THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG
Thích Thông Huệ
Chương 6
KHỐI NGHI VÀ THUẬT KHAI TÂM
IV- NHỮNG CÂU CHUYỆN THIỀN MINH HỌA:
Khi có vấn đề trọng đại chưa được giải quyết, hành giả mang tâm trạng khắc khoải, bồn chồn. Đến nhờ thầy giải đáp, thầy không những không chỉ dạy mà còn có lời nói hành động kỳ quặc, làm mối nghi càng lớn mạnh thêm. Đến khi mối nghi thành khối, hành giả lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Ngài Tiệm Nguyên lúc còn là thị giả của Thiền sư Đạo Ngộ, nhiều phen thưa thỉnh thầy dạy cho: “Vì sao sanh không nói, tử cũng chẳng nói”. Thiền sư vẫn một mực “Chẳng nói, chẳng nói!”. Thầy quá từ bi muốn trò nhận ra lý vô sanh ngay trong sanh tử, nhưng trò cứ một mực bám chặt vào câu nói, đau đớn cùng câu nói đến nỗi quên cả lễ nghi, đánh luôn thầy mình. Ôâm khối nghi đằng đẴng ba năm, một hôm chợt nghe tụng kinh Phổ Môn đến câu: “Cần hiện thân tỳø-kheo được độ, liền hiện thân tỳ-kheo vì người đó thuyết pháp”, Ngài hoát nhiên đại ngộ, thấy con người thật có ngại gì sanh với tử. Nhưng khi cảm thông được với thầy, thì thầy đã không còn nữa !
Các vị Thiền sư, bằng tâm lão bà tha thiết, luôn muốn môn đệ mình nhận ra lẽ thật. Nhưng các Ngài cũng rõ căn cơ trình độ của mỗi người, nên sử dụng rất nhiều thủ thuật khác nhau, thật đa dạng mà cũng thật thích ứng. Có khi, các Ngài phải dùng những biện pháp thật mạnh, dồn môn đệ đến điểm tận cùng, cận kề cái chết. Trường hợp một đệ tử của Thiền sư Suiwo Nhật Bản là một ví dụ : Người đệ tử nầy tham công án “Tiếng vỗ một bàn tay” suốt ba năm mà chưa thấy đáp án. Anh đến khóc với Thiền sư và xin phép về nhà. Ngài khuyên: “Hãy ở lại một tuần nữa”. Công phu miên mật, sau một tuần vẫn chưa có kết quả, anh ta lại xin về và Thiền sư cũng bảo nán lại. Cứ thế mấy lần, cuối cùng Ngài bảo:
- Anh hãy ở lại ba ngày nữa và thiền định miên mật. Nếu không thấy gì, tốt nhất hãy tự tử đi!
Người đệ tử tuyệt đối tin tưởng nơi thầy, tuyệt đối nghe lời thầy nên chỉ còn kỳ hạn ba ngày cuối cùng nữa, nếu không loé sáng thì đành chấm dứt cuộc đời. Bằng sự chiến đấu quyết liệt, vận dụng tất cả khí lực bình sinh trong tâm trạng tuyệt vọng, người đệ tử giác ngộ vào ngày thứ hai của kỳ hạn.
Những câu trả lời hoặc cử chỉ của các Thiền sư đều là những phương tiện chỉ thẳng, theo tinh thần Trực chỉ nhân tâm. Môn đệ hầu cận bên các Ngài thường có cơ hội nhận lãnh nếu công phu miên mật, còn không thì rất dễ bị đầu lưỡi các Ngài dẫn đi xa tít. Những câu nói, hành động khó hiểu ấy trở thành công án; hành giả tham công án ấy, khi vượt qua được, nhận ra chân lý thì tất cả các công án khác trở nên rõ ràng gần gũi biết chừng nào!
Một vị tăng hỏi Quốc sư Đức Thiều: “Sơn hà đại địa từ đâu sinh ra?”.Ngài hỏi lại: “Câu hỏi nầy từ đâu đến?”. Tăng lại hỏi:“Mắt của bậc kiến đạo thì thế nào?”. Ngài đáp: “Đen như thùng sơn”. Thể tánh vốn thanh tịnh, do hốt niệm vô minh nên khởi sanh sơn hà đại địa. Vừa khởi hỏi là đã khởi niệm, khởi niệm là đã xa rời nguồn cội. Quốc sư bắt vị tăng nhìn trở lại, ai biết hỏi ở đây? Nếu ngay đó nhớ lại người biết hỏi thì thầy trò gặp nhau rồi,nhưng vị tăng bỏ mất cơ hội,lại hỏi tiếp về mắt của bậc kiến đạo. Theo tinh thần của Lục Tổ dùng đen đáp trắng,tối đáp sáng, Quốc sư trả lời: “Đen như thùng sơn” để làm bặt đường suy nghĩ. Câu nầy trở thành mối nghi cho vị tăng. Cách giải đáp chận đứng ý niệm nhị nguyên phân biệt rất thường được sử dụng trong nhà Thiền, như Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, khi một thiền khách hỏi “Thế nào là pháp thân thanh tịnh?”, Ngài đáp: “Ra vào bãi nước trâu, chui rúc đống phân ngựa”. Câu nầy có khác gì lời khai thị của Lục Tổ cho Thượng tọa Minh “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác...”?
Vì sao các Ngài chặn đứng ý niệm phân biệt hai bên?- Thể tánh vốn thanh tịnh hằng biết, là chính mình; nếu ta muốn tìm muốn hiểu thì năng tri đã biến thành sở tri, vừa khởi niệm tìm thì đã xa diệu vợi. Thể tánh lại vốn không hình tướng mà trùm khắp, làm sao có thể thấy hay đến được? Hằng ngày hiển lộ ra sáu căn, người khéo hội hãy từ các cửa ấy mà thầm nhận; các vị Thiền sư cũng chỉ cho học nhơn đường vào thẳng tắt ấy, có điều không diễn tả được bằng lời. Muôn ngàn lời nói cũng chỉ để tỏ bày một thể. Ví như đối với câu hỏi: “Thế nào là đại ý Phật pháp?”, Ngài Triệu Châu đáp “Cây bá trước sân”, Ngài Đông Sơn lại nói “Ba cân gai”, Ngài Lâm Tế hét một tiếng điếc tai, Ngài Đức Sơn đập cho một gậy thấu trời xanh... Ai thấy, ai nghe, ai biết đau? Giật mình nhận ra con người quen thuộc muôn đời. Còn nếu mịt mù, hãy cứ ôm khối nghi làm món nợ truyền đời phải trả.
Ngài Đạo Quang, một Luận sư nổi tiếng của trường phái Duy thức đến tham vấn Thiền sư Huệ Hải:
- Thiền sư dùng tâm nào để tu đạo?
Thiền sư đáp :
- Lão tăng không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu.
Lời phủ nhận nầy người nghe khó mà chịu nổi! Nếu chúng ta được hỏi, chắc sẽ trả lời dùng tâm thanh tịnh không sanh không diệt để tu, vì nhân vô sanh sẽ cho quả không sanh diệt... Ấy là trả lời theo kiểu Pháp sư hay Luận sư, dùng tử ngữ. Thiền sư sử dụng lối công phá của Bát-nhã, vì nếu còn thấy có dụng công, có tâm tu là còn ngã tướng, còn tác ý hữu vi. Ngài Đạo Quang chưa hiểu ý nên lại hỏi:
- Nếu không tâm có thể dùng, không đạo có thể tu, sao mỗi ngày họp chúng khuyên học thiền tu đạo?
Thiền sư phủ nhận lần thứ hai :
- Lão tăng không có đất cắm dùi thì nhằm chỗ nào mà họp chúng? Không có lưỡi, lấy đâu dạy bảo người?
Luận sư bất bình thốt lên:
- Thiền sư giáp mặt nhau mà nói dối!
Thiền sư vẫn bình thản, phủ nhận lần thứ ba :
- Lão tăng không có lưỡi dạy bảo người thì nào biết nói dối?
Mặc áo không dính một tấc tơ, ăn cơm không nát một hạt gạo. Tâm vô trước vô nhiễm nên không dính mắc với ngũ dục lục trần, không bị kiết sử ràng buộc sai khiến, như Đức Phật từng bảo suốt 49 năm thuyết pháp mà chưa từng nói lời nào. Người thường thấy có lưỡi để nói, có đất để cắm dùi nên rõ ràng bốn tướng ngã-nhơn-chúng sanh-thọ giả. Thiền sư quá từ bi ba lần phủ nhận, cốt cảnh tỉnh Luận sư, người luận biện hay giỏi mà không nắm được yếu lý nhà Thiền. Chỉ tiếc Luận sư mãi chạy theo lời mà quên lãnh ý, nên cô phụ người và cô phụ chính mình đến nỗi vội kết luận :
- Thật khó hiểu lối đối đáp của Thiền sư Huệ Hải.
Và đây là tuyệt chiêu của Thiền sư:
- Lão tăng cũng chẳng hội!
Hội thì tốt, không hội cũng tốt. Người sáng mắt xin hãy xem xem!
Thiền sư Tam Bình hỏi Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch:
- Ông tên gì ?
Ngài Ngưỡng Sơn thưa:
- Con tên Huệ Tịch.
- Huệ là gì? Tịch là gì?
Nếu giải thích thế nào là Huệ, thế nào là Tịch, Ngài đã mắc lừa Thiền sư. Nhưng vì biết Đạo tại nhãn tiền nên Ngài Ngưỡng Sơn thoát được:
- Trước mặt Hòa Thượng.
Thiền sư Tam Bình muốn thử Ngài Ngưỡng Sơn, xem cái thấy trước mắt hay cái thấy trùm khắp thênh thang, nên hạ một câu:
- Cũng còn có trước sau.
Quả là thế gài bí hiểm, người thường khó thoát. Ngài Ngưỡng Sơn, một lần nữa gỡ rất khéo và phản công lại:
- Trước sau để qua một bên, Hòa thượng thấy cái gì?
Thiền sư buông một câu chấm dứt:
- Uống trà đi!
Thế là thầy trò gặp nhau, tâm tâm tương đồng, cùng hòa nhịp ca trên đỉnh cô phong! Đọc trong Thiền sử, chúng ta gặp nhiều bản hợp xướng giữa thầy và trò, những người ca không lưỡi, với hòa âm phối khí của dàn nhạc đàn không dây, sáo không lỗ, trống không dùi. Những bản hợp xướng ấy vang vọng từ ngàn xưa đến ngàn sau trong thời gian vô cùng và không gian vô biên... Và những bậc tri âm không tai, xin hãy cùng thưởng thức!
II- NỘI DUNG THIỀN TẬP:
1- Lộ trình tâm linh:
Trong Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và nơi đến. Nếu không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ, sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân, như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau, nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập thể.
Thiền sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an. Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệm là bước đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc phiền não có tâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Đây lại là cuộc trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc. Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều mức đôï từ thấp đến cao(5).
Chánh niệm là công phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo ý mình. Chánh niệm tự động soi sáng và chuyển hoá mọi cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm, như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.
Kiến tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái uyên nguyên của vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn lui sụt nữa.
2- Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:
Trước tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiền là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài bác việc tọa thiền. Đây là một điều lầm lẫn lớn lao. Đức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiền là cứu cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không hợp lẽ.
Lúc tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài, ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại, nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa, kết hợp với thiền hành.
Tọa thiền là công phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường vắng hay ngoài bãi biễn ..., vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là lối công phu có tính cách tự do, không theo nguyên tắc cố định. Đơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết. Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước chân. Đến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng, thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Đi trong trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của chính mình. Đi thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.
Trong một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang gắp, nhai, nuốt ...ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai – nhai - nuốt...” thì những động tác ấy không thể nào tự nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì như thế trởû thành vô tri, dần dần quên mất sự sống. Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.
Mặt khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa chén, cuốc đất ... cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt; và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong mọi sinh hoạt bình thường.
Các huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu. Những cuộc trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần Tam hòa(6), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận những ý kiến trái ngược... Tất cả đều là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở. Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh đúng mực từ lời nói đến việc làm.
Các bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng. Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh, còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại, mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân, biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.
Có một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận định rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Đó chỉ là tâm lý phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.
Cổ đức nói:
Phiền não khởi giai do đa sự
Thị phi sanh dĩ thị đa ngôn.
Con người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộc và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng ta có mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối, không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiến là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ thực tại. Đạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện và bao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt. Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của mình.
Thiền sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu vô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Nghĩa:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.
Khi biết vạn pháp đều không thật, đều vô thường, thì sự thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại như các Ngài, nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng có sự trầm tĩnh. Trước khi quyết định một việc gì, ta suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và có lập trường vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận. Đời sống của ta sẽ có ý nghĩa dù thọ mạng ngắn hay dài; ta hiến dâng nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến với ta tương đương như thế.
Một số thiền sinh thường thắc mắc: Trong cuộc sống, ai cũng phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia đình. Người tu càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như thế có trái với tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn việc, nhưng các Ngài sắp xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông xả, nên các Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo các Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách chu đáo, làm tròn mọi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, nhưng không dính mắc, thì dù đa sự mà vẫn không phiền não.
3- Một vài ngộ nhận trong công phu:
* Có người cho rằng, tu hành là phải tránh bớt duyên khi chưa triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã biết cách dụng công. Đây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng nếu ta cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền sư khi kiến tánh, thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian gột sạch tập khí, sau đó mới vào cuộc đời giáo hoá chúng nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một mình nơi hoang dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc ốm đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần đông chúng ta đều chấp nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ, tuy kết quả không nhanh chóng bằng người xưa, nhưng được lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm vững pháp tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống với tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt khác ta nương vào người để củng cố lòng tin, ý chí, để được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ dục. Nhiều người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã xong việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền não, có trường hợp sa ngã, uổng một đời tu. Đây không những là kinh nghiệm đối với người xuất gia, mà còn cho những đạo tràng cư sĩ tại gia.
* Có người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới là tu, nên xem thời gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm, do các căn ít tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai đoạn sau, khi công phu đã thuần thục, ta cần tu trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi. Các Thiền sư, khi trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”. Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa thiền, vì chưa kiến tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền tông.
* Một số thiền sinh quan niệm Thiền là cắt đứt mọi hoạt động tâm lý. Đây là lối tu theo kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ cảnh sợ duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính mình; đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào để tránh. Có người lại hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn xưng, thỏng tay vào chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào khổ xứ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng không diễn đạt đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm lãnh hội thực tại phi ngôn. Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự thấu triệt ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.
* Đức Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, ấy là muốn sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng sanh đều có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể nào chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta hiểu đơn giản rằng, chữ “sẽ thành” có nghĩa là một tương lai nào đó, thì vô hình trung ta có sự vọng cầu mong mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật tâm tại hiện tiền, chứ không phải là một Đấng Cứu thế bên ngoài hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu thiền có tâm mong cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ hãi, thường dễ phát sinh bệnh tật, điên cuồng. Đây là điều chúng ta cần thận trọng ghi nhớ.