Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm niệm Ân Sư (T. Tịnh Phước)

19/11/201308:00(Xem: 14765)
Cảm niệm Ân Sư (T. Tịnh Phước)
Le_Bach_Nhat_On_Minh_Tam (1)



Cảm Niệm Ân Sư



Kính bạch chư tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, chư Ni trưởng, Ni sư, chư tôn Đại đức tăng, Đại đức ni!
Kính thưa quý thiện hữu, nhân sĩ trí thức.
Chỉ còn vài giờ đồng hồ nữa thôi là huyễn thân tứ đại của Thầy chúng con sẽ chỉ còn ” ray rứt bụi tro bay ”! Trong khoảnh khắc ngắn ngủi còn lại này, xin phép quý Ngài cho chúng con có vài lời hoài niệm về Thầy của chúng con!



Kính bạch Giác linh Thầy!
Than Ôi!
Nhà thiền Khánh Anh từ đây vắng bóng
Giáo hội Âu châu mãi mãi bặt âm.
Đèn thiền xao gió.
Trăng giới lờ mây!
Nét bước tượng vương nơi cửa Pháp, trước mắt mơ màng;
Tiếng kêu sư tử lối rừng Thìền, bên tai văng vẳng.
Chúng con dẫu biết, sắc tướng huyễn hư, sương mai, điện chớp, cây bờ, mộng mị;
Nhưng ngặt vì nỗi, Thầy trò nghĩa nặng, dù trời Tứ không mà vẫn còn khóc cảnh Song lâm!
Đức hạnh của Thầy:
Gương sáng trong ngần, sóng tình lặn bặt
Sớm rời cửa tục, xuất gia thuở tuổi còn xanh.
Sâu tỏ màu thiền, giảng sư, Hiệu trưởng khi vừa Cụ túc.
Xuất dương du học, phát túc siêu phương
Âu châu hoằng pháp, chấn nhiếp ma quân.
Buộc ràng sáu ngựa, chơi nhởi ba xe
Trăm nét vuông tròn, một niềm trong sạch
Mảnh chơn tướng dễ lờ nước thủy,
Điểm không hoa chẳng dính bụi trần.
Chúng con mừng cho thân phận chúng con
May đặng gặp Thầy, theo mà học đạo
Trừ tội chướng một dao xuống tóc
Phủ phước điền ba lớp truyền y.
Đạo đức say sưa, Thầy trò hủ hỉ
Lý kinh, nghĩa luật,
Giọng pháp âm hằng bữa lọt vào tai.
Đức của Thầy như thế.
Danh của Thầy như thế.
Cũng ngỡ rằng:
Cái gót tùy duyên chưa vội trở,
Bánh xe cửu trụ hãy còn ngừng,
Nào hay đâu:
Gậy tích xa bay,
Đường huyền sớm tách,
Chiếc dép hữu tình rơi lại đó
Con thuyền vô để ngự đi đâu?
Có lẽ giờ này.
Chín phẩm sen vàng, Thầy an vui trên miền thất bảo
Một vành trăng bạc, trò ngẩn ngơ vừa lúc tam đông!
Cảnh tình này, sâu dài tưởng ngắn.
Ôi, thôi thôi!
Tấm áo ca sa sương lạnh ngắt
Cành hoa Bát nhã gió buồn thiu!
Khi nào, Thầy thăng tọa, trò niêm chùy, lắm lúc sum vầy nơi pháp hội.
Bây giờ: trò Ta bà, Thầy Cực lạc, xiết bao sùi sụt suy tư!
Ôi thôi! sữa pháp mất rồi,
Lòng con đói mãi.
Biết cậy ai, ngày la đêm nhắc
Biết nương ai, sớm dắt tối dìu
Biết hỏi ai mở trí nguyên thần,
Biết nhờ ai nuôi thân huệ mạng?
Lơ láo một mình nơi tha hương
Đớn đau buồn vì sự mất cha
Đi về ngàn dặm lối tha phương
Thẩn thơ nghĩa, mong chừng gặp mẹ.
Phận con ngậm ngùi nhớ mãi
Duyên gặp Thầy trong khóa tu học Phật pháp Khánh Anh lần thứ hai
Ai ngờ đâu mùi thiền xông ướp, một bước xuất gia, lạy Thầy tế độ
Đấng phụ thân có lần tỏ lộ thiên cơ
Rằng bổn sư con vốn cốt cách xuất trần Đại sĩ
Con còn nhớ:
Năm mười ba tuổi lạy Đức Quán Âm xin làm đệ tử
Khi xuất gia, phụ thân mộng thấy Quán Âm đến nhà.
Ba năm làm Sa-di biết bao chướng duyên ngăn trở
Vẫn một lòng đảnh lễ Quán Thế Âm,
Thầy liền đến ban vài lời pháp nhũ
Mọi chướng duyên ngăn trở đều tiêu tan.
Rồi trên đường hoằng pháp mở mang
Dẫu khó khăn, sóng gió muôn vàn
Nhưng hễ làm việc gì mà Thầy hoan hỷ
Thì y như rằng sóng gió bặt tăm.
Kính lạy giác linh Thầy!
Tận trong sâu thẳm tâm con
Thầy là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm!
Giờ này,
Hương ngũ phần ba cây
Nước bát công một chén.
Cơm hương tích dám khoe mùi thượng vị,
Rau Tào khê kính biếu dạ thâm tình
Trước đài sen ngước mặt dâng lên,
Dưới chiếu cỏ cúi đầu lạy xuống.
Xin thầy chứng giám,
Cho chút lòng con
Một bức ai văn
Hòa nam bái bạch!
Kính lạy giác linh Thầy!


Thích Tịnh Phước thay lời chúng xuất gia, đọc trước kim quan Hòa Thượng Bổn Sư Thích Minh Tâm vào đêm 20 tháng 8 năm 2013 nhằm ngày 14 tháng 7 âm lịch năm Qúy Tỵ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6433)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9521)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4496)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4345)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6362)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5177)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7658)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6060)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12780)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567