HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
Đầuthếkỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn
Ngàidòng Bà-la-môn ở nước Nguyệt-Chí. Gia đình Ngài trướckia giàu có, song cha Ngài vì bịnh tham tiếc chỉ một bề bobo giữ của. Nhơn việc con chó nằm ngoài rèm, gặp Tổ Già-Da-Xá-Đagiải nghi, Ngài phát tâm theo đạo Phật, xuấtgia thọ giới. Sau khi được được Tố Xá-Đa phó chúc vàtruyền tâm pháp, Ngài đi vân du khắp nơi để hoằng pháplợi sanh. Ngài đi giáo hóa đến miền Trung-Ấn,trên đườnggặp một du khách tên Xà-Dạ-Đa đến lễ bái Ngài, Ông hỏi:
-Nhàcon cha mẹ đều kính Tam-Bảo tu hành đúng pháp, mà sao nhiềubệnh hoạn, làm việc gì thất bại việc ấy. Hàng xóm gầnnhà con,có người hung bạo giết hại làm ác càng ngày càngnhiều, mà thân thể khỏe mạnh, ra làm việc đều đượcnhư ý. Như vậy, nhơn quả nghiệp báo đâu không phải nóisuông ư? Con rất nghi lẽ nầy, mong Ngài giải nghi.
Ngàibảo: -Phật nói nghiệp báo thông cả ba đời, bởi do đờitrước tạo nghiệp lành nên đời nầy hưởng quả lành. Dùđời nầy có làm ác thì quả ác sẽ chịu ở đời sau. Chonên, có người đời nầy tuy làm lành mà đời nầy khônghưởng được quả lành, vì nghiệp ác trước mạnh hơn. Cóngười đời nầy tuy làm ác mà không chịu quả ác, vì nghiệplành trước mạnh hơn. Nếu do đời nầy không được quảlành, rồi lại tạo ác, thì đời sau càng sa vào đường ác.Nếu do đời nầy được quả lành, rồi lại tạo lành, thìđời sau càng tiến trên đường lành. Lại, có người đờitrước làm lành được nửa đời, đổi sang làm ác, đếnđời nầy nửa đời trước hưởng phước, nửa đời saumắc họa.
Hiệnnay cha mẹ ông và người hàng xóm lẽ báo ứng thiện ác cũnggiống như thế, bởi nghiệp đời trước chiêu cảm nên vậy.Đâu thể căn cứ trong hiện đời mà hiểu được? -Dạ-Đanghe giải liền tan hết nghi ngờ. Ngài dạy thêm:
-Tuyông đã tin nghiệp ba đời, mà chưa rõ nghiệp từ hoặc sanh,hoặc nhơn thức có, thức y nơi bất giác, bất giác y nơi tâm.Song tâm vốn thanh tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, khôngbáo ứng, không hơn kém, lặng lẽ linh thông. Ông nếuvào pháp môn nầy có thể đồng với chư Phật, tất cả thiện,ác, hữu vi, vô vi, đều như mộng huyễn. Dạ-Đa nghe đượclời nầy liền phát huệ đời trước,bèn xin xuất gia. Ngàihỏi: -Ông người xứ nào ? Cha mẹ còn chăng? Nếu thật tâmcầu đạo, nên trở về nhà xin với cha mẹ, xin xong trở lạicũng chẳng muộn. Dạ-Đa thưa: -Con là người Bắc-Ấn, cáchđây hơn ba ngàn dặm, đâu thể trở lại được. Xin thỉnhNgài đến xứ con, cho gia đình con cúng dường và nhơn đócon được xuất gia. Ngài bằng lòng, thầy trò và đồ chúngđồng sang Bắc-Ấn. Đến nhà, Dạ-Đa xin phép cha mẹ đượcxuất gia. Ngài làm lễ xuất gia và truyền giới cụ túc choDạ-Đa tại một ngôi tháp cổ, nơi quê hương của Dạ-Đa.Một hôm, Ngài gọi Dạ-Đa đến dặn dò:-Xưa Phật ghi rằngngươi sẽ làm Tổ thứ hai mươi, nay ta trao pháp nhãn tạngcho ngươi, ngươi khéo giữ gìn và truyền bá. Nghe ta nói kệ:Tánhthượng bổn vô sanh,Vị đối cầu nhơn thuyết, Ư pháp kývô đắc, Hàhoàiquyết bất quyết. Dịch: Trên tánh vốn không sanh, Vì đốingười cầu nói, Nơi pháp đã không được, Đâu cần giảichẳng giải. -Lại dặn: -Kệ nầy là lời diệu, do Như-Laithấy tánh thanh tịnh nói ra, ngươi nên vâng giữ. Dạ-Đa cungkính đảnh lễ vâng dạy. Ngài ngồi ngay trên tòa chấp tayhở ra như hoa sen nở, phóng hào quang sáng suốt soi khắp trongchúng, rồi yên lặng thị tịch. Toàn chúng xây tháp phụngthờ.