HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
Giữathếkỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn
Ngàilà hoàng-tử con vua Bảo-Trang-Nghiêm ở thành Thất-La-Phiệt.Ngài sanh chưa bao lâu đã biết nói,mà thường nói việc Phậtpháp. Năm bảy tuổi, Ngài chán thú vui ở đời,cầu xin xuấtgia. Ngài nói kệ xin cha mẹ :
Khểthủ đại từ phụ, Hòa nam cốt huyết mẫu, Ngã kim dục xuâtgia, Hạnh nguyện ai mẫn cố.
Dịch: Cúi đầu lễ cha lành, Nép mình lạy mẹ hiền, Nay con muốnxuất gia, Xin thương xót nhận cho.
Chamẹ cố khuyên giải không cho. Ngài phải nhịn ăn nài nỉcho kỳ được. Đối cùng cha mẹ thấy chí Ngài quá mạnhkhông sao ngăn nổi,nên cho xuất gia với điều kiện ở mộtngôi nhà riêng trong hoàng cung. Vua thỉnh Sa-Môn Thiền-Lợi-Đavề dạy Phật pháp cho Ngài. Từ đây Ngài được pháp danhlà Tăng-Già Nan-Đề. Ngài ở trong hoàng cung chín năm tu hành,mớiđược thọ giới cụ túc. Một hôm, Ngài tự cảnh tỉnh:-Ta đã thọ giới cụ túc mà còn ở trong nhà thế tục nầysao? Chợt một buổi chiều trời quang mây tạnh, Ngài nhìnthấy một con đường bằng phẳng, ở xa đầu kia lố dạngmột ngọn núi xanh. Ngài liền cất bước nhắm hòn núi thẳngtiến. Ngài đi đến dưới núi mà trời chưa tối. Tự Ngàitìm được thất đá rồi ngồi thiền nơi ấy. Năm ấy Ngài26 tuổi.
Sánghôm sau, vua nghe mất Thái-tử cho người tìm kiếm khắp nơikhông được. Bực mình,vua đuổi Sa-Môn Thiền-Lợi-Đa ra khỏithành. Ngài tu thiền ở đây ngót mười năm,mới có cơ duyêngặp Tổ La-Hầu-La-Đa được truyền chánh pháp. Sau khi đắcpháp, Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi làm lợi lạcquần sanh. Một hôm, Ngài bảo đồ chúng:
-Thầyta La-Hầu-La-Đa thường nói nước Ma-Đề sẽ ra đời mộtvị thánh tên Già-Da-Xá-Đa nối ta truyền pháp. Nay ta và cácngươi sang nước ấy tìm. Ngài liền dẫn đồ chúng du hóanước Ma-Đề. Đang đi trong nước nầy, bỗng có một luồnggió mát lành từ phương tây thổi đến làm mát khỏe toànchúng, Ngài bảo chúng: -Đây là đạo đức phong, ba ngàn dặmvề phía tây ắt gặp thánh nhơn. Thầy trò đi đến một hònnúi nhìn lên đảnh có áng mây năm sắc.
Ngàibảo chúng: -Trên đảnh núi có mây tía như cái lọng ắtlà chỗ thánh nhơn ở. Lên đến đảnh, quả nhiên thấy mộtmái nhà tranh nằm bên cạnh núi. Một đứa bé cầm gươngtròn, đến trước bái Ngài. Ngài hỏi: -Ngươi bao nhiêu tuổi?
Đứabé thưa: -Trăm tuổi. –Ngươi còn bé mà sao trăm tuổi? –Tôichẳng hiểu sao, chính tôi một trăm tuổi. –Ngươi có căncơ lành chăng? -Phật đâu không nói kệ: <Nếu người sanhtrăm tuổi không hội được cơ duyên chư Phật, chẳng bằngsanh một ngày, mà được hiểu rành rõ>. –Ngươi cầm gươngtròn ý muốn làm gì? Đứa bé nói kệ:
ChưPhật đại viên giám, Nội ngoại vô hà ế, Lưỡng nhơn đồngđắc kiến, Tâm nhãn giai tương tợ.
Dịch: Chư Phật gương tròn lớn, Trong ngoài không vết che, Hai ngườiđồng được thấy, Tâm mắt đều giống nhau .
Chamẹ thấy đứa bé đối đáp hợp đạo như thế, đồng ýcho Ngài làm thị giả, Ngài nhận đứa bé dẫn về tịnh-xácạo tóc thọ giới, cho hiệu là Già-Da-Xá-Đa. Một hôm,gióthổi cái linh treo trên điện Phật khua động, Ngài hỏi Xá-Đa:-Linh kêu hay gió kêu ? –Xá-Đa thưa: -Chẳng phải linh kêu, chẳngphải gió kêu, mà tâm con kêu.–Tâm ngươi là cái gì ? -Đều lặnglẽ. –Hay thay! ngươi khéo hội lý Phật, nên nói pháp yếu, nốiđạo cho ta,chẳng phải ngươi còn ai? Ngài liền nói kệ:
Tâmđịa bổn vô sanh, Nhơn địa tùng duyên khởi, Duyên chủngbất tương phòng, Hoa quả diệc phục nhi.
Dịch: Đất tâm vốn không sanh, Nhơn đất từ duyên khởi, Duyêngiống chẳng ngại nhau, Hoa trái cũng như thế.
Nóikệ xong, Ngài nắm cành cây mà hóa. Đồ chúng bàn nhau: <Thầy ta diệt độ ở dưới tàng cây, cũng là điềm che mátcho kẻ sau >. Liền làm lễ hỏa táng tại đây.