Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đến, đi bình dị…(T.Hạnh Thức)

27/08/201318:13(Xem: 15215)
Đến, đi bình dị…(T.Hạnh Thức)

Thich_Minh_TamĐến, đi bình dị…

Tôi may mắn được dự những Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu cuối có Ôn Minh Tâm: Khoá kỳ thứ 22 tại Neuss, Đức quốc; khoá kỳ thứ 24 tại Birmingham, Anh Quốc; và kỳ cuối cùng là khoá thứ 25 tại Turku, Phần Lan. Những khoá tu học trước (22 và 24), Hòa Thượng còn mạnh khoẻ, nên lớp Tăng Ni chúng tôi được gặp Hòa Thượng hầu như mỗi ngày. Nhưng đến khóa cuối cùng thứ 25 nầy, Hòa Thượng yếu hẳn đi nên trong chương trình (đã sắp xếp trước), chỉ có một lần vào ngày thứ năm 1-8-2013, nhưng đến giờ phút cuối, giờ của Ngài lại được Hòa Thượng Thắng Hoan thay thế. Thành thử chúng tôi không được nghe Ngài giảng trong khóa nầy.

Thời tiết Phần Lan những ngày cuối tháng 7 đầu tháng 8 nắng ấm hầu như suốt khóa học, chỉ một ngày giữa khóa và ngày cuối cùng có mưa phùn trong khi đi du ngoạn. Điều nầy như báo trước một tin buồn, nhưng không ai để ý.…Ngôi trường mượn (không phải trả tiền thuê, chỉ lo phần điện nước) để tổ chức khóa học thật rộng rãi, phòng ốc thênh thang, nhưng rất tiếc, sân trường không được đẹp, không có những con đường và hàng cây thẳng lối để đi dạo, nên chúng tôi cũng ít có cơ hội thấy bóng dáng Ngài trong sân như mọi khi.

Những ngày đầu khóa học trôi chảy êm thắm. Ai cũng hân hoan chào hỏi nhau, tay bắt mặt mừng. Hòa Thượng nói cười bình thường. Ngày khai mạc, lúc ban Đạo từ, Hòa Thượng thỉnh thoảng cũng chen vô vài câu hài hước ý nhị như mọi lần, làm mọi người cười rộ vui vẻ. Nhưng đến ngày thứ ba, không thấy Hòa Thượng xuất hiện trong bữa quá đường. Được biết là Ngài mệt, phải vào bệnh viện. Nhưng hai hôm sau lại thấy Ngài xuất hiện bình thường như mọi khi, vẫn nói cười vui vẻ. Mọi người ai cũng mừng, tưởng là mọi việc đã qua đi. Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác cầm máy microphone nói: “Quí vị biết không? Hòa Thượng Chủ tịch hôm nay xuất hiện vui vẻ là nhờ 2 bình xi-rum hôm qua đó quí vị ạ…”Niềm vui không đọng được lâu. Hòa Thượng lại nhập viện. Nhiều bữa ăn vắng bóng Ngài. Mọi người lo lắng… Thời gian trôi nhanh, ngày bế mạc khóa học, Ngài lại xuất hiện trên bàn chủ tọa (nhưng trước đó, Ngài không dự lễ thỉnh Sư như thường lệ). Sau nầy chúng tôi được biết là Hòa Thượng đã năn nỉ các Bác sĩ nhà thương cho được xuất viện ít giờ để tham dự lễ bế mạc. Trong lời phát biểu (Hòa Thượng chỉ ngồi nói, không đứng như mọi khi) giọng Ngài vẫn bình thường, đều đặn, thỉnh thoảng chêm vô vài câu chọc cười ý vị. Không có gì lộ vẻ đau yếu cả.

Sau bế mạc là một ngày du ngoạn. Qua ngày 5.8, mọi người hầu hết đều trở về quốc độ mình. Bất ngờ 14g chiều ngày 8.8, trong buổi họp chúng chùa Viên Giác, Sư Phụ đọc bản cáo phó Sư Ông viên tịch. Trời ơi! Mọi người bàng hoàng sửng sốt. Xúc động như không thể nào tin được ở lỗ tai mình. Làm sao có thể như thế được? Mới hôm qua, hôm kia đây mà, Sư ông vẫn nói cười bình thường, đâu có triệu chứng gì trầm kha đâu? Sau giây phút xúc động, là sự thương tiếc vô hạn….

Hòa Thượng là một người rất bình dị, an nhẫn, không nói cười ồn ào, không muốn làm phiền lòng ai. Ngài đến mọi người đều thương, Ngài ở mọi người đều thích, Ngài đi mọi người đều tiếc. Hòa Thượng Thích Quảng Ba trong một điện thư gởi chư Tăng, đã tâm tình: “Hòa Thượng Khánh Anh là vị Tăng sĩ VN khả kính, sức nhẫn nại hơn người, 40 năm hành đạo ở Paris, luôn luôn dành tâm huyết để lo cho người khác, chùa khác, nước khác ... trước hơn cho mình, cho chùa mình, nước Pháp của mình ...”.

Quả vậy, Ngài lúc nào cũng lo cho mọi người, chỉ mong cho Phật sự được viên thành mà quên đi cái của mình. Cùng thời với Ngài, Hòa Thượng Huyền Vi có Giáo Hội Linh Sơn, Hòa Thượng Nhất Hạnh có Giáo Hội Làng Mai, Hòa Thượng Trung Quán có Hoa Nghiêm,.v.v…còn Ngài chỉ có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chung cho mọi người mà thôi. Chính Ngài đã khai sanh ra những Khóa Tu Học Phật Pháp Châu Âu kỳ vĩ, đông đảo, tươm tất, hoành tráng, được mọi người, mọi nơi ca ngợi, qui ngưỡng. Những Khoá Tu Học Phật Pháp Châu Âu nầy là thành tích của Ngài, sau nầy khi nhắc đến Ngài, chắc chắn không thể nào không nhắc đến các khóa Giáo lý nầy. Ngài đã tận tụy bỏ nhiều công sức vì nó. Khai sinh ra nó, và cuối cùng, Ngài đã ra đi cũng vì nó. Như một chiến sĩ dũng mãnh xông pha nơi chiến trường, bỏ thây trên lưng ngựa, Ngài suốt đời lo phụng sự Đạo pháp, chết cho Đạo Pháp. Ngài đã ra đi trong khóa học do Ngài sáng lập ra, nhẹ nhàng và êm thắm như một chiếc lá mùa thu lìa cành, chao lượn trong nắng sớm, nằm yên trong cõi vô thường. Ngài thương mọi người, sợ hàng đệ tử phải bận bịu lo cho người bệnh, nên mới vậy. Tâm niệm của Ngài là vậy. Ôi, bình dị thay. Đến, ở, và đi như Ngài là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Một sự ra đi êm thắm, thật bình dị nhưng đã làm chấn động cả càn khôn vũ trụ. Nếu không là một Bồ Tát đắc đạo làm sao có thể an nhiên tự tại như thế được?….

Về kỷ niệm với Ôn, chúng tôi là hàng hậu học, lại ở xa, nên không có nhiều. Chỉ nhớ có lần, trong giờ sinh hoạt với chư Tăng Ni khoá 22 tại Neuss, Đức (?), Ôn nói về Qui Sơn Cảnh Sách: “… chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu…”. Tôi dơ tay đứng lên góp ý: “Thưa Sư Ông, phải nói là TRẤN NHIẾP chứ không phải là chấn nhiếp ạ”. Ôn làm thinh, tôi nói tiếp: “Vì khi xưa các Tổ Sư xuất phát từ miền Bắc, đọc âm TR không được, đều đọc trợ ra là CH không à”. Thấy Ôn đồng ý, tôi phát biểu tiếp: “Cũng như câu: tán lễ Thích Tôn, vô thượng năng nhân, tăng kỳ cữu viễn tu chân, Đẩu xuất giáng thần…Phải nói là giáng TRẦNchứ không thể giáng thần được”. Ôn nói: THẦN là buổi sớm mai, giáng xuống vào buổi sớm mai. Tôi nói: Động từ giáng là một động từ cần một túc từ chỉ nơi chốnđi kèm theo, từ đâu giáng xuống đâu đó. Từ khung trời Đẩu xuất, giángxuống TRẦN gian thì mới đúng nghĩa, còn nói giáng xuống Thần thì thấy không được chỉnh cho lắm, có vẻ gượng ép quá ạ. Có lẽ vì người xưa, nếu phát âm là giáng chần (giọng Bắc)nghe kỳ quá, nên quí Ngài mới tìm một chữ khác để thay vào chăng?... Tranh cãi một hồi, cuối cùng, Ôn nói: “Thì cái nào cũng được. Giáng thần hay giáng trần đều được cả”. Đó, Ôn là vậy đó, nhẹ nhàng, biết lắng nghe ý kiến người khác, không cố chấp….(*).

Một lần khác, Ôn tâm tình với chúng Tăng: “Thấy mình thích ăn mì gói, mấy Sư cô (chùa BQ) thương, cứ làm mì gói cho ăn hoài. Vài lần đầu còn thấy ham, riết rồi thấy ớn quá…”.

Sư Ông là vậy, rất đơn giản, nhẹ nhàng, dễ dãi. Sao cũng được. Không phiền toái. Đơn giản chừng nào tốt chừng nấy.

Viết đến đây, tôi chạnh nhớ ra trong mấy ngày rầy, tôi nhận được rất nhiều điện thư nói về sự đầu độc trong thực phẩm, đặc biệt là thực phẩm chay xuất xứ từ Trung-quốc và Việt Nam…. Người ta tẩm đủ loại hóa chất độc hại có thể gây ung thư, dị ứng, còm xương,.v.v…và v.v... Tôi nhớ, trong khóa học cuối nầy, ngày thứ nhì, thứ ba gì đó, tôi bị ho liên miên dữ dội, nhức đầu, sốt và thở không được, đau rát một bên ngực, không ngủ được. Cũng trong đêm đó, thầy Hạnh Định phải vào nhà thương cấp cứu. Tôi biết ngay là mình bị ngộ độc rồi, vì từ sau những đợt nhịn đói vừa qua để trị bệnh (sau đó thì ăn thức ăn thực dưỡng với gạo lứt), cơ thể tôi rất “nhạy bén”. Mỗi lần ăn phải thức ăn có độc tố là nó phản ứng liền; có lúc nhẹ, chỉ ho khặc khặc vài lần; có lúc rất dữ dội, ho, nhức đầu, sốt liên miên, tùy theo mức độ nhiễm độc. Mỗi lần như vậy, tôi ngừng ngay những thức ăn mà tôi nghi là có độc tố. Nếu vẫn không hết, thì tôi nhịn đói vài ngày để tẩy độc, thanh lọc cơ thể. Tôi tuyệt đối không dùng bất cứ một viên thuốc trị bệnh nào trong những trường hợp như vậy. Lần ở khoá học nầy, tôi nhịn suốt tuần lễ không ăn chiều, chỉ dùng Quá đường (vì buổi trưa nhiều thức ăn, mình có thể chọn món nào mình thích), một đôi khi tới ngồi ăn sáng để nghe tin tức thông báo từ khoá tu học mà thôi. Hôm Sư Ông vào nhà thương, rồi lại ra thăm đại chúng, tôi thấy Sư Ông vẫn ăn chung như mọi người. Vì Sư Ông quá bình dị, thích hòa đồng với đại chúng nên không đòi hỏi gì cả, sợ phiền hà kẻ khác. Nhưng theo tôi, lẽ ra, trong những trường hợp như vậy, nên có một khẩu phần ăn riêng, tinh khiết hơn, bổ dưỡng hơn, để giúp cho người bệnh không trầm trọng thêm, và có sức để chống lại cơn bệnh. Âu đó cũng là bản chất của người mình: Không mấy chú trọng đến vấn đề ăn uống! Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần suy nghĩ lại….

Con xin thành kính đảnh lễ Sư Ông. Nguyện Giác Linh Ôn cao đăng Phật quốc, hồi nhập Ta Bà, tiếp dẫn hậu lai.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật ./.

(*) Điều nầy tôi chỉ ghi lại một kỷ niệm với Ôn Minh Tâm mà thôi, còn phần bình luận đúng, sai, xin chư liệt vị góp ý thêm. Đa tạ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6450)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9542)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4515)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4368)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6378)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5200)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7679)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6073)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12809)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567