Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Hỏi:Thế nào là trên trời dưới đất, trong cõi nhân gian, quầnsanh muôn loài, hết lòng cung kính, tôn xưng chư Phật, gọilà Giác Hoàng?
Ðáp:Phật là bậc thầy trong ba cõi, cha lành nơi bốn loài, đứcto vòi vọi, hùng tôn bát ngát, quả chứng ba vô số kiếp,ân thấm cả chín loài, ba thân tròn hiển, mười hiệu cùngbày, đến Thánh thì làm vua trong muôn Thánh, làm Phật thìsáu thông tự tại, chín loài tối tăm đều được thấm nhuần,ba cõi đều tôn quí, đại bi đại nguyện, đại lực đạihạnh, khắp tiếp cả trời người, sang hèn đều dẫn dắt,ứng hóa trên trời, cõi người, cứu độ cõi này phươngkhác, quần sanh đều lợi lạc, tất cảđều nương về, vì vậy tôn Phật là "Giác Hoàng".
Ðâynêu lên câu hỏi tại sao từ cõi người cõi trời cho đếntất cả quần sanh đều cung kính tôn xưng chư Phật là GiácHoàng ? Giác Hoàng là vua giác hay cũng gọi là Giác vương.
Ðáprằng Phật là bậc thầy của ba cõi là dục giới, sắc giớivà vô sắc giới, cha lành của bốn loài, bốn loài là thaisanh, noãn sanh, thấp sanh và hóa sanh. Ðức độ Ngài rộngmênh mông, cao vòi vọi như núi, sức mạnh của Ngài bát ngátkhông thể diễn tả được, Ngài tu ba vô số kiếp mới chứngquả, khi chứng quả rồi ân đức của Ngài nhuần thấm trongchín loài. Chín loài: Noãn, thai, thấp, hóa sanh, hữu sắc,vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng.Ba thân hiển bày đầy đủ. Mười hiệu là: Như Lai, Ứngcúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải,Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, PhậtThế Tôn. Nếu ở trong hàng Thánh thì Ngài là bậc trên hết,Ngài đã được sáu thần thông, chín loài tối tăm đều đượcthấm nhuần ơn của Ngài. Như vậy sở dĩ hết thảy quầnsanh đều tôn chư Phật là vua giác là vì công đức của cácNgài vô lượng, vô biên. Tuy nhiên có một câu mà ngày xưahọc tôi cũng nghi: nói rằng quả chứng ba vô số kiếp,tức là Phật tu trải qua ba vô số kiếp mới chứng quả.Vô số kiếp thì không tính được tại sao nói ba ? Ðã vôsố mà còn nói ba thì lấy đâu làm giới hạn để nói làba vô số ? Vô số kiếp đã không thể tính, vậy lấy đâulàm chặng vô số kiếp thứ nhất, vô số kiếp thứ hai vàvô số kiếp thứ ba ? Không có chặng mà nói ba vô số kiếplàm sao hiểu ? - Nói vô số kiếp chúng ta đừng lầm tưởngvô số là thời gian dài đăng đẳng không thể tính đếm,mà vô số là số thời gian không cố định. Ví dụ có ngườitu mười năm họ tỉnh. Có người tu cả đời không tỉnh.Như trong kinh nói: đức Phật Thích Ca và Bồ-tát Di Lặc đồngthời phát tâm tu, mà Phật Thích Ca đã thành Phật, còn Bồ-tátDi Lặc thì bao nhiêu kiếp nữa mới thành Phật. Như vậy căncứ vào cái gì để tính số ? - Căn cứ vào hạnh tu củacác Ngài mà tính, mà làm chuẩn, chớ không phải tính nămtháng tu. Nếu căn cứ trên năm tháng tu thì không thể nàotính được.Căn cứ trên cônghạnh tu thì trong kinh nói: người tu từ sơ phát tâm cho đếntam hiền là bậc thứ nhất hay vô số kiếp thứ nhất. Nhưngtrong giai đoạn này người thì tu nhanh, người thì tu chậmlàm sao định được thời gian ? Như người đi học năm nămhết cấp một, bốn năm nữa hết cấp hai v.v... có thể tínhđược. Còn người tu siêng thì nhanh, lười biếng thì chậm,mà chậm thì cứ tu mãi cho nên không biết bao nhiêu mà tính,do đó gọi là vô số. Như từ Sơ địa tới Bát địa làbậc thứ hai hay vô số kiếp thứ hai, từ Bát địa đếnđẳng giác diệu giác thành Phật là bậc thứ ba hay vô sốkiếp thứ ba. Nói ba vô số kiếp là các Ngài căn cứ trêncông hạnh tu vượt qua ba bậc gọi là qua vô số kiếp thứnhất, vô số kiếp thứ hai, vô số kiếp thứ ba, chớ khôngphải căn cứ trên thời gian. Căn cứ trên thời gian tu thìkhông ai giống ai, người tu nhanh, người tu chậm, người tuvừa vừa, cho nên không nói số kiếp nhất định. Chúng tathử xét lại, đức Phật Thích Ca và Bồ-tát Di Lặc đồngthời phát tâm tu, mà Phật Thích Cathìđã thành Phật nhập Niết-bàn, còn Bồ-tát Di Lặc thì đanglàm Bồ-tát nhất sanh bổ xứ ở cung trời Ðao lợi. Cũngvậy, trong số Tăng Ni tu ở đây cùng tu một lượt mà nămbảy năm sau người làm Thiền sư, người làm pháp sư, cũngcó người ngồi tu dài dài. Nói như thế để chúng ta hiểutrình độ tu rất sai biệt, đừng nghĩ rằng cùng phát tâmtu, thời gian tu và kết quả của mỗi người như nhau.
Bởivì sao ? Vì nhân tu rộng lớn nên trăm ngàn công đức đãtrang nghiêm, quả chứng chí tôn thì ở trên cả trăm ức hóathân. Ðại nguyện của chư Phật, khi ra đời thường thịhiện làm vua. Làm Phật thì ba cõi đều tôn kính, làm vua thìmuôn nước đều qui phục, là thảy do công phu tu hành từnhiều kiếp, và nhân duyên phước huệ, lo cứu giúp cho mọingười.
Ðoạnnày nói thêm cho rõ công đức của chư Phật quá cao siêu nhưvậy nên mới tôn xưng là Giác Hoàng. Nhưng tới đoạn sauthì an ủi vua Lê Hy Tông.
Lạihội lý rằng:
Giáclà rất to, rất rộng, pháp tánh tròn sáng, chánh giác Bồ-đề.Hoàng là rất tôn, rất quí, ngôi vị độc tôn hết mức,là bậc đế vương trang trọng. Trong các kinh vẫn thấy PhậtPhật hiện làm vua, việc xưa cũng truyền nghe vua vua thànhPhật. Nên biết, chư Phật số cát sông Hằng, mỗi vị cũngthường thị hiện làm thân đế vương. Và nên biết, ở cungvua mà ứng ra đời trong cửa Phật, thì nước Việt lại thấytriều Lê, niên hiệu Chính Hòa, Ðức Giác Hoàng trí Phậtthiên nhiên, biển tuệ tròn sáng, trang trọng ngự giữa đàihoa mà hiển dương Phật pháp. Cây Bồ-đề lớn cao, bóng chemát cả mười phương, hoa ưu bát nở ra, sáng rực đến muônđời. Quần sanh đều được độ, khắp nơi thấm ơn sâu,đời tôn xưng là chân Phật Hoàng.
Hộilý là giải lý hay giải thích thêm. Ðoạn này tán thán côngđức của vua Lê Hy Tông. Triều đại nhà Hậu Lê là thờitrọng Nho khinh Phật, song có hai ông vua tin Phật rất sâu,trợ duyên tốt cho Tăng Ni tu hành, chùa chiền được pháttriển nhiều hơn, Tăng Ni tu đông hơn, đó là vua Lê Hy Tôngvà Lê Dụ Tông. Vua Lê Hy Tông, ban đầu cũng không tin Phật,đuổi hết Tăng Ni về núi tu hành, không cho ở lại kinh đôđể mở mang Phật pháp. Sau nhờ Thiền sư Tông Diễn, viếtsớ dâng vua, trình bày hết những cái hay cái quí của đạoPhật. Vua nghe xong, thức tỉnh thành tâm sám hối tội hủybáng Phật pháp. Từ đó về sau vua hết lòng tin và ủng hộPhật pháp. Do vua sùng kính Phật pháp nên ngài Chân Nguyênđược vua trợ duyên rất nhiều trong việc xây lại chùa QuỳnhLâm, trong lúc xây chùa, vua cấp cho ba chục ngàn dân tới làmcông quả. Do đó ngài Chân Nguyên nói ở cung vua mà ứngra đời trong cửa Phật, thì nước Việt lại thấy triềuLê, niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705).Niên hiệu Chính Hòalà niên hiệu của vua Lê Hy Tông, công đức của vua rất xứngđáng được tôn xưng là Giác Hoàng.
Ngàinói thêm bài kệ để tán thán Giác Hoàng. Rỗng toang Phậttánh tợ hư không, thị hiện thân vua thể cũng đồng.Ðứng về mặt Pháp thân thì Phật tánh rỗng toang tợ hưkhông. Nhưng thị hiện hay ứng hóa ra hoặc là tu sĩ hay vuagiáo hóa dân... đó là cái tướng của dụng, song thể vẫnđồng.Quyềnthật sáng ngời gồm mọi lý, mở mang Phật pháp độ quầnmông."Quyền" là hiện làm vua, "thật" là chỉ Pháp thân,nghĩa là thị hiện làm vua hay sống với Pháp thân thì vẫnsáng ngời đầy đủ lý đó. Hiện ra để làm gì ? Thị hiệnlàm vua để mở mang Phật pháp độ những kẻ mê muội. Sauđây Ngài dẫn sách Trung Quốc.Rỗngtoang Phật tánh tợ hư không,Thịhiện thân vua thể cũng đồng.Quyềnthật sáng ngời gồm mọi lý,Mởmang Phật pháp độ quần mông.Âm:Hoátnhiên Phật tánh đẳng hư không,Thịhiện vương thân thể diệc đồng.Quyềnthật tinh quang bao chúng lý,Hiểnkhai Phật pháp độ quần mông.
Trướckia, vua Ðường Thuận Tông hỏi Ðại sư Phật Quang:Trướckia vua Ðường Thuận Tông hỏi Ðại sư Phật Quang:Phậttừ phương nào đến, diệt trở về nơi đâu? Ðã nói thườngtrụ thế, nay Phật ở chỗ nào ?Câu hỏi nêu lên là: Phật từ đâu đến, sau khi nhập diệtđi về đâu ? Và nói Phật thường trụ ở đời, nhưng nay Phậtở đâu? Ðó là câu hỏi của vua Ðường Thuận Tông.Phậttừ phương nào đến ?Âm:Phậttòng hà phương lai ?
Diệttrở về nơi đâu ?Ðãnói thường trụ thế,NayPhật ở chỗ nào ?Diệthướng hà phương khứ ?Kýngôn thường trụ thế,Phậtkim tại hà khứ ?Ðạisư Phật Quang đáp:Phậttừ vô vi đến,Diệttrở về vô vi.Phápthân đồng hư không,Thườngở chỗ không tâm.Cóniệm về vô niệm,Cótrụ về vô trụ.Ðếnvì chúng sanh đến,Ðivì chúng sanh đi.Biểnchân như thanh tịnh,Trònlặng thể thường trụ.Ngườitrí khéo tư duy,Lạichớ sanh nghi ngờ.Âm:Phậttòng vô vi lai,Diệthướng vô vi khứ.Phậtthân đẳng hư không,Thườngtại vô tâm xứ.Hữuniệm qui vô niệm,Hữutrụ qui vô trụ.Laivị chúng sanh lai,Khứvị chúng sanh khứ.Thanhtịnh chân như hải,Trạmviên thể thường trụ.Trígiả thiện tư duy,Cánhvật sanh nghi lự.
Ðạisư Phật Quang đáp:
Phậttừ vô vi đến, diệt trở về vô vi.Phật đến từ vô vi mà diệt cũng trở về vô vi. Tại saovậy ? Vì vô vi là cái thể bất sanh bất diệt, Ngài thịhiện ra đờilà Hóa thân hay Ứng thân, mà Hóa thân hay Ứng thân cũng từPháp thân hiện ra, cho nên nói đến từ vô vi. Ngài hóa thântùy duyên độ chúng sanh, khi duyên hết, hóathân diệt thì trở về Pháp thân, đó là trở về vô vi. Nhưvậy sanh ra từ Pháp thân, diệt cũng trở về Pháp thân chonên câu sau nói:
Phápthân đồng hư không, thường ở chỗ không tâm.Ở trên hỏi đã nói thường trụ, nay Phật ở chỗ nào ?Ở đây trả lời Phật thường ở chỗ không tâm. Vậy khôngtâm là ở chỗ nào ? Chúng ta có tâm hay không tâm ? Nếu tâmdấy niệm chạy theo trần cảnh thì có tâm, nếu lặng nhữngvọng niệm đó là không tâm. Câu trả lời quá xác thực.Tuy nhiên quí vị có khả năng thấy Phật không ? Chịu khókhông tâm là thấy, nếu có tâm thì chỉ thấy chúng sanh. Vìtâm chạy theo trần cảnh là tâm mê của chúng sanh; tâm chúngsanh là tâm hơn thua, phải quấy, tốt xấu v.v... Những thứtâm chúng sanh lặng, chúng ta vẫn tri vẫn giác ngay đó làtâm Phật. Do đó hỏi: Phật thường trụ ở đời, vậy ởchỗ nào? Ðáp: thường ở chỗ không tâm là chỉ thẳng khôngcòn giấu giếm gì nữa.
Cóniệm về vô niệm, có trụ về vô trụ.Ở chỗ không tâm đó nếu có niệm thì đưa về vô niệm,có trụ thì phải đưa về vô trụ, đó là chỗ Phật ở.Những câu kế Ngài giải thích thêm:
Ðếnvì chúng sanh đến, đi vì chúng sanh đi.Chúng sanh mê, Phật thương muốn độ họ mà thị hiện rađời, khi duyên mãn, Phật vì chúng sanh thị hiện nhập Niết-bàn.Vì những gì cần dạy cho chúngsanh Ngài đã giảngdạy hết rồi, nếu ở đời thêm thời gian nữa thì chúngta sẽ ỷ lại, mà không chịu nỗ lực tư duy những lời Phậtdạy để ứng dụng tu. Như vậy Phật đến hay đi cũng vìchúng sanh cả, chúng sanh mê thì Ngài đem chánh pháp dạy chotỉnh giác, hết duyên thì Ngài ra đi.
Biểnchân như thanh tịnh, tròn lặng thể thường trụ.Nghĩa là Ngài trở về thể chân như thanh tịnh thênh thangnhư biển cả, luôn luôn lặng lẽ tròn đầy không sanh khôngdiệt.
Ngườitrí khéo tư duy, lại chớ sanh nghi ngờ.Người trí khéo nhận định suy xét, không nên sanh lòng nghingờ. Như vậy chúng ta thấy ngài Phật Quang đáp rất chílý không còn giấu giếm gì cả. Bây giờ giả sử có ai hỏiPhật thường trụ ở thế gian vậy Phật ở chỗ nào ? Quívị chỉ được không ? Chỉ tâmkhông chạy theo cảnh đó là chỗ Phật thường trụ.
Vualại hỏi:
Phậttừ vương cung sanh,Diệtvề Song Lâm diệt.Trụthế bốn chín năm,Lạibảo không pháp nói ?Núisông và biển cả,Trờiđất với nhật nguyệt,Thờiđến đều tiêu tan.Airằng không sanh diệt ?Nghitình còn như trên,Ngườitrí khéo phân biệt.Âm:Phậttùng vương cung sanh,Diệthướng song lâm diệt.Trụthế tứ thập cửu,Hựungôn vô pháp thuyết.Sơnhà cập đại hải,Thiênđịa cập nhật nguyệt.Thờichí giai qui tận,Thùyvân bất sanh diệt ?Nghitình du nhược tư,Trígiả thiện phân biệt.Vualại hỏi:Phậttừ vương cung sanh, diệt về Song Lâm diệt. Trụ thế bốnchín năm, lại bảo không pháp nói?Vua nêu lên câu hỏi: Khi Phật còn là Thái tử sanh ở cungvua, đi tu thành Phật, nhập diệt ở rừng Sa-la, trụ thếbốn mươi chín năm, thuyết pháp độ sanh, sao lại bảo khôngnói pháp ? Ðó là ý thứ nhất.
Núisông và biển cả, trời đất với nhật nguyệt, thời đếnđều tiêu tan. Ai rằng không sanh diệt, nghi tình còn như trên,người trí khéo phân biệt.Ý thứ hai vua hỏi núi sông, biển cả, mặt trời, mặt trăngv.v... hết duyên cũng tan hoại, tại sao nói có cái không sanhdiệt ?
Ðạisư Phật Quang đáp:
Ðạisư Phật Quang đáp:ThểPhật vốn vô vi, tình mê vọng phân biệt, Pháp thân đồnghư không, chưa từng có sanh diệt.Ngài nói thể Phật tức là Pháp thân vốn không sanhdiệt, do tình mê nên vọng thấy có sanh diệt, và Pháp thânấy đồng với hư không nên không bao giờ có sanh diệt. Sởdĩ thấy Phật sanh ở cung vua Tịnh Phạn, nhập diệt ở Sa-lasong thọ là do mê mà vọng thấy cái giả tướng, chớ Phápthân thì đồng với hư không, không có tướng sanhdiệt.ThểPhật vốn vô vi,Tìnhmê vọng phân biệt.Phápthân đồng hư không,Chưatừng có sanh diệt.Códuyên Phật ra đời,Hếtduyên Phật nhập diệt.Nơinơi độ chúng sanh, Giốngnhư trăng trong nước.Chẳngthường cũng chẳng đoạn,Chẳngsanh cũng chẳng diệt.Sanhcũng chưa từng sanh,Diệtcũng chưa từng diệt.Tỏngộ chỗ không tâm,Tựnhiên không pháp nói.Âm:Phậtthể bổn vô vi,Mêtìnhvọng phân biệt.Phápthân đẳng hư không,Vịtằng hữu sanh diệt.Hữuduyên Phật xuất thế,Vôduyên Phật nhập diệt.Xứxứ hóa chúng sanh,Dunhư thủy trung nguyệt.Phithường diệc phi đoạn,Phisanh diệc phi diệt.Sanhdiệc vị tằng sanh,Diệtdiệc vị tằng diệt.Liễungộ vô tâm xứ,Tựnhiên vô pháp thuyết.Vuanghe Sư giảng hoát nhiên ngộ đạo, tôn trọng Thiền tông.
Códuyên Phật ra đời, hết duyên Phật nhập diệt, nơi nơi độchúng sanh, giống như trăng trong nước.Ðức Phật Ứng Hóa thân để độ khắp chúng sanh, hết duyênPhật nhập Niết-bàn, ứng hóa thân giống như bóng mặt trăngtrong nước. Vậy bóng trăng trong nước là hư ảo, chỉ cómặt trăng trên trời mới là thật. Cũng vậy Phật ra đờiở vương cung, nhập diệt ở rừng Sa-la là Hóa thân Phật,còn trở về thể bất sanh bất diệt là Pháp thân nên nóithể Phật là vô vi.
Chẳngthường cũng chẳng đoạn, chẳng sanh cũng chẳng diệt, sanhcũng chưa từng sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Tỏ ngộ chỗkhông tâm, tự nhiên không pháp nói.Pháp tánh không phải thường cũng không phải đoạn, chưatừng sanh diệt, và khi tâm không còn dấy động thì tỏ ngộPháp tánh. Bởi Pháp tánh không tướng mạo, không đối đãi,không dùng ngôn ngữ nói đến được nên tự nhiên không phápnói, cho nên Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm mà chưatừng nói một lời. Không nói một lời là không nói phápnào? Pháp Tứ-đế hay Thập-nhị-nhân-duyên? - Ðứng vềmặt Pháp tánh thì không nói một lời, vì Pháp tánh thì khôngcòn đối đãi, mà không đối đãi thì nói cái gì ? Chúngta thử nói một câu không kẹt hai bên coi ? Nói được không? - Vì còn đối đãi hai bên nên còn nói năng, đến chỗ dứtđối đãi thì không còn ngôn ngữ nói năng, do đó kinh LăngGià đức Phật nói trong bốn mươi chín năm ta chưa từng nóimột câu. Vì trở về Pháp tánh thì không còn ngôn ngữ đốiđãi, không còn ngôn ngữ đối đãi nên tuyên bố không nóimột câu. Song, khi ở Lộc Uyển Ngài giảng pháp Tứ-đế,đây là khổ đế, đây là diệt đế v.v... khổ đế là sanhtử, diệt đế là Niết-bàn vô sanh, là pháp còn đối đãi,nên nói Ngài có nói pháp. Lúc nói tới chỗ hết đối đãiNgài tuyên bố ta không nói một lời. Hiểu như vậy chúngta mới thấy giáo lý của đức Phật uyên thâm sâu kín vôcùng. Bốn mươi chín năm nói pháp là nói pháp đối đãi,đến chỗ dứt đối đãi là chỗ không còn một câu đểnói. Ðó là đi từ đối đãi đến chỗ tuyệt đối, chớkhông phải Phật từ chối việc nói pháp của mình, hay nhưnhiều người hiểu rằng ban đầu đức Phật nói pháp Tứ-đế,Thập-nhị-nhân-duyên, Lục-độ-vạn-hạnh... sau Ngài tuyênbố ta không nói một lời. Ngài nói như thế để người sauđừng chấp cứng vào lời dạy của Ngài. Hiểu Ngài nói phápbốn mươi chín năm là thật thì chưa đạt đến chỗ cứucánh, chỗ cứu cánh là từ đối đãi đến tuyệt đối, đốiđãi thì còn ngôn thuyết, tuyệt đối thì không còn ngôn thuyết.Do đó các Thiền sư cũng nói chỗ tuyệt đối là chỗ khônglời, chỗ không lời là chỗ hết đối đãi. Ni sư Diệu Nhâncũng nói "Uổng khẩu vô ngôn".
Vuanghe giảng, thấu suốt được chỗ đó nên ngộ đạo và tôntrọng Thiền tông.Vua nghe giảng thì ngộ còn chúng ta nghe có ngộ không ? Vìđọc qua câu hỏi và lời đáp chúng ta không nhận ra nên khôngngộ, còn vua thấu suốt được lời đáp của Ngài nên vuangộ và tôn trọng Thiền tông.
Sauđây Ngài dẫn kinh:
Kinh nói: "Tâm ta như nước, Di Ðà nhưtrăng, nước trong thì trăng hiện, chẳng cần người khácnói". Trăng dụ Pháp thân, bóng dụ Hóa thân, trong và đụcdụ nhiễm và tịnh.
Ởđây nói kinh mà tôi không nhớ kinh nào, chỉ nhớ một câu"Trì thành nguyệt hiện". Trì là cái ao, cái ao đào xong cónước lóng trong thì thấy mặt trăng hiện. Ðoạn này giảithích về Tịnh độ của tự tâm, Phật Di Ðà chỉ cho Phápthân, tâm người ví như nước, nước tâm trong thì thấy PhậtDi Ðà hiện, như mặt trăng hiện trong ao nước trong. Còn nướctâm đục thì Phật Di Ðà không hiện. Như vậy hồ tâm trongthì mặt trăng Di Ðà hiện, hồ tâm đục thì mặt trăng Dèà không hiện, cho nên chúng tôi đặt tên cái hồ ở trướcchánh điện Trúc Lâm là hồ Tĩnh Tâm. Tĩnh là lặng, lặngthì mới trong, trong thì thấy bóng trăng hiện. Như vậy quacái nhìn của các Thiền sư không có chống đối pháp mônnào, Tịnh độ cũng được, Thiền cũng được, vì tất cảđều qui về tự tâm, chủ yếu là nước tâm chúng ta phảitrong, nên nói nước trong thì trăng hiện không cần ngườikhác nói.Ngài nói thêm: Mặt trăng dụ cho Pháp thân, bóngmặt trăng dụ cho Hóa thân, tùy nước trong hay đục mà trănghiện hay không hiện, tùy theo tâm nhiễm hay tịnh mà hóa thânlà chúng sanh hoặc Bồ-tát. Như kinh Di Ðà nói niệm danh hiệuPhật từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạnthì khi lâm chung thấy đức Phật A-Di-Ðà và chư Thánh chúngđến đón. Tâm không loạn là tâm tịnh, mà tâm tịnh thìPhật hiện. Thiền Tứ-niệm-xứ, đức Phật nói ai trụ tâmnơi pháp quán từ một ngày cho đến bảy ngày mà không dờichỗ trụ,� thì người đó chứng từ sơ quả đến tứ quả.Tu Tứ-niệm-xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ,quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Giả sử như chúngta quán pháp vô ngã từ một ngày cho tới bảy ngày không cómột tạp niệm, tâm thanh tịnh thì Phật hiện tiền. Còn chúngta tu theo pháp Thiền này thì sao ? Nếu tâm không dấy niệm,lặng trong sáng suốt thì Phật hiện. Vậy mà nhiều ngườithan, đời mạt pháp Phật nhập Niết-bàn hơn hai ngàn năm,khó thấy Phật quá ! Phật ở gần một bên, tại chúngta để tâm chạy theo cảnh nên không nhận ra, rồi khởi niệmđi tìm Phật ở núi này núi nọ, thật là xa, cho dù có tìmPhật ở Ấn Ðộ cũng không gặp. Tâm mình yên lặng trongsáng là Phật hiện tiền, không phải nhọc nhằntìm đâu cả. Như vậy tu mà ngộ được lý đạo sâu xa rồithì công phu rất là nhẹ nhàng và không còn nghi ngờ gì nữa.Nếu không ngộ thì than rằng Phật Niết-bàn hơn hai ngàn nămrồi, làm sao tìm cho ra, mà tìm Phật không thấy thì làm saotu ?
Nướctrong trăng hiện, trăng cũng chẳng đến. Nước đục trăngẩn, trăng cũng chẳng đi. Chỉ do nước có trong đục, chẳngphải bảo trăng có đến đi. Trong pháp cũng như vậy, tâmsạch thì thấy Phật, chẳng phải là Phật đến, tâm nhơthì chẳng thấy, chẳng phải là Phật đi. Bởi do chúng sanhcó nhơ sạch, chẳng phải bảo chư Phật có ẩn hiện.
Ðoạnnày giải thích thêm: nước trong thì mặt trăng hiện, nướcđục thì mặt trăng ẩn, mặt trăng không có đến đi. Cũngvậy tâm thanh tịnh thì Phật hiện, tâm nhiễm nhơ thì Phậtẩn khuất, Phật không đến không đi. Chúng ta thấy mặt trăngtrên trời có đến với nước hay có rời nước không ? -Khôngđến mà cũng không rời, chỉ tại nước trong thì trăng hiện,nước đục thì trăng khuất mà thôi. Cũng vậy, Pháp thânPhật không đến cũng không đi, chúng ta tu tâm trong lặng thìPhật hiện tiền, tâm ngầu đục thì Pháp thân Phật ẩn.Tưởng chừng như Phật có đến có đi, nhưng thật sự thìPhật không đến không đi bao giờ. Cũng thế, chúng ta ngồiThiền để dừng tâm chạy nhảy lăng xăng, tâm lăng xăng đólặng rồi thì ông Phật của chúng ta hiện tiền. Vậy ôngPhật hiện ra sao ? Ngồi tòa sen hay tòa sư tử ? Nếu thấyPhật hiện ngồi tòa sen chúng ta có chấp nhận không ? Chỗnày phải hiểu cho kỹ kẻo lầm. Khi ngồi Thiền tâm thanhtịnh thấy Phật đến xoa đầu thọ ký hoặc tán thán côngđức tu hành, tự cho là mình đã chứng quả, nhưng ít lâuphát điên, người ngoài không biết cho rằng tu Thiền điên.Tại sao thấy Phật lại phát điên ? Khi ngồi tu tâm đạtđến chỗ lặng lẽ thì thể chân thật hiện tiền, đó làPhật hiện. Phật tại tâm mình hiện thì không có tướngmạo, nhưng vì chúng ta chạy theo tướng Phật hư dối ở ngoàido tâm mình phóng hiện ra; tướng hư dối mà cho là thật nênlầm, điên đảo cuồng loạn rồi phát điên.
Trongsử Thiền Ấn Hoa có ghi câu chuyện: Tổ Ưu-ba-cúc-đa hàngphục được ma vương bèn trao Tam qui cho nó. Sau khi thọ Tamqui xong, Tổ bảo ma vương:
-Xưa ngươi thường thấy đức Như Lai giờ đây hiện thửcho ta xem.
Mavương thưa:
-Hiện việc xưa không khó, chỉ xin Tôn giả trông thấy đừnglễ.
Tổkhả hứa. Ma vương vào rừng ẩn mất, chốc lát bỗng thấyPhật từ mé rừng đi ra oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau là đoànTỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, Tổ vừa trông thấycúi mình đảnh lễ. Mavươnghoảng kinh biến mất.
Quacâu chuyện trên, chúng ta thấy ma hiện Phật, mà Tổ còn lầmtưởng Phật thật, quì xuống lạy. Chúng ta là phàm phu thườngmơ ước được thấy Phật, ma biết được nên nó hiện hìnhPhật. Chúng ta thấy mừng quá lễ lạy, nhân cơ hội ấy nónhập vào khiến chúng ta phát cuồng phát điên. Nên nhớ, Phậtlà tâm thanh tịnh sáng suốt ở mỗi người chớ không phảiPhật ở bên ngoài.
TrongThiền sử Trung Hoa có ghi câu chuyện: ngài Văn Hỷ đi đếnnúi Ngũ Ðài để tìm Bồ-tát Văn Thù, Ngài không gặp Bồ-tátVăn Thù chỉ gặp một ông già dắt trâu đi, mời Ngài vàochùa uống trà. Qua câu chuyện đối đáp, trời tối Ngài xinnghỉ lại đêm không được, ông già cho một đồng tử đưaNgài xuống núi. Ngài hỏi đồng tử mới biết đó là chùaBát-nhã trong hang Kim Cang, ông già gặp vừa rồi là Bồ-tátVăn Thù. Ngài buồn bãvìkhôngthể nào gặp lại được. Lúc đó đồng tử và chùa cũngđều ẩn mất, chỉ thấy Bồ-tát Văn Thù cỡi sư tử vàngqua lại ở trên mây, Ngài đảnh lễ rồi đi về.
Sau,Ngài đến Thiền sư Ngưỡng Sơn học đạo, được sung chứcÐiển tọa. Ngài nấu cháo thường thấy Bồ-tát VănThù hiện trên nồi cháo, Ngài lấy cây giầm quậy cháo đập,nói:
-Văn Thù tự Văn Thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ.
Quacâu chuyện trên, chúng ta thấy tinh thần Thiền là trở vềvới Phật chính mình, không lệ thuộc vào Phật, Bồ-tát bênngoài. Trong nhà Phật có câu "Phật cao một thước, ma cao mộttrượng", sống trong cõi dục này ma ở gần chúng ta rất nhiều,cho nên chúng ta nghĩ gì, mơ ước điều gì, ma biết hết vànó hiện đúng như ý mình mong cầu. Nếu chúng ta không biếtthì bị nó lừa, tu một thời gian kết quả điên khùng làtại chỗ đó. Nếu chúng ta biết tất cả đều là giả tướng,thì không chấp nhận những tướng bên ngoài từ tâm phónghiện ra, khôngchấp nhận thì không lầm, không bị hại. Giả sửchúng ta ngồi Thiền gặp Phật thật hiện ra, chúngta không chấp nhận Phật cũng không rầy, vì biết mình cócái nhìn đúng. Nếu chúng ta gặp Phật không lễ sợ có lỗi,Phật thuyết pháp không nghe sợ có tội, sẽ bị lừa bịhại. Thỉnh thoảng có ít người tu ban đêm ngồi Thiền nghebên tai có tiếng nói pháp, hoặc bên tai nghe có tiếng nóixì xào, muốn hết tiếng không biết làm sao, đến nhờ tôichỉ cách để giải trừ. Những trường hợp như thế phầnnhiều là do quỉ thần đánh lừa chúng ta. Ban đầu nó đemmột hai câu kinh Phật ra nói, chúng ta nghe thích quá, tin theocho là lời Phật Thánh nói pháp. Khi tin sâu rồi nó xúi chúngta nói làm bậy bạ, lúc đó ý chí nhu nhược, trí tuệ lumờ, nó bảo điều chi là nghe theo làm theo, không cưỡng lạiđược. Ðó là cái lầm của người tu không biết rõ nhữngchứng thiền bệnh. Trong nhà Thiền có câu "Phùng Phật sátPhật, phùng ma sát ma" (Gặp Phật giết Phật, gặp ma giếtma). Nói nghe như vô lễ tàn nhẫn lắm, nhưng đó là điềutất yếu phải làm để trong khi tu chúng ta tránh được sựlầm lẫn tai hại. Nên nhớ ai tu mà ham Phật, Bồ-tát đếnxoa đầu thọ ký thì người đó dễ bị điên cuồng.
Lýrốt ráo tột cùng, cực tắc tuyệt diệu thì Pháp thân vốnrỗng lặng, tròn đồng thái hư, không đi không đến, khôngnơi không chốn, tùy cơ mà cảm đến, ứng hiện tự tại,nên gượng gọi là Như Lai.
Ðoạnnày Ngài nói thêm để chúng ta hiểu rõ cái lý tột cùng khôngđến không đi của Pháp thân và danh từ Như Lai cũng gượnggọi chớ không có thật.
Ðếnđây Ngài nói thêm bài kệ để chúng ta rõ nghĩa lý khôngđến đi của Pháp thân.Chánhgiác không nơi đến, đi cũng không chỗ nào. Thân thanh tịnhdiệu sắc, do thần lực hiển hiện.Chánh giác là chỉ cho Pháp thân không đến đi, không có nơichốn và cái thân đẹp đẽ có ba mươi hai tướng tốt củaPhật cũng do thần lực hiển hiện.Chánhgiác không nơi đến,Ðicũng không chỗ nào.Thânthanh tịnh diệu sắc,Dothần lực hiển hiện.Phậtthân rỗng lặng trùm pháp giới,Rõràng trước mắt quần sanh loại.Tùycơ cảm đến khắp mọi nơi,Tựdo ứng hiện đều vô ngại.Âm:Chánhgiác vô lai xứ,Khứdiệc vô sở tùng.Thanhtịnh diệu sắc thân,Thầnlực cố hiển hiện.Phậtthân không tịch biến pháp giới,Ðườngđường đối nhãn quần sanh loại.Tùycơ phó cảm mỵ bất chu,Tựnhư ứng hiện lực vô ngại.
Phậtthân rỗng lặng trùm pháp giới, rõ ràng trước mắt quầnsanh loại.Pháp thân Phật rỗng lặng trùm khắp pháp giới, luôn luônhiện ở trước mắt chúng ta. Như vậy thân có ba mươi haitướng tốt của Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ là Ứng thân hayHóa Thân, còn Pháp thân Phật ai cũng sẵn có, nó rỗng lặngtrùm khắp pháp giới và ở ngay trước mắt chúng ta, khônghề xa cách.
Tùycơ cảm đến khắp mọi nơi, tự do ứng hiện đều vô ngại.Nghĩa là Pháp thân không có tướng mạo, nhưng tùy duyên màcó cảm ứng. Tùy duyên cảm ứng như thế nào ? Giả sử chúngta tu thể nhập được Pháp thân thanh tịnh, nhưng không phảian trú mãi trong Pháp thân thanh tịnh, mà tùy chúng sanh nàocó duyên với chúng ta sanh nơi nào thì chúng ta đến đó đểđộ họ. Như chúng tôi thường nói, lâu nay Phật tử ủnghộ tịnh tài tịnh vật để chúng tôi cất chùa và lo choTăng Ni tu học, Phật tử làm việc ấy với tâm nguyện mongrằng đời đời được gặp chánh pháp, gặp quí Thầy giáohóa cho tu học, vì hiện tại Phật tử là cư sĩ gia duyênràng buộc nên tu không được bao nhiêu. Tâm nguyện như thếlà Phật tử đã muốn gieo duyên sâu với Tam bảo, nhưng nếuchúng tôi tu giác ngộ thể nhập Pháp thân thanh tịnh, cảmthấy an lạc thảnh thơi quá, không trở lại thế gian giáohóa những người có duyên với mình. Như vậy, nếu nói theothế gian thì chúng tôi không muốn trả nợ, mặc tình Phậttử muốn tu như thế nào thì tu, mình không để ý tới, đólà vô trách nhiệm. Cho nên người tu tự giác rồi phải giáctha, không nên ích kỷ, tu liễu ngộ rồi không hưởng an lạcmột mình, phải tùy duyên ứng hiện độ chúng sanh có duyênvới mình, đó cũng là một hình thức trả nợ cơm áo choPhật tử. Hơn nữa, khi tu đã giác ngộ, dù chúng ta có ứngthân độ chúng sanh chúng ta vẫn tỉnh chớ không mê, do tỉnhcho nên thấy việc ứng thân để độ chúng sanh là hư dối,không thật. Vì chúng sanh mê nên thọ thân giả dối cho làthật, còn người tỉnh đi vào trong cảnh giả biết là giả,mang thân giả làm việc lợi ích cho chúng sanh, dù có gặpcảnh thuận nghịch vui buồn cũng biết là giả dối, khôngđộng tâm, đó mới là tùy duyên cảm ứng. Nếu gặp cảnhthuận thì vui, gặp cảnh nghịch thì buồn khổ thở than, đólà theo nghiệp chiêu cảm.
Tùyduyên cảm ứng thì gặp cảnh thuận nghịch gì cũng vui, vìnó không thật, không thật cho nên không lo buồn sợ hãi. Dođó các Bồ-tát đi khắp thế gian để làm lợi ích cho chúngsanh mà vẫn luôn ở trong Niết-bàn tự tại, vì đâu có gìbận tâm. Hạnh của Bồ-tát là như vậy, không hẳn Bồ-tátlà phải có thần thông, có quyền lực phi thường, mà Bồ-tátvẫn ở tại thế gian và sinh hoạt như mọi người. Tuy nhiên,người thế gian gặp cảnh khổ thì than khóc, Bồ-tát gặpcảnh khổ thì cười. Người thế gian gặp duyên tốt họhãnh diện cho là vinh dự rồi sanh ngạo mạn, Bồ-tát gặpduyên tốt duyên xấu gì cũng thế thôi. Bồ-tát thật thìhành động như vậy, còn khác đi là thứ giả, dù có xưnglà Bồ-tát cũng chỉ là giả mà thôi. Cho nên trên đườngtu nếu chúng ta khéo ứng dụng thực hành thì đâu đâu cũnglà Bồ-đề là Niết-bàn, nếu không khéo thì đâu đâu cũnglà cõi khổ đau.
Kinhnói: "Thân pháp giới thanh tịnh vốn không có ra vào, sứcbổn nguyện đại bi thị hiện như hoa trong không".
Ðoạnnày giải thích về Pháp thân thanh tịnh của Phật không rakhông vào, nhưng vì do sức bổn nguyện đại bi mà có ra cóvào, sự ra vào đó giống như hoa đốm trong hư không. Thườngchúng ta chỉ biết Phật là Phật Thích Ca ở Ấn Ðộ, cólịch sử, sanh ra trong cung vua Tịnh Phạn và nhập Niết-bànở rừng Sa-la, Phật đó là Phật Hóa thân, hay Báo thân cósanh có diệt. Phật Pháp thân thì không sanh không diệt, tạisao Phật Hóa thân lại có sanh diệt ? Như Phật Thích Ca khicòn làm Thái tử phát tâm đi tu nguyện giải thoát sanh tửcho mình và cho tất cả chúng sanh. Giải thoát sanh tử là nhậpNiết-bàn, mà nhập Niết-bàn tức là tử. Như vậy nói thànhPhật giải thoát sanh tử tại sao đến tám mươi tuổi Ngàivẫn tử như mọi người. Ðoạn này ngài Chân Nguyên giảithích Phật có ba thân: thân có sanh có tử là Hoá thân hayBáo thân, thân không sanh tử là Pháp thân. Khi chứng quả Phậtcác Ngài sống với Pháp thân không sanh tử, còn thân tứ đạihiện có hình tướng là Hóa thân, thân này có sanh thì phảicó tử. Vì nó là Hóa thân nên dụ như hoa đốm trong hư không,chợt hiện chợt mất không thật. Còn Pháp thân thì như hưkhông thênh thang không sanh diệt. Vì vậy mà nói Phật chứngđược Pháp thân thì không còn sanh tử. Chúng ta tu giả sửkiếp này ngộ được Pháp thân, song thân tứ đại của chúngta một ngày nào đó hết duyên nó cũng tan hoại. Nhưng cónhiều người quan niệm rằng không tu khi già cũng chết, cốgắng tu hành khổ cực tới già cũng chết, như vậy đâu cóai hơn ai. Ðó là lý lẽ mà người không muốn tu nêu lên đểbào chữa. Phải thấy rõ người tu và không tu có khác, ngườitu biết thân này giả tạm, nhận ra nơi mình có Pháp thânchân thật không sanh tử thì thân giả tạm có hư hoại cũngkhông buồn không tiếc. Còn người thế gian không biết tu,thấy thân giả tạm này là thật cho nên khi thân này hoạitìm thân khác, theo nghiệp đi mãi trong luân hồi thọ quảbáo. Ðó là chỗ khác nhau của người tu và không tu. Chúngta phải hiểu cho thấu đáo để khỏi lầm lẫn như ở trên.
Bởithị hiện có ra vào là ở cơ duyên, cơ duyên ứng thì hiệnra trong cung vua Tịnh Phạn, cơ duyênhết thì ở dướigốc Sa-la(1)vào Niết-bàn.
Hóathân thì ứng theo duyên mà thị hiện, sở dĩ Thái tử sanhvào cung vua là vì nơi đó có duyên với Ngài, thị hiện tuhành, thành đạo giáo hóa chúng sanh, cơ duyên viên mãn thịhiện vào Niết-bàn. Ứng theo duyên mà Hóa thân thị hiệnchớ không phải Pháp thân. Ðoạn kế là ví dụ:
Dovì nước trong sạch vô tâm mà không hình tượng nào chẳnghiện. Hình tượng chẳng phải là ta vốn có, đây là hoa đốmtrong không thuộc vật bên ngoài. Tướng chẳng phải là thânPhật, há Như Lai có ra vào ?
Ðoạnnày nói do nước trong cho nên hình tượng hiện. Ví dụ nhưcó một hồ nước thật trong, mọi vật có hình tướng nhưnúi rừng, cây cối, mặt trăng v.v... đều hiện bóng dướihồ. Như vậy trong hồ thật có những thứ đó hay không ?Chỉ do hồ nước trong nên các thứ đó mới hiện. Cũng vậynếu hồ tâm của chúng ta trong lặng thì tất cả hình tượngđều hiện rõ ràng. Hình tượng không phải là cái sẵn cómà nó là cái bóng hư ảo giả tạm, giống như hoa đốm tronghư không, nó là cái ở bên ngoài, hồ tâm mới thật là ta.Nếu hồ tâm chúng ta không trong lặng thì bao nhiêu nghiệpchướng lôi dẫn chúng ta lăn lộn trong sanh tử. Nếu hồ tâmtrong lặng thì mọi hình tượng hiện trong đó chỉ là tướnghuyễn hóa không thật, không làm xao động cái hồ. Tất cảtướng không phải là Pháp thân Phật, mà Pháp thân Phật làNhư Lai thì không có ra vào, vì Như Lai không hình tướng. Nhưvậy chúng ta tu thành Phật rồi chúng ta có chết không ? Nếukhông chết thì hơn đức Phật rồi. Chúng ta cũng chết nhưngchết thân tứ đại hư dối, còn Pháp thân thanh tịnh bấtsanh bất diệt thì đâu có mất. Vì Pháp thân không hình tướngnên không sanh diệt, sắc thân có hình tướng có sanh ắt phảidiệt. Vậy mục đích của người tu là hướng về Pháp thânhay hướng về sắc thân ? - Hầu hết chúng ta đều muốn sốngvới Pháp thân bất sanh bất diệt. Như vậy đối với Phápthân thì sắc thân quí chừng bao nhiêu phần trăm ? Pháp thânbất sanh bất diệt nó không có tuổi, còn sắc thân tứ đạisống chỉ mấy mươi tuổi thì tan hoại, nó tạm bợ nên khôngphải là cái thân quí. Chúng ta không nên vì nó mà tạo nghiệp,rồi theo nghiệp chịu khổ liên miên trong sanh tử luân hồi.Cho nên người hiểu đạo nhận ra Pháp thân, đây gọi làKiến tánh, thì những người này đối với thân tứ đạikhông cho là quí trọng, không còn cưng yêu nó nữa, mà thấynó là phương tiện để tu và làm lợi ích cho chúng sanh. Thấynhư vậy là thấy đạo. Nếu thấy thân là quí trọng, muốncho nó mặc đẹp ăn sang, thụ hưởng tất cả mọi thứ tiệnnghi sung sướng hiện có trên thế gian này là người khônghiểu đạo. Như vậy người hiểu đạo và không hiểu đạokhác nhau ở chỗ đó. Hiểu đạo thì quay về sống với Phápthân, thấy sắc thân chỉ là phương tiện tạm bợ để tuvà làm lợi ích cho chúng sanh, không hiểu đạo thì cưng dưỡngsắc thân mà quên Pháp thân.
Ðógọi là thân Phật vô vi, đầy khắp cả pháp giới, thanh tịnhtròn sáng, trong lặng thường trụ. Chân Phật thì vô tướng,vốn không có lý Niết-bàn. Quyền Phật thì giả hiện, huyễncó việc ứng hóa.
Ðógọi là thân Phật vô vi.Vô vi là không có tướng sanh diệt. Thân Phật vô vi là Phápthân Phật không có tướng sanh diệt. Ðầy khắp cả phápgiới, thanh tịnh tròn sáng, trong lặng thường trụ.Phápthân Phật của mỗi người thanh tịnh tròn sáng trong lặngtrùm cả pháp giới không sanh không diệt nên thường trụ.ChânPhật thì vô tướng, vốn không có lý Niết-bàn.Phậtthật thì không có tướng, cho nên không có cái lý nhập Niết-bàn.Nhập Niết-bàn không phải là Phật thật. Nói như thế, cóthể quí vị hiểu thân mình là tướng có thật, cân nặngnăm sáu chục ký, đi lại, nói năng, làm việc đủ thứ, nhưvậy là thật. Còn nói Pháp thân không hình tướng thì đâucó cái gì ? Không hình tướng thì như hư không, vậy tạisao coi thường thân thật có hình tướng đi đứng hoạt độngmà quí trọng Pháp thân không hình tướng rỗng không ? Chỗnày có rất nhiều người hiểu lầm. Nghe nói Pháp thân Phậtvô vi vô tướng... tưởng nó rỗng không như hư không, nếunhư hư không thì vô tri không có giá trị. Tôi xin hỏi quívị nơi chúng ta mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi,lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, nếu đứng về mặt thấy,biết, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, cái biết đó có hình tướngkhông ? Cái biết nghe không phải lỗ tai, cái biết sắc khôngphải con mắt v.v... Cái biết đó không hình tướng mà nóchỉ huy toàn thân này, vì nếu không có nó thì thân này khônghoạt động được. Hiểu kỹ chỗ này rồi chúng ta mới thấyrằng Pháp thân không hình tướng không phải là rỗng khôngvô nghĩa, mà nó có diệu dụng vô cùng. Hiểu rồi chúng tamới thấy giá trị chân thật của sự tu hành là hướng đếnPháp thân bất sanh bất diệt. Chúng tôi tạm mượn nhữnghình tướng thế gian để quí vị thấy giá trị mạnh yếucủa sự vật, để sáng tỏ giá trị thật của sắc thânvà Pháp thân. Chúng ta thường thấy đất, đá, sỏi... nhữngthứ đó thì cứng, còn nước thì mềm nhưng nước xoi mònđược đất, đá, sỏi... Như vậy, nước tuy mềm nhưng nómạnh hơn đất đá. Nước có tướng chúng ta sờ mó và vốcnước thành bụm được, mà nó xoi mòn được đất đá cứnghơn nó. Còn gió thì sao ? Gió không có tướng mạo, nhưng gióthổi thì nước dâng lên, đất rung rinh bốc bụi. Như vậythì gió mạnh hơn nước. Chúng ta xét kỹ những sự vật cóhình tướng thô chừng nào thì yếu chừng nấy, những cáitế lại mạnh hơn. Như hiện giờ có những loại bom nổ mộttiếng làm rung rinh cả trời đất, nó do những hạt nguyêntử rất nhỏ hợp thành. Nếu chúng ta đem đất đá dồn lạibằng quả bom nguyên tử thì tiếng nổ không bằng và gâytác hại cũng không bằng quả bom nguyên tử. Như vậy mớithấy những vật vi tế chừng nào nó lại có năng lực mạnhchừng nấy. Cũng vậy,tâmchúng ta vô vi không hình tướng, nhưng nó lại là cái chânthật điều khiển cả con người chúng ta, thế mà chúng talại quên, chỉ lo chạy theo những hình tướng giả dối cholà thật và khi nó bại hoại thì đau khổ. Thử hỏi mọingười chúng ta buồn khổ khi thân này sắp tan hoại, hay buồnkhổ khi chúng ta quên thân quay về sống với tâm thể chânthật ? Có lúc nào chúng ta tự than trách: Sao mấy hôm rồitôi cứ để tâm chạy đông chạy tây, hay chỉ than: thân nàyđau đủ thứ chẳng biết có qua khỏi không ? Cái tâm chânthật là quí mà bị bỏ quên để chạy theo những thứ giảdối bên ngoài, lý đáng phải buồn nhiều lắm! Cái thân hưdối tạm bợ mất đi lý đáng phải vui mừng. Giống như ngườigiàu, có hột xoàn, có vàng bị mất cắp thì buồn, ngượclại có vài ba cục sỏi, cục đất bị mất thì đâu có buồntiếc. Nói như thế để thấy chúng ta mê muội chỉ biếtquí cái thân hư giả tạm bợ, mà xem thường cái tâm chânthật quí báu của mình, do đó mà bị trầm luân sanh tử.Vì vậy ngài Chân Nguyên nhắc chúng ta không nên lo lắng sựtan hoại của sắc thân, mà quên mất Pháp thân chân thậtsẵn có nơi mình. Ngài cố giải thích cho chúng ta nhận rarằng Pháp thân chân thật vốn thường trụ rỗng lặng, khôngdấu vết, mà diệu dụng vô cùng. Chúng ta không nên lo lắngcho cái thân này quá lắm, mà hãy khéo trở về sống vớiPháp thân chân thật của mình. Muốn thế, hồ tâm chúng taphải lóng lặng hết những bợn nhơ tham, sân, si, mạn, nghi,ác kiến... chúng ta mới sống được với Pháp thân chân thậtcủa mình. Vậy, chúng ta có chịu gạn lọc những bợn nhơđó bỏ đi, hay để dành rồi chịu nhơ chịu khổ suốt kiếp? Chúng ta phải dùng trí tuệ quán xét coi cái nào là bợnnhơ của tâm thì loại bỏ, để hồ tâm chúng ta được trongsạch, hồ tâm trong sạch thì Pháp thân hiện tiền. Như vậychúng ta có can đảm tự hứa với lòng là học Phật pháptrong vòng một năm sẽ lọc bỏ hết những bợn nhơ tham sânsi... không ? - Dạ không dám hứa. Tại sao biết những thứđó là dở là tai hại mà không dám hứa bỏ ? Ðó là mộtđiều khó khăn mà người tu Phật thường vấp phải. Chúngta học Phật pháp thật nhiều mà lâu lâu tập khí phàm phucũng hiện ra là tại sao? Tại hiểu mà không hành, hoặc hànhmà không chuyên. Cho nên trong nhà Thiền có câu "Hạnh giảitương ưng danh vi viết Tổ" nghĩa là hiểu và hành giống nhauthì gọi là Tổ. Còn chúng ta hiểu và hành không giống nhaunên gọi là phàm phu. Nên nhớ tu không phải là chuyện huyềnhoặc trên trời trên mây, mà là chuyện thực tế nơi mình,chỉ chịu khó lọc bỏ bợn nhơ nơi tâm thì Pháp thân hiệntiền, cũng như hồ nước trong thì bóng trăng hiện. Tất cảkiểm lại xem trong tâm chúng ta có những niệm tham sân si...không ? Chúng ta có quyền đuổi nó ra hay không? - Có đủthẩm quyền đuổi nó ra tại sao không đuổi? Ðiều đó thậtlà khó hiểu ! Chúng ta biết mình có những điều dở, mìnhbỏ những điều dở đó thì ai cũng khen, thế mà không chịubỏ, thật là mâu thuẫn, thật là lạ lùng ! Chúng ta thườngcó cái bệnh nói một đàng làm một nẻo, lạy Phật thì xincho con đời này hết phiền não, nhưng biết tham sân si làphiền não, là độc hại mà không chịu bỏ! Chủ yếu củaviệc tu hành là phải sáng suốt gan dạ và dứt khoát, nếukhông thì tu cả đời vẫn y nguyên chẳng tiến bộ gì cả.
*
(1)Bản chữ Hán là Bồ-đề thọ.