Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Pháp Hoa được dịch sang tiếng Nga.

22/05/201319:51(Xem: 13723)
Kinh Pháp Hoa được dịch sang tiếng Nga.


Phật Giáo Khắp Thế Giới

Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2001
---o0o---


Kinh Pháp Hoa Được Dịch Sang Tiếng Nga

Kinh Pháp Hoa (Sadharma Pundarika Sutram/The Lotus Sutra) một bộ kinh theo tư tưởng Bắc Truyền được nhiều dân tộc trên thế giới tán ngưỡng. Tính đến nay bộ kinh này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như : Trung Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Anh, Pháp, Đức, Thổ Nhỉ Kỳ và hiện tại bộ kinh nổi tiếng này được chuyển ngữ sang tiếng Nga. 

Người đang làm công việc phiên dịch này là giáo sư Alexander Ignatovich, người đang phụ trách kho lịch sử Đông Nam Á châu thuộc Viện Nghiên cứu Á - Phi Trực thuộc với Đại Học Moscow. Ông đã in sang nhiều sách về Phật học và Sử học về văn hóa và tôn giáo ở Trung Hoa và Nhật Bản bằng tiếng Nga. Ông đọc Kinh Pháp Hoa từ năm 1971 và quyết định đưa vào công trình nghiên cứu của mình. Sau đó ông để tâm nghiên cứu các bản dịch Kinh Pháp Hoa của ngài Chih-i và ngài Nichiren ( Nhật Liên Thánh Nhân ) và một số sớ giải bằng tiếng Nhật hiện đại và phát nguyện chuyển ngữ bộ kinh này sang tiếng Nga. Trong chuyến viếng thăm Nhật Bản gần đây, ông đã cho phóng viên tờ DHARMA WORLD biết về công việc phiên dịch kinh điển của mình.

Khi dịch Kinh Pháp Hoa (KPH) ra tiếng Nga ông có nghiên cứu các tài liệu liên quan không ? 

Có chứ. Tôi đặc biệt chú ý đến các KPH trong ngôn ngữ Châu Âu và tiếng Nhật

hiện đại. Nói như vậy không có nghĩa là tôi không quan tâm đến các bản dịch và các bản sớ giải cổ điển khác, tiếc thay những bản dịch và sớ giải như thế có quá ít ở Nga. Từ khi đến Nhật Bản tôi có dịp nghiên cứu thêm sáu bộ sớ giải cổ điển và tôi sẽ trích dẫn từ những tác phẩm này cho bản dịch tiếng Nga của tôi như bộ của Chih-i và bộ " Pháp Hoa Nghĩa Sớ " của Thái tử Shòtoku. 

Các bộ kinh sớ giải Kinh Pháp Hoa của các học giả Nhật Bản ở thế kỷ hai mươi rất hữu ích. chẳng hạn như các bộ "Những Bài Giảng Nổi Tiếng Về KPH", 12 quyển của Ichiro Kobayashi Yoshiro, Kinh Pháp Hoa, 3 quyển của Yukio Shamoto và Kinh Pháp Hoa, 2 quyển của Yoshiro Tamura và Kyòkò Fujii. Tôi chắc chắn rằng với sự giúp đỡ của những bộ sớ giải này tôi sẽ có thể tạo ra được một bản dịch tiếng Nga chính xác. Ví dụ, đầu phẩm Tín Giải (Faith Discernment) thứ tư, có nói đến các tôn giả Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp và Mục Kiền Liên. Bản dịch này cho rằng từ " wisdom-destined" (Huệ Mạng) áp dụng cho cả bốn vị. Tuy nhiên theo ngài Ichiro Kobayashi thì " wisdom-destined" chỉ liên quan đến Tu Bồ Đề và "Maha" (Đại) là từ dùng cho các vị kia. Tôi sẽ theo cách đọc này. 

Cái gì đã đặc biệt gây sự chú ý của ông khi ông dịch KPH và đọc các bản dịch cổ cũng như các bản dịch của các học giả Nhật Bản ở thế kỷ hai mươi này ? 

Tôi tình cờ đọc được một quyển sách có tựa là " Kinh Pháp Hoa và Vật Lý Nguyên Tử " ( The Lotus Sutra and nuclear Physics ) của một nhà Vật Lý học người Nhật Bản. Ông ta viết rằng một số vị Phật được kể trong KPH là tương tự như những nguyên tố được khám phá ra bởi các nhà Vật lý học hiện đại và ông kết luận rằng mỗi vị Phật này phải phù hợp với một nguyên tố đặc biệt. Chính điều này làm cho tôi để ý đến các bản dịch hiện đại của KPH. Theo kinh nghiệm của tôi thì họ thường đi xa và xem nhẹ những điểm quan trọng của kinh. Vì thế tôi thích tạo ra một bản dịch nặng ký hơn các bản dịch cổ điển và truyền thống. Tôi cũng chú ý đến một số xu hướng hiện đại hóa trong các bản dịch khác nhau về KPH mà chúng có thể tiếp tục được dịch sang các ngôn ngữ Châu Âu. Khi tôi nghĩ về lời phát biểu rằng mỗi nguyên tố là đại diện cho mỗi vị Phật, tôi cho rằng những khuynh hướng như vậy là không cần thiết cho người Nhật. 

Thông thường, người ta đồng ý rằng KPH được viết tại miền Tây Bắc nước Ấn độ Trong khoảng thế kỷ thứ I và thứ II, sau đó Kinh được truyền bá sang Trung Hoa,Triều Tiên rồi đến Nhật Bản. Trong lễ kỷ niệm lần thứ hai mươi của Hội Phật Giáo Rissho Kosei-Kai, khi một thành viên lãnh đạo phát biểu rằng đó là thời gian để tuyên bày một giáo lý mới cho tổ chức. Ông Nikkyo Niwano ( Chủ tịch hội ) liền trả lời : " Đó là sự phỏng đoán thêm vào lời dạy của KPH, một bộ kinh đã tồn tại một thiên niên kỷ, tự nó đã có trọng lượng rồi cần thêm chi nữa",ý kiến ông thì sao ? 

Tôi vinh hạnh được đọc bộ sớ giải KPH bằng tiếng Anh của ông Nikkyo Niwano. Tôi cảm thấy rằng ông ta không tạo ra một bộ luận mới mà đưa ra nhiều lời di-n giải trong những thuật ngữ mới và cố gắng giải thích bộ Kinh bằng một phương cách mà con người trong thế kỷ hai mươi có thể hiểu được. Tôi thấy không có lý do gì để đọc lại hoặc sữa lại bản gốc.

Người Tây phương có thể chia sẻ những hiểu biết thông thường về giáo lý cơ bản của KPH như " Phật, Pháp, Tánh không, Thật tướng của các pháp" không ? 

Bản dịch của tôi sẽ được chia thành năm phần, bao gồm một phần khá lớn về bản chú giải thuật ngữ Phật học. Tôi muốn giải thích các thuật ngữ liên hệ đến Phật Giáo và KPH được sử dụng trong bản dịch của tôi. Khi giải thích về "Pháp" và "Tánh Không" tôi dựa vào các phẩm của Otto Rosenberg và Theodore Stcherbatsky ( Sáng lập viên Hội Thư Mục Phật Học ). Chẳng hạn, khi gặp các từ pháp (law/Dharma), tùy theo trường hợp mà tôi dịch theo hai cách. Thứ nhất, pháp là "Pháp môn", thứ hai, Pháp là "các pháp" nói chung. Để phân biệt hai nghĩa này trong bản dịch tiếng Nga, tôi viết hoa từ "Pháp môn", còn chữ không viết hoa là " các pháp". 

Người Nhật hiểu giáo lý vô thường của vạn hữu như là một chuyện bình thường, còn người Nga sẽ như thế nào? 

Trong tiến trình lịch sử lâu dài của người Nhật Bản, Phật giáo đã đi sâu vào trong cuộc sống của người dân Nhật và KPH vẫn tiếp tục ảnh hưởng sâu rộng trên nền văn hóa Nhật Bản. Kết quả là người dân Nhật có những quan niệm, có những hiểu biết về Pháp Hoa Kinh trong máu của họ. Còn đối với người Nga, tiếc thay, ở Nga chỉ có một vai người đọc được KPH qua bản dịch tiếng Anh hay tiếng Trung Hoa. Do đó, thật quan trọng và hết sức bức thiết cho tôi hoàn thành tốt đẹp và chính xác bộ KPH bằng tiếng Nga cho người dân của chúng tôi. 

Hầu hết mọi người đều cho rằng nước, không khí và ánh sáng là chuyện tự nhiên. Tôi e rằng nhiều người cho rằng KPH và đạo Phật cũng thế. Tôi nghĩ sự quan sát của ông sẽ khách quan hơn ? 

Tôi nhìn thấy sự nguy hiểm cho chính bản thân tôi. Tôi được lớn lên và học hành trong xã hội nói tiếng Nga và văn hoá phương Tây, những cái tương tự như thế đã ảnh hưởng tôi. Như Goethe đã nói, để hiểu ngôn ngữ của bạn một cách chính xác, bạn nên học một ngoại ngữ. Trong thời gian này, tôi đang trải qua kinh nghiệm đó. Tuy nhiên, nhiều người không phải học ngoại ngữ để hiểu văn hóa và truyền thống của họ. Khi tôi tiếp xúc một cái gì đó khác với truyền thống của tôi, tôi có thể nhận ra một lãnh vực mới ngay chính trong tôi. 

Kinh Pháp Hoa đã hấp dẫn ông điều gì ?

Hai điều. Thứ nhất, lời dạy của KPH dường như ứng dụng một cách bình đẳng cho tất cả mọi người. Cái hấp dẫn tôi nhất là nội dung của phẩm " Bồ Tát Thường Bất Khinh" (The Bodhisattva Never Despise). Chúng ta biết rằng một vị Bồ Tát cuối cùng sẽ thành Phật, chúng ta phải nhận ra rằng chính chúng ta là người phải đạt được Phật quả. Vị Bồ Tát Thường Bất Khinh nói với bất cứ ai khi ngài gặp : " Tôi không dám khinh quý vị, quý vị đều sẽ thành Phật". Mặc cho họ ném đá và chế nhạo ngài, ngài vẫn giữ một khoảng cách an toàn và lập lại lời chúc tụng những kẻ khinh rẻ, hành hạ ngài như là những vị Phật tương lai. 

Thứ hai, là chín ẩn dụ của KPH. Dụ nhà lửa, dụ dược thảo, dụ hoá thành, dụ cùng tử, dụ hạt châu chéo áo, dụ hạt châu búi tóc, dụ ông thầy thuốc, dụ cha trẻ con già và dụ đào giếng, đó là những ẩn dụ độc đáo của KPH đã thu hút tôi. 

Tôi đọc kinh lần đầu tiên vào năm 1971 bằng bản dịch tiếng Anh do nhà xuất bản Kosei ấn hành. Tôi đọc kinh và liền nghĩ đến việc phiên dịch bộ kinh này ra tiếng Nga. Đó là thời điểm Liên Xô còn mạnh, sách ngoại quốc khó tìm thấy ở tiệm sách. Bộ kinh tôi đọc chỉ là một bản photocopy có nhiều vấn đề nảy sinh bởi vì đó là một bộ sách tôn giáo. Tôi chưa hề đọc thánh kinh. Cuối cùng tôi mới kiếm được một bản gốc của KPH và tôi bắt đầu nghiên cứu. Tôi viết luận án tốt nghiệp của tôi về ba tác phẩm chính của ngài Nichiren. Khi tôi đọc những tác phầm của ngài, tôi thích nhất là bộ KPH. Tiếc thay, tôi không có bản chính văn mà chỉ là bản chú giải và một bản dịch hiện đại. Rồi một vài năm trước đây, tôi nhận một bản gốc và một lần nữa tôi lại bị thu hút bởi KPH. 

Khi tôi hoàn tất bản dịch KPH tôi hy vọng sẽ chuy-n ngữ thêm năm tác phẫm chính của ngài Nichiren Thực tế, cách đây hai năm tôi đã in một phần sách dịch của tôi về quyển Kaimokusho (Khai nhản) của ngài Nichiren. Nhưng đó là một quyển sách in vội vã và tôi phải đính chính lại rất nhiều chỗ . Tôi rất biết ơn sự nghiên cứu và các bộ sớ giải của các giáo sư thuộc Đại Học Rissho, những yếu tố đã giúp cho sự hiểu biết của tôi về di sản tinh thần của thánh nhơn Nichiren, cũng như vô số những lời phê bình, đánh giá hữu ích mà tôi nhận được. 

Ông có quan tâm đến ý kiến cho rằng nhà văn Tolstoy (1828 - 1910) rất gần gũi với kinh điển Phật Giáo không?

Tôi nghĩ mọi người ở Nhật Bản đánh giá cao và hiểu biết nhiều về Tolstoy (Nhà văn nổi tiếng người Nga). Điều đó chứng tỏ rằng người Nga và người Nhật chia sẻ cho nhau nhiều đức tin về đời sống nội tâm. Chính Tolstoy có một sự quan tâm sâu sắc đối với tôn giáo và triết học Phương Đông, đặc biệt là đạo Phật và Lão. Lúc bây giờ, những hiểu biết về đạo Lão rất hạn chế ở Châu Âu, nhưng đã có một số sách viết về Đức Thích Ca bằng tiếng Châu Âu rồi. Tolstoy biết thông thạo nhiều thứ tiếng như Pháp, Đức, Anh, Ý.... do đó ông đã đọc nhiều bản dịch từ Kinh Tạng Pàli và Kinh Tạng Đại Thừa do các học giả Anh và Đức phiên dịch. KPH được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh trong khoảng thời gian ông còn sống và rất có thể ông đã đọc được bộ kinh này. Phật Giáo Đại Thừa được biết đến ở Nga, nhưng chỉ có một số ít người nghiên cứu. Do đó rất khó xác định được mức độ ảnh hưởng của Tolstoy đối với KPH và kinh Phật nói chung. Tôi nghĩ rằng rất có thể là ông ta đọc được nhiều kinh điển Phật Giáo. Điều đó hoàn toàn có lý, vì trước năm ông mất 1910, ông đã đọc một số kinh Phật được phiên dịch bởi học giả người Nga I.E.Minayev. 

Chúng tôi mong muốn nhìn thấy thành quả dịch phẩm KPH của ông.

Theo DHARMA WORLD, tháng 10/1996. 

---o0o---

Kỹ thuật vi tính:
Hải Hạnh, Ðàm Thanh, 

Diệu Nga, Tâm Chánh, Nguyên Tâm
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/03/2022(Xem: 2029)
Islamabad: Hôm thứ Ba, ngày 15 tháng 03 vừa qua, đã diễn ra Hội thảo Khoa học Phật giáo Quốc tế, sự kiện với thời gian 02 ngày được tổ chức tại Pakistan với chủ đề "Lịch sử, Khảo cổ học, Nghệ thuật và Kiến trúc", đã hé lộ tiềm năng du lịch tâm linh tại Pakistan trong việc thúc đẩy gắn kết xã hội và hòa hợp giữa các tôn giáo. Giám đốc điều hành Tổng công ty Phát triển Du lịch Pakistan (PTDC), Aftab-ur-Rehman Rana đã chủ trì phiên hội thảo với chủ đề "Tiềm năng Du lịch Tâm linh tại Pakistan" tại Hội thảo kéo dài hai ngày.
17/03/2022(Xem: 2119)
Bộ Tôn giáo Indonesia và Tổng vụ Hướng dẫn Phật tử tổ chức Hội nghị Quy hoạch Phát triển Phật giáo toàn quốc năm 2022. Nữ cư sĩ Phật tử S Hartati Murdaya, Chủ tịch Cộng đồng Phật giáo Indonesia (Walubi) cho biết, Hội nghị Quy hoạch Phát triển Phật giáo toàn quốc năm 2022 dành cho Tổng vụ Hướng dẫn Phật tử thuộc Bộ Tôn giáo Chính phủ Cộng hòa Indonesia, là một động lực để tăng cường hợp tác lẫn nhau giữa các Phật tử. Tại cuộc họp báo hôm thứ Ba, ngày 15 tháng 03 vừa qua, tại Jakarta, Chủ tịch Walubi phát biểu rằng: "Tôi hy vọng hoạt động này là động lực để tất cả các thành phần cùng làm việc vì sự tiến bộ của Phật tử Indonesia".
16/03/2022(Xem: 2134)
Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng, Right livelihood, 正命), một trong chi phần của Bát Chánh đạo (Eight Noble Paths, 八正道), là những con đường chuyển hóa, con đường đưa đến giải thoát và an lạc mà Đức Phật đã dạy. Nhưng điều này rất có ý nghĩa với nhân dân Vương quốc Nepal và làm thế nào để chúng ta có thể phát triển Nghề nghiệp chân chính? Những biến đổi đang diễn ra bên trong và xung quanh chúng ta, những nỗ lực của chúng ta để soạn thảo một Hiến pháp mới và tác động lực của các quốc gia láng giềng trong việc hướng đến những cải cách kinh tế lớn hơn có thể làm cải thiện xã hội Nepal theo những cách thức chưa từng có và xác định lại Nghề nghiệp chân chính trong công chúng như thế nào.
16/03/2022(Xem: 2099)
Bộ Giáo dục Liên bang và Đào tạo Chuyên nghiệp Pakistan (Ministry of Federal Education and Professional Training) đã cho biết rằng Phật giáo và Hỏa giáo (Zoroastrianism) sẽ được đưa vào Chương trình giảng dạy nghiên cứu của quốc gia, Chương trình giảng dạy quốc gia duy nhất (SNC). Năm tôn giáo khác cũng sẽ được đưa vào: Baha’i, Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo, Kalash và đạo Sikh. Bộ Giáo dục Liên bang và Đào tạo Chuyên nghiệp Pakistan cũng đã thông báo rằng chuyên gia về các tôn giáo này sẽ được tìm kiếm để hỗ trợ trong việc soạn thảo Chương trình giảng dạy.
15/03/2022(Xem: 2116)
Gần đây do ca nhiễm coronavius tăng nhanh, tôi đã kiểm tra qua Máy sàng lọc nhiều tầng phòng thí nghiệm. Khai báo y tế bằng mã QR-code. Hướng dẫn mã QR đã được giải thích ngắn gọn, nhưng tôi có thể tiếp tục mà không gặp nhiều khó khăn. Nhìn xung quanh, những người cao tuổi và cư dân nước ngoài thường nhận được sự giúp đỡ từ các nhân viên y tế. Truy cập kỹ thuật số rất hiệu quả trong cách sử dụng mã QR, nhưng vẫn còn khó khăn đối với một số người.
14/03/2022(Xem: 2001)
Cư sĩ Sutar Soemitro người sáng lập trang web BuddhaZine đã thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, từ giã trần gian vào ngày 03 tháng 03 năm 2019. Hưởng dương 38 xuân, lễ tang và an táng tại quê nhà, làng Purwodadi, quận Kuwarasan, Kebumen Regency, Trung Java, Indonesia. Cư sĩ Sutar Soemitro đã cống hiến cho các dịch vụ truyền thông, trong công việc truyền bá giáo lý Phật đà, góp phần phục hưng và phát triển Phật giáo tại Indonesia, đặc biệt là trong việc thiết lập mạng lưới phương tiện truyền thông báo chí Phật giáo trực tuyến, gia đình, trang web BuddhaZine và các thân hữu bạn bè đã xây một bảo tháp tưởng niệm cố Cư sĩ Sutar Soemitro.
13/03/2022(Xem: 18852)
Hành hương và chiêm bái Phật tích Ấn Độ là nhân duyên hy hữu và là một ước mơ ngàn đời của người đệ tử Phật trên khắp năm châu bốn bể. Nay ước mơ đó đã đến với Tăng Ni và Phật tử Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu. Như chương trình đã sắp đặt trước cả năm, phái đoàn hành hương Ấn Độ gồm 51 người do Tu Viện Quảng Đức tổ chức đã lên đường đúng vào ngày 7-11 năm 2006. Phái đoàn do Đại Đức Phó Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng, Sư Cô Hạnh Nguyên và Đạo Hữu An Hậu Tony Thạch (Giám đốc công ty Triumph Tour) hướng dẫn cùng với 38 Phật tử từ Melbourne, 6 từ Sydney, 1 từ Perth và 5 đến từ Texas, Cali, Hoa Kỳ.
12/03/2022(Xem: 2092)
"Sách văn hóa Thánh bảo Quốc gia Phật giáo Hàn Quốc" một danh mục toàn diện, giới thiệu tất cả các hiện vật lịch sử văn hóa Phật giáo, đã được chỉ định là Thánh bảo Quốc gia Phật giáo, đã được phát hành, theo Tổng hội Phật giáo Hàn Quốc. Tác phẩm được viết cả tiếng Hàn và Anh ngữ, cuốn sách cung cấp những lời chú thích về các đặc điểm chính của mỗi kho báu và đặt chúng vào bối cảnh bề dày lịch sử bởi sự phát triển năng động của nghệ thuật Phật giáo Hàn Quốc.
12/03/2022(Xem: 2190)
Tổng thể kiến trúc của Hàn Sơn Cổ Tự theo phong cách Lâm viên Giang Nam, với tổng diện tích 12.000 mét vuông, diện tích xây dựng tòa nhà 3.400 mét vuông, kiến trúc xây dựng gồm Đại Hùng Bảo điện, Tàng Kinh lâu, Phong Giang lâu, La Hán đường, Chung lâu, Bia ký, Bảo tháp Phổ Minh.v.v "Đại Hùng Bảo điện, 大雄寶殿" là một công trình kiến trúc đặc sắc của triều đại nhà Thanh, gian chính giữa thờ các tôn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni tọa vị, Tôn giả A Nan, Tôn giả Ca Diếp tả hữu đứng hầu, trong đại điện có tôn trí thờ Thập bát La Hán, tượng chạm khắc gỗ hương thếp vàng, hai pho thạch tượng nhị vị Thánh tăng Thiền sư Hàn Sơn, Thiền sư Thập Đắc và 12 bức chạm khắc đá đề vịnh lịch đại Thi nhân, ngoài ra còn có một quả chuông đồng biểu tượng tình hữu nghị giữa hai nước Trung-Nhật; "La Hán đường, 羅漢堂" tôn trí phụng thờ ngũ bách La Hán (500 vị); "Bia lang," dựng các bia đá ghi công các triều đại Tống, Minh, ngoài ra còn có phổ danh tháp viện nổi tiếng với bia thạch đề thi của Thi nhân Trương Kế "
12/03/2022(Xem: 2088)
Cùng hòa nhịp với Ngày Liên Hợp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế thường niên ngày 8 tháng 3, Tổ chức Trung tâm Quốc tế Nữ giới tu thiền (International Women's Meditation Center Foundation, 國際女性禪修中心基金會, IWMCF) đã công bố giải thưởng xuất sắc thường niên cho nữ giới Phật giáo, trụ sở chính tọa lạc tại Rayong, một thành phố nằm ở bên bờ vịnh Thái Lan. Năm nay bình giải xuất sắc được trao cho 20 nữ giới Phật giáo, bao gồm cả nữ cư sĩ và nữ giới xuất gia từ khắp nơi trên thế giới, đã vinh danh với giải thưởng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567