Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ 19

09/11/201115:28(Xem: 3036)
Quyển thứ 19

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang

Quyển thứ 19

PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÍ ĐỨC VƯƠNG

PHẦN XXII/1

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương rằng:

- Này thiện nam tử! Nếu có Đại Bồ tát tu hành Kinh Đại Niết Bàn như vậy thì được mười việc công đức, chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng thể nghĩ bàn, người nghe kinh lạ, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải khó, chẳng phải dễ, chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng, chẳng phải là thế pháp, không có tướng mạo, cái không có của thế gian. Những gì là mười?

- Một là có năm. Những gì là năm? Một là điều người chẳng nghe mà có thể được nghe. Hai là nghe rồi có thể làm lợi ích. Ba là có thể đoạn dứt lòng nghi hoặc. Bốn là lòng tuệ chánh trực không quanh co. Năm là có thể biết mật tạng của Như Lai. Đó là năm. Những gì chẳng nghe mà có thể được nghe? Đó là bí mật tạng vi diệu thậm thâm, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Phật pháp, chúng tăng không có sai biệt, tính tướng Tam Bảo Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, tất cả các đức Phật không có rốt ráo vào Niết Bàn mà thường trụ bất biến, Như Lai Niết Bàn chẳng phải có - chẳng phải không, chẳng phải hữu vi - chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu lậu - chẳng phải vô lậu, chẳng phải sắc - chẳng phải chẳng sắc, chẳng danh - chẳng phải chẳng danh, chẳng phải tướng - chẳng phải chẳng tướng, chẳng phải có - chẳng phải chẳng có, chẳng phải vật - chẳng phải chẳng vật, chẳng phải nhân - chẳng phải quả, chẳng phải đợi - chẳng phải chẳng đợi, chẳng phải sáng - chẳng phải tối, chẳng phải ra - chẳng phải chẳng ra, chẳng phải thường - chẳng phải chẳng thường, chẳng phải đoạn - chẳng phải chẳng đoạn, chẳng phải thỉ - chẳng phải chung, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải ấm - chẳng phải chẳng ấm, chẳng phải nhập - chẳng phải chẳng nhập, chẳng phải giới - chẳng phải chẳng giới, chẳng phải mười hai nhân duyên - chẳng phải chẳng mười hai nhân duyên. Những pháp thậm thâm vi mật như vậy.v.v.. mà xưa chẳng được nghe thì có thể được nghe. Lại có cái chẳng được nghe như là Kinh sách của của tất cả ngoại đạo, bốn Tỳ Đà luận, Tỳ Dà La luận, Vệ Thế Sư luận, Ca Tỳ La luận, tất cả chú thuật, phương thuốc trị bệnh, kỹ nghệ, Nhật nguyệt thực, tinh tú biến chuyển, đồ thư, sấm ký.v.v.. Những Kinh như vậy ban đầu chưa từng nghe ý nghĩ bí mật, hôm nay đối với Kinh này mà được biết nghĩa của chúng. Lại có mười một bộ Kinh, trừ bộ Tỳ Phật Lược, cũng không biết nghĩa thậm thâm như vậy, nay nhân Kinh này mà được biết nghĩa đó. Này thiện nam tử! Đó gọi là chẳng nghe mà có thể được nghe. Nghe rồi lợi ích là nếu có thể thính thọ Kinh Đại Niết Bàn thì đều có thể biết đủ nghĩa vị thậm thâm của tất cả Kinh điển Đại Thừa Phương Đẳng. Ví như trai gái ở trước tấm gương sáng sạch nhìn thấy sắc tượng của họ tỏ rõ phân minh. Gương Đại Niết Bàn cũng lại như vậy, Bồ tát cầm lấy đều được thấy sáng nghĩa thậm thâm của kinh điển Đại Thừa. Cũng như có người ở trong nhà tối, cầm đuốc lửa sáng thấy hết mọi vật, đuốc Đại Niết Bàn cũng như vậy. Bồ tát cầm đuốc ấy thì được thấy nghĩa thâm áo của Đại Thừa. Cũng như mặt trời mọc có hàng ngàn ánh sáng đều có thể soi rõ những núi u tối, khiến cho tất cả mọi người từ xa nhìn thấy mọi vật. Mặt trời tuệ thanh tịnh Đại Niết Bàn này cũng lại như vậy, soi rõ chỗ thâm thúy của Đại Thừa, khiến cho người Nhị thừa từ xa thấy Phật đạo. Sở dĩ vì sao? Vì do họ có thể thính thọ được Kinh vi diệu Đại Niết Bàn này. Này thiện nam tử! Nếu có Đại Bồ tát thính thọ Kinh Đại Niết Bàn như vậy thì được biết danh tự của tất cả các pháp. Nếu họ có thể ghi chép, đọc tụng thông lợi, vì người khác diễn nói rộng rãi, suy nghĩ ý nghĩa Kinh ấy thì biết nghĩa lý của tất cả các pháp. Này thiện nam tử! Người thính thọ Kinh ấy chỉ biết danh tự, chẳng biết nghĩa lý Kinh ấy mà nếu có thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì có thể biết được nghĩa lý. Lại nữa, này thiện nam tử! Người nghe Kinh này, nghe có Phật tính, chưa có thể được thấy, nếu ghi chép, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì được thấy Phật tính. Người nghe Kinh này, nghe có dành tư Đàn (Bố thí) chưa thể được thấy Đàn Balamật, nếu ghi chép, thọ trì, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì có thể thấy Đàn Balamật... Bát nhã Balamật cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Đại Bồ tát, nếu có thể nghe Kinh Đại Niết Bàn này thì biết pháp, biết nghĩa đủ cả hai không ngại. Các vị Bồ tát này đối các Samôn, Bàlamôn.v.v... hoặc trời, ma, Phạm trong tất cả đời, được vô sở úy, khai thị, phân biệt mười hai bộ Kinh, diễn nói nghĩa những Kinh ấy không có sai trái. Các vị ấy chẳng theo nghe người khác mà có thể tự biết gần với Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử! Đó gọi là nghe rồi có thể làm lợi ích. Đoạn tâm nghi thì nghi có hai thứ, một là nghi danh, hai là nghi nghĩa. Người nghe Kinh này đoạn dứt được lòng nghi danh, người suy nghĩ về nghĩa thì đoạn được lòng nghi nghĩa. Lại nữa, này thiện nam tử! Nghi có năm thứ, một là nghi Phật có nhất định Niết Bàn không? Hai là nghi Phật có thường trụ không? Ba là nghi Phật có chân lạc không? Bốn là nghi Phật có chân tịnh không? Năm là nghi Phật có thật ngã không? Người nghe Kinh này nghi Phật Niết Bàn thì được đoạn dứt vĩnh viễn. Nếu họ ghi chép, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì bốn nghi còn lại đoạn dứt vĩnh viễn. Lại nữa, này thiện nam tử! Nghi có ba thứ, một là nghi Thanh Văn là có hay là không? Hai là nghi Duyên Giác là có hay là không? Ba là nghi Phật thừa là có hay là không? Người nghe Kinh này thì ba nghi như vậy diệt vĩnh viễn, không còn. Nếu người ấy ghi chép, đọc tụng, vì người khác rộng nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì có thể rõ biết tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh chẳng nghe kinh Đại Niết Bàn như vậy thì lòng nghi rất nhiều. Như là hoặc thường hay vô thường, hoặc lạc hay chẳng lạc, hoặc tịnh hay chẳng tịnh, hoặc ngã hay vô ngã, hoặc mạng hay chẳng phải mạng, hoặc chúng sinh hay chẳng phải chúng sinh, hoặc rốt ráo hay chẳng rốt ráo, hoặc đời khác, hoặc đời đã qua, hoặc có, hoặc không, hoặc khổ hay chẳng phải khổ, hoặc tập hay chẳng phải tập, hoặc đạo hay chẳng phải đạo, hoặc diệt hay chẳng phải diệt, hoặc pháp hay chẳng phải pháp, hoặc thiện hay chẳng phải thiện, hoặc không hay chẳng phải không... người nghe Kinh này thì các nghi như vậy đều được đoạn trừ vĩnh viễn. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu có người chẳng nghe Kinh như vậy thì lại có đủ thứ nhiều những nghi tâm. Như là sắc là ngã vậy? Thọ, tưởng, hành, thức là ngã vậy? Mắt có thể thấy hay ngã có thể thấy vậy? ... cho đến thức có thể biết hay ngã có thể biết vậy? Sắc thọ báo hay ngã thọ báo vậy? ... cho đến thức thọ báo hay ngã thọ báo vậy? Sắc đến đời khác hay ngã đến đời khác vậy? ... cho đến thức cũng như vậy. Pháp sinh tử có đầu có cuối hay không đầu không cuối vậy? ... Người nghe Kinh này thì những nghi như vậy cũng được trừ diệt vĩnh viễn. Lại có người nghi Nhất xiển đề, phạm bốn trọng cấm làm ngũ nghịch tội, bài báng Kinh Phương Đẳng... những bọn như vậy có Phật tính hay không Phật tính vậy? Người nghe Kinh này thì những nghi như vậy.v.v... đều được đoạn trừ vĩnh viễn. Lại có người nghi, thế gian biên hay thế gian vô biên vậy? Có thế giới mười phương hay không thế giới mười phương vậy? Người nghe Kinh này thì những nghi như vậy.v.v... cũng được vĩnh viễn đoạn trừ. Đó gọi là có thể đoạn trừ lòng nghi hoặc. Tuệ tâm chính trực không tà khúc là nếu tâm có nghi hoặc thì sở kiến chẳng chánh trực. Tất cả phàm phu nếu chẳng được nghe Kinh điển vi diệu Đại Niết Bàn này thì sở kiến tà khúc thậm chí sở kiến của người Thanh Văn, Bích Chi Phật cũng quanh co. Sao gọi là sở kiến của tất cả phàm phu là tà khúc? Ở trong hữu lậu thấy Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì ở chỗ Như Lai thấy Vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã; thấy có chúng sinh, thọ mạng, tri kiến; kể cõi chẳng phải hữu tưởng, cõi chẳng phải vô tưởng là Niết Bàn; thấy trời Tự Tại có tám Thánh đạo, hữu kiến, đoạn kiến.... Những sự thấy như vậy gọi là tà khúc. Đại Bồ tát, nếu được nghe Kinh Đại Niết Bàn này, tu hành hạnh Thánh thì được đoạn trừ những tà khúc như vậy. Sao gọi là cái thấy tà khúc của Thanh Văn, Duyên giác vậy? Thấy Bồ tát từ cõi trời Đâu Suất hóa thân xuống, cỡi voi trắng, giáng thần vào thai mẹ, cha tên là Tịnh Phạn, mẹ tên là Ma Gia, ở tại thành Ca Tỳ La, ở trong thai đầy đủ mười tháng mà sinh ra, sinh ra chưa đến đất thì Đế Thích đã tiếp bồng, vua rồng Nan Đà và Bà Nan Đà phun nước tắm ngài, vua quỉ thần lớn Ma Ni Bạt Đà cầm bảo cái theo sau đứng hầu, thần đất hóa ra hoa để đỡ chân ngài, bốn phương đều đi đầy đủ bảy bước, đến với miếu thờ trời khiến cho tượng chư thiên đều đứng dậy nghinh đón, tiên A Tư Đà ẳm để xem tướng, xem tướng xong ông đã sinh đại bi khổ, tự thương mình sẽ mạng chung chẳng nhìn thấy Phật hưng khởi, đến thầy học sách vở, tính toán, bắn cung, cưỡi ngựa, vẽ tranh, sấm ký, kỹ nghệ, ở tại thâm cung với sáu vạn thể nữ vui sướng hưởng lạc, ra thành du ngoạn, đến vườn Ca Tỳ La, trên đường thấy người già... cho đến thấy vị Samôn mặc pháp phục mà đi, trở về đến trong cung, thấy các thể nữ, hình thể dáng vẻ giống như xương khô, cung điện sở hữu như mồ mã không khác, chán ghét xuất gia, nửa đêm vượt thành, đến chỗ các vị đại tiên Uất Đà Già, Ca La La.v.v.. nghe Thức xứ và Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Đã nghe vậy rồi quan sát kỹ thấy xứ này là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã. Bỏ đi đến dưới cây, tu đủ hạnh khổ đầy đủ sáu năm, biết khổ hạnh này chẳng thể được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ, Bồ tát lại đến trong dòng sông A Di La Bạt Đề tắm gội, thọ sự dâng cháo sữa của người con gái chăn trâu, thọ rồi chuyển đến dưới cây Bồ Đề, phá ma Ba Tuần, được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở thành Ba La Nại vì năm vị Tỳ kheo lần đầu tiên chuyển bánh xe pháp... cho đến ở thành Câu Thi Na này vào Bát Niết Bàn. Thấy những việc như vậy thì đó gọi là sự thấy quanh co của Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Đại Bồ tát thính thọ Kinh Đại Niết Bàn này thì đều được đoạn trừ những kiến (thấy) như vậy. Nếu có thể ghi chép, đọc tụng thông lợi, vì người khác diễn nói, suy nghĩ nghĩa Kinh ấy thì được sự thấy (kiến) chính trực không tà khúc. Này thiện nam tử! Đại Bồ tát tu hành kinh Đại Niết Bàn như vậy thì chắc chắn biết là Bồ tát từ vô lượng kiếp đến nay chẳng từ cõi trời Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ... cho đến ở thành Câu Thi Na vào Bát Niết Bàn. Đó gọi là thấy Chánh trực của Đại Bồ tát. Có thể biết nghĩa thâm mật của Như Lai thì đó tức là Đại Bát Niết Bàn, tất cả chúng sinh đều có Phật tính, sám hối bốn trọng cấm, trừ tâm bài báng pháp, hết ngũ nghịch tội, diệt Nhất xiển đề, rồi nhiên hậu được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó gọi là nghĩa bí mật thậm thâm. Lại nữa, này thiện nam tử! Sao lại gọi là nghĩa thậm thâm? Tuy biết chúng sinh thật không có ngã mà ở đời vị lai chẳng mất nghiệp quả. Tuy biết năm ấm đến đây diệt hết nhưng nghiệp thiện ác nhất định chẳng bại vong. Tuy có các nghiệp nhưng chẳng được tác giả. Tuy có chỗ đến nhưng không có người đi. Tuy có trói buộc nhưng không người chịu trói. Tuy có Niết Bàn nhưng cũng không người diệt. Đó gọi là nghĩa bí mật thậm thâm.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa lời nói nghe chẳng nghe của đức Phật thì nghĩa này chẳng vậy! Vì sao vậy? Vì pháp, nếu có thì nên nhất định có. Pháp, nếu không thì nên nhất định không. Không chẳng nên sinh ra, có chẳng nên diệt đi. Như người nghe ấy thì tức là nghe, nếu người chẳng nghe thì tức là chẳng nghe. Vì sao mà nói rằng, nghe điều chẳng nghe? Thưa đức Thế Tôn! Nếu chẳng thể nghe thì đó là chẳng nghe. Nếu đã nghe thì lại cũng chẳng nghe. Vì sao vậy? Vì đã được nghe thì sao mà nói rằng, nghe điều chẳng nghe. Ví như người đi đã đến thì chẳng còn đi, đã còn đi thì chẳng đến. Cũng như sinh ra rồi thì chẳng còn sinh, chẳng còn sinh thì chẳng sinh. Được rồi thì chẳng còn được, chẳng còn được thì chẳng được. Nghe rồi thì chẳng còn nghe, chẳng còn nghe thì chẳng nghe.... cũng lại như vậy. Thưa đức Thế Tôn! Nếu chẳng nghe mà nghe thì tất cả chúng sinh chưa có Bồ Đề thì nên có Bồ Đề ngay, chưa được Niết Bàn cũng nên được Niết Bàn, chưa thấy Phật tính nên thấy Phật tính thì sao lại nói rằng, Bồ tát thập trụ tuy thấy Phật tính nhưng chưa được sáng tỏ? Thưa đức Thế Tôn! Nếu người nghe chẳng nghe thì đức Như Lai thuở xưa theo ai được nghe? Nếu nói được nghe thì vì sao trong đức Như Lai, ở trong Kinh A Hàm, lại nói rằng, vô sư? Nếu: chẳng nghe” thì chẳng nghe mà đức Như Lai được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì tất cả chúng sinh chẳng nghe mà chẳng nghe cũng nên được thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thưa đức Như Lai! Nếu ngài chẳng nghe Kinh Đại Niết Bàn này mà thấy Phật tính thì tất cả chúng sinh chẳng nghe Kinh này cũng nên được thấy! Thưa đức Thế Tôn! Phàm là sắc thì hoặc có thể thấy, hoặc chẳng thể thấy. Thanh cũng như thế hoặc có thể thấy, hoặc chẳng thể thấy. Đại Niết Bàn này chẳng phải sắc, chẳng phải thanh thì sao mà nói rằng, có thể được thấy nghe? Thưa đức Thế Tôn! Quá khứ đã diệt thì chẳng thể nghe, vị lai chưa đến cũng chẳng thể nghe và hiện tại khi nghe thì chẳng gọi là nghe, khi nghe rồi thanh diệt lại chẳng thể nghe. Kinh Đại Niết Bàn này cũng chẳng phải quá khứ, vị lai và hiện tại mà nếu chẳng phải ba đời thì chẳng thể nói. Nếu chẳng thể nói thì chẳng thể nghe thì sao mà nói rằng, Bồ tát tu Kinh Đại Niết Bàn này nghe điều chẳng nghe?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương rằng:

- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay giỏi biết tất cả các pháp như huyễn, như lửa hừng, như thành của Càn thát bà, như dấu vẽ xuống nước, như bong bóng nước, cây chuối.... rỗng không không có thật, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, đúng như sự thấy biết của Bồ tát Thập Trụ.

Trong đại chúng bỗng nhiên có ánh sáng lớn, chẳng phải xanh thấy xanh, chẳng phải vàng thấy vàng, chẳng phải đỏ thấy đỏ, chẳng phải trắng thấy trắng, chẳng phải sắc thấy sắc, chẳng phải sáng thấy sáng, chẳng phải thấy mà thấy. Bấy giờ, đại chúng gặp ánh sáng ấy rồi thì thân tâm khoái lạc, ví như Tỳ kheo vào định Sư Tử Vương. Khi ấy, ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ tát bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Hôm nay ánh sáng này do ai phóng ra vậy?

Khi ấy đức Như Lai mặc nhiên chẳng nói. Bồ tát Ca Diếp lại hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi:

- Vì nhân duyên gì mà có ánh sáng này soi đến đại chúng?

Ngài Văn Thù Sư Lợi lặng thinh chẳng đáp. Bấy giờ, Bồ tát Vô Biên Thân lại hỏi Bồ tát Ca Diếp:

- Hôm nay ánh sáng này là sở hữu của ai?

Bồ tát Ca Diếp lặng thinh chẳng nói. Bồ tát Tịnh Trụ Vương Tử lại hỏi Bồ tát Vô Biên Thân rằng:

- Vì nhân duyên gì trong đại chúng có ánh sáng này?

Bồ tát Vô Biên Thân lặng thinh chẳng nói... Cứ như vậy, năm trăm vị Bồ tát đều cũng hỏi như vậy. Tuy các vị hỏi han nhau nhưng không có người trả lời. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

- Này Văn Thù Sư Lợi! Vì nhân duyên gì trong đại chúng có ánh sáng này?

Ngài Văn Thù Sư Lợi đáp rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Ánh sáng như vậy gọi là trí tuệ. Trí tuệ thì tức là thường trụ mà pháp thường trụ không có nhân duyên thì vì sao đức Phật hỏi, vì nhân duyên gì có ánh sáng này? Ánh sáng này gọi là Đại Niết Bàn mà Đại Niết Bàn thì gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Phật hỏi rằng, vì nhân duyên gì có ánh sáng này? Ánh sáng này tức là Như Lai mà Như Lai tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi đến nhân duyên? Ánh sáng này gọi là Đại Từ Đại Bi mà Đại Từ Đại Bi thì gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi đến nhân duyên? Ánh sáng này tức là Niệm Phật mà Niệm Phật tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi đến nhân duyên? Ánh sáng này tức là đạo Bất Cộng của tất cả Thanh Văn, Duyên Giác mà đạo Bất Cọng của Thanh Văn, Duyên Giác tức là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên thì sao đức Như Lai hỏi về nhân duyên? Thế Tôn cũng có nhân duyên! Nhân diệt vô minh thì được sáng rực đèn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác!

Đức Phật dạy rằng:

- Này Văn Thù Sư Lợi! Hôm nay ông chớ vào Đệ nhất nghĩa đế thậm thâm của các pháp! Ông nên dùng thế đế mà giải nói điều đó!

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Ở phương Đông này, qua khỏi số thế giới nhiều bằng hai mươi lần cát sông Hằng, có thế giới Phật tên là Bất Động, trụ xứ của đức Phật ấy ngang dọc bằng nhau đầy đủ một vạn hai ngàn do tuần. Đất nơi ấy bằng bảy thứ báu, không có đất đá, bằng phẳng, mềm mại, không các ngòi rãnh, hầm hố. Những cây cối của cõi ấy do bốn thứ báu tạo thành là vàng, bạc, lưu ly và pha lê, hoa trái sum suê, không lúc nào chẳng có. Nếu có chúng sinh nghe mùi hương hoa ấy thì thân tâm an lạc, ví như Tỳ kheo vào thiền thứ ba. Giáp vòng cõi ấy lại có ba ngàn dòng sông lớn, nước sông ấy đầy đủ tám vị vi diệu. Nếu có chúng sinh tắm gội ở trong nước ấy thì được niềm hỷ lạc, ví như Tỳ kheo vào thiền thứ hai. Những dòng sông ấy có đủ thứ những loài hoa như hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, hoa Hương, hoa Đại hương, hoa Diệu hương, hoa Thường. Tất cả chúng sinh không che chở hoa. Hai bên bờ sông ấy cũng có nhiều loài hoa, như là hoa A Đề mục đa dà, hoa Chiêm bà, hoa Ba tra la, hoa Bà sư la, hoa Ma lợi ca, hoa Đại ma lợi ca, hoa Tân ma lợi ca, hoa Tu ma na, hoa Do đề ca, hoa Đàn ca lợi, hoa thường... Tất cả chúng sinh không che chở hoa. Đáy sông trải cát vàng, có bốn bực bệ bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê đủ màu. Có nhiều loài chim tập họp dạo trong những dòng sông ấy. Lại có vô lượng cọp, sói, sư tử.... những loài chim, thú ác mà lòng chúng xem nhau giống như con đỏ. Trong thế giới đó, tất cả không có kẻ phạm trọng cấm, bài báng chánh pháp và Nhất xiển đề, tội nghũ nghịch.v.v... Cõi ấy điều hòa thích hợp, không có lạnh nóng, đói khát, khổ não, không có tham dục, sân nhuế, phóng dật, tật đố (ganh ghét) không có mặt trời, mặt trăng, ngày, đêm, thời tiết giống như trên trời thứ hai Đao Lợi. Nhân dân cõi ấy đều có ánh sáng, mỗi mỗi đều không có lòng kiêu mạn, tất cả đều là bậc Đại Sĩ Bồ tát, đều được thần thông, đầy đủ công đức lớn. Lòng họ đều tôn trọng Chánh pháp, theo về Đại Thừa, ái niệm Đại Thừa, ham thích Đại Thừa, hộ tiếc Đại Thừa, thành tựu đại tuệ, được đại Tổng trì. Lòng họ thường thương xót tất cả chúng sinh. Đức Phật của thế giới ấy hiệu là Mãn Nguyệt Quang Minh Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Tùy theo chỗ sở trụ của ngài mà có sự giảng nói, tuyên dương. Chúng sinh của cõi ấy không gì chẳng được nghe. Đức Phật ấy vì Đại Bồ tát Lưu Ly Quang tuyên giảng Kinh Đại Niết Bàn mà nói rằng: “Này thiện nam tử! Đại Bồ tát nếu có thể tu hành Kinh Đại Niết Bàn thì điều chẳng nghe đều được nghe hết”. Đại Bồ tát Lưu Ly Quang đó hỏi đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh cũng đúng như lời hỏi của Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương ở cõi này, không có khác. Đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh kia liền bảo Bồ tát Lưu Ly Quang rằng: “Này thiện nam tử! Phương Tây cách đây hai mươi lần cát sông Hằng cõi Phật, ở đó có thế giới tên là Ta bà. Cõi ấy có nhiều núi đồi, gò đống, đất cát, sỏi đá, gai góc bén nhọn... tràn đầy cùng khắp, thường có đói khát, lạnh nóng, khổ não. Nhân dân cõi ấy chẳng thể cung kính Samôn, Bà la môn, cha mẹ, sư trưởng. Họ tham trước phi pháp, muốn ở trong phi pháp, tu hành tà pháp, chẳng tin Chánh pháp, có thọ mạng ngắn ngủi, có hành động gian trá. Vua thì cai trị họ. Vua tuy có nước, nhưng chẳng biết thỏa mãn, đối với sở hữu của người khác sinh lòng tham lợi, dấy binh chinh phạt nhau, kẻ chết oan uổng là dân chúng. Vua thì tu hành phi pháp như vậy, thiện thần bốn trời lòng không hoan hỷ nên giáng xuống tai họa, hạn hán, lúa gạo khan hiếm, nhân dân nhiều bệnh, khổ não không lường. Trong cõi đó có đức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, đại bi thuần hậu,thương xót chúng sinh. Ngài đang ở vùng Ta La Song Thọ của thành Câu Thi Na vì các đại chúng phu diễn Kinh Đại Niết Bàn như vậy. Ở đó có vị Bồ tát tên là Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương, đã hỏi việc ấy như ông không khác. Đức Phật hôm nay đang đáp vấn đề đó. Ông hãy mau chóng đi đến thì tự sẽ được nghe!” Bồ tát Lưu Ly Quang kia nghe việc đó rồi, cùng với tám muôn bốn ngàn Đại Bồ tát muốn đến cõi kia, nên trước hết hiện những điềm lành, đó là nhân duyên, để có ánh sáng này, nên gọi là nhân duyên, cũng chẳng phải là nhân duyên. Lúc bấy giờ Bồ tát Lưu Ly Quang cùng với tám vạn bốn ngàn các Bồ tát đều mang những tràng, cái, hương hoa, chuỗi ngọc đủ thứ kỹ nhạc gấp bội hơn trước, cùng đi đến vùng Ta La Song Thọ ở thành Câu Thi Na, đem đồ cúng dường mang theo của mình mà cúng dường đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân, chắp tay cung kính, đi nhiễu quanh bên phải ba vòng. Họ tu kính xong rồi, lùi về ngồi một phía.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi vị Bồ tát kia rằng:

- Này thiện nam tử! Ông vì đến mà lại hay vì chẳng đến mà lại?

Bồ tát Lưu Ly Quang đáp rằng:

- Đến cũng chẳng lại, chẳng đến cũng chẳng lại. Con quan sát nghĩa này đều không có lại (lai). Thưa đức Thế Tôn! Các hành nếu thường cũng lại chẳng lại (đi lại), nếu là vô thường cũng không có lại. Nếu người thấy có tính chúng sinh thì có lại, chẳng lại. Con nay chẳng thấy định tính của chúng sinh thì sao phải nói rằng, có lại hay chẳng lại? Người có kiêu mạn thì thấy có đi, lại, người không kiêu mạn thì không đi, lại. Người có thủ hành thì thấy có đi lại, người không thủ hành thì không đi lại. Nếu thấy Như Lai rốt ráo Niết Bàn thì có đi lại, chẳng thấy Như Lai rốt ráo Niết Bàn thì không đi lại. Người chẳng nghe Phật tính thì có đi lại, người nghe Phật tính thì không đi lại. Nếu người thấy hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật có Niết Bàn thì có đi lại, người chẳng thấy hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật có Niết Bàn thì không đi lại. Nếu người thấy hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì có đi lại, nếu người chẳng thấy thì không đi lại. Nếu người thấy Như Lai không Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì có đi lại, nếu người thấy Như Lai Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì không (khứ lai) đi lại. Thưa đức Thế Tôn! Vã lại đặt ra việc ấy là muốn có điều hỏi! Con nguyện xin ngài rủ lòng thương xót người ít gặp này mà hứa cho!

Đức Phật nói rằng:

- Này thiện nam tử! Ông cứ tùy ý đặt vấn đề! Hôm nay chính là lúc đó! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói! Sở dĩ vì sao? Vì các đức Phật khó gặp như loài hoa Ưu Đàm! Pháp cũng như vậy, khó có thể được nghe! Trong mười hai bộ Kinh, Phương Đẳng lại khó hơn! Vậy nên ông cần phải chuyên tâm thính thọ!

Đại Bồ tát Lưu Ly Quang đã được đức Phật hứa cho và gồm cả lời dạy bảo, liền bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Đại Bồ tát có thể tu hành Kinh Đại Niết Bàn thì nghe điều chẳng nghe?

Bấy giờ, đức Như Lai khen rằng:

- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay muốn vào tận cùng biển Đại Thừa Đại Niết Bàn như vậy mà chính lại gặp được ta có thể giải nói hoàn thiện thì tên độc, lưới nghi sẵn có của ông hôm nay, ta sẽ làm đại lương y có thể khéo nhổ ra hết. Ông đối với Phật tính còn chưa sáng tỏ thì ta có đuốc tuệ, có thể vì ông soi sáng. Ông nay muốn đi qua dòng sông lớn sinh tử, ta có thể vì ông làm Đại Thuyền Sư. Ông ở chỗ ta sinh tư tưởng kính như cha mẹ thì ta cũng đối với ông sinh lòng thương như con đỏ. Lòng ông hôm nay tham Chánh pháp bảo mà gặp ta có nhiều thì có thể ban cho nhau! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Hãy suy nghĩ khéo léo! Ta sẽ vì ông phân biệt, tuyên nói, giải thích cho! Này thiện nam tử! Ông muốn nghe pháp thì hôm nay chính là lúc đó! Nếu nghe pháp rồi thì ông phải sinh niềm kính tín, chí tâm thính thọ, cung kính tôn trọng. Đối với Chánh pháp chớ tìm kiếm lỗi lầm, chớ nghĩ tham dục, sân nhuế, ngu si, chớ tìm xem dòng họ pháp sư tốt xấu. Đã nghe pháp rồi, ông chớ sinh kiêu mạn, chớ vì sự cung kính, danh dự, lợi dưỡng, phải vì pháp lợi độ thế cam lộ, cũng chớ sinh ra ý nghĩ rằng: “Ta nghe pháp rồi thì trước tự độ thân nhiên hậu độ người, trước tự giải thoát thân nhiên hậu giải thoát người, trước tự an thân nhiên hậu an người, trước tự Niết Bàn nhiên hậu khiến cho người được Niết Bàn. Đối với Pháp và Tăng nên sinh bình đẳng tưởng. Ở trong sinh tử thì sinh đại khổ tưởng. Đối với Đại Niết Bàn nên sinh tư tưởng Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Trước vì người khác nhiên hậu vì bản thân. Phải vì Đại Thừa chớ vì Nhị Thừa. Đối với tất cả pháp phải không sở trụ, cũng chớ chuyên chấp tất cả pháp tướng. Ở trong các pháp chớ sinh ra tư tưởng tham mà thường sinh ra tư tưởng biết pháp, thấy pháp. Này thiện nam tử! Ông có thể chí tâm như vậy mà nghe pháp. Đó gọi là nghe điều chẳng nghe. Này thiện nam tử! Có chẳng nghe nghe (bất văn văn), có chẳng nghe chẳng nghe (bất văn bất văn), có nghe chẳng nghe (văn bất văn), có nghe nghe (văn văn). Này thiện nam tử! Như chẳng sinh sinh, chẳng sinh chẳng sinh, sinh chẳng sinh, sinh sinh. Như chẳng đến đến (đáo), chẳng đến chẳng đến, đến chẳng đến, đến đến (đáo đáo).

- Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là chẳng sinh sinh?

- Này thiện nam tử! An trụ ở thế đế, khi mới ra khỏi thai thì đó gọi là chẳng sinh sinh.

- Sao gọi là chẳng sinh chẳng sinh?

- Này thiện nam tử! Đại Niết Bàn này không có tướng sinh. Đó gọi là chẳng sinh chẳng sinh!

- Sao gọi là sinh chẳng sinh

- Này thiện nam tử! Theo thế đế, khi chết thì đó gọi là sinh chẳng sinh!

- Sao gọi là sinh sinh?

- Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu thì gọi là sinh sinh. Vì sao vậy? Vì sinh sinh chẳng gián đoạn. Tất cả hữu lậu từng niệm từng niệm sinh ra. Đó gọi là sinh sinh. Bồ tát tứ trụ gọi sinh chẳng sinh. Vì sao vậy? Vì sinh tự tại nên đó gọi sinh chẳng sinh. Này thiện nam tử! Đó gọi là nội pháp. Sao gọi là ngoại pháp? Chưa sinh sinh, chưa sinh chưa sinh, sinh chưa sinh, sinh sinh! Này thiện nam tử! Ví như hạt giống khi chưa nảy mầm. Nó được bốn đại hòa hợp, công sức người gieo trồng (tác nghiệp), nhiên hậu mới mọc ra. Đó gọi là chưa sinh sinh. Sao gọi là chưa sinh chưa sinh? Ví như hạt giống hư và chưa gặp duyên. Những nhóm như vậy gọi là chưa sinh chưa sinh. Sao gọi là sinh chưa sinh? Như mầm đã sinh ra rồi mà chẳng tăng trưởng. Đó gọi là sinh chưa sinh. Sao gọi là sinh sinh? Ví như mầm cây tăng trưởng. Nếu sinh chẳng sinh thì không tăng trưởng. Như vậy tất cả hữu lậu gọi là sinh sinh ngoại pháp.

Đại Bồ tát Lưu Ly Quang bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Pháp hữu lậu nếu có sinh thì tức là thường hay là vô thường vậy? Sinh nếu là thường thì pháp hữu lậu không có sinh. Sinh nếu vô thường thì hữu lậu là thường. Thưa đức Thế Tôn! Nếu sinh có thể tự sinh thì sinh không tự tính. Nếu nó có thể sinh ra cái khác thì vì nhân duyên gì chẳng sinh ra hữu lậu? Thưa đức Thế Tôn! Nếu khi chưa sinh mà có sinh thì sao đến hôm nay mới gọi là sinh? Nếu khi chưa sinh mà không sinh thì vì sao chẳng nói hư không là sinh?

Đức Phật dạy rằng:

- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Chẳng sinh sinh chẳng thể nói! Sinh sinh cũng chẳng thể! Sinh chẳng sinh cũng chẳng thể nói! Chẳng sinh chẳng sinh cũng chẳng thể nói! Sinh cũng chẳng thể nói! Chẳng sinh cũng chẳng thể nói! Có nhân duyên nên cũng có thể được nói! Sao gọi là chẳng sinh sinh chẳng thể nói? Chẳng sinh gọi là sinh thì sao có thể nói! Vì sao vậy? Vì do sinh ấy vậy. Sao gọi là sinh sinh chẳng thể nói? Sinh sinh nên sinh, sinh sinh nên chẳng sinh, cũng chẳng thể nói. Sao gọi là sinh chẳng sinh chẳng thể nói? Sinh tức gọi là sinh, sinh chẳng tự sinh nên chẳng thể nói. Sao gọi là chẳng sinh chẳng sinh chẳng thể nói? Chẳng sinh thì gọi là Niết Bàn. Niết Bàn chẳng sinh nên chẳng thể nói. Vì sao vậy? Vì do tu đạo mà được vậy! Sao gọi là sinh cũng chẳng thể nói? Do sinh không có vậy! Sao gọi là chẳng sinh chẳng thể nói? Do có được vậy! Sao gọi là có nhân duyên nên cũng có thể được nói? Mười pháp nhân duyên làm tác nhân của sanh. Do nghĩa này nên cũng có thể được nói. Này thiện nam tử! Ông nay chớ vào Không định thậm thâm! Vì sao vậy? Vì đại chúng trì độn vậy. Này thiện nam tử! Pháp hữu vi sinh cũng là thường nhưng do trụ ở vô thường nên sinh cũng vô thường. Trụ cũng là thường nhưng sinh sinh nên trụ cũng vô thường. Dị cũng là thường nhưng do pháp vô thường nên dị cũng vô thường. Hoại cũng là thường nhưng do xưa không nay có nên hoại cũng vô thường. Này thiện nam tử! Do tính nên sinh-trụ-dị-hoại đều là thường. Nhưng từng niệm, niệm diệt nên chẳng thể nói thường. Đại Niết Bàn này có khả năng đoạn diệt nên gọi là vô thường. Này thiện nam tử! Pháp hữu lậu khi chưa sinh đã có tính sinh nên sinh có thể sinh. Pháp vô lậu vốn không có tính sinh nên sinh chẳng thể sinh. Như lửa có bản tính gặp duyên thì dấy lên. Mắt có tính thấy, nhân màu sắc, nhân ánh sáng, nhân tấm lòng nên thấy. Pháp sinh của chúng sinh cũng lại như vậy, do vốn có tính nên gặp nhân duyên nghiệp, cha mẹ hòa hợp thì liền có sinh.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Lưu Ly Quang và tám muôn bốn ngàn Đại Bồ tát nghe pháp này xong, liền vọt lên hư không cao bằng bảy cây Đa La, cung kính chắp tay mà bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Con nhờ đức Như Lai ân cần dạy bảo và nhân Đại Niết Bàn mới được ngộ giải vấn đề nghe điều chẳng nghe; cũng khiến cho tám muôn bốn ngàn vị Bồ tát lý giải sâu sắc về các pháp chẳng sinh sinh.v.v... Thưa đức Thế Tôn! Con nay đã ngộ giải, đoạn dứt các lưới nghi hoặc. Nhưng trong hội này có một vị Bồ tát tên là Vô Úy lại muốn bẩm hỏi, nguyện xin đức Thế Tôn rũ lòng hứa cho!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Bồ tát Vô Úy rằng:

- Này thiện nam tử! Ông cứ tùy ý nạn hỏi! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói!

Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Úy cùng tám muôn bốn ngàn các vị Bồ tát.v.v... đều đứng dậy, sửa lại y phục, quì dài, chắp tay mà bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Chúng sinh cõi này phải tạo nghiệp mà được sinh về thế giới Bất Động kia? Bồ tát cõi ấy làm sao mà được trí tuệ thành tựu, là vua voi trong loài người có uy đức lớn, tu đủ các hạnh, trí sắc bén nhanh nhẹn nghe thì có thể hiểu được?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Chẳng hại mạng chúng sinh Kiên trì các cấm giới

Chịu lời dạy Thế Tôn Thì sinh nước Bất Động.

Chẳng đoạt của tha nhân Thường ban cho tất cả

Tạo lập họp tăng phường Thì sinh nước bất Động.

Chẳng phạm vợ tha nhân Chẳng phi thời với vợ

Thí trì giới đồ nằm Thì sinh nước Bất Động.

Chẳng vì cầu lợi mình Mà khủng bố người khác

Cẩn thận chẳng vọng ngôn Thì sinh nước Bất Động.

Chớ hủy hoại bạn lành Xa lìa quyến thuộc ác

Lời miệng hòa hợp luôn Thì sinh nước Bất Động.

Các Bồ tát vân vân... Thường lìa khỏi ác khẩu

Nói, người nghe vui lòng Thì sinh nước Bất Động.

Lúc cười đùa cũng nên Chẳng nói phi thời ngữ

Cẩn thận lời lúc thường Thì sinh nước Bất Động.

Thấy lợi dưỡng tha nhân Thường sinh lòng hoan hỷ

Chẳng khởi kết ghét ghen Thì sinh nước Bất Động.

Chẳng não hại chúng sinh Thường sinh lòng từ ái

Phương tiện ác chẳng sinh Thì sinh nước Bất Động.

Tà kiến nói không ban (thí) Cha mẹ, và đi lại

Chẳng khởi kiến như trên Thì sinh nước Bất Động.

Đường trống làm giếng(nước) ngon Gieo trồng rừng cây trái

Thường thí người xin ăn Thì sinh nước Bất Động.

Nếu với Phật - Pháp -Tăng Hương đèn một lần cúng

Cho đến hiến cành bông Thì sinh nước Bất Động.

Bị khủng bố kinh hoàng Lợi dưỡng và phước đức

Chép một kệ Niết Bàn(kinh này) Thì sinh nước Bất Động.

Vì phước lợi cầu mong Trong một ngày có thể

Đọc tụng kinh Niết Bàn(Kinh này) Thì sinh nước Bất Động.

Nếu vì đạo không trên(vô thượng) Trong một ngày đêm suốt

Tám giới trai giữ gìn Thì sinh nước Bất Động.

Chẳng cùng một chỗ chung Với người phạm trọng cấm

Trách kẻ chê (kinh) Phương Đẳng Thì sinh nước Bất Động.

Nếu hay cho bệnh nhận Thậm chí chỉ một trái

Hoan hỷ mà ngắm nhìn Thì sinh nước Bất Động.

Chẳng phạm vật tăng man(?man=tóc mượt) Khéo giữ vật cúng Phật

Tô quét đất Phật, Tăng Thì sinh nước Bất Động.

Tạo tháp tượng Thế Tôn Giống như ngón tay cái

Thường sinh lòng vui mừng Thì sinh nước Bất Động.

Nếu vì Kinh Niết Bàn Tự thân và của báu

Cúng người nói pháp chân Thì sinh nước Bất Động.

Nếu nghe, chép thành văn Thọ trì và đọc tụng

Mật tạng các Thế Tôn Thì sinh nước Bất Động.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Vô Úy bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Con nay đã biết sự tạo nghiệp duyên để được sinh đến nước Bất Động kia. Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương này khắp vì thương xót tất cả chúng sinh nên trước đã hỏi han. Đức Như Lai nếu nói thì có thể đem lại lợi ích an lạc cho người, trời, A tu la, Càn thát bà, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già.v.v..

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liền bảo Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương rằng:

- Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay ở đây phải chí tâm lắng nghe! ta sẽ vì ông phân biệt giải nói: Có nhân duyên chưa đến chẳng đến, có nhân duyên nên chẳng đến đến, có nhân duyên nên đến chẳng đến, có nhân duyên nên đến đến (đáo đáo). Vì nhân duyên gì nên chưa đến chẳng đến? Này thiện nam tử! Phàm chẳng đến là Đại Niết bàn thì phàm phu chưa đến, do có tham dục, sân nhuế, ngu si, nghiệp thân miệng ý chẳng thanh tịnh và thọ tất cả vật bất tịnh, phạm bốn trọng cấm, bài báng Phương Đẳng, Nhất xiển đề, năm nghịch tội. Do nghĩa này nên chưa đến chẳng đến. Này thiện nam tử! Vì nhân duyên gì nên chẳng đến đến? Chẳng đến thì gọi là Đại Niết Bàn. Vì nghĩa gì nên gọi là đến? Vĩnh viễn đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si, thân, miệng ác, chẳng thọ tất cả vật bất tịnh, chẳng phạm bốn trọng cấm, chẳng bài báng Kinh Phương Đẳng, chẳng làm Nhất xiển đề, chẳng làm tội ngũ nghịch. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến đến. Tu đà hoàn thì tám vạn kiếp đến, Tư đà hàm thì sáu vạn kiếp đến, A na hàm thì bốn vạn kiếp đến, A la hán thì hai vạn kiếp đến, Bích Chi Phật thì mười ngàn kiếp đến. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến đến. Này thiện nam tử! Vì nhân duyên gì nên gọi là đến chẳng đến? Đến thì gọi là hai mươi lăm cõi Hữu. Tất cả chúng sinh thường bị sự che phủ của vô lượng những phiền não kết, qua lại chẳng rời giống như bánh xe quay. Đó gọi là đến. Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ tát đã được vĩnh viễn lìa khỏi nên gọi là chẳng đến. Vì muốn hóa độ các chúng sinh nên thị hiện ở trong đó nên cũng gọi là đến. Này thiện nam tử! Vì nhân duyên gì nên gọi là đến đến. Đến tức là hai mươi lăm cõi hữu. Nhân duyên phiền não của tất cả phàm phu, Tu đà hoàn cho đến A na hàm nên gọi là đến đến. Này thiện nam tử! Nghe điều chẳng nghe cũng lại như vậy, có chẳng nghe nghe, có chẳng nghe chẳng nghe, có nghe chẳng nghe, có nghe nghe. Sao gọi là chẳng nghe nghe? Này thiện nam tử! Chẳng nghe thì gọi là Đại Niết Bàn. Vì sao chẳng nghe? Vì chẳng phải hữu vi, chẳng phải âm thanh, chẳng thể nói. Sao gọi là cũng nghe? Được nghe danh như là Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Do nghĩa này nên gọi là chẳng nghe nghe.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, Đại Niết Bàn thì chẳng thể được nghe thì sao lại nói Thường-Lạc-Ngã-Tịnh mà có thể được nghe? Vì sao vậy? Thưa đức Thế Tôn! Đoạn phiền não thì gọi là được Niết Bàn, nếu chưa đoạn thì gọi là chẳng được. Do nghĩa này nên tính của Niết Bàn trước không nay có. Nếu pháp thế gian trước không nay có thì gọi là vô thường, ví như cái bình.v.v... trước không nay có, đã có rồi trở lại không nên gọi là vô thường. Niết Bàn nếu vậy thì sao nói rằng, Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Phàm cái gì nhân trang nghiêm mà được thành thì đều gọi là vô thường. Niết Bàn nếu vậy thì nên là vô thường. Những gì là nhân duyên? Đó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu Ba la mật, bốn vô lượng tâm, quán đến tướng xương, A na ba na (?), sáu niệm xứ, phá gẫy sáu đại.v.v...những pháp như vậy đều là nhân duyên thành tựu Niết Bàn nên gọi là vô thường. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Có gọi là vô thường, nếu Niết Bàn là có cũng nên vô thường. Như đức Phật trước ở trong Kinh A Hàm nói rằng, Thanh Văn, Duyên Giác các đức Phật Thế Tôn đều có Niết Bàn. Do nghĩa này nên gọi là vô thường. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Pháp có thể thấy gọi là vô thường. Như đức Phật trước đã nói, thấy Niết Bàn thì được đoạn trừ tất cả phiền não. Lại nữa, thưa đức Thế Tôn! Ví như hư không đối với các chúng sinh đều không ngăn ngại nên gọi là vô thường. Nếu giả sử Niết Bàn là thường thì vì sao chúng sinh có người được, có người chẳng được? Niết Bàn nếu vậy, đối với các chúng sinh chẳng bình đẳng thì chẳng gọi là thường. Thưa đức Thế Tôn! Ví như một trăm người có chung một oán thù. Nếu hại được kẻ oán thù này thì nhiều người được hưởng thụ niềm vui. Nếu giả sử Niết Bàn là pháp bình đẳng thì khi một người được nên có nhiều người được, một người đoạn kết phiền não nên có nhiều người cũng đoạn trừ. Nếu chẳng như vậy thì làm sao gọi là thường. Ví như có người cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen quốc vương, vương tử, cha mẹ, sư trưởng thì được lợi dưỡng. Đó chẳng gọi là thường. Niết Bàn cũng vậy, chẳng gọi là thường. Vì sao vậy? Vì như lúc trước đức Phật ở trong Kinh A hàm, bảo ngài A Nan rằng, nếu có người cung kính Niết Bàn thì được đoạn trừ kết sử, thọ vô lượng vui. Do nghĩa này nên chẳng gọi là thường. Thưa đức Thế Tôn! Nếu trong Niết Bàn có tên Thường-Lạc-Ngã-Tịnh thì chẳng gọi là thường. Nếu điều ấy không thì sao có thể nói được?

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương rằng:

- Thể của Niết Bàn chẳng phải vốn không mà nay có. Nếu thể của Niết Bàn vốn không mà nay có thì chẳng phải là pháp vô lậu thường trụ. Có Phật, không Phật tính tướng thường trụ nhưng vì các chúng sinh bị phiền não che phủ nên chẳng thấy Niết Bàn liền cho là không có. Đại Bồ tát dùng giới, định, tuệ huân tập tu hành tâm của mình, đoạn trừ phiền não rồi thì liền được thấy Niết Bàn đó. Ông phải biết rằng, Niết Bàn là pháp thường trụ, chẳng phải vốn không mà nay có. Vậy nên Niết Bàn là thường. Này thiện nam tử! Như trong ngôi nhà tối có cái giếng chứa đủ thứ bảy báu mà ai cũng biết vì tối nên chẳng thấy. Có người trí giỏi biết phương tiện, thắp đèn sáng lớn, đem đến soi sáng, thấy được hết những báu đó. Người này ở đây, chẳng sinh ra ý niệm nước và bảy báu vốn không nay có. Niết Bàn cũng vậy, vốn tự đã có, chẳng phải hôm nay vừa mới có vậy. Vì phiền não tối tăm nên chúng sinh chẳng thấy, đức Như Lai đại trí, dùng phương tiện, thắp đèn trí tuệ, khiến cho các Bồ tát được thấy Niết Bàn Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Vậy nên kẻ trí đối với Niết Bàn này chẳng nên nói rằng, vốn không mà nay có. Này thiện nam tử! Ông nói rằng, nhân trang nghiêm mà được thành Niết Bàn nên Niết Bàn vô thường thì đó cũng chẳng đúng vậy. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Thể của Niết Bàn chẳng phải sinh, chẳng phải ra, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải tác nghiệp sinh, chẳng phải là pháp hữu lậu hữu vi, chẳng phải nghe, chẳng phải thấy, chẳng phải đọa, chẳng phải tử, chẳng phải tướng biệt dị cũng chẳng phải tướng đồng, chẳng phải trụ, chẳng phải hoàn (trở lại), chẳng phải quá khứ, vị lai và hiện nay, chẳng phải một, chẳng phải nhiều, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải tròn, chẳng phải vuông, chẳng phải nhọn, chẳng tà (không nhọn), chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải danh, chẳng phải sắc, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải ngã và ngã sở... Do nghĩa này nên Niết Bàn là thường hằng chẳng biến dị. Đó là do vô lượng atăngkỳ kiếp tu tập thiện pháp để tự trang nghiêm, rồi nhiên hậu mới thấy. Này thiện nam tử! Ví như dưới đất có nước tám vị mà tất cả chúng sinh chẳng thể được. Có người trí thi công đào xuyên qua thì liền được nước đó. Niết Bàn cũng vậy. Ví như người mù chẳng thấy mặt trời, mặt trăng, được lương y trị liệu cho thì liền được thấy mà mặt trời, mặt trăng này chẳng phải là vốn không mà nay có. Niết Bàn cũng vậy, trước đã tự có rồi, chẳng phải vừa mới có hôm nay vậy. Này thiện nam tử! Ví như người có tội bị giam giữ lâu trong ngục mới được ra, trở về nhà được thấy cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, Niết Bàn cũng vậy. Này thiện nam tử! Ông nói rằng, vì là nhân duyên nên pháp Niết Bàn phải là vô thường, thì điều này cũng chẳng đúng vậy! Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì Nhân có năm thứ. Những gì là năm? Một là sinh nhân, hai là hòa hợp nhân, ba là trụ nhân, bốn là tăng trưởng nhân, năm là viễn nhân. Sao gọi là sinh nhân? Sinh nhân tức là nghiệp phiền não.v.v... và bên ngoài là hạt giống cỏ cây... Đó gọi là sinh nhân. Sao gọi là hòa hợp nhân? Như cái thiện cùng lòng thiện hòa hợp, cái chẳng thiện cùng với lòng chẳng thiện hòa hợp, cái vô ký cùng với lòng vô ký hòa hợp. Đó gọi là nhân hòa hợp. Sao gọi là trụ nhân? Như bên dưới có trụ chống thì nhà chẳng sập, núi, sông, cây cối nhân vào đất đai mà được đứng vững. Bên trong có bốn đại, vô lượng phiền não nên chúng sinh được trụ. Đó gọi là trụ nhân. Sao gọi là tăng trưởng nhân? Nhân duyên quần áo, ăn uống.v.v... nên khiến cho chúng sinh tăng trưởng. Như bên ngoài, hạt giống chẳng bị lửa đốt cháy, chẳng bị chim ăn mất thì nó được tăng trưởng. Như các Samôn, Bà la môn.v.v... nương vào nhân Hòa thượng, Thiện tri thức.v.v... mà được tăng trưởng. Như nhân cha mẹ thì con được tăng trưởng. Đó gọi là nhân tăng trưởng. Sao gọi là viễn nhân (nhân xa)? Ví như nhân thần chú mà quỉ chẳng thể hại đọc, chẳng thể trúng. Nương tựa quốc vương thì không có đạo tặc. Như mầm cây nương nhờ đất nước lửa gió.v.v... Như người tích góp nước là nhân xa của cao sữa. Như sắc sáng.v.v... là nhân xa của nhận thức. Tinh huyết cha mẹ là nhân xa của chúng sinh. Như thời tiết.v.v... đều gọi là viễn nhân. Này thiện nam tử! Thể của Niết Bàn chẳng phải là sự tạo thành của năm thứ nhân như vậy thì sao phải nói rằng, đó là nhân vô thường? Lại nữa, này thiện nam tử! Lại có hai thứ nhân, một là tác nhân, hai là liễu nhân. Như bánh xe, sợi dây của người thợ gốm thì đó gọi là tác nhân. Như đèn đuốc.v.v... chiếu soi vật trong tối thì đó gọi là liễu nhân (nhân làm rõ). Này thiện nam tử! Đại Niết Bàn thì chẳng từ tác nhân mà có, chỉ từ liễu nhân thôi! Liễu nhân thì đó là ba mươi bảy pháp trợ đạo, sáu Ba la mật.... Đó gọi là Liễu nhân. Này thiện nam tử! Bố thí là nhân Niết Bàn, chẳng phải nhân của Đại Niết Bàn. Đàn Balamật (Thí độ vô cực) mới được gọi là nhân của Đại Niết Bàn. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là nhân của Niết Bàn, chẳng phải là nhân của Đại Niết Bàn. Vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp tu hành pháp Bồ Đề thì mới được gọi là nhân của Đại Niết Bàn.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Đức Vương bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi bố thí chẳng được gọi là Đàn Balamật? Sao gọi là bố thí mà được gọi là Đàn Balamật?... cho đến Bát nhã sao chẳng được gọi là Bát nhã Balamật? Sao được gọi là Bát nhã Balamật? Sao gọi là Niết Bàn? Sao gọi là Đại Niết Bàn?

Đức Phật dạy rằng:

- Đại Bồ tát tu hành Phương Đẳng Đại Bát Niết Bàn thì chẳng nghe bố thí, chẳng thấy bố thí, chẳng nghe Đàn Balamật, chẳng thấy Đàn Balamật... cho đến chẳng nghe Bát nhã, chẳng thấy Bát nhã, chẳng nghe Bát nhã Balamật, chẳng thấy Bát nhã Balamật, chẳng nghe Niết Bàn, chẳng thấy Niết Bàn, chẳng nghe Đại Niết Bàn, chẳng thấy Đại Niết Bàn. Đại Bồ tát tu hành Đại Niết Bàn thì thấy biết pháp giới, hiểu rõ thật tướng rỗng không, không có sở hữu, không có tướng hiểu biết hòa hợp, được tướng vô lậu, tướng không sở tác, tướng như huyễn hóa, tướng cháy lên khi nóng, tướng rỗng không của thành Càn thát bà. Bấy giờ, được những tướng như vậy Bồ tát không tham sân si, chẳng nghe, chẳng thấy. Đó gọi là tướng chân thật của Đại Bồ tát, an trụ thật tướng. Đại Bồ tát tự biết đây là Đàn, đây là Đàn Balamật... cho đến đây là Bát Nhã, đây là Bát nhã Balamật, đây là Niết Bàn, đây là Đại Niết Bàn.

Này thiện nam tử! Sao gọi là Thí chẳng phải là Balamật? Thấy có người xin, nhiên hậu mới cho thì đó gọi thí, chẳng phải là Balamật. Nếu không có người xin mà mở lòng tự thí thì đó gọi là Đàn Balamật. Nếu thời thời thí (cho từng lúc từng lúc) thì đó gọi là thí chẳng phải là Balamật. Nếu tu thường thí thì gọi là Đàn Balamật. Nếu thí cho người rồi trở lại sinh lòng hối thì gọi là thí, chẳng phải là Balamật. Thí rồi chẳng hối thì đó gọi là Đàn Balamật. Đại Bồ tát ở trong của cải sinh ra bốn tâm lo sợ là vua, giặc, nước, lửa mà hoan hỷ thí cho thì đó gọi là Đàn Balamật, còn nếu hy vọng quả báo bố thí thì gọi là thí, chẳng phải là Balamật. Bố thí chẳng mong báo đáp thì gọi là Đàn Balamật. Nếu bố thí vì khủng bố, vì danh tiếng, vì lợi dưỡng, vì phép nhà nối nhau, vì năm dục trên trời, vì kiêu mạn, vì thắng mạn, vì tình bạn, vì quả báo đời sau... theo như phép trao đổi ở chợ. Này thiện nam tử! Như người trồng cây vì được bóng mát, vì được hoa trái và cây gỗ... Nếu người tu hành thí như vậy.v.v... thì gọi là thí chẳng phải là Balamật.

Đại Bồ tát tu hành Đại Niết Bàn này thì chẳng thấy người thí, người nhận thí và của bố thí, chẳng thấy thời tiết, chẳng thấy ruộng phước và chẳng phải ruộng phước, chẳng thấy nhân, chẳng thấy duyên, chẳng thấy quả báo, chẳng thấy người làm, chẳng thấy người nhận, chẳng thấy nhiều, chẳng thấy ít, chẳng thấy tịnh, chẳng thấy bất tịnh, chẳng khinh người nhận tài vật của thân mình, chẳng thấy người thấy, chẳng thấy người chẳng thấy, chẳng kể của mình, của người... mà chỉ vì pháp thường trụ của Phương Đẳng Đại Bát Niết Bàn nên tu hành bố thí, vì lợi ích cho tất cả chúng sinh mà làm việc bố thí, vì đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh nên làm bố thí, vì các chúng sinh chẳng thấy người nhận, người cho, tài vật cho nên làm bố thí. Này thiện nam tử! Ví như có người rơi xuống nước biển cả mà bão trì được thây chết thì được độ thoát. Đại Bồ tát tu Đại Niết Bàn khi làm bố thí cũng lại như vậy, như tử thi kia. Này thiện nam tử! Ví như có người bị giam ở tại ngục sâu, cửa nẻo chắc chắn, chỉ có lỗ nhà xí, liền từ trong đó đi ra, đến chỗ không ngăn ngại. Đại Bồ tát tu Đại Niết Bàn khi làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như người cao quí bị khủng bố nguy cấp lại không chỗ nhờ cậy, nương vào Chiên đà la. Đại Bồ tát tu Đại Niết Bàn, làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như người bệnh vì trừ khỏi bệnh khổ nên ăn uống bất tịnh. Đại Bồ tát tu Đại Niết Bàn làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Như Bà la môn gặp lúc lương thực khan hiếm, vì thọ mạng nên ăn thịt chó. Đại Bồ tát tu Đại Niết Bàn làm bố thí cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Trong Đại Niết Bàn, những việc như vậy, từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng nghe mà nghe. Thi la, Thi la Balamật (Trì giới, Trì giới Balamật)... cho đến Bát nhã, Bát nhã Balamật... như Phật đã rộng nói trong Kinh Tạp Hoa.

Này thiện nam tử! Sao gọi là Đại Bồ tát tu Đại Niết Bàn chẳng nghe mà nghe? Mười hai bộ Kinh, ý nghĩa thâm thúy từ xưa đến giờ chẳng nghe, nay nhân kinh này được nghe đầy đủ. Trước tuy được nghe nhưng chỉ nghe danh tự mà nay ở Kinh Đại Niết Bàn này mới được nghe nghĩa. Thanh Văn, Duyên Giác chỉ nghe danh tự mười hai bộ kinh mà chẳng nghe được nghĩa của Kinh ấy thì nay nhân kinh này được nghe đầy đủ. Đó gọi là chẳng nghe mà nghe. Này thiện nam tử! Trong tất cả kinh của Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng từng nghe Phật có Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, chẳng rốt ráo diệt, Tam Bảo, Phật tính không có tướng sai biệt và phạm bốn trọng cấm, bài báng Kinh Phương Đẳng, tạo tội ngũ nghịch, Nhất xiển đề đều có Phật tính. Hôm nay ở Kinh này mà được nghe những điều đó. Đó gọi là chẳng nghe mà nghe.

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

- Quyển thứ mười chín hết -


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567