Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bà Caroline Rhys Davids Người kế thừa và phát triển Hội Phiên Dịch Kinh Điển Pali tại Anh Quốc

23/05/201319:08(Xem: 14835)
Bà Caroline Rhys Davids Người kế thừa và phát triển Hội Phiên Dịch Kinh Điển Pali tại Anh Quốc

 

Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới

---o0o---

77pgiaoucchau-rhysdavids

Bà Caroline Rhys Davids
Người kế thừa và phát triển Hội Phiên Dịch Kinh Điển Pali tại Anh Quốc

Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2006

---o0o---



 


Đ
iều quan trọng nhất về bà Caronline Augusta Foley Rhys Davids (1858-1942) là bà là một nhà phê bình. Bà không chấp nhận tất cả những gì ở trong kinh điển Pali là lời của Đức Phật. Bà tin rằng những đệ tử thừa hưởng giáo lý của Đức Phật đã truyền lại với những giáo lý mà trong đó có “hình thức xuyên tạc”. Bà có cách diễn dịch giáo pháp theo cách riêng của mình mà bà trình bày một cách can đảm. Mặt khác bà đã bày tỏ tinh thần khoan dung và tiến bộ của Phật Giáo, và sau hết là bà đã cống hiến tài năng về học thuật của mình cho lý tưởng Phật Giáo.

Vào năm 36 tuổi, cô Caroline Augusta Foley kết hôn với Thomas William Rhys Davids, 52 tuổi. Bà là một người chín chắn và độc lập với căn bản xuất sắc về học thuật. Rhys Davids cũng vậy. Hai người cùng quan tâm đến kinh sách Phật Giáo hệ Pali. Một người bạn chung của hai người đã trông thấy những tiềm năng của một cuộc kết hợp giữa hai nhà trí thức lớn, vì vậy đã khuyên họ kết hôn với nhau. Cuộc hôn nhân đã cho thấy một kết quả hoàn hảo. Ông bà Rhys Davids có 3 người con, đó là Davids Vivien Brynhilda (1895), Nesta Enid (1900) và Arthur Rhys Davids (1897), là một phi công chiến đấu đã tử trận trong thế chiến thứ nhất.

qd-rhysdavid

 Tiến Sĩ Thomas William Rhys Davids, chồng của Bà Caroline Rhys Davids 




Sinh năm 1858, Caronline Augusta Foley là một sinh viên xuất sắc ở University College, Luân Đôn, nơi mà sau này bà được bầu vào ban giám đốc. Là thạc sĩ và tiến sĩ văn chương, trong một thời gian dài bà là giảng viên tiếng Pali ở Trường Đông Phương và Phi Châu Học Luân Đôn (London School of Oriental and African Studies ) và trong một thời gian cũng là giảng viên Triết Học Ấn Độ ở Đại học Manchester.

Năm 1881, bà cùng với chồng là Tiến Sĩ Rhys Davids thành lập Hiệp hội Thánh Điển Pàli (Pàli Text Society) tại Luân Đôn, và đây có thể xem là một tổ chức Phật Giáo đầu tiên tại Anh quốc với sự tham gia của nhiều học giả nổi tiếng Âu châu và Á châu, để nghiên cứu, biên soạn, chuyển ngữ và in ấn kinh điển Phật Giáo bằng tiếng Pàli và Anh ngữ. Bà Rhys Davids đã trở thành người kế thừa xứng đáng với vai trò Chủ tịch Hội (từ 1922 đến 1942) sau khi chồng bà qua đời vào năm 1922.

Một học giả hàng đầu với tài năng đa dạng

Trong tiểu sử tự thuật nhan đề “Đốt cả hai đầu cây nến” (Both Ends of the Candle), Sir Denison Ross, giám đốc đầu tiên của Trường Đông Phương và Phi Châu Học Luân Đôn, viết như sau “ Lúc còn trẻ đã đánh bại đa số người trong môn quần vợt và môn bi da, bà đã nhiều năm là một học giả Pali hàng đầu, là giảng viên môn Pali, bà là một bảo vật của trường và đã thu hút được những sinh viên đến từ nhiều quốc gia khác. Bà đã phải chịu một sự mất mát kinh khủng khi người con trai của bà tử trận, anh ta là một phi công chiến đấu xuất sắc của chúng ta và đã được chính phủ tặng Huân Chương Thập Tự Victoria”.

Bà đã xuất bản rất nhiều kinh sách PG Pali với các bản dịch tiếng Anh bằng văn xuôi hay văn vần. Bà có công lớn trong việc biên tập, giải thích những cuốn sách khó hiểu của Luận Tạng (Abhidharma Pitaka). Tài năng của bà càng nổi bật qua việc biên tập những tác phẩm khó hiểu như Phân Biệt Luận(Vibhanga); Phát Thú Luận(Patthana); Song Yếu(Yamaka); Thanh Tịnh Đạo Luận(Visuddhamagga). Bà cũng dịch sang tiếng Anh một cách trong sáng những tác phẩm nổi tiếng khác của Luận Tạng như Pháp Tập Luận(Dhammasangvui); Thắng Pháp Tập YếuLuận(Abhidhammatthasangaha) và Luận Sự Luận(Kathavattha), hai cuốn sau bà hợp tác với Swee Zan Aung, người Miến Điện. Về Kinh Tạng (Sutta Pitaka), hai bản dịch chính của bà là Tương Ưng Bộ Kinh(The Samyutta Nikaya/ The Grouped Discourses); và Chuyện Tiền Thân Đức Phật (The Jataka) thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya).Các bản bịch tiếng Anh văn vần của bà là Trưởng LãoTăng Kệ(Theragatha) và Trưởng Lão Ni Kệ(Therigatha). Hai cuốn này được xem là những tuyệt phẩm về văn vần của bà.

77pgiaoucchau-rhysdavids-theman2



Ngoài những kinh sách do bà dịch và biên tập, bà còn viết những cuốn sách riêng của mình như “Gotama the Man” ( Đức Phật, một Con Người), và Thích Ca hay nguồn gốc Phật Giáo(Sakya or Buddhist Origins), cả hai cuốn sách gợi ý rất nhiều cho giới học giả Tây phương tìm về con người đích thực của Đức Thế Tôn. Các tác phẩm đáng chú ý khác của bà là Tâm lý học Phật Giáo(Buddhist Psychology); Sự khởi nguyên và phát triển của Tâm lý học Ấn Độ trong Phật Giáo(The Birth Of Indian Psychology And Its Development In Buddhism). Ngoài ra, còn có nhiều bài nghiên cứu kháccủa bà viết về Phật Giáo đã được sưu tập lại và xuất bản sau khi bà qua đời qua tuyển tập Lời Người Đi Đường(Wayfarer’s Words).


Diễn dịch giáo lý

Một trong những lời diễn dịch giáo lý của bà như sau “ Ít nhất là ba lần kinh sách Pali viết rằng ngài Xá Lợi Phất (Sariputta), đại đệ tử của Phật Thích Ca, thường nói về “ ta và tâm của ta” với một tỉ dụ. Ngài nói rằng chúng ta nên kiểm soát tâm của mình, chứ không để cho mình chịu sự điều khiển của tâm. Cũng giống như một vị vua có nhiều bộ áo trong tủ, sẽ lấy ra bộ nào cần mặc vào buổi sáng, bộ nào vào buổi trưa và bộ nào cho buổi tối, rồi khoác lên người với bộ áo thích hợp, và bộ áo đó không có gì để nói trong việc này. (những đoạn này trích từ Majjhima Nikaya Sutta, 32 (Trung Bộ Kinh, Kinh số 32); Samyutta Nikya (Tương Ưng Bộ Kinh); Mahavagga về Bojjhanga ( Đại Phẩm về Bồ Đề Phần), “ Patisambhida magga” , “ Bojjhanga Katha” ( Bồ Đề Phần Kệ).


Đây là sự một sự phân biệt rõ ràng giữa con người và công cụ của y. Những công cụ phải được giữ ở chỗ của chúng. Chúng ta lại thấy sự phân biệt này trong một thí dụ khác, lần này là do Đức Phật nói “ở trong rừng Jeta, xung quanh Tịnh Xá (nơi Ngài cư trú trong những năm cuối đời) có những người đang kiếm củi. Đức Phật nói các ông không gọi những thanh củi này là rừng chứ? vậy hãy xem thân và tâm không phải là các ông, không phải là chính mình”. Củi được mang đi để đốt, rừng vẫn còn và lại nở hoa.

“Một lần nữa, trong hai câu đầu của phẩm Song Yếu (Yamakavagga) của Kinh Pháp Cú (Dhammapada), chúng ta đọc thấy “Nếu một người nói hay hành động với tâm ô nhiễm, quả xấu sẽ đi theo người đó như bánh xe đi theo chân con bò. Nếu người đó nói hay hành động với tâm thanh tịnh, niềm phúc lạc sẽ đi theo người đó như bóng cây không rời khỏi cây”(Once more, in the first two verses of the Twins(Yamaka) chapter of the Dhammapada, you read: ‘If with corrupted mind he speaks or acts, ill follows him as the wheel the foot of drawing beast; if with mind serene he speaks or acts, bliss follows him as shadows goes not from the tree.’).

Nhưng đến lúc có sự thay đổi trong giáo lý. Vị Thầy và đệ tử của ngài tịch diệt. Các vị Thầy khác xuất hiện và giống như toàn thể đạo học Ấn Độ, đã chịu nhiều ảnh hưởng của một phái mới nhiều nghiên cứu về tâm lúc đó đang chiếm ưu thế và được gọi là Số Luận (Sankhya), trong tiếng Pali là Sankha hoặc Sankhana. Trong phái này, tâm trí con người đuợc phân tích, cứ như tâm là một thể vô hình, hay một loạt tiến trình theo một trật tự nào đó, giống như tiến trình của cơ thể con người. Đó là khởi đầu của một loại nghiên cứu mà ngày nay chúng ta cũng đã làm và gọi là tâm lý học. Dần dần phái này ảnh hưởng đến Phật học nhiều như nó đã ảnh hưởng đến chúng ta. “ Người” được giảm xuống chỉ còn là tâm trí của y. Giống như trong một cuốn sách ngày nay tôi đọc thấy những chữ “tự ngã hay tâm trí”. Các vị Thầy Phật Giáo đã đi đến chỗ dùng tâm thay cho tự ngã hay người. Vì vậy một cuốn kinh (Majjhima Nikaya 43) viết rằng tâm trí là cái hưởng tất cả những cảm giác, chứ không phải con người hay tự ngã như giáo lý ban đầu đã nói.

Có đường đi nhưng không có người đi đường

“Trong Kinh Pháp Cú, chúng ta thấy mỗi vế gồm hai câu văn vần đã được cho thêm vào một dòng để nói lên sự quan trọng mới được gán cho tâm: “sự vật là do tâm định trước, có tâm là cái tốt nhất, là do tâm tạo ra”. Chúng ta có thể thấy nếu bỏ dòng này đi thì những câu văn vần vẫn có ý nghĩa, và những vế hai câu sẽ cân hơn.

Trong những câu này rõ ràng tâm không phải là người nói hay người làm, trong những câu này bộ áo không làm nên con người, và củi không phải là rừng, Nhưng dòng chữ được cho thêm vào nói ngược lại. Điều này có vẻ xa cách với những pháp ngữ đầu tiên của Đức Thế Tôn dành cho các đệ tử “hãy tìm tự ngã”. Nhưng ngày nay tất cả chúng ta, ở Đông Phương cũng như Tây Phương, bị trói buộc vào sự áp đặt đường lối của người hay ý thức vào chỗ “người ý thức”. Tôi luôn luôn thấy điều này trong lời viết và lời nói của người Âu Châu, và tôi thấy trong các sách Phật Giáo. Điều này nói nhiều đến mức Đường đạo của vị Thầy được nói đến như là không có người đi trên con đường đạo đó, mà chỉ có ý tưởng đi trên đường mà thôi. Thực sự giáo lý của các Tăng sĩ thời sau này là “có đường nhưng không có người đi đường” (‘a Way is there, but no wayfarer!’) Như vậy nghĩa là thế nào ? con người chỉ có vì có đường đạo, hay đường đạo chỉ có vì có con người ? Một con đường được làm ra để không có ai đi cả thì quả là vô ích. Chúng ta hãy trở về với giáo lý tốt hơn nói về cái tủ áo và rừng cây. Chúng ta hãy làm chủ của những bộ áo, chúng ta hãy bỏ những thanh củi đi. Rồi chúng ta sẽ giống như khu rừng mùa xuân bừng nở những bông hoa mới.

Người theo truyền thống Theravada không chấp nhận lối diễn dịch này, mà vẫn giữ quan điểm của luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) cho rằng Đường Đạo là để cho sắc tướng lăn ở trên đó.


Tinh thần tiến bộ của Phật Giáo

Bà Rhys Davids nói về tinh thần khoan dung và tiến bộ của Phật Giáo như sau:

“Giáo lý Phật Giáo đưa chúng ta trở lại tận thời kỳ đầu tiên của khoa học Hy Lạp. Giáo lý Phật giáo không thể được dùng để kiểm soát hay làm lơ những khám phá của Copernicus và Bruno, Galileo và Newton, Darwin và Spenser mà có thể được dùng để kích thích và gây cảm hứng cho những khám phá. Không phải là giáo điều để người ta chấp thủ, chỉ có quy ước, hay để thỉnh thoảng lại cầu viện để hòa giải với thế gian với những khám phá, và những kết luận của họ, mà giáo lý nhà Phật phải là một sự tiên tri thúc đẩy họ trong công việc tìm chân lý của họ.

Nói về những thành quả của khoa học và tư tưởng hiện đại là một chuyện, còn tuyên bố rằng thế hệ này đầy tinh thần khoa học và rằng quan điểm và hành vi của người trung bình được quy định bởi tinh thần khoa học lại là một chuyện khác. Tình trạng sự việc như vậy chỉ đang ở thời kỳ ấu trĩ của nó, nhưng nó đã sinh ra và đang lớn lên. Vì vậy mỗi phong trào tư tưởng đối phó mỗi lúc mỗi nhiều hơn với tinh thần khoa học này, và sẽ đứng vững được hay sụp đổ phần lớn là theo ý muốn của nó. Và vì vậy tất cả những người nào tự gọi mình là tín đồ Phật Giáo, hay những người nào muốn truyền bá kiến thức Phật Giáo, hay ít nhất, tinh thần của giáo lý Phật Giáo, nên nhìn vào lời tuyên bố cho tinh thần khoa học đó. Thêm nữa, những người nào muốn theo dõi sự phát triển của tư tưởng nhân loại không thể nào vô tâm với mức độ mà tâm trí của người Ấn Độ cổ đại đã nói trước về một quan điểm mà giới tri thức Âu Châu đạt đến một cách chậm chạp và đau đớn….

Hàm ý một sự biến động về tâm lý

Phật Giáo thời kỳ đầu và khoa học hiện đại biểu lộ niềm tin vào luật nhân quả phổ quát với những từ ngữ rất giống nhau. Điều này làm cho chúng ta phải nghiên cứu thêm để biết có bao nhiêu bằng chứng lịch sử cho thấy sự tiến hóa của niềm tin luật nhân quả trong những Phật Giáo thời kỳ đầu đi song song với niềm tin luật nhân quả ở Âu Châu. Sự thiếu liên tục và thiếu ghi nhận thứ tự thời gian trong kinh sách Ấn Độ cổ đại gây nhiều khó khăn cho việc nghiên cứu này. Nhưng vẫn có một khối lượng kinh sách Ấn Giáo, một sự tích tụ những mốc thời gian, được gọi là sáu mươi kinh Upanisad (Áo Nghĩa Thư) của giáo lý Vệ Đà, trong đó một hình thức phiếm thần giáo (pantheism) gọi là “Atmanism” hay “Vedantism” được đặt ra, với chính yếu là những quan điểm cổ xưa về cái mà chúng ta gọi là Nguyên nhân đầu tiên, Cuối cùng và Cơ hội (First, Final and Occasional Cause). Và chúng ta có kinh điển PG Pali, được xem là có niên đại trùng với thời kỳ giữa của sáu mươi bản kinh Ấn Giáo đó, và bác bỏ lý thuyết “ Atman”, dù là đại ngã hay tiểu ngã.

“Chúng ta không thể nói đến mức độ nào Phật Giáo như một phong trào chống Ấn Giáo, chống giáo quyền, đã nảy sinh sự bác bỏ thuyết Atman, tự ngã hay tiếp tục một truyền thống bác bỏ xưa hơn và rộng hơn. Nhưng sự kiện các nhà thành lập Phật Giáo trong đời sống xuất gia tu hành đã một mặt đứng ở quan điểm chống Ấn Giáo, và mặt khác lấy luật nhân quả tự nhiên làm giáo lý chính yếu của mình, gợi lên ý tưởng đây là một sự biến động tâm lý”.

Trong những đoạn văn trên, chúng ta thấy bà Caroline Rhys Davids ở đỉnh cao năng lực của bà, khi bà dành những gì tốt đẹp nhất trong sở học của mình cho lý tưởng Phật Giáo. Bà làm việc không mỏi mệt cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, bà từ trần ngày 26 tháng 6 năm 1942, hưởng thọ 85 tuổi, để lại phía sau mình một tổ chức Phiên dịch kinh điển Pali vững mạnh và có nhiều đóng góp cho Phật Giáo thế giới đến tận hôm nay.

Tổng hợp theo tài liệu:

-The Western Contribution to Buddhism.William Peiris (1973). Motilal Banarsidass Publications, Delhi, India
-http://en.wikipedia.org/wiki/Caroline_Rhys_Davids

---o0o---

Kỹ thuật vi tính:
Trúc Giang - Trúc San - Phổ Trí
Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/03/2022(Xem: 2030)
Islamabad: Hôm thứ Ba, ngày 15 tháng 03 vừa qua, đã diễn ra Hội thảo Khoa học Phật giáo Quốc tế, sự kiện với thời gian 02 ngày được tổ chức tại Pakistan với chủ đề "Lịch sử, Khảo cổ học, Nghệ thuật và Kiến trúc", đã hé lộ tiềm năng du lịch tâm linh tại Pakistan trong việc thúc đẩy gắn kết xã hội và hòa hợp giữa các tôn giáo. Giám đốc điều hành Tổng công ty Phát triển Du lịch Pakistan (PTDC), Aftab-ur-Rehman Rana đã chủ trì phiên hội thảo với chủ đề "Tiềm năng Du lịch Tâm linh tại Pakistan" tại Hội thảo kéo dài hai ngày.
17/03/2022(Xem: 2122)
Bộ Tôn giáo Indonesia và Tổng vụ Hướng dẫn Phật tử tổ chức Hội nghị Quy hoạch Phát triển Phật giáo toàn quốc năm 2022. Nữ cư sĩ Phật tử S Hartati Murdaya, Chủ tịch Cộng đồng Phật giáo Indonesia (Walubi) cho biết, Hội nghị Quy hoạch Phát triển Phật giáo toàn quốc năm 2022 dành cho Tổng vụ Hướng dẫn Phật tử thuộc Bộ Tôn giáo Chính phủ Cộng hòa Indonesia, là một động lực để tăng cường hợp tác lẫn nhau giữa các Phật tử. Tại cuộc họp báo hôm thứ Ba, ngày 15 tháng 03 vừa qua, tại Jakarta, Chủ tịch Walubi phát biểu rằng: "Tôi hy vọng hoạt động này là động lực để tất cả các thành phần cùng làm việc vì sự tiến bộ của Phật tử Indonesia".
16/03/2022(Xem: 2135)
Nghề nghiệp chân chính (Chánh mạng, Right livelihood, 正命), một trong chi phần của Bát Chánh đạo (Eight Noble Paths, 八正道), là những con đường chuyển hóa, con đường đưa đến giải thoát và an lạc mà Đức Phật đã dạy. Nhưng điều này rất có ý nghĩa với nhân dân Vương quốc Nepal và làm thế nào để chúng ta có thể phát triển Nghề nghiệp chân chính? Những biến đổi đang diễn ra bên trong và xung quanh chúng ta, những nỗ lực của chúng ta để soạn thảo một Hiến pháp mới và tác động lực của các quốc gia láng giềng trong việc hướng đến những cải cách kinh tế lớn hơn có thể làm cải thiện xã hội Nepal theo những cách thức chưa từng có và xác định lại Nghề nghiệp chân chính trong công chúng như thế nào.
16/03/2022(Xem: 2102)
Bộ Giáo dục Liên bang và Đào tạo Chuyên nghiệp Pakistan (Ministry of Federal Education and Professional Training) đã cho biết rằng Phật giáo và Hỏa giáo (Zoroastrianism) sẽ được đưa vào Chương trình giảng dạy nghiên cứu của quốc gia, Chương trình giảng dạy quốc gia duy nhất (SNC). Năm tôn giáo khác cũng sẽ được đưa vào: Baha’i, Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo, Kalash và đạo Sikh. Bộ Giáo dục Liên bang và Đào tạo Chuyên nghiệp Pakistan cũng đã thông báo rằng chuyên gia về các tôn giáo này sẽ được tìm kiếm để hỗ trợ trong việc soạn thảo Chương trình giảng dạy.
15/03/2022(Xem: 2122)
Gần đây do ca nhiễm coronavius tăng nhanh, tôi đã kiểm tra qua Máy sàng lọc nhiều tầng phòng thí nghiệm. Khai báo y tế bằng mã QR-code. Hướng dẫn mã QR đã được giải thích ngắn gọn, nhưng tôi có thể tiếp tục mà không gặp nhiều khó khăn. Nhìn xung quanh, những người cao tuổi và cư dân nước ngoài thường nhận được sự giúp đỡ từ các nhân viên y tế. Truy cập kỹ thuật số rất hiệu quả trong cách sử dụng mã QR, nhưng vẫn còn khó khăn đối với một số người.
14/03/2022(Xem: 2004)
Cư sĩ Sutar Soemitro người sáng lập trang web BuddhaZine đã thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, từ giã trần gian vào ngày 03 tháng 03 năm 2019. Hưởng dương 38 xuân, lễ tang và an táng tại quê nhà, làng Purwodadi, quận Kuwarasan, Kebumen Regency, Trung Java, Indonesia. Cư sĩ Sutar Soemitro đã cống hiến cho các dịch vụ truyền thông, trong công việc truyền bá giáo lý Phật đà, góp phần phục hưng và phát triển Phật giáo tại Indonesia, đặc biệt là trong việc thiết lập mạng lưới phương tiện truyền thông báo chí Phật giáo trực tuyến, gia đình, trang web BuddhaZine và các thân hữu bạn bè đã xây một bảo tháp tưởng niệm cố Cư sĩ Sutar Soemitro.
13/03/2022(Xem: 18909)
Hành hương và chiêm bái Phật tích Ấn Độ là nhân duyên hy hữu và là một ước mơ ngàn đời của người đệ tử Phật trên khắp năm châu bốn bể. Nay ước mơ đó đã đến với Tăng Ni và Phật tử Tu Viện Quảng Đức, Melbourne, Úc Châu. Như chương trình đã sắp đặt trước cả năm, phái đoàn hành hương Ấn Độ gồm 51 người do Tu Viện Quảng Đức tổ chức đã lên đường đúng vào ngày 7-11 năm 2006. Phái đoàn do Đại Đức Phó Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng, Sư Cô Hạnh Nguyên và Đạo Hữu An Hậu Tony Thạch (Giám đốc công ty Triumph Tour) hướng dẫn cùng với 38 Phật tử từ Melbourne, 6 từ Sydney, 1 từ Perth và 5 đến từ Texas, Cali, Hoa Kỳ.
12/03/2022(Xem: 2093)
"Sách văn hóa Thánh bảo Quốc gia Phật giáo Hàn Quốc" một danh mục toàn diện, giới thiệu tất cả các hiện vật lịch sử văn hóa Phật giáo, đã được chỉ định là Thánh bảo Quốc gia Phật giáo, đã được phát hành, theo Tổng hội Phật giáo Hàn Quốc. Tác phẩm được viết cả tiếng Hàn và Anh ngữ, cuốn sách cung cấp những lời chú thích về các đặc điểm chính của mỗi kho báu và đặt chúng vào bối cảnh bề dày lịch sử bởi sự phát triển năng động của nghệ thuật Phật giáo Hàn Quốc.
12/03/2022(Xem: 2194)
Tổng thể kiến trúc của Hàn Sơn Cổ Tự theo phong cách Lâm viên Giang Nam, với tổng diện tích 12.000 mét vuông, diện tích xây dựng tòa nhà 3.400 mét vuông, kiến trúc xây dựng gồm Đại Hùng Bảo điện, Tàng Kinh lâu, Phong Giang lâu, La Hán đường, Chung lâu, Bia ký, Bảo tháp Phổ Minh.v.v "Đại Hùng Bảo điện, 大雄寶殿" là một công trình kiến trúc đặc sắc của triều đại nhà Thanh, gian chính giữa thờ các tôn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni tọa vị, Tôn giả A Nan, Tôn giả Ca Diếp tả hữu đứng hầu, trong đại điện có tôn trí thờ Thập bát La Hán, tượng chạm khắc gỗ hương thếp vàng, hai pho thạch tượng nhị vị Thánh tăng Thiền sư Hàn Sơn, Thiền sư Thập Đắc và 12 bức chạm khắc đá đề vịnh lịch đại Thi nhân, ngoài ra còn có một quả chuông đồng biểu tượng tình hữu nghị giữa hai nước Trung-Nhật; "La Hán đường, 羅漢堂" tôn trí phụng thờ ngũ bách La Hán (500 vị); "Bia lang," dựng các bia đá ghi công các triều đại Tống, Minh, ngoài ra còn có phổ danh tháp viện nổi tiếng với bia thạch đề thi của Thi nhân Trương Kế "
12/03/2022(Xem: 2088)
Cùng hòa nhịp với Ngày Liên Hợp Quốc vì Nữ quyền và Hòa bình Quốc tế thường niên ngày 8 tháng 3, Tổ chức Trung tâm Quốc tế Nữ giới tu thiền (International Women's Meditation Center Foundation, 國際女性禪修中心基金會, IWMCF) đã công bố giải thưởng xuất sắc thường niên cho nữ giới Phật giáo, trụ sở chính tọa lạc tại Rayong, một thành phố nằm ở bên bờ vịnh Thái Lan. Năm nay bình giải xuất sắc được trao cho 20 nữ giới Phật giáo, bao gồm cả nữ cư sĩ và nữ giới xuất gia từ khắp nơi trên thế giới, đã vinh danh với giải thưởng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567