc: Trong cuộc sống, ai cũng phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia đình. Người tu càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như thế có trái với tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn việc, nhưng các Ngài sắp xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông xả, nên các Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo các Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách chu đáo, làm tròn mọi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, nhưng không dính mắc, thì dù đa sự mà vẫn không phiền não.

3- Một vài ngộ nhận trong công phu:

* Có người cho rằng, tu hành là phải tránh bớt duyên khi chưa triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã biết cách dụng công. Đây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng nếu ta cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền sư khi kiến tánh, thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian gột sạch tập khí, sau đó mới vào cuộc đời giáo hoá chúng nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một mình nơi hoang dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc ốm đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần đông chúng ta đều chấp nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ, tuy kết quả không nhanh chóng bằng người xưa, nhưng được lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm vững pháp tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống với tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt khác ta nương vào người để củng cố lòng tin, ý chí, để được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ dục. Nhiều người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã xong việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền não, có trường hợp sa ngã, uổng một đời tu. Đây không những là kinh nghiệm đối với người xuất gia, mà còn cho những đạo tràng cư sĩ tại gia.

* Có người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới là tu, nên xem thời gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm, do các căn ít tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai đoạn sau, khi công phu đã thuần thục, ta cần tu trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi. Các Thiền sư, khi trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”. Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa thiền, vì chưa kiến tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền tông.

* Một số thiền sinh quan niệm Thiền là cắt đứt mọi hoạt động tâm lý. Đây là lối tu theo kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ cảnh sợ duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính mình; đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào để tránh. Có người lại hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn xưng, thỏng tay vào chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào khổ xứ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng không diễn đạt đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm lãnh hội thực tại phi ngôn. Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự thấu triệt ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.

* Đức Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, ấy là muốn sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể nào chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta hiểu đơn giản rằng, chữ “sẽ thành” có nghĩa là một tương lai nào đó, thì vô hình trung ta có sự vọng cầu mong mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật tâm tại hiện tiền, chứ không phải là một Đấng Cứu thế bên ngoài hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu thiền có tâm mong cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ hãi, thường dễ phát sinh bệnh tật, điên cuồng. Đây là điều chúng ta cần thận trọng ghi nhớ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com