Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng nhớ HT Minh Tâm

06/10/201419:43(Xem: 11561)
Tưởng nhớ HT Minh Tâm

 

 

Đốt nén hương lòng ở bên đây,
Thành tâm cầu nguyện Giác Linh Thầy
Cao Đăng Phật Quốc nơi Tịnh Độ
Con ở trần gian vẫn nhớ Thầy.

 

 

Năm 2003 lần đầu tiên tôi đi dự Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu  tại Armien Pháp quốc, lúc đó tôi có gặp Thầy Nguyên Lộc trong Ban Tổ Chức, tôi xin Thầy cho tôi để cái bàn phát băng đĩa thuyết pháp cho bà con Phật tử trong khóa tu học và để thùng phước sương từ thiện gieo duyên cho bà con Phật tử ủng hộ tịnh tài cùng chung góp phần công đức giúp những mảnh đời bất hạnh tại Việt Nam. Thầy Nguyên Lộc bảo tôi nên thỉnh qua ý kiến Sư Ông Minh Tâm. Khi gặp Sư Ông Minh Tâm tôi trình bày sự việc, Sư Ông hoan hỷ nói không có gì trở ngại và cũng từ đó tôi có hữu duyên thường gặp Sư Ông hằng năm trong các Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu hoặc các chuyến Phật sự của Sư Ông ở chùa Viên Giác, Đức Quốc hay chùa Quảng Hương, Chùa Vạn Hạnh Đan Mạch v.v… Và những lần đó tôi có được phước báu đưa đón Sư Ông. Sư Ông rất hiền đức dễ gần gũi, cứ mỗi lần gặp Sư Ông là Ngài hỏi qua công việc từ thiện như thế nào? Giúp đỡ những người tàn tật nghèo khổ, trẻ em mồ côi ở Việt Nam ra sao? Trong công việc có gì vướng mắt không? Cứ mỗi lần như thế Sư Ông đều động viên và khuyến tấn tôi, Ngài nói việc từ thiện không ngoài trong vấn đề trau giồi đức hạnh tu tập, phải kiên nhẫn mới làm được việc từ thiện... Với tâm Đại Từ Bi cứu độ của Ngài vì thấy rõ nghiệp khổ của chúng sanh, nên Ngài gia tâm hoằng pháp độ sanh và xiển dương giáo lý Phật Giáo khắp nơi để mọi người được sống an lạc, hạnh phúc trong ánh đạo từ bi.

 

Năm 2011 thật là đại nhân duyên tôi được tháp tùng với đoàn hành hương đến quốc gia Tích Lan do Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác Hanover hướng dẫn. Ngày 8.7.2011 tại Thủ Đô Colombo Tích Lan, Hòa Thượng Thích Minh Tâm và Hòa Thượng Thích Như Điển được Hội Đồng Tăng Già cùng Thủ Tướng và các Bộ Trưởng của chính quyền Tích Lan đón tiếp trọng thể, trao bằng tuyên dương danh dự cao quý của Quốc Gia và trao tặng quạt Quốc Sư cho hai vị đã có công phát huy tinh thần Phật giáo đến các xứ Âu Mỹ, đồng thời truyền bá giáo lý Phật Đà nhằm giải thoát chúng sanh thoát khỏi nỗi khổ sanh tử luân hồi. Với nhân duyên thù thắng này tôi có cơ hội ghi trọn Video lưu giữ hình ảnh đức độ của Ngài.

 

Hương hoa Ưu ngạt ngào trong gió                                              

Tiếng chuông ngân, đây đó khắp năm châu.

Tấm y vàng tỏa đến mọi nơi.

Thầy giản dị thật là giản dị

Thầy diệu hiền tinh khôi quá nhỉ.

Trần gian đây phủ phục nét Thầy cười

Trong nắng sớm chuông chùa ngân đổ. 

Chấp tay tìm bóng hạc ở đâu đây.

Thầy lặng lẽ ra đi không trở lại.

Tìm đâu ra bóng dáng hình xưa. 

Trần gian đây sớm nắng chiều mưa
Con tỉnh mộng, Thầy đi vào cõi Tịnh.

 

Đọc lại tiểu sử của Ngài, mới thấy rõ được lòng độ lượng, nhân đức, khiêm hạ và công đức của Ngài không ngôn từ nào kể hết và cũng không bút mực nào để diễn tả được. Ngài đã từng làm Giảng sư GHPGVNTN tỉnh Phú Yên và Giáo sư trung học đệ nhị cấp trường trung học Bồ Đề Tuy Hòa, Phú Yên; Ngài là một trong những vị lãnh đạo các phong trào đấu tranh tự do tôn giáo và nhân quyền tại tỉnh Phú Yên; Hiệu Trưởng trường trung học Bồ Đề Nguyên Thiều, Bình Định. Đến năm 1967 xuất dương sang Nhật Bản du học và học Nhật ngữ tại trường Kokksai, Ngài học xong chương trình hậu đại học tại đại học Risso (Lập Chánh) ngành Triết học Phật Giáo, Tokyo. Năm 1973 làm Bộ Trưởng Chi Bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Nhật. Sau Hiệp định Paris 1973 Ngài sang Pháp hoạt động đến năm 1999 Ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tấn phong lên hàng Giáo phẩm Hòa Thượng tại Na Uy. Ngày 8 tháng 7 năm 2011 tại thủ đô Columbo Tích Lan, Ngài được Hội Đồng Tăng Già và chính quyền Tích Lan trao quạt Quốc sư và phát phần thưởng danh dự cao quý của Quốc Gia cho những người có công mang Phật pháp đến các xứ Âu Mỹ. Từ năm 2006 Ngài là Phó Chủ Tịch của Hội Đồng Tăng Già Thế Giới, trụ sở đặt tại Đài Loan, nhiệm kỳ cho đến năm 2013 khi Ngài viên tịch. Ngài là Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Phẩm Tối Cao Phật Giáo tại Pháp, Người có công sáng lập ra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, đồng thời gầy dựng nên Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu đã trải qua được 25 khóa và sẽ tiếp tục mãi mãi sau này. Ngài đã đào tạo hàng trăm Tăng Ni xuất gia, hàng ngàn Phật Tử Thọ Bồ Tát Giới cũng như thọ Ngũ Giới quy y Tam Bảo. Là vị lãnh đạo tinh thần Phật Giáo Việt Nam trên toàn các Quốc Gia ở Âu Châu. 

  

Nhớ lại ngày 28.7.2013 tại Phần Lan tôi có nhân duyên được diện kiến thính pháp của Hòa Thượng giảng, hiện tại tôi có ghi lại trọn đoạn phim Video hình ảnh của Ngài thuyết giảng. Dù trong cơn đau bịnh, nhưng Hòa Thượng cũng cố gắng từ bệnh viện quay về cùng với lớp học cấp 3 cư sĩ tại gia, an nhiên tự tại như người mạnh khỏe, Ngài thăm hỏi mọi người rồi đi vào lớp giảng, đây cũng là buổi giảng cuối cùng của Ngài để rồi Ngài ra đi vĩnh viễn với đề tài "TU TỊNH ĐỘ THEO TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM". Ngài giảng: "Ta là người Việt Nam Tu theo truyền thống Văn Hóa Việt Nam. Cây có cội nước có nguồn, nhớ ơn Thầy Tổ, người Việt Nam nói tiếng Việt Nam, đọc kinh niệm Phật bằng tiếng Việt Nam: 'Nam Mô A Di Đà Phật, hay Án Ma Ni Bát Di Hồng' theo Thầy Tổ truyền thống của Việt Nam, đâu phải cần niệm Phật theo tiếng nước ngoài “A MI TÒ PHÒ. Hay ÚM MÊ NI BÁT MÊ HÙM” tiếng Tàu, tiếng Phạn, tiếng Sanskrit. Đâu cần phải tu pháp môn này, pháp môn nọ v.v… Phật Giáo đã ăn sâu bám rễ vào Việt Nam rất sớm. Từ đời nhà Lý, nhà Trần. Phật Giáo phát triển cực thịnh, Phật Giáo ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Rồi đến đời nhà Hậu Lê Phật Giáo lại càng phát triển mạnh hơn, vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành chánh quả, Ngài thành lập một dòng Phật Giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là Trúc Lâm Yên Tử với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông 1258-1308, Ngài đã cho xây dựng công trình trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành Tịnh độ, truyền kinh giảng Pháp đạo lý nhà Phật. Sau khi qua đời Ngài đã để lại chứng tích cho hậu thế ngày nay. Hòa Thượng giảng tiếp: “Chúng ta hãy nhìn thấy Hòa Thượng Thích Quảng Đức tu pháp môn gì? Có phải tu Tịnh Độ không? Có phải ngoài việc theo Thầy Tổ truyền thống tụng kinh niệm Phật. Mà ngày 11.6.1963 tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng (Sài Gòn), Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã phát nguyện tự thiêu trước sự chứng kiến của hàng chục ngàn Tăng, Ni, Phật tử và Ngài đã để lại xá lợi ‘Quả Tim Bất Diệt’. Đem lại sự trường tồn cho Phật Giáo chúng ta ngày nay”. Kết thúc bài giảng, Hòa Thượng nhấn mạnh để mọi người Phật Tử chúng ta nhớ mãi. “Ta là người Việt Nam tu theo truyền thống Văn Hóa Việt Nam, người Việt Nam nói tiếng Việt Nam, đọc kinh, niệm Phật bằng tiếng Việt Nam, chủ yếu là TÍN, HẠNH, NGUYỆN phát tâm của mỗi người”. Nhớ mãi công ơn của Thầy giảng dạy, chúng con phát nguyện tu tập tinh tấn, chúng con nguyện đem công đức này hồi hướng  khắp tất cả chúng sanh, thế giới hòa bình nhân sinh an lạc.

 

htminhtam-htnhudien

HT. Thích Minh Tâm và HT. Thích Như Điển cùng chư Tôn Đức ở Âu Châu

trong Lễ Hội Vu Lan tháng 6.2012 tại chùa Viên Giác


Kính nguyện Giác Linh Sư Ông Hòa Thượng Thượng MINH hạ TÂM Cao Đăng Phật Quốc.

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.

Đệ tử Nguyên Trí (NVT)


ThichMinhTam

 

TƯỞNG NHỚ THẦY

 

Trong khóa tu học vừa qua

Thầy nói vẫn khỏe. Thế mà… Thầy ơi!!!

Hôm nay tin đến rụng rời

Thầy vừa viên tịch bỏ đời ra đi

Tim con se thắt hoài nghi

Nhưng là sự thật Thầy đi hẳn rồi

Cuộc đời lắm nỗi bể dâu

Chúng sanh cứu độ còn đâu nữa Thầy

Thủy chung bao chuyến đò đầy

Âm thầm gieo hạt, trồng cây… muôn đời

Sao mà vội thế Thầy ơi

Chúng con vẫn hẹn với Thầy khóa sau…

Nhưng rồi nguyện ước được đâu

Trời xanh bỗng cuộn mây dày, mưa tuôn

Hai lăm khóa học vui buồn

Người trong di ảnh – Khói hương nhạt nhòa

Run run nước mắt chan hòa

Khóc Thầy như nhớ  người cha… chưa về!


Con Nguyên Trí (Nguyễn Văn Tâm)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6425)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9503)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4481)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4329)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6345)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5164)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7644)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6052)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12773)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567