Thích Thông Huệ
Một dịp nào đó trong đời, ta gặp người tự cho mình đã ngộ đạo, chỉ bảo và khuyến khích ta tu hành. Ta rất kính phục biết ơn, thầm tôn kính người ấy là Thiện tri thức của mình. Cũng có khi nghe băng sách hay đọc kinh Phật, ta chợt hiểu ra một điều gì đó thật lạ lùng, thật mới mẻ, như có một chân trời mở rộng trước mắt mình. Ta nghĩ mình đã nhận được lẽ thật tuyệt đối. Những ý nghĩ ấy thật sự đã đúng chưa?
Trong chương nầy, chúng ta sẽ khảo sát nhiều khía cạnh liên quan đến vấn đề Đốn ngộ, một vấn đề trọng đại của người tu, nhất là tu Thiền; mục đích giúp chúng ta nhận định đúng đắn về đường lối tu hành và tinh thần Đốn ngộ, tránh sự đánh giá sai lạc về mình và về người.
I- MỘT VÀI NGỘ NHẬN THƯỜNG CÓ.
1- Lầm lẫn giữa Ngộ và khái niệm về Ngộ:
Thiền sư Trí Nhàn lúc còn ở với Tổ Bá Trượng, tánh thức rất thông minh lanh lợi, nhưng tham thiền không ngộ. Khi Tổ tịch rồi, Sư đến tham vấn Qui Sơn. Qui Sơn bảo:
- Ta nghe ông ở chỗ Tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Đó là do ông thông minh lanh lợi, do ý hiểu thức tưởng, là cội gốc của sanh tử. “Khi cha mẹ chưa sanh”, ông thử nói một câu xem!
Sư bị câu hỏi nầy hoàn toàn mờ mịt. Về liêu, Sư đem hết sách vở đã học qua hằng ngày, xem lại từ đầu để tìm một câu đáp cũng không thể được. Sư tự than: “Bánh vẽ không thể no bụng đói”(13).
Không tìm được lời giải trong sách, Sư đốt tất cả, về làm một ôngTăng thường, làm ruộng nuôi thân. Sau nầy, Sư ngộ đạo nhân lúc cuốc đất, hòn sỏi văng vào thân tre vang lên một tiếng cốc.
Chân lý tuyệt đối ở đâu, trong thân tre hay trong hòn sỏi? Ngày xưa, Sư nhờ suy nghĩ tư lường nên đối đáp tài tình trước Tổ Bá Trượng, nhưng tư biện chỉ là sản phẩm của ý thức. Dùng ý thức tư duy về Đạo, về sự chứng ngộ, thì đó cũng là khái niệm mà thôi.
Nhà Thiền thường dùng hai từ “hoạt ngữ” và “tử ngữ”. Những lời giảng khúc chiết rành mạch dễ làm người nghe hiểu ý, phù hợp với phương pháp sư phạm. Nhưng càng hiểu, người nghe càng sa vào mê cung của lý luận khái niệm, càng lạc vào rừng rậm của tưởng tượng tư duy; vaø như thế, càng xa với thực tại hiện tiền. Những lời giảng ấy là Tử ngữ, từ ngữ chết. Các Thiền sư ngày xưa, khi môn đệ hỏi về yếu chỉ, thường dùng những câu trả lời vô nghĩa hay hành động quái lạ, khiến môn đệ bặt lối suy tư. Nhâïn thì ngay đó liền nhận ra vốn quý ngàn đời, chưa nhận thì ôm một mối nghi, thao thức mãi không thôi. Đó cũng là điều kiện để tâm chuyên chú một vấn đề duy nhất. Lối trả lời như thế gọi là Hoạt ngữ, ngôn ngữ sống. Bởi vì, Ngộ không phải là kết quả của suy nghĩ biện biệt thuộc phạm trù ý thức, mà là sự đột biến trong tâm hành giả, sự chuyển hóa tận gốc rễ, sự thấy biết các pháp bằng trực giác. Ngộ không phải do kiến thức vay mượn bên ngoài mà do công phu thiền tập, khi vọng niệm vắng lặng, tâm hoàn toàn thanh tịnh và tỉnh giác ngay đương xứ. Trạng thái ngộ đạo không nhờ học rộng hiểu nhiều, đôi khi kiến thức bác lãm lại làm chướng ngại cho sự thấy biết như thật, vì thiên kiến thiên chấp của thức tưởng khiến ta không thể nắm bắt thực tại một cách toàn vẹn. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát cho cư sĩ Huệ Năng, người có trực giác Bát-nhã siêu tuyệt mà không truyền cho Thượng tọa Thần Tú, người có trình độ Phật học uyên thâm, cũng vì lý do nầy.
Mặt khác, sản phẩm của thức còn là sự chấp ngã, nên nếu thấy mình có sở thủ sở đắc nghĩa là chưa thực sự ngộ đạo. Người ngộ đạo không bao giờ tự cho mình chứng ngộ, không bao giờ khoe khoang những gì mình thấy biết, hoặc chấp vào những trạng thái mình cảm nhận lúc công phu. Có lúc ta đọc trong kinh sách, thấy mô tả về trạng thái mênh mông phi thời gian, không hình tướng và không thể nhiễm nhơ, là thể tánh chân thật sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Ta nghĩ mình hiểu rõ điều nầy, và từ hiểu là có thể nhận ra thể tánh. Nhưng thể tánh không phải là một khái niệm để tưởng tượng hay thủ đắc, vì nó chính là ta. Thể tánh cũng không phải một nơi chốn để trở về, một vật bên ngoài để nắm giữ, nên không thể suy lý về nó mà phải trực nhận nó ngay thực tại hiêïn tiền.
Hành vi của thức cũng thể hiện bằng sự khiên cưỡng để có định. Sự khiên cưỡng nầy lúc đầu cần thiết khi mới tập tu, vì con trâu tâm còn hoang dã, ta phải kềm cặp, quở mắng nó, không cho buông lung ăn lúa mạ của người. Khi tọa thiền, ta gắng nhận biết vọng để buông và không theo; lúc làm việc ta gắng lôi kéo tâm trở về hiện tại theo tinh thần Chánh niệm. Tất cả công phu đều đòi hỏi phải tác ý, phải gắng gượng. Nhưng khi đã thuần thục, một lúc nào đó ta vượt qua ranh giới giữa gắng gượng và tự nhiên, ta ở vào trạng thái rỗng rang mênh mông, vọng niệm tự lặng mà vẫn rõ ràng thấy nghe hay biết. Đây là trạng thái tự định tự huệ của thể tánh, trạng thái “Tri kiến vô kiến” theo tinh thần của kinh Lăng Nghiêm. Tổ Lâm Tế dạy “Phật pháp không có chỗ để dụng công”, cốt để cảnh tỉnh môn đệ đừng mong đợi có cái thấy siêu tột của Đốn ngộ bằng lối dụng công theo kiểu “đá đè cỏ”.
2- Lầm lẫn giữa Định và Ngộ:
Sau một thời gian tọa thiền tích cực, nhất là khi sử dụng pháp Chỉ như phương tiện điều phục tâm, ta thấy mọi vọng niệm vắng bặt, tâm vô cùng thanh tịnh. Ta có cảm giác vui sướng lạ lùng và muốn níu giữ mãi trong trạng thái nầy; lâu dần ta đâm ra sợ cảnh sợ duyên.
Thiền mặc tọa là phương pháp giúp hành giả bước đầu còn đa tâm, là phương tiện cần thiết để ta điều phục sự biếng trễ của thân tâm và để rèn luyện ý chí. Nhưng nếu mãi đắm mình trong sự khinh an, lâu ngày dễ đưa đến tình trạng khô cằn chết lịm. Nước chết không chứa được rồng. “Nước chết” là sự khô chết của ý thức; “rồng” là sự thấy biết siêu thế của bản tánh thường tri. Các Thiền sư xuất cách như Lục Tổ, Đức Sơn, Lâm Tế rất chống đối lối tu mặc tọa, vì thiền không phải là sự yên ổn tịch mặc mà là sự sống động và thấu triệt tận thể tánh của muôn pháp.
Một điều cần phải giản trạch : Sơ Tổ Trúc Lâm Yên Tử, Ngài Điều Ngự Giác Hoàng chủ trương: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền”. Vậy, Ngài đồng hoá Thiền với Vô tâm chăng? Vô tâm là khi tiếp duyên xúc sự không khởi niệm phân biệt hai bên. Không còn vọng tưởng, tức ý nghiệp dừng, hành giả liễu thoát sanh tử. Đây là trạng thái định rất cao, không phải dễ dàng đạt được. Nhưng vô tâm chưa phải là cứu cánh, vì cứu cánh của Thiền là Ngộ, tức nhận ra bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Tam Tổ Tăng Xán dạy trong Tín Tâm Minh: “Bất thức huyền chỉ, đồ lao niệm tịnh”. Tu mà không biết yếu chỉ huyền diệu, mãi tìm chỗ yên vắng của tâm thì luống nhọc công thôi. Ví như chai nước đục, để yên một thời gian cho bụi đất lắng xuống, nước thấy như trong; nhưng nếu lắc chai, nước đục trở lại. Người tu nơi lặng lẽ thấy yên ổn thanh tịnh, nhưng lúc gặp chướng duyên có thể bị khuấy động ghê gớm. Cực tĩnh sinh động là như thế.
Một vị tăng hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ:
- Cổ đức nói “Không tâm là đạo”,có đúng chăng?
Thượng sĩ đáp:
- Không tâm chẳng phải đạo
Không đạo cũng không tâm.
Nếu nói “Không tâm là đạo” thì tất cả cây cỏ đều là đạo cả sao? Bằng ngược lại nói “Không tâm chẳng phải là đạo” thì nói có không làm gì? Nghe tôi nói kệ đây:
Vốn không tâm không đạo
Có đạo chẳng không tâm
Tâm đạo vốn hư tịch
Chỗ nào mà đuổi tầm?
Vị tăng chợt nhận ra ý chỉ, lễ bái rồi lui (14)
“Không tâm chẳng phải đạo” là lời Thượng Sĩ cảnh tỉnh những hành giả chấp vào trạng thái trống vắng vọng tưởng, cho đó là ngộ đạo. Thật sự, có vọng hay không vọng chỉ là khách, là cái tôi đối tượng; còn cái biết xuyên suốt mọi tình huống, không lúc nào vắng thiếu mới là chủ, là cái tôi chủ thể. Cái biết xuyên suốt ấy, cái “tâm đạo vốn hư tịch” mà Lục Tổ gọi là Bản lai vô nhất vật, tuy không hình tướng mà trùm khắp và chiếu soi, thì có chỗ cho ta truy đuổi tìm cầu sao?
Ngài Uất-Đầu Lam-Phất là một trong những vị thầy dạy Thiền cho Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, lúc Thái tử xuất gia tìm đạo. Ngài chứng được tầng thiền định cuối cùng của cõi Vô sắc là Phi tưởng Phi phi tưởng, đạt ngũ thông. Câu chuyện đời tu của Ngài được Đức Phật kể lại như sau: Ở những kiếp lâu xa về trước, Ngài đã đạt được quả vị nầy. Nhà vua đương thời rất kính trọng Ngài, mời Ngài hàng ngày về cung dùng bữa. Lần nào đến cung vua, Ngài cũng vận thần thông bay từ nơi ở qua kinh thành cho dân chúng chiêm ngưỡng lễ bái. Một hôm, nhà vua đi vắng, bảo công chúa thay mặt vua đón Ngài với đầy đủ lễ nghi. Tiếp xúc với công chúa, bỗng dưng Ngài khởi niệm dục nhiễm, liền mất thần thông, phải xin chiếc kiệu trở về núi. Thời gian sau, Ngài kiên trì tu tập, gần đạt mục đích thì lũ chim cá làm ồn náo, không thể định tâm. Ngài nổi sân, nguyền sẽ tiêu diệt hết bọn chúng. Trong thời Đức Phật, Ngài đã đắc ngũ thông trở lại, ở tầng trời Phi tưởng Phi phi tưởng; nhưng theo lời Đức Phật, sau khi hưởng hết phước, Ngài sẽ bị đoạ làm loài chồn bay do lời nguyền trước đó. Điều nầy cho thấy, dù đạt định sâu nhất của ngoại đạo cũng vẫn còn lên xuống trong tam giới, và một mống niệm bất thiện khởi lên cũng đủ khiến sa vào đường ác. Do vậy, mục đích cuối cùng của đạo Phật là trí tuệ Bát-nhã, là giác ngộ tột cùng, là giải thoát sanh tử, chứ không phải chận đứng hoàn toàn mọi hoạt động của tâm để đạt định.
3-Mong cầu ngộ từ bên ngoài.
Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Nếu cứ theo dấu chân người khác, anh không bao giờ có thể đi xa được”.
Thiền sư Quảng Nghiêm trước khi tịch, cũng đã làm bài kệ:
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.
Nghĩa:
Lìa tịch diệt mới bàn tịch diệt
Sanh vô sanh mới nói vô sanh.
Làm trai có chí xông trời thẳm
Chớ dẫm Như Lai bước viễn hành.
Con người chúng ta thường yếu đuối, dễ chán nản, làm việc gì cũng mong có người giúp đỡ chở che. Từ việc đời đến việc đạo, ít có ai tự mình tiến thân, tự mình cất bước bằng chính đôi chân của mình. Sự ngộ đạo cũng được mong cầu có đấng quyền năng nào đó ban cho; hoặc có người tu hành chỉ mong về một cõi thanh tịnh bình an là mãn nguyện rồi.
Nhà Thiền không chủ trương dựa vào tha lực giúp hành giả giác ngộ. Đành rằng cuộc đời nhiều cạm bẫy, đường tu quá gian nan, nhưng chính mỗi người phải tự mình phấn đấu, phải tự thân tu tập trước khi nhờ tha lực của chư Phật chư Bồ-tát. Các Ngài rất từ bi, tùy cảm tùy ứng giúp đỡ tất cả chúng sanh, nhưng tâm ta phải thế nào mới có thể tương ứng với tâm của các Ngài. Khi năng lễ sở lễ đều ở trong không tánh, thì dù không cầu khấn, các Ngài vẫn hiện diện, sự cảm ứng tương giao vẫn bất khả tư nghì; còn nếu phiền não tham sân si đầy dẫy, thì có vái lạy cầu xin bao nhiêu cũng không có kết quả. Hơn thế nữa, lời dạy của Như Lai chỉ là thuyền bè đưa người qua sông, dấu chân của Như Lai chỉ là những bảng ghi dấu trên đường; còn việc bước xuống thuyền hay cất bước, đi đến đích hay không là việc riêng của mỗi người. Tu hành là gột rửa nhiễm nhơ trong tâm, phục hồi chánh kiến, nghĩa là sự thấy biết như thật về mọi sự mọi vật. Tâm bớt nhơ nhiễm bao nhiêu thì Phật pháp hiển hiện bấy nhiêu. Có thể nói, giáo lý chân thật là từ tâm lưu xuất, Phật pháp là Tâm pháp của mỗi chúng sanh. Pháp ấy có sẵn, đầy đủ hoàn hảo, không thể tìm thấy qua chữ nghĩa bên ngoài, dù là chữ nghĩa của Phật của Tổ.
Thiền tông còn được gọi là Phật tâm tông vì chủ trương ngay nơi tâm mà tu, ngộ, chứng và thành đạo. Nói thế không phải không chú trọng tha lực, nhưng vẫn đặt tự lực vào vai trò chủ yếu. Nếu ta không tự phấn đấu, tự chuyển hoá thân tâm thì không một thế lực nào thúc đẩy được ta tu tiến. Dĩ nhiên, lúc đầu học đạo, ta cần thầy dạy bảo, hướng dẫn ta đường lối tu hành và những kinh nghiệm trong công phu. Khi gặp trở ngại chướng duyên, ta phải chí thành sám hối trước Tam Bảo về những tội lỗi mình đã gây ra trong kiếp này và vô lượng kiếp trước. Hằng ngày ta vẫn cung kính lễ lạy Thánh tượng Đức Bổn Sư, nhớ ơn Ngài đã chỉ cho ta con đường thoát ly sanh tử, nhớ gương sáng tìm đạo độ sanh của Ngài và nguyện nối bước theo Ngài. Nhưng đến khi nhận ra tự tánh hằng tri, thì trí tuệ vô sư mới là vị thầy đích thực của riêng mình. Lama Yeshe gọi những vị thầy hữu hình và kinh sách trợ duyên ở bước đầu tu tập là “vị thầy tương đối”; còn vị thầy trí tuệ của chính tự thân là “vị thầy tuyệt đối hay tối hậu”, luôn luôn hiện hữu, luôn luôn ân cần. Nương vào vị thầy tuyệt đối ấy mới thực sự học và tu đạo.
4- Phân ranh giữa bờ mê và bờ giác:
Nhà Phật có từ Ba-la-mật, Trung Hoa dịch là Đáo bỉ ngạn (Qua bờ kia). Khi nghe cụm từ này, chúng ta có khái niệm phân ranh giữa bên nầy là bờ mê, bên kia là bờ giác; mê và ngộ là hai trạng thái, hai cảnh giới cách nhau trời vực. Một ví dụ về ba giai đoạn theo tinh thần Bát-nhã: Văn tự Bát-nhã ví như người từ bờ bên nầy bước lên thuyền; Quán chiếu Bát-nhã là tự chèo thuyền vượt sông; Thực tướng Bát-Nhã là đến bờ bên kia. Hình ảnh sống động ấy càng làm ta có sự phân biệt rõ ràng giữa mê và ngộ, xem giác ngộ là mục tiêu xa xôi ở một thời điểm hứa hẹn nào đó.
Thật ra, Ngộ không phải là một diễn biến từ từ mang đầy tính tri thức, theo tiến trình từ nhân đến quả. Ngộ cũng không là một mục đích cho mình nhắm đến, một cảnh giới cho mình thủ đắc. Bởi vì tánh giác chính là Mình, do quên tánh giác nên mê, nhớ lại tánh giác là ngộ, nên ngay phương tiện đã là cứu cánh, giở chân là đã đến nhà. Nếu phân biệt phương tiện và cứu cánh là đem tâm chờ ngộ; nếu có mục tiêu hướng đến là có ngã hướng về ngã sở. Tế nhị hơn, nếu nghĩ mình đã ngộ thì cái ngộ ấy là cảnh giới do bản ngã thêu dệt, để cái ngã ấy sở đắc; tất cả đều là hành vi của thức.
Thiền sinh tu theo pháp môn Tri vọng, đôi khi thắc mắc sao công phu một thời gian dài mà vọng còn mãi, có lúc càng lẫy lừng hơn trước. Có người khát khao được thấy tánh, và khi tọa thiền được đôi chút khinh an, lầm chấp sự khinh an ấy là kiến tánh. Trong Kinh Niệm Xứ, Đức Phật dạy tuệ tri trên 16 loại tâm hành sanh diệt. Ngài chỉ dạy ta “Biết” chứ không dạy cách diệt trừ. Lúc định ta biết, lúc loạn cũng biết chứ không bỏ loạn tìm định. Có vọng hay không vọng là hai mặt đắp đổi cho nhau, đều là khách thể; còn chủ thể là cái Biết thường hằng xuyên suốt mọi biến động của tâm. Nhận ra cái Biết thường hằng ngay khi vọng khởi, ấy là siêu vượt cả loạn và định. Ngay sóng sanh diệt nhận ra bản chất nước bất sanh thì ngay mê là giác, không phải tìm bờ giác ở đâu xa.