Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương bảy: Ðốn ngộ

25/04/201105:57(Xem: 4555)
Chương bảy: Ðốn ngộ

THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG
Thích Thông Huệ

Chương 7: ĐỐN NGỘ

Một dịp nào đó trong đời, ta gặp người tự cho mình đã ngộ đạo, chỉ bảo và khuyến khích ta tu hành. Ta rất kính phục biết ơn, thầm tôn kính người ấy là Thiện tri thức của mình. Cũng có khi nghe băng sách hay đọc kinh Phật, ta chợt hiểu ra một điều gì đó thật lạ lùng, thật mới mẻ, như có một chân trời mở rộng trước mắt mình. Ta nghĩ mình đã nhận được lẽ thật tuyệt đối. Những ý nghĩ ấy thật sự đã đúng chưa?

Trong chương nầy, chúng ta sẽ khảo sát nhiều khía cạnh liên quan đến vấn đề Đốn ngộ, một vấn đề trọng đại của người tu, nhất là tu Thiền; mục đích giúp chúng ta nhận định đúng đắn về đường lối tu hành và tinh thần Đốn ngộ, tránh sự đánh giá sai lạc về mình và về người.

I- MỘT VÀI NGỘ NHẬN THƯỜNG CÓ.

1- Lầm lẫn giữa Ngộ và khái niệm về Ngộ:

Thiền sư Trí Nhàn lúc còn ở với Tổ Bá Trượng, tánh thức rất thông minh lanh lợi, nhưng tham thiền không ngộ. Khi Tổ tịch rồi, Sư đến tham vấn Qui Sơn. Qui Sơn bảo:

- Ta nghe ông ở chỗ Tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Đó là do ông thông minh lanh lợi, do ý hiểu thức tưởng, là cội gốc của sanh tử. “Khi cha mẹ chưa sanh”, ông thử nói một câu xem!

Sư bị câu hỏi nầy hoàn toàn mờ mịt. Về liêu, Sư đem hết sách vở đã học qua hằng ngày, xem lại từ đầu để tìm một câu đáp cũng không thể được. Sư tự than: “Bánh vẽ không thể no bụng đói”(13).

Không tìm được lời giải trong sách, Sư đốt tất cả, về làm một ôngTăng thường, làm ruộng nuôi thân. Sau nầy, Sư ngộ đạo nhân lúc cuốc đất, hòn sỏi văng vào thân tre vang lên một tiếng cốc.

Chân lý tuyệt đối ở đâu, trong thân tre hay trong hòn sỏi? Ngày xưa, Sư nhờ suy nghĩ tư lường nên đối đáp tài tình trước Tổ Bá Trượng, nhưng tư biện chỉ là sản phẩm của ý thức. Dùng ý thức tư duy về Đạo, về sự chứng ngộ, thì đó cũng là khái niệm mà thôi.

Nhà Thiền thường dùng hai từ “hoạt ngữ” và “tử ngữ”. Những lời giảng khúc chiết rành mạch dễ làm người nghe hiểu ý, phù hợp với phương pháp sư phạm. Nhưng càng hiểu, người nghe càng sa vào mê cung của lý luận khái niệm, càng lạc vào rừng rậm của tưởng tượng tư duy; vaø như thế, càng xa với thực tại hiện tiền. Những lời giảng ấy là Tử ngữ, từ ngữ chết. Các Thiền sư ngày xưa, khi môn đệ hỏi về yếu chỉ, thường dùng những câu trả lời vô nghĩa hay hành động quái lạ, khiến môn đệ bặt lối suy tư. Nhâïn thì ngay đó liền nhận ra vốn quý ngàn đời, chưa nhận thì ôm một mối nghi, thao thức mãi không thôi. Đó cũng là điều kiện để tâm chuyên chú một vấn đề duy nhất. Lối trả lời như thế gọi là Hoạt ngữ, ngôn ngữ sống. Bởi vì, Ngộ không phải là kết quả của suy nghĩ biện biệt thuộc phạm trù ý thức, mà là sự đột biến trong tâm hành giả, sự chuyển hóa tận gốc rễ, sự thấy biết các pháp bằng trực giác. Ngộ không phải do kiến thức vay mượn bên ngoài mà do công phu thiền tập, khi vọng niệm vắng lặng, tâm hoàn toàn thanh tịnh và tỉnh giác ngay đương xứ. Trạng thái ngộ đạo không nhờ học rộng hiểu nhiều, đôi khi kiến thức bác lãm lại làm chướng ngại cho sự thấy biết như thật, vì thiên kiến thiên chấp của thức tưởng khiến ta không thể nắm bắt thực tại một cách toàn vẹn. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát cho cư sĩ Huệ Năng, người có trực giác Bát-nhã siêu tuyệt mà không truyền cho Thượng tọa Thần Tú, người có trình độ Phật học uyên thâm, cũng vì lý do nầy.

Mặt khác, sản phẩm của thức còn là sự chấp ngã, nên nếu thấy mình có sở thủ sở đắc nghĩa là chưa thực sự ngộ đạo. Người ngộ đạo không bao giờ tự cho mình chứng ngộ, không bao giờ khoe khoang những gì mình thấy biết, hoặc chấp vào những trạng thái mình cảm nhận lúc công phu. Có lúc ta đọc trong kinh sách, thấy mô tả về trạng thái mênh mông phi thời gian, không hình tướng và không thể nhiễm nhơ, là thể tánh chân thật sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Ta nghĩ mình hiểu rõ điều nầy, và từ hiểu là có thể nhận ra thể tánh. Nhưng thể tánh không phải là một khái niệm để tưởng tượng hay thủ đắc, vì nó chính là ta. Thể tánh cũng không phải một nơi chốn để trở về, một vật bên ngoài để nắm giữ, nên không thể suy lý về nó mà phải trực nhận nó ngay thực tại hiêïn tiền.

Hành vi của thức cũng thể hiện bằng sự khiên cưỡng để có định. Sự khiên cưỡng nầy lúc đầu cần thiết khi mới tập tu, vì con trâu tâm còn hoang dã, ta phải kềm cặp, quở mắng nó, không cho buông lung ăn lúa mạ của người. Khi tọa thiền, ta gắng nhận biết vọng để buông và không theo; lúc làm việc ta gắng lôi kéo tâm trở về hiện tại theo tinh thần Chánh niệm. Tất cả công phu đều đòi hỏi phải tác ý, phải gắng gượng. Nhưng khi đã thuần thục, một lúc nào đó ta vượt qua ranh giới giữa gắng gượng và tự nhiên, ta ở vào trạng thái rỗng rang mênh mông, vọng niệm tự lặng mà vẫn rõ ràng thấy nghe hay biết. Đây là trạng thái tự định tự huệ của thể tánh, trạng thái “Tri kiến vô kiến” theo tinh thần của kinh Lăng Nghiêm. Tổ Lâm Tế dạy “Phật pháp không có chỗ để dụng công”, cốt để cảnh tỉnh môn đệ đừng mong đợi có cái thấy siêu tột của Đốn ngộ bằng lối dụng công theo kiểu “đá đè cỏ”.

2- Lầm lẫn giữa Định và Ngộ:

Sau một thời gian tọa thiền tích cực, nhất là khi sử dụng pháp Chỉ như phương tiện điều phục tâm, ta thấy mọi vọng niệm vắng bặt, tâm vô cùng thanh tịnh. Ta có cảm giác vui sướng lạ lùng và muốn níu giữ mãi trong trạng thái nầy; lâu dần ta đâm ra sợ cảnh sợ duyên.

Thiền mặc tọa là phương pháp giúp hành giả bước đầu còn đa tâm, là phương tiện cần thiết để ta điều phục sự biếng trễ của thân tâm và để rèn luyện ý chí. Nhưng nếu mãi đắm mình trong sự khinh an, lâu ngày dễ đưa đến tình trạng khô cằn chết lịm. Nước chết không chứa được rồng. “Nước chết” là sự khô chết của ý thức; “rồng” là sự thấy biết siêu thế của bản tánh thường tri. Các Thiền sư xuất cách như Lục Tổ, Đức Sơn, Lâm Tế rất chống đối lối tu mặc tọa, vì thiền không phải là sự yên ổn tịch mặc mà là sự sống động và thấu triệt tận thể tánh của muôn pháp.

Một điều cần phải giản trạch : Sơ Tổ Trúc Lâm Yên Tử, Ngài Điều Ngự Giác Hoàng chủ trương: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền”. Vậy, Ngài đồng hoá Thiền với Vô tâm chăng? Vô tâm là khi tiếp duyên xúc sự không khởi niệm phân biệt hai bên. Không còn vọng tưởng, tức ý nghiệp dừng, hành giả liễu thoát sanh tử. Đây là trạng thái định rất cao, không phải dễ dàng đạt được. Nhưng vô tâm chưa phải là cứu cánh, vì cứu cánh của Thiền là Ngộ, tức nhận ra bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Tam Tổ Tăng Xán dạy trong Tín Tâm Minh: “Bất thức huyền chỉ, đồ lao niệm tịnh”. Tu mà không biết yếu chỉ huyền diệu, mãi tìm chỗ yên vắng của tâm thì luống nhọc công thôi. Ví như chai nước đục, để yên một thời gian cho bụi đất lắng xuống, nước thấy như trong; nhưng nếu lắc chai, nước đục trở lại. Người tu nơi lặng lẽ thấy yên ổn thanh tịnh, nhưng lúc gặp chướng duyên có thể bị khuấy động ghê gớm. Cực tĩnh sinh động là như thế.

Một vị tăng hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ:
- Cổ đức nói “Không tâm là đạo”,có đúng chăng?
Thượng sĩ đáp:
- Không tâm chẳng phải đạo
Không đạo cũng không tâm.

Nếu nói “Không tâm là đạo” thì tất cả cây cỏ đều là đạo cả sao? Bằng ngược lại nói “Không tâm chẳng phải là đạo” thì nói có không làm gì? Nghe tôi nói kệ đây:

Vốn không tâm không đạo
Có đạo chẳng không tâm
Tâm đạo vốn hư tịch
Chỗ nào mà đuổi tầm?

Vị tăng chợt nhận ra ý chỉ, lễ bái rồi lui (14)

“Không tâm chẳng phải đạo” là lời Thượng Sĩ cảnh tỉnh những hành giả chấp vào trạng thái trống vắng vọng tưởng, cho đó là ngộ đạo. Thật sự, có vọng hay không vọng chỉ là khách, là cái tôi đối tượng; còn cái biết xuyên suốt mọi tình huống, không lúc nào vắng thiếu mới là chủ, là cái tôi chủ thể. Cái biết xuyên suốt ấy, cái “tâm đạo vốn hư tịch” mà Lục Tổ gọi là Bản lai vô nhất vật, tuy không hình tướng mà trùm khắp và chiếu soi, thì có chỗ cho ta truy đuổi tìm cầu sao?

Ngài Uất-Đầu Lam-Phất là một trong những vị thầy dạy Thiền cho Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, lúc Thái tử xuất gia tìm đạo. Ngài chứng được tầng thiền định cuối cùng của cõi Vô sắc là Phi tưởng Phi phi tưởng, đạt ngũ thông. Câu chuyện đời tu của Ngài được Đức Phật kể lại như sau: Ở những kiếp lâu xa về trước, Ngài đã đạt được quả vị nầy. Nhà vua đương thời rất kính trọng Ngài, mời Ngài hàng ngày về cung dùng bữa. Lần nào đến cung vua, Ngài cũng vận thần thông bay từ nơi ở qua kinh thành cho dân chúng chiêm ngưỡng lễ bái. Một hôm, nhà vua đi vắng, bảo công chúa thay mặt vua đón Ngài với đầy đủ lễ nghi. Tiếp xúc với công chúa, bỗng dưng Ngài khởi niệm dục nhiễm, liền mất thần thông, phải xin chiếc kiệu trở về núi. Thời gian sau, Ngài kiên trì tu tập, gần đạt mục đích thì lũ chim cá làm ồn náo, không thể định tâm. Ngài nổi sân, nguyền sẽ tiêu diệt hết bọn chúng. Trong thời Đức Phật, Ngài đã đắc ngũ thông trở lại, ở tầng trời Phi tưởng Phi phi tưởng; nhưng theo lời Đức Phật, sau khi hưởng hết phước, Ngài sẽ bị đoạ làm loài chồn bay do lời nguyền trước đó. Điều nầy cho thấy, dù đạt định sâu nhất của ngoại đạo cũng vẫn còn lên xuống trong tam giới, và một mống niệm bất thiện khởi lên cũng đủ khiến sa vào đường ác. Do vậy, mục đích cuối cùng của đạo Phật là trí tuệ Bát-nhã, là giác ngộ tột cùng, là giải thoát sanh tử, chứ không phải chận đứng hoàn toàn mọi hoạt động của tâm để đạt định.

3-Mong cầu ngộ từ bên ngoài.

Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Nếu cứ theo dấu chân người khác, anh không bao giờ có thể đi xa được”.

Thiền sư Quảng Nghiêm trước khi tịch, cũng đã làm bài kệ:

Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.

Nghĩa:

Lìa tịch diệt mới bàn tịch diệt
Sanh vô sanh mới nói vô sanh.
Làm trai có chí xông trời thẳm
Chớ dẫm Như Lai bước viễn hành.

Con người chúng ta thường yếu đuối, dễ chán nản, làm việc gì cũng mong có người giúp đỡ chở che. Từ việc đời đến việc đạo, ít có ai tự mình tiến thân, tự mình cất bước bằng chính đôi chân của mình. Sự ngộ đạo cũng được mong cầu có đấng quyền năng nào đó ban cho; hoặc có người tu hành chỉ mong về một cõi thanh tịnh bình an là mãn nguyện rồi.

Nhà Thiền không chủ trương dựa vào tha lực giúp hành giả giác ngộ. Đành rằng cuộc đời nhiều cạm bẫy, đường tu quá gian nan, nhưng chính mỗi người phải tự mình phấn đấu, phải tự thân tu tập trước khi nhờ tha lực của chư Phật chư Bồ-tát. Các Ngài rất từ bi, tùy cảm tùy ứng giúp đỡ tất cả chúng sanh, nhưng tâm ta phải thế nào mới có thể tương ứng với tâm của các Ngài. Khi năng lễ sở lễ đều ở trong không tánh, thì dù không cầu khấn, các Ngài vẫn hiện diện, sự cảm ứng tương giao vẫn bất khả tư nghì; còn nếu phiền não tham sân si đầy dẫy, thì có vái lạy cầu xin bao nhiêu cũng không có kết quả. Hơn thế nữa, lời dạy của Như Lai chỉ là thuyền bè đưa người qua sông, dấu chân của Như Lai chỉ là những bảng ghi dấu trên đường; còn việc bước xuống thuyền hay cất bước, đi đến đích hay không là việc riêng của mỗi người. Tu hành là gột rửa nhiễm nhơ trong tâm, phục hồi chánh kiến, nghĩa là sự thấy biết như thật về mọi sự mọi vật. Tâm bớt nhơ nhiễm bao nhiêu thì Phật pháp hiển hiện bấy nhiêu. Có thể nói, giáo lý chân thật là từ tâm lưu xuất, Phật pháp là Tâm pháp của mỗi chúng sanh. Pháp ấy có sẵn, đầy đủ hoàn hảo, không thể tìm thấy qua chữ nghĩa bên ngoài, dù là chữ nghĩa của Phật của Tổ.

Thiền tông còn được gọi là Phật tâm tông vì chủ trương ngay nơi tâm mà tu, ngộ, chứng và thành đạo. Nói thế không phải không chú trọng tha lực, nhưng vẫn đặt tự lực vào vai trò chủ yếu. Nếu ta không tự phấn đấu, tự chuyển hoá thân tâm thì không một thế lực nào thúc đẩy được ta tu tiến. Dĩ nhiên, lúc đầu học đạo, ta cần thầy dạy bảo, hướng dẫn ta đường lối tu hành và những kinh nghiệm trong công phu. Khi gặp trở ngại chướng duyên, ta phải chí thành sám hối trước Tam Bảo về những tội lỗi mình đã gây ra trong kiếp này và vô lượng kiếp trước. Hằng ngày ta vẫn cung kính lễ lạy Thánh tượng Đức Bổn Sư, nhớ ơn Ngài đã chỉ cho ta con đường thoát ly sanh tử, nhớ gương sáng tìm đạo độ sanh của Ngài và nguyện nối bước theo Ngài. Nhưng đến khi nhận ra tự tánh hằng tri, thì trí tuệ vô sư mới là vị thầy đích thực của riêng mình. Lama Yeshe gọi những vị thầy hữu hình và kinh sách trợ duyên ở bước đầu tu tập là “vị thầy tương đối”; còn vị thầy trí tuệ của chính tự thân là “vị thầy tuyệt đối hay tối hậu”, luôn luôn hiện hữu, luôn luôn ân cần. Nương vào vị thầy tuyệt đối ấy mới thực sự học và tu đạo.

4- Phân ranh giữa bờ mê và bờ giác:

Nhà Phật có từ Ba-la-mật, Trung Hoa dịch là Đáo bỉ ngạn (Qua bờ kia). Khi nghe cụm từ này, chúng ta có khái niệm phân ranh giữa bên nầy là bờ mê, bên kia là bờ giác; mê và ngộ là hai trạng thái, hai cảnh giới cách nhau trời vực. Một ví dụ về ba giai đoạn theo tinh thần Bát-nhã: Văn tự Bát-nhã ví như người từ bờ bên nầy bước lên thuyền; Quán chiếu Bát-nhã là tự chèo thuyền vượt sông; Thực tướng Bát-Nhã là đến bờ bên kia. Hình ảnh sống động ấy càng làm ta có sự phân biệt rõ ràng giữa mê và ngộ, xem giác ngộ là mục tiêu xa xôi ở một thời điểm hứa hẹn nào đó.

Thật ra, Ngộ không phải là một diễn biến từ từ mang đầy tính tri thức, theo tiến trình từ nhân đến quả. Ngộ cũng không là một mục đích cho mình nhắm đến, một cảnh giới cho mình thủ đắc. Bởi vì tánh giác chính là Mình, do quên tánh giác nên mê, nhớ lại tánh giác là ngộ, nên ngay phương tiện đã là cứu cánh, giở chân là đã đến nhà. Nếu phân biệt phương tiện và cứu cánh là đem tâm chờ ngộ; nếu có mục tiêu hướng đến là có ngã hướng về ngã sở. Tế nhị hơn, nếu nghĩ mình đã ngộ thì cái ngộ ấy là cảnh giới do bản ngã thêu dệt, để cái ngã ấy sở đắc; tất cả đều là hành vi của thức.

Thiền sinh tu theo pháp môn Tri vọng, đôi khi thắc mắc sao công phu một thời gian dài mà vọng còn mãi, có lúc càng lẫy lừng hơn trước. Có người khát khao được thấy tánh, và khi tọa thiền được đôi chút khinh an, lầm chấp sự khinh an ấy là kiến tánh. Trong Kinh Niệm Xứ, Đức Phật dạy tuệ tri trên 16 loại tâm hành sanh diệt. Ngài chỉ dạy ta “Biết” chứ không dạy cách diệt trừ. Lúc định ta biết, lúc loạn cũng biết chứ không bỏ loạn tìm định. Có vọng hay không vọng là hai mặt đắp đổi cho nhau, đều là khách thể; còn chủ thể là cái Biết thường hằng xuyên suốt mọi biến động của tâm. Nhận ra cái Biết thường hằng ngay khi vọng khởi, ấy là siêu vượt cả loạn và định. Ngay sóng sanh diệt nhận ra bản chất nước bất sanh thì ngay mê là giác, không phải tìm bờ giác ở đâu xa.

 

II- NỘI DUNG THIỀN TẬP:

1- Lộ trình tâm linh:

Trong Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và nơi đến. Nếu không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ, sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân, như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau, nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập thể.

Thiền sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an. Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệm là bước đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc phiền não có tâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Đây lại là cuộc trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc. Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều mức đôï từ thấp đến cao(5).

Chánh niệm là công phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo ý mình. Chánh niệm tự động soi sáng và chuyển hoá mọi cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm, như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.

Kiến tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái uyên nguyên của vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn lui sụt nữa.

2- Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:

Trước tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiền là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài bác việc tọa thiền. Đây là một điều lầm lẫn lớn lao. Đức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiền là cứu cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không hợp lẽ.

Lúc tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài, ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại, nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa, kết hợp với thiền hành.

Tọa thiền là công phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường vắng hay ngoài bãi biễn ..., vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là lối công phu có tính cách tự do, không theo nguyên tắc cố định. Đơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết. Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước chân. Đến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng, thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Đi trong trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của chính mình. Đi thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.

Trong một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang gắp, nhai, nuốt ...ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai – nhai - nuốt...” thì những động tác ấy không thể nào tự nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì như thế trởû thành vô tri, dần dần quên mất sự sống. Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.

Mặt khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa chén, cuốc đất ... cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt; và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong mọi sinh hoạt bình thường.

Các huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu. Những cuộc trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần Tam hòa(6), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận những ý kiến trái ngược... Tất cả đều là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở. Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh đúng mực từ lời nói đến việc làm.

Các bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng. Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh, còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại, mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân, biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.

Có một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận định rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Đó chỉ là tâm lý phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.

Cổ đức nói:
Phiền não khởi giai do đa sự
Thị phi sanh dĩ thị đa ngôn.

Con người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộc và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng ta có mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối, không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiến là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ thực tại. Đạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện và bao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt. Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của mình.

Thiền sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu vô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Nghĩa:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.

Khi biết vạn pháp đều không thật, đều vô thường, thì sự thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại như các Ngài, nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng có sự trầm tĩnh. Trước khi quyết định một việc gì, ta suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và có lập trường vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận. Đời sống của ta sẽ có ý nghĩa dù thọ mạng ngắn hay dài; ta hiến dâng nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến với ta tương đương như thế.

Một số thiền sinh thường thắc mắc: Trong cuộc sống, ai cũng phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia đình. Người tu càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như thế có trái với tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn việc, nhưng các Ngài sắp xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông xả, nên các Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo các Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách chu đáo, làm tròn mọi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, nhưng không dính mắc, thì dù đa sự mà vẫn không phiền não.

3- Một vài ngộ nhận trong công phu:

* Có người cho rằng, tu hành là phải tránh bớt duyên khi chưa triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã biết cách dụng công. Đây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng nếu ta cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền sư khi kiến tánh, thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian gột sạch tập khí, sau đó mới vào cuộc đời giáo hoá chúng nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một mình nơi hoang dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc ốm đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần đông chúng ta đều chấp nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ, tuy kết quả không nhanh chóng bằng người xưa, nhưng được lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm vững pháp tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống với tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt khác ta nương vào người để củng cố lòng tin, ý chí, để được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ dục. Nhiều người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã xong việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền não, có trường hợp sa ngã, uổng một đời tu. Đây không những là kinh nghiệm đối với người xuất gia, mà còn cho những đạo tràng cư sĩ tại gia.

* Có người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới là tu, nên xem thời gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm, do các căn ít tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai đoạn sau, khi công phu đã thuần thục, ta cần tu trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi. Các Thiền sư, khi trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”. Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa thiền, vì chưa kiến tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền tông.

* Một số thiền sinh quan niệm Thiền là cắt đứt mọi hoạt động tâm lý. Đây là lối tu theo kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ cảnh sợ duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính mình; đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào để tránh. Có người lại hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn xưng, thỏng tay vào chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào khổ xứ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng không diễn đạt đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm lãnh hội thực tại phi ngôn. Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự thấu triệt ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.

* Đức Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, ấy là muốn sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể nào chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta hiểu đơn giản rằng, chữ “sẽ thành” có nghĩa là một tương lai nào đó, thì vô hình trung ta có sự vọng cầu mong mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật tâm tại hiện tiền, chứ không phải là một Đấng Cứu thế bên ngoài hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu thiền có tâm mong cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ hãi, thường dễ phát sinh bệnh tật, điên cuồng. Đây là điều chúng ta cần thận trọng ghi nhớ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com