Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 24: Dana và sự hào hiệp

29/11/202015:42(Xem: 2099)
Bài 24: Dana và sự hào hiệp


buddha_136

Lý Tưởng của người Bồ-tát

The Bodhisattva Ideal

***


Chương IV

 

Lòng vị tha và chủ trương cá nhân

trong cuộc sống tâm linh

 

***

                        Bài 22 - Tình thương người và chủ trương cá nhân

                        Bài 23 - Tình thương người

                        Bài 24 - Dana và sự hào hiệp

                        Bài 25 - Hiến dâng sự can đảm và không biết sợ là gì 

                        Bài 26 - Hiến dâng mạng sống của chính mình

                        Bài 27- Sila paramita hay Đạo đức hoàn hảo

                        Bài 28- Ăn chay và Phật giáo

                        Bài 29- Hôn nhân và Phật giáo

 

Bài 24

 

Dana và sự hào hiệp

 

            Dana là tiếng Phạn có nghĩa là sự hào hiệp, là phẩm tính cao nhất trong số các phẩm tính toàn thiện (paramita/ba-la-mật/ đạo đức siêu nhiên, phẩm tính hoàn hảo), điều này quả hợp lý, bởi vì xu hướng tự nhiên của chúng ta không phải là "cho" mà là "nhận" (bản năng sinh tồn khiến chúng ta luôn nghĩ đến gom góp, tằn tiện, ích kỷ để bảo vệ sự sống còn của riêng mình, bố thí và từ thiện đi ngược lại với sự thúc đẩy bản năng đó. Vì thế phẩm tính hào hiệp - dana - hay sự hiến dâng được xem là phẩm tính toàn thiện thứ nhất trong số sáu phẩm tính toàn thiện, còn gọi là đạo đức siêu nhiên hay paramita). Khi có một sự kiện nào đó xảy ra, dù là trong lãnh vực công ăn việc làm, gia đình, thể thao (thắng, bại, được khen thưởng...) hay giải trí (tìm cách để thắng mỗi khi đánh bài hay chơi cờ chẳng hạn,), thì phản ứng tự nhiên của mình - dù rằng đôi khi mình không hoàn toàn ý thức được điều đó - sẽ là như sau:

 

            "Tôi sẽ đạt được những điều lợi nào cho tôi trong chuyện đó?"

 

            Xu hướng gom góp, chiếm hữu luôn xảy ra với chúng ta (phía sau các tư duy, tác ý, xúc cảm, ngôn từ, hành động của chúng ta, luôn ẩn nấp cái tôi hay cái ngã của mình, thế nhưng không mấy khi chúng ta ý thức được các tác động của nó. Các tác động đó chính là động cơ thúc đẩy với mục đích bảo toàn sự sống còn của một mình). Sở dĩ sự thèm khát (tham lam, bám víu) được xem là trục của chiếc bánh xe của sự sống là vì lý do đó. Sự thèm khát ở đây không đơn giản chỉ có nghĩa là một sự thèm muốn hay ước muốn thông thường mà là một sự thèm khát với đầy đủ ý nghĩa của nó. Sự thèm khát chiếm giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong sự sinh hoạt và cuộc sống của chúng ta (thèm khát được giàu có phản ảnh bản năng sinh tồn; thèm khát sự thỏa mãn tính dục phản ảnh bản năng truyền giống; thèm khát được khỏe mạnhsống lâu phản ảnh bản năng sợ chết.  Các sự thèm khát và bám víu đó là động cơ chủ yếu và cũng là nguyên nhân sâu xa nhất đưa đến sự tái sinh bất tận trong cõi luân hồi). Thật ra thì đấy là những gì chi phối cuộc sống của chúng ta, ít nhất là trong lãnh vực vô thức (sự vận hành của các thứ bản năng rất sâu kín, đưa đến mọi hình thức tham lam, bám víu và sau cùng là khổ đau, thế nhưng chúng ta thường không nhận thấy được điều đó). Tất cả chúng ta đều nằm trong nanh vuốt của sự thèm khát, luôn xô đẩy và cuốn trôi chúng ta. Tất cả những gì mà chúng ta làm, tất cả những gì mà chúng ta quan tâm, phía sau đều ẩn nấp bóng dáng của cái tôi. Nếu muốn đến gần với sự giác ngộ, thì phải chuyển xu hướng đó theo chiều ngược lại. Hiến dâng sở dĩ được xem là phẩm tính toàn thiện (paramita) thứ nhất là vì nó trực tiếp đi ngược lại với sự gom góp. Giáo huấn Phật giáo nêu lên điều đó như sau:

 

            "Có thể bạn không phải là một người chu đáo, có thể bạn không đủ sức ngồi thiền trong năm phút, có thể bạn là người cứ để mặc cho năm tháng trôi đi không hề tìm dịp đọc một bài kinh, thế nhưng nếu bạn ước mong tạo được cho mình bất cứ một cuộc sống nào khác cao cả hơn, thì bạn cũng chỉ cần bố thí".

 

            Nếu bạn cảm thấy quá khó rứt ra những gì là của mình, hoặc quá khó hình dung ra sự thiếu thốn của kẻ khác, thì nhất định bạn  sẽ không thể nào đi xa được, nhất là trong lãnh vực tâm linh. Trái lại, dù bạn là một con người như thế nào đi nữa, thế nhưng chỉ cần bạn có một tí xíu lòng hào hiệp, thì cũng sẽ đủ mang lại cho bạn một niềm hy vọng trong lãnh vực tâm linh. Và đấy cũng chính là thông điệp của Đại thừa.

 

            Điều đó không đơn giản chỉ có nghĩa là cho những gì mình có (của cải, hiện vật, miếng ăn chẳng hạn). Trước hết, sự hào hiệp phải là một cung cách hành xử phát xuất từ con tim và tâm thức mình, có nghĩa là toàn thể con người của mình. Walt Whitman (1819-1892, thi hào Mỹ) có nói như sau:

 

            "Hiến dâng, tôi hiến cả con người của tôi"

           

            Và đấy cũng chính là thái độ của người bồ-tát, là người đứng ra hiến dâng cho kẻ khác, tất cả kẻ khác, không bao giờ ngưng nghỉ. Kinh sách xác định sự hiến dâng căn cứ vào các xu hướng và chủ đề khác nhau, từ bao quát đến thứ yếu với các tiết mục thật chi tiết. Điều đó có thể đưa đến tình trạng khó nhận định [thế nào là sự hào hiệp], thế nhưng thật ra phương pháp hệ thống hóa đó đã giúp cho việc tu tập được nghiêm chỉnh hơn. Tôi không đi ra ngoài hệ thống phân loại đó, thế nhưng cũng nên hiểu rằng chủ đích của chúng ta không phải là chỉ đi sâu vào chi tiết mà còn phải cùng bản thảo với nhau về tinh thần của sự hiến dâng (sự hiến dâng bắt đầu bằng một xúc cảm phát sinh bên trong tâm thức mình, xúc cảm đó hiện ra bên ngoài dưới hình thức ngôn từ, cử chỉ hoặc cụ thể và gián tiếp hơn là một hiện vật, một bát cơm chẳng hạn, thế nhưng đôi khi cũng chỉ cần một giọt nước mắt cũng có thể biến cải chính mình và thế giới).  Thông thường kinh sách phân loại việc hiến dâng theo các tiết mục như sau:

 

            1- hiến dâng cho ai

            2- hiến dâng những gì

            3- hiến dâng như thế nào

            4- tại sao lại hiến dâng các thứ ấy

 

Hiến dâng cho ai

 

            Trước hết chúng ta hãy tự hỏi hiến dâng cho ai? Trên nguyên tắc, tất cả chúng sinh đều là đối tượng của lòng hào hiệp nơi người bồ-tát. Vì vậy, thật hết sức quan trọng là phải khơi động bằng được lý tưởng đó cho mình, dù rằng trên thực tế không mấy ai đủ sức mang lại lợi ích cho toàn thể giống người. Một cách cụ thể, kinh sách nêu lên ba thể loại người được thừa hưởng sự giúp đỡ, mà người bồ tát phải đặc biệt quan tâm. Trước hết bổn phận của người bồ-tát là phải hiến dâng cho bạn hữu và những người trong gia đình mình, không cần phải tỏ lòng từ tâm và thân thiện với những người xa lạ, dù họ đang gặp phải khó khăn trong cuộc sống, kể cả lâm vào hoàn cảnh thật nghiệt ngã. Thật vậy thái độ từ thiện bắt đầu với chính mình (và những người thân thuộc của mình), thế nhưng sự từ thiện không phải chỉ có bấy nhiêu đó, không khác gì như phép tu tập về "lòng từ tâm vô biên" (metta bhavana), sự từ thiện không dừng lại ở một mức độ nào cả.

 

            Thể loại người thứ hai được hưởng lòng hào hiệp của người bồ-tát là những người cơ hàn, bệnh tật, khổ đau, không phương tự vệ - trong số đó và theo lý tưởng Phật giáo, còn phải kể thêm cả hàng thú vật (thú vật cũng có thể phải chịu cảnh đói kém, bệnh tật và khổ đau như con người).

 

            Ngoài ra người bồ-tát còn phải hiến dâng cho những người thuộc thể loại thứ ba là những người dành trọn đời mình cho việc tu tập (những người xuất gia). Theo truyền thống từ xưa, người Phật giáo còn phải chu cấp cho tất cả những ai xả thân trong các sinh hoạt tín ngưỡng - kể cả các tín ngưỡng khác - và phải xem đấy là trọng trách của mình trong xã hội, họ có thể là những người tu hành ở cấp bậc cao chẳng hạn như các ni sư, các vị lạt-ma, các vị thầy, v.v, (dưới triều đại của vua Azoka vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch, người tu hành được hoàng triều chu cấp miếng ăn, quần áo, thuốc men, nơi trú mưa che nắng... Quyết tâm này của vua Azoka đã đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của Phật giáo. Ngày nay trong một số quốc gia dân chủ, tín ngưỡng và chính trị tách rời nhau, điều đó khiến tín ngưỡng có thể rơi vào tình trạng "cuối mùa" như chúng ta thấy ngày nay. Trái lại trong một số các nước độc tài tại Á châu và cả một số các nơi khác, tín ngưỡng trở thành một công cụ chính trị, khiến tín ngưỡng có thể trở thành hung bạo, hoặc chỉ loanh quanh với các sinh hoạt "đại chúng"). Nguyên tắc trên đây của Phật giáo (chu cấp các nhu cầu cho người tu hành) cũng phải được áp dụng với những người tham gia vào các công trình sáng tạo có giá trị cao, chẳng hạn như các họa sĩ, nhạc sĩ hay văn sĩ, thế nhưng tuyệt nhiên không được phép lợi dụng sự hiến dâng đó để tạo áp lực bắt buộc họ phải tuân theo các quan điểm và lý tưởng xã hội (câu này quả đáng để mỗi người trong chúng ta phải suy nghĩ và nhìn lại chính mình). Qua tầm nhìn Phật giáo, điều đó cho thấy một sự mù tịt hoàn toàn về bản chất và ý nghĩa của việc tu tập tâm linh và sự sáng tạo. Sự hiến dâng phải hoàn toàn vô điều kiện, không được tạo ra một hình thức ràng buộc nào cả.   

 

Hiến dâng những gì

 

            Khía cạnh thứ hai trong việc hiến dâng là tự hỏi xem vật hiến dâng là gì, và những gì có thể mang ra để hiến dâng. Trên nguyên tắc tất cả những gì mà mình sở hữu đều có thể mang ra để hiến dâng. Tuy nhiên kinh sách cũng có đưa ra một danh sách nêu lên thật chính xáa sáu thể loại hiện vật có thể mang ra để hiến dâng.

 

            Trước hết là các nhu cầu cơ bản nhất: thức ăn, quần áo, nơi trú mưa che nắng. Trong các nước Phật giáo tại Á châu và trong hầu hết các xã hội còn giữ được truyền thống lâu đời, thì lòng hảo tâm và sự hiếu khách là cung cách hành xử thật tự nhiên. Mọi người đều cư xử thật hào hiệp trong cuộc sống thường nhật, đó cũng là cách nhắc nhở mình luôn phải nhớ đến lòng hảo tâm bên trong chính mình (trong các xã hội xưa, những người sống cùng xóm hay cùng làng, mỗi khi có món gì ngon thường mang biếu nhau, đó là cách nghĩ đến nhau trong cuộc sống thường nhật, thói tục này mất dần trong cuộc sống tân tiến ngày nay, vì thực phẩm dồi dào hơn, không như các thời đại xa xưa, đồng thời con người, cuộc sống và các sinh hoạt xã hội cũng trở nên cá nhân hơn). Chúng ta được hưởng một chút gì đó trong từng ngày. Chẳng phải mỗi ngày chúng ta cần có một chút gì đó để ăn và một chút không khí để thở hay sao? Vậy thì tại sao chúng ta lại không có bổn phận hồi đáp lại các thứ ấy bằng một chút gì đó của mình? Những người trong các gia đình Phật giáo mỗi khi gặp kẻ ăn xin thì thường cho một chút tiền, nếu gặp những người tu hành khất thực thì cúng dường thực phẩm, hoặc trông thấy cảnh đói nghèo thì cho một ít tiền hay ít gạo. Vật cho dù đôi khi không đáng gì, thế nhưng cũng là cách tập cho mình thói quen tốt, biết nghĩ đến cử chỉ hiến dâng, và cũng là để giúp mình ý thức được lòng hào hiệp chính là thành phần bất khả phân trong cuộc sống hằng ngày. Thường xuyên biết nghĩ đến việc hiến dâng phải chăng là một cách tái lập lại sự cân bằng với những gì mình được thường xuyên thụ hưởng trong từng ngày - Điều đó chẳng phải là hợp lý hay sao?

 

 

Vài lời ghi chú của người chuyển ngữ

                                               

            Trong bài giảng trên đây nhà sư Sangharakshita có trích dẫn câu sau đây: "Hiến dâng, tôi hiến cả con người của tôi". Câu này là một câu trong bài thơ trường thiên mang tựa Song of Myself / Tiếng hát trong tôi của thi hào Walt Whitman. Bài thơ gồm thêm tất cả 52 phân đoạn, và câu trên đây nằm trong phân đoạn 40. Người chuyển ngữ xin mạn phép phỏng dịch phân đoạn này dưới đây, hầu độc giả có thể xem để thấy rằng một người dù không phải là Phật giáo nhưng cũng có thể có một lòng từ tâm và hào hiệp rất cao: 

 

Tiếng hát trong tôi

Walt Whitman

 

Mặt trời ơi! chớ khoe khoang, ta nào cần hơi ấm của mi đâu - xin hẹn nhau dịp khác!

Mi chỉ tỏa sáng bên ngoài, ta xuyên ngang bề ngoàt và cả các vực sâu thăm thẳm!

 

Địa cầu ơi! Dường như mi mong gì đó nơi bàn tay ta?

Già nua và ngớ ngẩn , Địa cầu ơi/ Hãy cứ nói lên những gì mi mong đợi.

 

Này các bạn nam nữ! Ta muốn nói lên ta thương yêu các bạn - nhưng nghẹn lời.

Thiết tha, ta chỉ muốn nói lên những gì trong ta và cả trong các bạn - nhưng nghẹn lời.

 

Ngày đêm, ta chỉ mong nói lên niềm khao khát đó trong ta.

Hãy hiểu lòng ta, nào ta có ý dạy đời, cũng chẳng quảng bá chút từ tâm rẻ tiền.

 

Hiến dâng, ta hiến cả con người của ta.

 

Này bạn, sao thân người mềm nhũn, cố gượng lên,

Hãy kéo bỏ chiếc khăn quàng quanh cổ, ta sẽ thổi sự can trường của ta vào trong bạn.

 

Hãy ngửa đôi bàn tay và mở toang túi áo,

Kho tàng trong ta thật đầy, chẳng bao giờ cạn cả.

Chớ ngại, bổn phận ta là thế, ta sẽ hiến dâng tất cả những gì trong ta.

 

Chớ nói với ta bạn là ai, chẳng bao giờ ta nghĩ đến,

Dù bạn là người vô dụng hay chẳng ra gì, ta vẫn ôm lấy bạn. 

Từ thâm tâm chẳng bao giờ ta ái ngại.

 

Dù là người lam lũ (một kẻ nô lệ) trên cánh đồng bông vải, hay một kẻ chùi cầu,

Ta vẫn cứ nghiêng đầu để hôn lên má bạn, thân ái nụ hôn này.

 

 

[...]

 

Bất cứ ai hấp hối, nhanh lên, ta mở toang cánh cửa,

Kéo bỏ tấm khăn trải giường (đắp thân người hấp hối).

 

Này bác sĩ và cả vị linh mục hãy cứ về nhà nghỉ ngơi.

Mở vòng tay, với nhiệt huyết trong tim, ta ôm người hấp hối, nâng đầu lên,

Hỡi người tuyệt vọng, hãy ghì chặt cổ ta.

 

Chớ để mình chìm xuống. hãy bám vào thân ta.

Nguyện làm phao, ta thổi vào cho bạn, hơi thở này trong ta,

Toàn thân bạn căng tràn sức sống nơi cánh tay này của ta.

 

Những kẻ khước từ đào huyệt đều là tình nhân của ta.

Cứ ngủ yên đi nhé, cả ta và cả họ sẽ canh chừng suốt đêm. 

Chớ nghi ngờ gì cả, cái chết nào dám chạm, dù chỉ bằng ngón tay.

 

Ta ôm bạn vào lòng, từ giờ phút này bạn sẽ là chính ta,

Hừng đông khi thức dậy, bạn sẽ thấy lời ta là đúng thật.

 

Dưới đây là bản gốc tiếng Anh của bài thơ trên đây:

Song of Myself

(1892 version)

By Walt Whitman

 

       Flaunt of the sunshine I need not your bask—lie over!

       You light surfaces only, I force surfaces and depths also.

 

       Earth! you seem to look for something at my hands,

       Say, old top-knot, what do you want?

 

       Man or woman, I might tell how I like you, but cannot,

       And might tell what it is in me and what it is in you, but cannot,

       And might tell that pining I have, that pulse of my nights and days.

 

       Behold, I do not give lectures or a little charity,

 

       When I give I give myself.

 

       You there, impotent, loose in the knees,

       Open your scarf’d chops till I blow grit within you,

       Spread your palms and lift the flaps of your pockets,

       I am not to be denied, I compel, I have stores plenty and to spare,

       And any thing I have I bestow.

 

       I do not ask who you are, that is not important to me,

       You can do nothing and be nothing but what I will infold you.

 

       To cotton-field drudge or cleaner of privies I lean,

       On his right cheek I put the family kiss,

       And in my soul I swear I never will deny him.

 

       [...]

 

       To any one dying, thither I speed and twist the knob of the door.

       Turn the bed-clothes toward the foot of the bed,

       Let the physician and the priest go home.

 

       I seize the descending man and raise him with resistless will,

       O despairer, here is my neck,

       By God, you shall not go down! hang your whole weight upon me.

 

       I dilate you with tremendous breath, I buoy you up,

       Every room of the house do I fill with an arm’d force,

       Lovers of me, bafflers of graves.

 

       Sleep—I and they keep guard all night,

       Not doubt, not decease shall dare to lay finger upon you,

       I have embraced you, and henceforth possess you to myself,

       And when you rise in the morning you will find what I tell you is so.

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 27.11.20

                                                                                     Hoang phong chuyển ngữ      

 

(còn tiếp)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2022(Xem: 2151)
Thế Chí Đại sĩ, bình báu lung linh Thâu nhiếp niệm Phật thệ nguyện rộng thênh Biển cả bao la, hầu cận Di Đà Trừ mê cứu khổ thoát khỏi Ta Bà Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần).
15/07/2022(Xem: 3398)
Gần đây nhờ theo dõi thường xuyên các khoá An Cư Kiết Đông của Phật Giáo Đại thừa thường kiết giới bắt đầu từ rằm tháng tư và giải chế tự tứ vào rằm tháng 7 và một trong các thời khoá có nghi thức lạy Ngũ bách Danh Quan Thế Âm hoặc lạy mỗi chữ một lạy trong kinh Pháp Hoa mà cuối câu đều là Quán thế Âm thí dụ :
13/06/2022(Xem: 4692)
Lễ An Vị Bồ Tát Quan Âm Tam Diện Lộ Thiên tại A Di Đà Land, Taralga, NSW, Úc Châu (11/6/2022) MC: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên -Phật tử tề tựu -Cung thỉnh Chư Tôn Đức quang lâm -Giới thiệu chương trình, chư tôn đức và quý quan khách tham dự -Lời chào mừng của Đạo hữu Tony Thạch Quân Thật, pd: An Hậu -Lời đạo từ của Thượng Tọa chứng minh -Lễ tụng kinh sái tịnh an vị (TT Nguyên Tạng & NS Như Như) -Tặng quà và phát bằng tán dương công đức đến quý Phật tử đóng góp công quả cho A Di Đà land trong thời gian qua -Chụp hình lưu niệm -Thọ trai và hoàn mãn
16/04/2022(Xem: 3380)
Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự trên đài sen Vầng hào quang ánh tỏa ra rực rỡ Phật, Pháp,Tuệ nhãn chiếu soi cứu độ Chúng sanh khỏi kiếp khổ nạn đau thương
23/03/2022(Xem: 3006)
Kính lạy Đức Bồ Tát biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn Hình thành nội hàm tín ngưỡng tinh thần BI, TRÍ, NGUYỆN, HẠNH của Phật giáo Bắc Tông (1) Điểm đặc sắc ...Đại thừa tâm lượng rộng lớn !
20/03/2022(Xem: 2685)
Tâm Đại từ bi. Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Đại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp. Nay phàm phu chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con mỗi ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, chư Bồ Tát.
19/03/2022(Xem: 2525)
Bồ Tát có gốc là Bodhisattva. Từ Bodhi có nghĩa là " giác ngộ.", sattva có nghĩa là "chúng sanh". Bodhisattva được dịch là chúng sanh giác ngộ hoặc người giác ngộ. Sau khi đạt được giác ngộ, bằng từ bi và trí tuệ, vị Bồ Tát giúp mình và người khác vượt qua biển khổ đến bờ an lạc. An lạc chính là Niết Bàn. Trong cuộc sống hàng ngày, các vị Bồ Tát luôn có mặt quanh ta, gồm Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Đó là những người bằng trí tuệ, công sức giúp mọi người bớt khổ đau trong thân và tâm. Bồ Tát làm được điều đó bởi trong tâm của Bồ Tát tồn tại một năng lượng gọi là Tâm Bồ Đề. Khi quy y Tam Bảo, ai cũng muốn có Tâm Bồ Đề. Để đạt được Tâm Bồ Đề của một vị Bồ Tát, người tu phải tự hỏi: Mình an lạc không? Mình sống chan hòa với những người xung quanh không? Người tu phải hiểu rõ cái tính Không trong cuộc sống. Hoa cũng là đất và đất cũng là hoa. Bởi khi ngộ được “Ngũ uẩn giai không” thì mới “ độ nhất thiết khổ ách” tức là vượt qua mọi khổ đau đến được bờ Niết Bàn.
01/11/2021(Xem: 5438)
Kính mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Đản Sinh 30/9 Nhân ngày lễ Đức Đông Phương Giáo Chủ cùng tìm hiểu niềm tin đối với Ngài và sự mầu nhiệm linh ứng đến với mỗi Phật Tử .... Cách đây 25 năm, lần đầu tiên sự linh ứng của Phật Dược Sư đã đến với tôi một cách bất ngờ mà sau này khi học Phật tôi mới hiểu là mình có được túc duyên mới có được một phương thuốc nhiệm mầu về tâm linh do Ngài ban tặng qua câu thần chú linh ứng như sau mà lúc ấy chưa có YouTube để nghe như bây giờ .... Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hoá những nghiệp bất thiện trong
22/10/2021(Xem: 2799)
Kính mừng Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 Kính dâng Thầy bài thơ nhân ngày Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 âm lịch ( 24/10/2021) .Kính chúc sức khỏe Thầy Kính ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ... Một lần nữa, sự nhiệm mầu đã đến ! Melbourne vừa gỡ bỏ lockdown hai ngày Lễ vía Bồ Tát 19/9 sẽ cử hành ... hoan hỷ thay ! Mừng Ngài đã lắng nghe, giải cứu giúp thoát Khổ ! Sự là lòng từ bi nhân ái vị tha ...Bồ Tát Độ Lý thì chúng con tự cứu độ bản thân Bao dung, không tham đắm ái nhiễm bụi trần Bố thí, yêu thương người .. luôn giữ tâm ý sạch ! Kính nguyện : ... học ý nghĩa tên Ngài để làm tròn trọng trách, Người Phật Tử phải thể hiện được Từ Bi Nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên chớ khóc than chi Hiểu rõ hơn, lắng nghe hơn ... giải tỏa uẩn khúc ! Ngày Lễ Vía Quan Âm Xuất Gia 19/9 .. nguyện hứa biết tri túc ! Huệ Hương Melbourne 24/10/2021
06/09/2021(Xem: 3715)
Địa ngục là một khái niệm thuộc thế giới quan, nhằm mục đích trừng ác, răn dè hành vi của con người trong thế giới thực tại. Quan niệm về địa ngục được hình thành trên cơ sở thuyết luân hồi, luật nhân quả, thuyết báo ứng. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ các dịch phẩm, khoa nghi, thơ phú, cho đến nghệ thuật tôn giáo, hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu, đồ họa. Sự ảnh hưởng của kinh tạng Bắc truyền và nền nghệ thuật Phật giáo Đông Á là điều ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Từ triều đại Lê Thánh Tông (1442-1496) có bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, trong có đề cập đến thiên đường, địa ngục, Phong Đô, cảnh đói khát dưới chốn âm ty. Bài này dùng để răn dè 10 loại người gồm: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, Nho sĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, tướng quân, hoa nương, thương nhân, đãng tử. Như vậy có thể hiểu được rằng dẫn có những tham khảo nhất định về địa ngục của Phật giáo. Bài này là để cúng xá tội vong li
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567