Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 18: Đại thừa và Tiểu thừa

26/09/202014:53(Xem: 2306)
Bài 18: Đại thừa và Tiểu thừa


buddha_131

Lý Tưởng của người Bồ-tát

The Bodhisattva Ideal

***

Chương III

 

Lời nguyện của người bồ-tát

 

***

 

Bài 16 - Lời nguyện của người bồ-tát

Bài 17 - Mười đại nguyện của người bồ-tát

Bài 18 - Đại thừa và Tiểu thừa

Bài 19 - Bốn đại nguyện của người bồ-tát

Bài 20 - Tôi cầu mong giải tỏa được mọi khó khăn cho tất cả chúng sinh

Bài 21-  Tôi cầu mong loại trừ được mọi thứ đam mê

 

 

Bài 18

 

Đại thừa và Tiểu thừa

 

            Đại thừa biểu trưng thật tài tình toàn bộ một quá trình chuyển hóa và lồng sự chuyển hóa đó vào một khung cảnh thật rộng lớn, có thể xem như là cả vũ trụ (Đại thừa là một quá trình chuyển hóa từ Tiểu thừa qua một sự mở rộng mang các kích thước vũ trụ). Nagarjuna/ Long Thụ trong tập luận Vòng hoa Trân quý (Vòng bảo châu) có nói như sau:

 

            "Nhờ vào lòng tin nơi Đại thừa,

            Cùng các phương pháp tu tập do Đại thừa chủ trương,

            Sự Giác ngộ tối thượng sẽ đạt được,

            Cùng với tất cả các sự thích thú"  

 

            Tại sao lại có chuyện "tất cả các sự thích thú" (all the pleasures) trên các bước đường Đại thừa, trong khi đó đối với con đường Tiểu thừa thì không có gì cả? Một cách vắn tắt, người ta có thể bảo rằng tất cả là nhờ vào lý tưởng của người bồ-tát. Tiểu thừa chú trọng nhiều hơn vào sự buông xả (abandonment) và vượt thoát mọi sự thèm khát (avidity), v.v. Trên phương diện mục đích, [đối với Tiểu thừa] là sự chấm dứt khổ đau và cũng có nghĩa là sự chấm dứt của các thứ thèm khát. Đối với phần đông chúng ta, tầm nhìn đó [của Tiểu thừa] không tạo được một cảm hứng (inspiring/ một sự thích thú hay hứng khởi) nào cả, ít nhất là trong giai đoạn khi mới bước vào việc tu tập (một người tu tập Tiểu thừa khi mới bắt đầu bước vào con đường sẽ không cảm thấy một sự thu hút nào cả, chỉ khi nào ý thức được khổ đau của mình và bản chất ảo giác của thế giới, thì khi đó mới cảm thấy con đường mà mình đang bước đi thênh thang hơn). Nói một cách đơn giản, lý tưởng của người bồ-tát [biểu trưng cho Đại thừa] tỏ ra hấp dẫn hơn nhiều (more inspiring). 

 

            Tất cả tùy thuộc vào sự "quán thấy" (vision), tức là lý tưởng. Hãy nêu lên một thí dụ, chẳng hạn như trường hợp đứng ra thiết lập một trung tâm Phật giáo (xây dựng một ngôi chùa), nếu trong khi hoạch định, trong tâm thức mình hiện lên hình ảnh tuyệt đẹp của Đức Phật, cùng với một tăng đoàn hài hòa và các gian phòng khang trang và an bình (tạo ra cho mình một niềm hứng khởi) thì dù phải sơn phết trần nhà hay phá bỏ một bức tường, chúng ta luôn được khơi động bởi một niềm vui thích trong lòng. Trái lại nếu có một người nào đó bảo chúng ta "hãy phá bỏ bức tường này đi", thì mọi sự sẽ trở nên khác hẳn (làm việc vì một lý tưởng khác hơn với sự vâng lệnh một người khác). Nếu những gì mà chúng ta làm được kèm thêm niềm hứng khởi và hướng vào một mục đích tích cực, thì chúng ta sẽ làm với tất cả tâm huyết của mình. Công việc đó sẽ mang lại cho mình một sự thích thú sâu xa, ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi chấm dứt (đây là cách giải thích của nhà sư Sangharakshita về câu phát biểu trên đây của Nagarjuna về "tất cả các sự thích thú trên con đường Đại thừa". Thật ra đối với một người Tiểu thừa khi đã ý thức được sự khổ đau của chính mình và kẻ khác và bản chất phù du của thế giới, thì một sự quyết tâm cũng sẽ bùng lên trong tâm thức mình, giúp mình bước theo con đường Tiểu thừa hăng say và phấn khởi hơn. Con đường Đại thừa thênh thang hơn, thế nhưng mức đến đôi khi dường như cũng xa hơn chăng ?).     

 

            Chúng ta phải tạo được một sự cân bằng [trong việc tu tập] giữa lý tưởng và thực tế. Giải pháp tốt nhất là tu tập cả hai: Tiểu thừa là việc tu tập hằng ngày, Đại thừa hướng chúng ta vào lý tưởng. Lý tưởng đó vượt thoát các yếu tố thời gian và cả không gian, hoàn toàn độc lập với các cố gắng nho nhỏ [trong từng ngày] của cá nhân mình.

 

            Tất cả những gì mà chúng ta bắt buộc phải cần đến là tạo ra cho mình một sự tin tưởng là các giá trị tâm linh (các kết quả tu tập của mình) sẽ được tồn lưu lâu dài, phía sau cái chết của mình. Khi nào tạo được sự tin tưởng đó, có nghĩa là nếu mình quyết tâm tu tập  Dharma/Đạo Pháp ngay trong lúc này và tại nơi này, thì nhất định tương lai tất sẽ hướng dẫn mình tái sinh vào một thời điểm [thích nghi] nào đó, tại một nơi [thuận lợi] nào đó, dưới thể dạng một người bồ-tát nơi một vũ trụ nào đó, có thể là rất xa xôi. Thiết nghĩ chúng ta không nên xem Phật tính (Bản thể của Phật/ buddhatva/ buddhabhava/ Buddhahood, tức là tiềm năng giúp người tu tập trở thành một vị Phật) như là nguồn cảm hứng (chủ đích tu tập) của mình. Chúng ta không nhất thiết phải hiểu kinh sách Đại thừa một cách từ chương, các kinh sách ấy chỉ là cách tạo ra cho mình một sự cảm nhận tràn đầy hứng khởi, hướng mình vào một thế giới khuôn mẫu (an archetypal world), nhưng không phải là một biểu đồ (diagram, schema) chi tiết quy định việc tu tập của một người Phật giáo. Chúng ta phải rút tỉa từ cái sơ đồ đó trong kinh điển Pali một sức mạnh to lớn hơn nhiều (có nghĩa là người Đại thừa đã thổi vào sơ đồ tu tập căn bản của Tiểu thừa một sức sống thật mạnh với thật nhiều hứng khởi và nhiệt tình).    

                                                                                                

            Với tư cách một cá thể con người, chúng ta không thể giữ riêng cho mình (appropriate, sở hữu, chiếm giữ) các thuộc tính, các phẩm chất kể cả các ước nguyện của người bồ-tát, có nghĩa là bạn và tôi cả hai sẽ trở thành các vị bồ-tát mang kích thước vũ trụ (tu tập Đại thừa không phải là để trở thành những con người siêu phàm, qua hình ảnh các vị bồ tát mô tả trong kinh sách). Thật ra chỉ có một vị bồ-tát duy nhất (dưới hình thức một khuôn mẫu lý tưởng) - nếu có thể nói như vậy -  một vị độc nhất đứng ra hành động, mỗi người trong chúng ta (tu tập theo Đại thừa) chỉ có thể làm những gì mà mình làm được để góp phần vào công trình đó. Điều này cũng tương tự như Samboghakaya  (Thụ dụng thân) là vị Phật khuôn mẫu (an archetypal buddha) đại diện cho lý tưởng Giác ngộ, vượt khỏi bối cảnh lịch sử. Cũng vậy, người bồ-tát không đại diện cho một cá thể con người đích thật nào cả, mà chỉ là tinh thần Giác ngộ, biểu trưng cho một sự dấn thân vào thế giới, và tinh thần Giác ngộ đó được nhân cách hóa qua bóng dáng của một người bồ-tát.

 

 

Vài lời ghi chú của người chuyển ngữ

 

            Sự khác biệt giữa Tiểu và Đại thừa là một vấn đề to lớn, các công trình nghiên cứu và khảo luận của nhiều đại sư và học giả uyên bác đã đưa đến một số sách và tư liệu thật phong phú và đồ sộ, thế nhưng hầu hết dường như đều dựa vào các sự kiện lịch sử, cùng các khía cạnh tương đồng và khác biệt trong các lãnh vực lý thuyết và thực hành của hai xu hướng tu tập này. Nhà sư Sangharakshita, qua những dòng ngắn gọn trên đây, đã nêu lên một cách tiếp cận cụ thể, nhưng cũng vô cùng độc đáo về vấn đề này. Tiểu thừa biểu trưng cho một nền tảng giáo lý tinh khiết, trong sáng, chính xác và thiết thực, Đại thừa bùng lên từ nền tảng đó qua một sự mở rộng, đa dạng, phong phú, mang các kích thước toàn cầu và vũ trụ.

 

            Tuy nhiên, thật hết sức quan trọng là phải hiểu rằng sự mở rộng đó của Đại thừa không phải là một sự ly giáo (schism), một hình thức chia rẽ. Qua một góc nhìn nào đó chúng ta có thể xem Tiểu thừa như một tấm ảnh, chụp một phong cảnh tuyệt đẹp và sáng sủa, và Đại thừa là một bức họa cùng một phong cảnh đó, nhưng được tô điểm thêm với nhiều màu rực rỡ, cùng một số chi tiết và đường nét lý tưởng hơn.  

 

 

                                                                                                Bures-Sur-Yvette, 25.09.20

                                                                                                 Hoang Phong chuyển ngữ

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/10/2020(Xem: 7969)
Thư Mời Tham Dự Lễ Vía Bồ Tát Quán Thế Âm tại Chùa Giác Nhiên, Tân Tây Lan
21/10/2020(Xem: 3600)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm là tuyển tập 500 danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Mỗi danh hiệu tán dương một bản nguyện, công đức, khuyến tu, hóa thân, hoặc oai lực của Bồ Tát, viết thành một câu khá dài. Phần lớn danh hiệu trích dẫn từ Kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (266 câu), Phẩm Phổ Môn trong Kinh Pháp Hoa (81 câu). Còn lại dẫn từ các Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni, Kinh Bất Không Quyến Sách, Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm và các Kinh Luận khác. Do dẫn nhiều bản Kinh nên có những chỗ tương tự hoặc lập lại để tôn trọng ý Kinh.
06/10/2020(Xem: 12770)
Giúp Phật hoằng pháp độ quần sanh, Quán sâu Bát-nhã trí tuệ thành. Năm uẩn đều không, trừ nhân ngã, Ba độc dứt rồi hiện Phật, Tăng. Điều tâm, lìa tướng, phá chấp pháp, Bỏ Tiểu theo Đại, đạo viên thành. Hiện tướng tỳ-kheo dạy bảo chúng, Lập thành công lớn chẳng kể công.
16/09/2020(Xem: 3511)
Nếu ai đã vào tuổi Thu Đông và đã từng trải qua những cơn đau nhức do thấp khớp chắc chắn sẽ hiểu được tiến trình tuần tự của sự Sinh / Diệt của Già, Bệnh, Khổ. Tâm trong chuỗi Thập Nhị Nhân duyên ( nếu hành giả ấy có học qua về Phật Pháp ) lúc bấy giờ hành giả sẽ không muốn bị ràng buộc bởi tham ái hay bất mãn nào cả.. Lúc đó khi ngồi chiêm nghiệm lại cuộc đời mình, hành giả sẽ thốt ra " Thì ra điều ao ước duy nhất khi đến với cuộc đời này chỉ là sẽ được sống hạnh phúc và chết bình an."
07/08/2020(Xem: 4337)
Gần đây vì luật phong tỏa cách giản xã hội, nhất là các tiểu bang phải chịu cảnh lockdown giai đoạn 3 và 4 , chùa chiền không thể có các buổi tập họp để nghe pháp thoại và tu bát quan trai hàng tháng nên các Thầy đã phương tiện cho nghe kinh và các bài giảng về các nghi thức hay lời dạy của Phật, Tổ . Hôm nay lại đến ngày vía Quan Âm Bồ Tát 19/6 , thường thì các chùa Bắc Tông vào ba ngày vía Quan Âm (19/2-19/6-19/9)thường tỏ chức những buổi lễ thật long trọng và trang nghiêm để cho thập phương Phật tử có cơ hội nghe lại 12 đại nguyện của Ngài để noi gương và hướng theo mà tu tập cũng như thực hiện các công việc từ thiện bố thí ...
07/04/2020(Xem: 6094)
Hẳn ai trì tụng Chú Lăng Nghiêm mỗi sáng đều có tụng thêm thập chú mà Chuẩn Đè thần chú nằm vào vị trí thứ tư như sau : “Khế thủ quy-y Tô-tất-đế, Đầu diện đảnh lễ thất cu chi. Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn-Đề, Duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam-bồ-đề,
24/03/2020(Xem: 5272)
Trước khi phân tích và đi sâu vào chủ đề "Lý tưởng của người bồ-tát", thiết nghĩ chúng ta cũng nên tìm hiểu xem Phật giáo là gì, có phải là một tôn giáo hay không? Chữ "tôn giáo" (religion) là một thuật ngữ của người Tây phương, xoay quanh ý niệm về một Vị Trời Sáng Tạo ra thế giới và cả con người. Do đó con người phải chấp thủ quy luật do vị Sáng Tạo an bài, và điều đó cũng có nghĩa là nếu muốn được "cứu rỗi" thì phải chấp hành các phán lệnh của Vị ấy. Dhamma - tiếng Phạn là Dharma - hay Đạo Pháp do Đức Phật đưa ra hoàn toàn ngược hẳn với ý niệm đó. Dhamma là cách hướng vào bên trong con người của mình để tìm hiểu các nguyên nhân quá khứ và cả trong hiện tại đưa đến sự hiện hữu của chúng ta ngay trong lúc này, và chính sự hiện hữu đó cũng luôn ở trong tình trạng chuyển động và đổi thay, bằng cách liên kết và tương tác với vô số các điều kiện khác trong thiên nhiên và vũ trụ. Tu tập Phật giáo là tìm hiểu các nguyên nhân nào đã tạo ra sự hiện hữu trói buộc đó của mình để hó
13/03/2020(Xem: 3568)
Kính lạy Đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Phước Đức nào con được chút thiện duyên Sức mọn tài hèn chưa thấu ngộ Uyên Nguyên , Nên Xưng tán Ngài ngữ ngôn không đạt Ý !
13/03/2020(Xem: 4338)
Hiệu Viên Thông, danh Quán Tự Tại Bồ Tát Chánh Pháp Minh Như Lai, Cổ Phật Ngài là Trụ Tây Phương Cực Lạc Phật A Di Đà Quảng phát hoằng thệ nguyện, Ta Bà thị hiện
11/03/2020(Xem: 6391)
Thơ viết giữa mùa dịch Covid-19 đang lây nhiễm hơn 100 quốc gia trên thế giới tính từ thời điểm tháng 3-2020… Đứng trước tai ương dịch bệnh đang hoành hành dữ dội này…Chúng ta, những người con Phật đồng nhất tâm tịnh niệm Bồ Tát Quán Thế Âm hướng về ngày 19 tháng 2 năm Canh Tý - 2020 với tất cả lời nguyện cầu thiết tha: NIỆM BỈ QUAN ÂM LỰC. Để chúng ta niệm danh hiệu: NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI CỨU KHỔ CỨU NẠN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Với giọt nước cam lồ trong bình tịnh thủy sẽ rưới lên khắp cõi UẾ TRƯỢT TA BÀ dập tắt tai ương dịch bệnh của muôn loài chúng sanh không còn lo âu sợ sệt nữa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com