Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ XVI

18/03/202118:29(Xem: 6488)
Hội Thứ XVI

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-550


 
HỘI THỨ XVI

 

(Bố cục)

 

  

 

16. Hội thứ XVI: Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, 8 quyển. Nội dung đức Phật ở trong hội Trúc lâm, thành Vương Xá nói cho Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh nghe về giải thoát Bát Nhã vô sở đắc. Pháp Uyển Châu Lâm và Khai Nguyên Thích Giáo Lục nói, nguyên văn bản tiếng Phạm của hội này gồm 2500 kệ tụng, tương đương tiếng Phạm hiện còn (Suvikràntavikràmiparipfcchà), bản dịch Tây tạng chia làm 7 chương. Trong 16 hội nêu trên đây, đã có một số hội được ấn hành nguyên bản tiếng Phạm và bản dịch Tây tạng, như các hội thứ I, thứ IV, thứ VII, thứ IX v.v... Sau khi Kinh này được truyền dịch, Ngài Huyền Tắc ở chùa Tây Minh có viết lời tựa cho mỗi hội trong 16 hội, Ngài Khuy Cơ ở chùa Đại Từ Ân soạn “Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Lý Thú Phần Thuật Tán” 3 quyển, Ngài Nguyên Hiểu người Tân la (Triều tiên) thì soạn “Đại Tuệ Độ Kinh tông yếu” 1 quyển. Ngoài ra còn có “Đại Bát Nhã Kinh Quan Pháp” 6 quyển của Ngài Đại ẩn đời Tống, “Đại Bát Nhã Kinh Cương Yếu” 10 quyển của Ngài Cát Đỉnh đời Thanh v.v... Rồi đến “Đại Tạng Kinh Cương Mục Chỉ Yếu Lục” quyển 1, quyển 2 thượng, “Đại Tạng Thánh Giáo Pháp Bảo Tiêu Mục” quyển 1, Duyệt Tạng Tri Tân quyển 16 đến quyển 23 v.v... cũng đều có nói về cương yếu của Kinh này. Số hội, số kệ tụng, quyển thứ, số phẩm, cùng bản dịch khác, người dịch của Kinh này được đồ biểu như sau: [X. Đại đường nội điển lục Q.5; Cổ kim dịch Kinh đồ kỷ Q.4; Khai nguyên thích giáo lục Q.8; Đại đường cố tam tạng pháp sư Huyền Trang hành trạng; Chí nguyên pháp bảo khám đồng tổng lục Q.1; Phật giáo Kinh điển khái thuyết; Tân Phật giáo thứ 9 mục 7 (Độ biên Hải húc, Đại Bát Nhã Kinh khái quan); Tông giáo nghiên cứu tân thứ 2 đoạn 4 (Can tả Long trường, Bát Nhã Kinh chi chư vấn đề); Nguyên thủy Bát Nhã Kinh chi nghiên cứu].

 

---o0o---

 

 

Tựa Hội thứ XVI

 

Đường Sa Môn Huyền Tắc chế tác tại chùa Tây Minh

 

Vì là lý thù thắng phải nhóm lại để làm chủ phương tiện, phẳng phắn về một hướng mới chuyên được Đạo. Thế sao chẳng tiêu dung tưởng chơn tế, thôi bỏ chấp lấy huyễn trần đi? Mặc dù Thí độ là sùng chuộng, Giới độ là nghiêm cấm, Nhẫn độ là điều phục, Tiến độ là nhanh bén, nhưng cuối cùng ngộ nơi Thật Huệ, nhờ lời chơn thuyên, hầu mong khai mở mê muội kẻ rờ voi, lại còn có dịp gặp gỡ của Cò ao nữa vậy.

Sở dĩ đấy nên:

Hào quang phóng dài năm trượng làm dấu vết, thăng lên thừa thứ nhất; nặn đúc hai bên (tức giáo hóa) để hé mở chỗ nhiệm mầu cho thấu suốt, nghĩ nghị bốn câu. Mong nhờ tiếng tăm Đấng Vắng Lặng mà cắt mầm tà kiến, thời mờ ám của cỏ cây rớt rụng như sao rơi; vin lưới nghi ngờ đã tích tụ từ lâu, thời mây mỏng ngăn che cũng bị vẹt trống. Rõ thấy tánh không mà thường tu, giác ngộ sanh giả mà hằng làm lợi. Bốn loại ma bởi đó mà tung chạy loạn, sáu pháp độ nhờ đấy tiến đi từng phần có thứ lớp.

Thi độ bởi đó, vật chẳng bỏ, khó xả mà năng xả được.

Giới độ bởi đó, chẳng kiểm thúc, khó giữ mà năng giữ được.

Nhẫn độ bởi đó, không chịu được mà năng kham nơi bất kham.

Tiến độ bởi đó, không hành được mà phát nơi bất phát.

Định độ bởi đó, chẳng vắng mà ba tướng bất tướng.

Huệ độ bởi đó, chẳng soi mà ba luân bất luân.

Cho nên:

Thể đạt được thời động mà càng tịch, sai lầm thời tịch mà càng động. Pháp chẳng tức ly nơi phi pháp, hành đâu nhất dị nơi vô hành. Kìa giác chứng được vậy, chơn tâm hỗn hòa mà nhất quán. Kìa xuất sanh được vậy, Pháp bảo biền liên là muôn khu biệt.

Vậy nên mới có:

Nào là hai trí, ba thân; nào là bốn biện, năm nhãn, sáu thông; nào là bảy giác, tám chánh, nào là chín định, mười lực; lại thêm mười tám bất cộng, tám mươi tùy hảo, mười hai duyên trí, hai mươi không tâm. Đều là kéo dài bởi Hy đa, trọn thành nơi La nhã. Tụ lại là tiêu biểu Ngọc hào, mà lưu tản ra là lời dạy dỗ của Kim khẩu.

Kể khắc thành tám quyển, vốn chẳng phải tái dịch, là vì phiên dịch chẳng sáng suốt bị sai lầm, trông mong việc xương thịnh các Hội ngày mai.

Than ôi! Kiếp đã qua mà chẳng phụng trì, nay nhìn lại lời khen thù thắng, chép nêu để lại tiếng tăm. Mong Đức Bổn Từ thổi ra bay bổng lăng xăng; nhờ Đấng Thánh Trí, kính đưa đầu đội lấy. Hầu mong sao viên diệu bảo gia truyền đến tay người nắm lấy hòn linh châu này, để tẩy sạch khách trần dơ bẩn nơi tám phương, và dội trận mưa phải thời cho tươi nhuần muôn lá.

Chốn Thần cung cực hưởng phúc lành, ngôi Đế hậu được diên niên trường thọ. Phúc lành thấu đến dân đen, Pháp giáo thêm phần mở mang sâu rộng. Ngõ hầu những kẻ sĩ hẹp hòi cởi mở ngưng kiết khi kinh sợ; khách tăng thượng mạn dứt hủy báng những lúc thốt lời thất độ.

Trang tôi, nếu tự mình chẳng đã từng trải qua hằng sa kiếp phụng trì, nhiều đời quá khứ lóng nghe, thời ngày nay làm sao được giở quyển mà biết hối hận, vong lời mà vào thưởng thức ấy ư? Thương buồn lắm vậy thay!

 

Thích Trí Nghiêm phụng dịch

 

---o0o---

 

 

PHẦN “BÁT NHÃ BA LA MẬT”

 

 

Dẫn nhập:

 

Để có cái nhìn tổng quát về lục Ba la mật tức là sáu pháp hội cuối cùng, chúng tôi có thể tóm tắt như sau: Bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự và Bát nhã Ba la mật nhằm đối trị:

1. Tham lam keo kiệt là bệnh ngàn đời của chúng sanh, tu bố thí để diệt cái nhân này. Nên nói tu bố thí độ xan tham,

2. Dục vọng, tham ái, phóng đảng... là nhân phá hoại tánh đức trí tuệ, tu trì giới để phá cái nhân xấu ác này. Nên nói tu trì giới để độ phá giới,

3. Sân hận là tội lớn nhất trong các tội, tu an nhẫn để đoạn cái nhân này. Nên nói tu an nhẫn để độ sân hận,

4. Lười biếng, bê tha... mất nhân cách, thiếu tinh thần trách nhiệm, nên tu tinh tấn để độ cái nhân giải đãi,

5. Cuồng tâm, loạn trí... là nhân điên đảo tối tăm, tu thiền định để thu nhiếp thân tâm. Nên nói thiền định để độ tán loạn, và

6. Ngu si, mê muội, mờ ám... là nhân của sanh tử luân hồi, tu Bát Nhã để chiếu phá. Nên nói tu trí tuệ(Bát Nhã)để độ ngu si!

Diệt một pháp ác thì được một pháp thiện, diệt tất cả 6 pháp bất thiện, hoàn tất 6 phương tiện thiện xảo, được Bồ đề. Năm mục đầu chúng ta đã thọ trì xong, chỉ còn tu học phần cuối cùng. Phải nói trước rằng các giáo pháp mà chúng ta sắp tu học ở mục 6. thuộc tám quyển cuối cùng của phần “Bát Nhã Ba La Mật” hết sức quan trọng cho việc học hỏi và tu hành trí tuệ tối cao của Phật đạo. Thành hay bại trong việc thâm nhập trí Bát Nhã là nằm ở phần này. Đây là thử thách lớn nhất cũng là cuối cùng đối với hành giả Bát Nhã. Nhưng một mình Bát nhã Ba la mật không thể quyết định sự chứng ngộ, phải có 5 Ba la mật trước là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định Ba la mật đóng góp mới có thể đưa người sang sông. Phẩm thứ 37, “Xá Lợi”, tập 3, quyển 59, Đại Trí Độ Luận, kể lại rằng:

“Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn tự niệm: Nếu nói Bát Nhã Ba La Mật là pháp rốt ráo, thì người tu chỉ cần hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng cần phải hành các pháp Ba La Mật khác hay sao?

Phật dạy: Bồ Tát phải tu tập 6 pháp Ba La Mật, nhưng phải dùng Bát Nhã Ba La Mật dẫn đạo, tức là phải dụng tâm vô sở đắc, mới hòa hợp được các Ba La Mật. Ngược lại, nếu chỉ tu Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng tu 5 Ba La Mật kia, thì chẳng sao có thể có được đầy đủ các công đức. Ví như kẻ vô trí nghe nói muối là gia vị chủ yếu của tất cả các món ăn, bèn bốc cả nắm muối cho vào món ăn, khiến chẳng sao ăn được, hoặc ăn vào phải mang bệnh vậy.

Cũng như vậy, người tu hành muốn trừ tâm chấp, phải hành Bát Nhã Ba La Mật. Thế nhưng, nếu khởi tâm chấp “không”, thì sẽ rơi vào tà kiến, khiến chẳng có thể tu các thiện pháp được; trái lại, nếu biết dùng Bát Nhã Ba La Mật lực để hòa hợp 5 Ba La Mật kia, thì công đức mới được đầy đủ. Như vậy, nếu được Bát Nhã Ba La Mật soi sáng, dẫn đạo, thì bố thí... dẫn đến thiền định mới được gọi là Đàn Ba La Mật... dẫn đến mới được gọi là Thiền Ba La Mật.

Bởi nhân duyên như vậy, nên nói 6 pháp Ba La Mật đều bình đẳng, đều chỉ là một tướng (nhất tướng). Ví như cõi Diêm Phù Đề có hồ A Na Bà Đạt Na chảy ra 4 con sông lớn. Con sông Đại Hà, lớn nhất trong 4 con sông có đến 500 sông nhánh. Nước từ khắp nơi, theo các sông nhánh chảy dồn về sông Đại Hà, rồi chảy ra biển. Khi đã vào biển, thì tất cả các dòng nước này đều chẳng còn là nước riêng của bất cứ sông nào, mà trở thành nước của biển, đều cùng một vị.

Cũng như các cây có thân, cành, lá, hoa... khác nhau, nhưng bóng cây đều cùng một bóng mát như nhau”.

Đoạn Kinh này nói lên sự cần thiết hỗ tương của tất cả các Ba la mật. Biết Bát nhã Ba la mật là tôn dẫn là chỉ đạo, nhưng không tu bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định thì không đủ công đức. Vậy, phải tu tất cả các Ba la mật mới được gọi là phước huệ song tu thì mới có nhiều cơ hội không những được sang sông mà còn có thể giúp kẻ khác sang sông nữa. Chúng ta đã đọc tụng thọ trì xong 5 pháp Ba la mật trước. Bây giờ phải tu Bát nhã Ba la mật, để hoàn tất giai đoạn cuối cùng của Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh trong hành trình vô tận này.

Phải nói rằng chúng ta hết sức may mắn mới được thọ trì những giáo lý tối cao này! Nếu thâm nhập được thời có thể nói cung đàn đổi nhịp, trăm hoa đua nở thôi!

Nhưng, làm sao học và hành, làm sao hiểu, làm sao tu chứng mà nói lại cho người? Phẩm “Thọ Giáo”, quyển 82, Hội thứ I, ĐBN nói: “Bát nhã Ba la mật đã nói là pháp thậm thâm khó thấy, khó giác, chẳng phải là đối tượng tầm tư, là cảnh siêu tầm tư, vi diệu, tịch tịnh, tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc Cực Thánh tự nội chứng, kẻ thông tuệ trong thế gian không thể suy lường tới được; trong đó, thật không có kẻ có khả năng tín thọ. Vì sao? Vì trong đó, không có pháp khá hiển, khá chỉ ra, bởi không có pháp khá hiển chỉ được, nên kẻ thật tín thọ cũng chẳng thể nắm bắt được”.

Quyển 597, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI lại nói thêm: “Bát nhã Ba la mật thậm thâm không thể giảng nói, không thể trình bày, không thể hý luận. Bát nhã Ba la mật thậm thâm không năng giảng nói, không năng trình bày, không năng hý luận. Nếu có thể dùng phương tiện biểu thị được như vậy tức là trình bày Bát nhã Ba la mật”.

Bát nhã Ba la mật thường xuyên lưu ý độc giả: Bát Nhã không phải là pháp khá hiển, khá chỉ, không thể giảng nói luận bàn, không thể trình bày v.v... Nếu như vậy làm sao nói cho người, làm truyền đạt Bát Nhã đây? Bát Nhã giải thích rằng: Nhưng nếu có thể “dùng phương tiện biểu thị được như vậy” nghĩa là diễn đạt được Bát Nhã là không thể biểu thị, không thể diễn thuyết, không thể nói năng luận bàn, tức là diễn đạt, là trình bày, giảng nói Bát Nhã.

Đó là lý do khiến chúng tôi không trực tiếp giảng luận, mà chỉ ghi là “thay lời lược giải” tóm tắt ý chính do Phật thuyết, cốt nhấn mạnh các “biểu thị của Bát Nhã” để độc giả tự hội, tự chứng. Đây là phần gợi ý, hơn là “dạy bảo trao truyền Bát Nhã”. Thiện Hiện hay Tu Bồ Đề, đệ tử số một về “giải không Bát Nhã” còn thú nhận rằng không thể, huống chi trí tuệ cạn cợt thô thiển như chúng tôi. Chính độc giả phải học những biểu thị đó rồi tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo: “Trâu Bảo lộc ăn cỏ, trâu Đồng nai không thể no được!”

Phải nói trước rằng các giáo pháp mà chúng ta sắp tu học ở phần “Bát Nhã Ba La Mật” sau đây là thậm thâm pháp bảo, trí tuệ cạn cợt, không đủ “nội lực” có thể bị phát cuồng. Đó là lý do tại sao có người nói học Bát Nhã “bị điên” là vậy. Nếu hiểu và vượt qua những chỗ được xem là ngược dòng thế gian thì tâm hoa nở, cung đàn đổi nhịp.

Tám quyển cuối cùng của ĐBN là phần hết sức quan trọng cho việc học hỏi và tu hành Bát nhã Ba la mật. Thành hay bại trong việc thâm nhập Bát Nhã nằm ở phần này. Đây là thử thách lớn nhất đối với hành giả Bát Nhã. Phải nói toàn thể 600 quyển Đại Bát Nhã, không có phần nào thậm thâm bằng 8 quyển cuối cùng này! Chúng ta hết sức may mắn, có lẽ trong nhiều đời kiếp có tu Bát Nhã, nên đời này mới có phúc duyên gặp lại pháp bảo này chăng?

 

---o0o---

 

Tóm lược:

 

Quyển thứ 593

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Bạc già phạm ở bên ao Cò trắng, trong vườn Trúc Lâm thuộc thành Vương Xá, cùng đông đủ chúng Bí sô một ngàn hai trăm năm mươi người, và vô lượng, vô số đại Bồ Tát, từ các cõi Phật đồng đến tập hợp, đều là Bồ Tát còn một đời nữa. Khi ấy, hơn trăm ngàn chúng cung kính vây quanh nghe Thế Tôn thuyết pháp.

Trong chúng có vị đại Bồ Tát tên Thiện Dũng Mãnh, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, vén áo chìa vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con muốn thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chút nghĩa sâu xa, cúi xin Thế Tôn thương xót trả lời cho.

Phật bảo:

- Thiện Dũng Mãnh! Như Lai cho ngươi hỏi, tùy ý ngươi hỏi Ta sẽ trả lời, để ngươi được vui mừng.

Đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những chỗ mà đức Thế Tôn vì các đại Bồ Tát giảng nói Bát nhã Ba la mật sao gọi là Bát nhã Ba la mật? Đại Bồ Tát làm sao tu hành Bát nhã Ba la mật? Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật làm sao mau được viên mãn? Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật làm sao tất cả ác ma không phá hoại được, mà còn biết rõ được những việc làm của ma? Làm sao Bồ Tát an trụ Bát Nhã mau viên mãn pháp Nhất thiết trí trí?

Phật khen ngợi đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

- Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi mới có thể thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát Nhã sâu xa như vậy. Ngươi đã vì các đại Bồ Tát được nghĩa lợi, cũng muốn cho chúng sanh được lợi ích, cũng muốn cho chúng sanh được an lạc, thương xót tất cả chúng sanh ở thế gian, muốn cho chư thiên và loài người được lợi ích an lạc, muốn làm ánh sáng cho đại Bồ Tát v.v… đời này đời sau nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa này.

 

(Vì lợi ích an vui của tất cả hữu tình mà hỏi Như Lai về Bát Nhã)

 

Này Thiện nam tử! Ngươi quán nghĩa nào mà hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy?

Đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì con thương xót tất cả hữu tình mà làm việc lợi ích an vui, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật sâu xa thông đạt tất cả pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Chánh đẳng giác. Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng con mà giảng nói đủ cảnh trí Như Lai.

Nếu loài hữu tình nào đối với tánh Thanh văn thừa đã quyết định, nghe pháp này rồi mau chứng được tự địa vô lậu. Nếu loài hữu tình nào đối với tánh Độc giác thừa đã quyết định, nghe pháp này rồi mau nương tựa thừa này mà được ra khỏi. Nếu loài hữu tình nào đối với tánh Vô thượng thừa đã quyết định, nghe pháp này rồi mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu loài hữu tình nào tuy chưa hay đã nhập vào Chánh tánh ly sanh, mà đối với tánh tam thừa không quyết định, nghe pháp này rồi đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cúi xin Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trả lời câu hỏi về Bát nhã Ba la mật sâu xa, khiến cho thiện căn các hữu tình tăng thêm sanh trưởng.

Bạch Thế Tôn! Nay con không vì các hữu tình tin hiểu thấp kém, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình giữ tâm nghèo cùng, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình trở thành hàng bần cùng, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình lười biếng trễ nải, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình bị biếng lười che khuất, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình rơi vào bùn ác kiến, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình mắc phải lưới ma, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình không biết hổ thẹn, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình tánh không liêm khiết, cần kiệm, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình quên mất chánh niệm, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình tâm thường mê loạn, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình chìm trong bùn lầy tham dục, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình làm nhiều hành động dối trá, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình làm nhiều dối gạt, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình chẳng biết đền ơn, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình đầy đủ ác dục, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình muốn làm hạnh ác, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình phá hoại giới pháp, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình giới không thanh tịnh, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình hủy hoại chánh kiến, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình muốn thích hành động trong cảnh giới của ma, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình ưa khen ngợi mình, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình ưa chê bai hủy báng người, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình yêu chuộng lợi dưỡng, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình ngầm tham đắm y bát, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình ngầm làm việc dối trá, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình ưa dệt lời xằng bậy, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình dối hiện dị tướng, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình cầu xin ép buộc, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cũng không vì các hữu tình đem lợi cầu lợi, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Nay con không vì các loài hữu tình ô uế ấy, mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình thâm tâm vui thích Nhất thiết trí trí, vô trước trí, tự nhiên trí, vô đẳng đẳng trí, vô thượng trí, thì nay con cũng vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu các hữu tình đối với sở hữu của mình không còn sở đắc, huống chi tự khen ngợi mình, thì con vì họ thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu các hữu tình đối với sở hữu của người khác không còn sở đắc, huống chi chê bai, hủy báng người khác, thì con vì họ thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu các hữu tình xô ngã kiêu mạn như bẻ sừng thú, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu các hữu tình muốn nhổ các loại tên độc phiền não, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu các hữu tình tâm họ khiêm hạ như trẻ con Chiên đà la, con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu các hữu tình tâm họ bình đẳng như tứ đại hư không, con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp còn không có sở đắc, cũng không chấp trước, huống gì đối với phi pháp, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát ý muốn thanh tịnh, không nịnh, không dối, tính chất ngay thẳng, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát tâm bình đẳng, thương xót, muốn làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát thường đối với pháp lành chỉ dạy, khuyên răn, hướng dẫn, khen ngợi, vui mừng tất cả hữu tình, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát gánh nổi gánh lớn, cỡi được xe lớn, dựng nên việc lớn, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát đem lòng từ bi, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát đối với các hữu tình có thể làm người dẫn đường, hướng đạo thù thắng và đi khắp nơi, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp không bị lệ thuộc, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát đối với các chỗ sanh không có sự mong cầu, con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát muốn thoát khỏi lưới của tất cả ác ma, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát có vui thích lớn, đầy đủ tinh tấn lớn, thường không buông lung, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát muốn đến bờ các pháp rốt ráo kia, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát muốn khéo đoạn diệt tất cả lưới nghi, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát đối với trí Phật chứng còn không kiêu mạn, không chấp, không đắm huống là đối với trí khác, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát vượt khỏi tất cả kiêu mạn chấp trước, có thể trụ trong chánh đạo, có khả năng hành chánh đạo, thuyết giảng chánh đạo, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu đại Bồ Tát nào luôn vì lợi ích cho tất cả hữu tình, mà làm cho được lợi ích, làm cho an lạc, giúp hữu tình được an ổn, thì con vì họ mà thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Bạch Thế Tôn! Con vì ban bố khắp cho tất cả hữu tình niềm an vui không nhiễm, niềm an vui vô thượng, niềm an vui vô bờ bến, niềm an vui của Niết bàn, niềm an vui của chư Phật, niềm an vui vô vi, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Con vì muốn đoạn hẳn các thứ lưới nghi, dây phiền não ràng buộc cho tất cả hữu tình, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Nếu chính con tự cắt đứt các thứ lưới nghi, dây phiền não ràng buộc, thì mới có thể như thật vì các hữu tình nói các pháp yếu, đoạn dứt lưới nghi, trừ dây phiền não. Vì sao? Vì tất cả hữu tình đều thích an vui, đồng chán nguy khổ, tất cả hữu tình đều tìm cầu an vui. Con hoàn toàn chẳng thấy có chút an lạc nào đáng mong cầu, chỉ trừ Bát nhã Ba la mật. Con hoàn toàn chẳng thấy có chút an vui nào đáng cầu, chỉ trừ đại Bồ Tát thừa.  (Q.593, ĐBN)

Con hoàn toàn chẳng thấy có chút an vui nào đáng cầu, chỉ trừ Đại thừa.

Con xem thấy nghĩa lợi như thế muốn ban bố cho hữu tình những sự an vui mầu nhiệm, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Con xem thấy chúng đại Bồ Tát được nghĩa lợi như thế, nên thưa hỏi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa, cúi xin Thế Tôn thương xót mà trả lời cho.

Phật bảo đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

- Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi có thể thương xót đại chúng sanh v.v… nên thưa Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác về Bát nhã Ba la mật sâu xa. Do duyên này ngươi được công đức vô lượng. Ngươi nên lắng nghe, suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ phân biệt, giảng nói cho ngươi.

Thiện Dũng Mãnh đáp:

- Bạch Thế Tôn! Hay thay! Cúi xin Thế Tôn giảng dạy, chúng con muốn nghe.

 

(Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?)

 

Phật bảo đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

- Những điều mà ngươi đã hỏi Thế Tôn ở trước đều là vì các đại Bồ Tát mà tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật. Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?

Các ngươi nên biết! Thật chẳng có chút pháp nào có thể gọi là Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật sâu xa vượt qua tất cả con đường danh ngôn. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bát nhã Ba la mật sâu xa thật không thể nói đây là Bát nhã Ba la mật. Cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật thuộc kia, không thể nói Bát nhã Ba la mật do kia, cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật từ kia. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì trí tuệ có thể thấu đạt thật tánh các pháp, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Trí tuệ của Như Lai còn không thể đắc, huống chi đắc Bát nhã Ba la mật.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là hiểu các pháp và biết các pháp nên gọi là Bát Nhã.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã hiểu các pháp ra sao?

Nghĩa là các pháp khác nhau, nên danh ngôn cũng khác nhau, nhưng tất cả pháp không lìa danh ngôn. Nếu hiểu các pháp hoặc biết các pháp đều bất khả thuyết, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà nói, nên gọi là Bát Nhã. Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là giả thi thiết. Do giả thi thiết nên gọi là Bát Nhã. Nhưng tất cả pháp chẳng thể thiết lập, không thể động chuyển, không thể giảng nói, không thể trình bày, biết như vậy gọi là như thật biết.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã đó không phải là biết, không phải không biết, không phải đây, không phải kia, nên gọi là Bát Nhã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy là sở hành của trí - sở hành phi trí, chẳng phải cảnh trí cùng cảnh phi trí, vì trí xa lìa tất cả cảnh.

Nếu trí là cảnh tức là phi trí, không từ phi trí mà được có trí.

Cũng không từ trí mà có phi trí, không từ phi trí mà có phi trí.

Cũng không từ trí mà được có trí, không do phi trí mà gọi là trí.

Cũng không do trí mà gọi là phi trí, không do phi trí mà gọi là phi trí.

Cũng không do trí mà gọi là trí, tức phi trí gọi là trí. Do đây tức trí gọi là phi trí. Trong đây, trí không thể hiển thị nên gọi là trí, không thể hiển thị thuộc về trí này, không thể hiển thị nguyên do của trí này, không thể hiển thị từ trí này, nên trong trí không có thật tánh trí, cũng không có thật trí trụ trong tánh trí.

Trí và tánh trí đều bất khả đắc, phi trí cùng tánh cũng lại như vậy, chắc chắn không do phi trí gọi là trí.

Nếu do phi trí gọi là trí thì tất cả phàm phu đều có trí.

Nếu có như thật đối với trí, phi trí đều không thể đắc (nhược hữu như thật ư trí phi trí câu sở đắc). Đối với trí, phi trí như thật biết khắp, đây gọi là trí. Nhưng thật tánh trí chẳng phải như đã nói. Vì sao? Vì thật tánh trí lìa ngôn ngữ. Trí chẳng phải cảnh của trí, chẳng phải cảnh phi trí. Vì trí vượt khỏi tất cả cảnh, không thể nói đây là cảnh của trí hay phi trí.

Thiện Dũng Mãnh! Đây gọi là như thật giảng nói tướng trí. Như vậy, tướng trí thật không thể nói, không thể hiển bày, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà trình bày. Kẻ trí cũng bất khả thuyết. Cảnh trí còn không có huống có kẻ trí. Nếu có thể như thật biết, như thật tùy ngộ thì gọi là Bát Nhã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có thể hiện quán tác chứng được như thế, thì gọi là Bát Nhã xuất thế. Bát Nhã xuất thế đã nói như vậy cũng bất khả thuyết. Vì sao? Vì thế gian còn không có huống là có xuất thế gian. Sự xuất còn không có huống chi là người xuất. Do đây, Bát Nhã xuất thế cũng không có. Vì sao? Vì hoàn toàn không đắc thế gian, xuất thế gian, người xuất và sự xuất, nên gọi là Bát Nhã xuất thế. Nếu có sở đắc thì không gọi là Bát Nhã xuất thế. Tánh của Bát Nhã này cũng bất khả đắc, vì xa lìa tánh khả đắc của hữu và vô.

Này Thiện Dũng Mãnh! Thế gian gọi là giả lập, không thể dựa vào thế gian giả lập mà thật có xuất thế. Nhưng vì ra khỏi các sự giả lập nên gọi xuất thế. Xuất thế đối với thế gian chẳng thật có xuất hay không xuất. Vì sao? Vì trong này hoàn toàn không có pháp xuất hay có thể xuất, nên gọi xuất thế. Xuất thế ấy không có thế gian và xuất thế gian. Không xuất không phải không xuất nên gọi xuất thế. Nếu như thật biết rõ như vậy gọi là Bát Nhã xuất thế. Như vậy, Bát Nhã chẳng phải như đã nói.

Vì sao? Vì Bát Nhã xuất thế vượt khỏi ngôn ngữ, tuy gọi xuất thế mà không có sự xuất, tuy gọi Bát Nhã mà không có sự biết. Sự xuất, sự biết bất khả đắc; hay xuất hay biết cũng bất khả đắc. Như thật biết như vậy gọi là Bát Nhã xuất thế. Do đây nên Bát Nhã vuợt ra tất cả. Thế nên gọi là Bát Nhã xuất thế.

 

(Sao gọi là thông đạt Bát Nhã?)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Đây cũng gọi là thông đạt Bát Nhã. Như vậy, thông đạt Bát Nhã là thế nào?

Nghĩa là Bát Nhã này không có sự thông đạt. Nếu Bát Nhã này có sự thông đạt tức là giả lập. Nếu là giả lập thì không gọi là Bát Nhã thông đạt. Nghĩa là đối với trong này hoàn toàn không có gì cả. Không có ở đây, không có ở kia, cũng không ở giữa, không có được thông đạt, không có bị thông đạt, không chỗ thông đạt, không thời thông đạt, không người thông đạt, nên gọi là thông đạt.

Lại ở trong này hoàn toàn vô sở hữu, không có người hành, không có nơi hành, không đây, không kia, cũng không ở giữa, nên gọi thông đạt, lại là thông đạt tuệ. Nói thông đạt là thông đạt tuệ. Thông đạt này hoàn toàn không sở hữu, không trên, không dưới, không chậm, không mau, không tiến, không lui, không qua, không lại nên gọi là thông đạt.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tuệ thông đạt là thông đạt cái gì? Nghĩa là có sự thấy hoàn toàn thông đạt.

Do cái gì thông đạt? Do Bát Nhã thông đạt.

Như vậy, Bát Nhã làm sao thông đạt? Là tướng giả lập mà có thông đạt. Các tướng giả lập tất cả là phi tướng. Như vậy, phi tướng gọi là tướng giả lập.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ai thành tựu Bát Nhã như vậy tức là có thể như thật thông đạt ba cõi. Như thật thông đạt ba cõi là thế nào? Nghĩa là không phải ba cõi gọi là ba cõi.

Vì sao? Vì trong này không có cõi để thông đạt. Thông đạt ba cõi tức chẳng phải cõi. Do thông đạt ba cõi nên gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã.

Thế nào là thành tựu thông đạt Bát Nhã? Là không có việc nhỏ nào mà không thông đạt hoàn toàn. Đối với tất cả việc hoàn toàn thông đạt nên gọi là thông đạt Bát Nhã. Như vậy, Bát Nhã đối với tất cả việc đều siêu việt. Nếu thành tựu Bát Nhã như vậy thì các điều thấy, nghe, ngửi, nếm, biết đều thông đạt.

Thông đạt cái gì? Nghĩa là vô thường, khổ, bệnh, ung nhọt, tên bắn, không, trở ngại, hại, khác, hoại, hoại pháp, động, mau diệt, không ngã, không sanh, không diệt, không tướng v.v…

Này Thiện Dũng Mãnh! Ai thông đạt như vậy thì gọi là an nhiên như giải được tên độc. Như có vị lương y giỏi trị được tên độc, chỗ bị tên bắn, ông ta đều có thể chữa lành, thuốc độc không còn tác hại nữa. Vì nhờ công lực của dược thảo mà trừ khử được hết. Nếu các Bí sô thành tựu được pháp giải tên độc này, gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã. Nếu đầy đủ sáu hằng tánh thông đạt Bát Nhã này, thì xa lìa tất cả nhiễm trước ba cõi, vượt khỏi lưới của tất cả ác ma(1).

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như Kim cương khoan được các vật, khoan chỗ nào cũng xuyên qua. Cũng vậy, nếu các Bí sô v.v… đạt được Kim cương dụ, do được tuệ thông đạt dung nạp, nên quán pháp gì cũng đều thông đạt. Tuệ thông đạt này được định Kim cương dụ bảo hộ, quán đến pháp nào cũng đều thông đạt. Nếu ai thành tựu trí tuệ thông đạt này, có thể xuất thế gian, diệt hết các khổ, dù đạt đến các khổ đã tận nhưng không bị đắm nhiễm. Tuệ thông đạt này cũng gọi là ba minh(2).

Này Thiện Dũng Mãnh! Gọi là minh là vĩnh viễn diệt trừ vô minh. Đây cũng gọi là biết khắp vô minh, cũng gọi là ý niệm diệt khổ uẩn.

Như vị lương y thông minh biết rộng, làm điều gì cũng xem xét rõ ràng, nhờ thế mà thành tựu trí tuệ giảo nghiệm vi diệu, biết rõ các thuốc, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, biết rõ bệnh tướng có thể chữa nhiều chứng bệnh khổ. Bất cứ bệnh tật nào cũng chữa lành. Vì sao? Vì người ấy thông thạo về thuốc, nguyên nhân, tướng trạng của bệnh, phương pháp hòa hợp thuốc, cho nên có thể trừ tất cả bệnh khổ. Nếu ai có thể thành tựu minh thứ ba (lậu tận minh), thì có thể diệt các vô minh, dứt tất cả khổ, trừ tất cả sanh, già, bệnh, chết và các pháp sầu than, khổ, ưu, não. Đây gọi là thông đạt Bát Nhã xuất thế.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta nương nghĩa này mật ý nói: Tất cả thế gian tuệ là hơn hết, nghĩa là thông đạt thật tánh các pháp. Nhờ chánh tri này làm cho chấm dứt sanh vào các cõi.

Sự chấm dứt sanh vào các cõi có ý nghĩa gì? Nghĩa là ý niệm thông đạt xuất và chìm. Vì sao gọi là thông đạt xuất và chìm? Nghĩa là hoàn toàn thông đạt các pháp có tập khởi đều có pháp tận diệt. Như vậy gọi là thông đạt xuất và chìm.

Này Thiện Dũng Mãnh! Xuất là ý niệm về sanh, chìm là ý niệm về diệt. Tuy là nói vậy như không nói có xuất hay có chìm.

Này Thiện Dũng Mãnh! Những gì tập khởi chẳng thật có pháp xuất. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì tập khởi là bình đẳng xuất, chẳng phải bình đẳng có xuất, cũng chẳng phải có chìm; bình đẳng tùy khởi nên gọi là tập khởi. Bình đẳng tùy khởi là trong này không có xuất, không có chìm. Như vậy, tự thể tự nhiên tan hoại gọi là diệt. Trong đó không có vật gì cả nên nói là diệt, nghĩa là vô gián diệt; không phải ở đây sanh ra là nơi đây có diệt, nên nói là diệt, mà không sanh cũng gọi là diệt. Như vậy, thông đạt hoặc xuất, hoặc chìm, không sanh, không diệt nên gọi là thông đạt hoặc xuất hoặc chìm.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói thông đạt là có thể biết khắp về các duyên khởi, do các duyên mà các pháp được khởi, nên gọi là duyên khởi. Như vậy, duyên khởi hoàn toàn vô sở hữu, nên gọi là sự thông đạt duyên khởi. Đây gọi là biết khắp duyên khởi. Nghĩa là có thể hiểu rõ như thật không khởi, vì không khởi nên gọi là duyên khởi. Bình đẳng không khởi nên gọi là duyên khởi, với chỗ này khởi còn không có, huống chi có diệt. Tùy sự hiểu rõ duyên khởi hoặc thuận, hoặc trái đều bất khả đắc. Vì không đẳng khởi nên gọi là duyên khởi; nếu không đẳng khởi thì không có sanh; nếu không có sanh thì không có quá khứ, cũng không có đã sanh. Nếu không có quá khứ, cũng không có đã sanh, thì không có diệt; nếu không có diệt tức vô sanh trí. Do vô sanh trí nên không sanh cũng không chứng diệt. Do vô sanh nên cũng không diệt. Do có sanh nên thiết lập có diệt, đã không có sanh nên không có diệt. Đối với tất cả pháp thấy biết, thông đạt tác chứng như vậy gọi là tận trí.

Thiện Dũng Mãnh! Tận trí là chấm dứt sự vô tri nên gọi là tận trí. Thế nào gọi là tận? Là do không tận nên gọi là tận, không thấy có pháp nào để gọi là tận; nhưng lìa vô tri nên gọi là tận trí. Tức là chấm dứt vô tri gọi là tận trí, biết khắp tất cả pháp vô tri nên gọi là chấm dứt vô tri. Do chấm dứt vô tri nên gọi là tận trí, chẳng phải pháp vô tri có tận, không tận; nhưng lìa vô tri nên gọi là tận trí, như thật biết khắp. Pháp vô tri này hoàn toàn vô sở hữu, nên gọi là lìa. Như vậy, do trí biết pháp vô tri, không riêng biệt, có thể đắc nên gọi là xa lìa vô tri; nhưng pháp vô tri thật bất khả đắc. Trí còn không có huống là có vô tri.

Nếu người có thể tận đắc giải thoát thì gọi là tận trí. Tuy nói như vậy mà như không nói. Đã có trí tận thì hoàn toàn không thể nói, chỉ là giả danh. Nên nói chấm dứt vô tri cũng gọi là tận trí. Nếu đem vô tận tận trí mà xem xét các pháp, thì tận trí cũng không. Nếu biết như vậy liền lìa tận trí, cho đến bờ vô tận. Bờ vô tận này tức là không bờ, cũng là bờ Niết bàn. Tuy nói như vậy mà như không nói.

Vì tất cả pháp đều là không bờ, cũng là bờ Niết bàn, các bờ dứt hẳn gọi là Niết bàn. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì bờ Niết bàn lìa ngôn ngữ, tất cả ngôn ngữ trong ấy hoàn toàn dứt hẳn.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như Lai tuy nói cõi Niết bàn, mà như không nói. Vì cõi Niết bàn hoàn toàn không thể nói, vượt tất cả sự nói. Trong cõi Niết bàn dứt hẳn các lời nói. Nếu nói tướng cõi Niết bàn như thế, tức là nói tướng thông đạt Bát Nhã xuất thế.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải Niết bàn có thể nói phương xứ ở đây, ở kia. Nên Niết bàn thật không thể nói.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sao trong này gọi là Bát nhã Ba la mật sâu xa?

Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải Bát nhã Ba la mật này có thể đắc một phần nhỏ xa bờ kia.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bát nhã Ba la mật này có một phần nhỏ nào xa bờ kia, thì Như Lai nói Bát nhã Ba la mật sâu xa có xa bờ kia.

Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải Bát nhã Ba la mật này có xa được, nên không nói đây có bờ kia(3).

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật này nghĩa là tác nghiệp diệu trí, rốt ráo đến bờ kia của tất cả pháp, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Tuy nói như vậy mà như không nói.

Vì sao? Vì chẳng phải ngữ, chẳng phải nghiệp, có thể dẫn đến Bát nhã Ba la mật.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thể nói được.

 

(Thế nào là Bồ đề?)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật tùy sự hiểu rõ các pháp, nếu có thể tùy sự hiểu rõ tức trái với giác ngộ. Vì sao? Vì trong đây không có vật để gọi là tùy sự hiểu rõ. Tùy sự hiểu rõ không, nên giác ngộ cũng không. Tức là đối với các pháp không thông đạt nghĩa, tùy sự hiểu rõ thông đạt pháp tánh bình đẳng là Bồ đề. Tùy sự hiểu rõ các pháp nên gọi là Bồ đề. Làm sao có thể tùy sự hiểu rõ các pháp, vì trong đây không có vật để gọi Bồ đề, nên đối với trong đây cũng không có tùy sự hiểu rõ.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì nếu có đắc được chút phần Bồ đề nào, tức là trong Bồ đề đắc Bồ đề. Nhưng trong Bồ đề không có Bồ đề, nên nghĩ như vậy là hiện chứng Bồ đề. Vì chẳng tùy sự hiểu rõ, chẳng thông đạt nên gọi là giác ngộ. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì tất cả pháp không thể tùy sự hiểu rõ, không thể thông đạt. Lại pháp và phi pháp đều không có tự tánh, do giác ngộ lý này nên gọi là Bồ đề.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể đắc Bồ đề. Không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể rõ Bồ đề. Vì như thật Bồ đề không thể rõ, không thể nêu ra, không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sanh Bồ đề, vì tánh Bồ đề không sanh, không khởi.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói Bồ đề là không có sự ràng buộc, chẳng phải trong Bồ đề có chút hữu tình, thiết lập hữu tình. Ở trong Bồ đề không có hữu tình, thiết lập hữu tình. Tại sao nói Tát đỏa(4) là sở hữu Bồ đề, mà không nói Bồ đề Tát đỏa của Bát nhã Ba la mật?

Này Thiện Dũng Mãnh! Không phải trong Bồ đề có thể đắc Bồ đề, chẳng phải trong Bồ đề có thể đắc Tát đỏa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bồ đề siêu việt, Bồ đề không sanh, Bồ đề không khởi, Bồ đề không tướng. Không phải trong Bồ đề có tánh Tát đỏa, không phải trong Bồ đề có thể đắc Tát đỏa. Không do Tát đỏa thiết lập Bồ đề, không do Bồ đề thiết lập Tát đỏa. Vì tùy sự hiểu rõ Tát đỏa không có tự tánh nên gọi là Bồ đề, biết trong Bồ đề thật không có Tát đỏa, nên gọi là Bồ đề Tát đỏa.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Bồ đề Tát đỏa không phải tưởng Tát đỏa hiện bày. Trừ tưởng Tát đỏa nên gọi là Bồ đề. Tuy nói như vậy mà như không nói.

Vì sao? Vì Bồ đề Tát đỏa lìa ngôn ngữ. Bồ đề Tát đỏa lìa tánh Tát đỏa. Bồ đề Tát đỏa lìa tưởng Tát đỏa, biết Bồ đề như vậy nên gọi là Bồ Tát.

Làm sao Bồ Tát có thể biết Bồ đề? Nghĩa là biết Bồ đề siêu việt tất cả, Bồ đề không tạo, Bồ đề không sanh, Bồ đề không diệt. Không phải tánh Bồ đề có thể rõ Bồ đề. Cũng không phải Bồ đề hiển bày, không thể hiện rõ, không thể thiết lập, không thể dẫn chuyển, nên gọi là Bồ đề. Nếu không thể trái ngược tùy sự hiểu rõ, thông đạt, không phân biệt, dứt hẳn phân biệt thì gọi là Bồ đề Tát đỏa. Tuy nói như vậy mà như không nói.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bồ đề Tát đỏa không thể đắc vậy. Nếu Bồ đề Tát đỏa có thể đắc, tức đắc đây là Bồ đề, đây thuộc Bồ đề, đây là Tát đỏa, đây thuộc Tát đỏa; nhưng không thể nói đây là Bồ đề, đây thuộc Bồ đề, cũng không thể nói đây là Tát đỏa, đây thuộc Tát đỏa. Vì có thể tùy sự hiểu rõ thật không có Tát đỏa. Không có tánh Tát đỏa, lìa tánh Tát đỏa nên gọi là Bồ Tát. Do không có Tát đỏa, trừ tưởng Tát đỏa nên gọi là Bồ Tát.

 

(Tất cả từ, tất cả ngữ liên kết như một mắc xích, từ trí đến phi trí, từ vô trí đến tận trí, từ Bồ đề đến Tát đỏa liên hoàn không kẽ hở. Nhưng đó không phải là một chuỗi dài lý luận, mà đó là chứng trí của chư Phật. Nhưng Phật trí (Bát Nhã) là bất khả tư nghì, ngôn ngữ thế gian không thể giảng nói trực tiếp. Nên phải đi vòng vòng, phải đi vòng quanh).

 

(Thế nào là hữu tình?)

 

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Cõi hữu tình tức là khái niệm không thật có hữu tình. Chẳng phải trong hữu tình có tánh hữu tình. Hữu tình không có nên gọi là cõi hữu tình. Nếu trong hữu tình có tánh hữu tình thì không nói là cõi hữu tình. Cõi hữu tình ấy tức là hiện không cõi. Vì cõi hữu tình không có tánh cõi. Nếu cõi hữu tình có tánh cõi thì phải thật có mạng, tức là thân. Nếu cõi hữu tình lìa tánh cõi mà có, thì phải thật có mạng, tức là có thân khác. Nhưng cõi hữu tình không thật tánh cõi, chỉ do thế tục giả nói là cõi. Không phải trong cõi hữu tình có tánh cõi, cũng không phải trong tánh cõi có cõi hữu tình. Không phải tánh cõi là cõi hữu tình, không phải lìa tánh cõi có cõi hữu tình. Vì tất cả pháp không có tánh cõi. (Q.593, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta nương nghĩa này, mật ý nói các cõi hữu tình không thể thiết lập có đầy có vơi.

Vì sao? Vì cõi hữu tình không có tánh, cõi hữu tình lìa tánh. Như vậy, cõi hữu tình không thể thiết lập có đầy có vơi. Các pháp cũng vậy, không thể thiết lập có đầy có vơi. Vì tất cả pháp đều không thật tánh, không thể nói có đầy có vơi. Nếu có thể tùy sự hiểu rõ các pháp như thế, tức gọi là tùy sự hiểu rõ Phật pháp. Ta nương nghĩa này, mật ý nói như cõi hữu tình không thể thiết lập có đầy có vơi. Các pháp cũng vậy, không thể thiết lập có đầy có vơi. Nếu tất cả pháp không đầy không vơi, thì lấy không chơn thật làm phương tiện, tức là Phật pháp không vơi không đầy. Như vậy, tùy sự hiểu rõ tất cả pháp, tức gọi Phật pháp không đầy không vơi. Vì tất cả pháp không đầy không vơi nên gọi là Phật pháp. Phật pháp tức không phải khái niệm Phật pháp, chẳng phải Phật pháp có vật khiến có thể đầy hoặc vơi được.

Vì sao? Vì tùy sự hiểu rõ tất cả pháp, nếu có thể tùy sự hiệu rõ tánh tất cả pháp, thì trong ấy không có pháp hoặc đầy hoặc vơi. Tất cả pháp ấy, nên biết là ý niệm pháp giới. Không phải pháp giới ấy có đầy có vơi.

Vì sao? Vì pháp giới kia không có bờ bến, chẳng phải hữu tình giới và pháp giới kia sai khác có thể đắc; không phải hữu tình giới và pháp giới kia hoặc đầy hoặc vơi, hoặc đắc hoặc mất. Tùy sự hiểu rõ như vậy tức gọi là Bồ đề. Do đây nên nói không phải Phật pháp có thể đắc, có thể thiết lập có đầy có vơi.

 

(Thế nào gọi là Bồ đề?)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Không có tánh đầy vơi. Nếu người có thể như thật không phân biệt gọi là người thấy như thật. Chẳng phải ở trong đây có lấy có bỏ, tùy sự hiểu rõ như vậy gọi là Bồ đề.

Thiện Dũng Mãnh! Bồ đề tức là tướng Phật. Sao gọi là tướng Phật? Nghĩa là tất cả tướng rốt ráo vô tướng tức là tướng Phật.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì rốt ráo vô tướng cùng tướng Bồ đề là xa lìa tự tánh. Như vậy, tùy sự hiểu rõ gọi là Bồ đề. Tuy nói như vậy mà như không nói gì.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Cần có thể tùy sự hiểu rõ pháp như thế, nên gọi là Bồ đề. Nếu có Bồ Tát nào thật không biết rõ pháp tánh như vậy mà bảo ta có thể hiểu rõ, tự xưng là Bồ Tát. Phải biết người ấy xa bậc Bồ Tát, xa pháp Bồ Tát, đem danh Bồ Tát dối gạt trời, người, A tu la v.v…

 

(Thế nào là hữu tình, thế nào là Bồ Tát, thế nào là Bồ đề?)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu chỉ dùng lời dối tự xưng là Bồ Tát, thì chẳng lẽ tất cả hữu tình dối gạt đều là Bồ Tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không phải chỉ lời dối gạt bậc Bồ Tát, được pháp Bồ Tát, chẳng do lời nói mà chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Không do ngữ nghiệp tự xưng danh mà liền được Bồ đề. Cũng không do lời tự xưng danh bậc Bồ Tát, được pháp Bồ Tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tất cả hữu tình hành hạnh Bồ đề, không biết, không hiểu thật tánh các pháp, thì không gọi là Bồ Tát.

Vì sao? Vì chẳng biết hữu tình, chẳng phải hữu tình vậy. Nếu biết hữu tình chẳng phải tánh hữu tình là hành hạnh Bồ đề, nên thành Bồ Tát. Nhưng do các hữu tình điên đảo, không thể hiểu rõ việc làm của mình, cảnh giới của mình, hành xứ của mình. Nếu như thật biết rõ việc làm của mình, thì hành không còn phân biệt. Bởi hành phân biệt, nên tất cả phàm phu ngu si duyên cảnh hư dối, khởi hành điên đảo. Cũng duyên Bồ đề mà khởi kiêu mạn chấp trước. Vì họ duyên vọng cảnh, sanh ra điên đảo kiêu mạn, hành hạnh phân biệt nên không thể đắc pháp của Bồ Tát, huống là đắc Bồ đề. Nếu ai có thể biết rõ pháp ấy như vậy, thì chẳng còn khởi hành duyên hư dối, cũng không còn duyên các pháp sanh kiêu mạn. Đây gọi là Bồ Tát hành nơi vô hành.

Bồ Tát không nên do phân biệt mà khởi hành phân biệt. Nếu ở chỗ không có sở phân biệt, thì không phải chỗ này mà có sở hành. Nếu chỗ này không khởi phân biệt, thì không phải chỗ này lại có sở hành. Chư Phật Bồ Tát đối với tất cả hành không có sự phân biệt mà tu hành. Tất cả kiêu mạn rốt ráo không khởi, Bồ Tát biết tất cả pháp như vậy. Đối với tất cả pháp không còn dính mắc, không còn phân biệt, không dạo, không đi. Như vậy, gọi là chơn Bồ Tát hạnh, lấy vô sở hành làm phương tiện. Nếu các Bồ Tát có thể hành như thế thì gọi là Bồ Tát chơn hạnh.           

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì có thể tùy sự hiểu rõ các pháp, thông đạt các pháp nên gọi là Bồ Tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nên biết không hữu tình tức là ý niệm Bồ Tát. Vì có thể từ bỏ tất cả tưởng.

Vì sao? Vì có thể rõ suốt tất cả hữu tình chẳng thật hữu tình.

Tất cả hữu tình đều không phải hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là điên đảo chấp trước hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là biến kế sở chấp hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là hư dối sở duyên hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là bại hoại tự hành hữu tình.

Tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Nếu pháp của tất cả hữu tình, chẳng có các loài hữu tình tạo tác pháp kia, thì gọi là vô minh duyên hành hữu tình.

Pháp nào không có? Nghĩa là chấp ta, chấp của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu, pháp đó chẳng có. Nếu có pháp đó thì tất cả hữu tình đều chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp kia là nắm giữ, bám víu, nên cho là thật có, không gọi hư dối. Không có pháp đó mà các hữu tình vọng chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu đều không thật có, đều là hư dối, nên nói thế này: Tất cả hữu tình không thật hữu tình, tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không phải hữu tình là có chút thật pháp có thể chấp là ta, hoặc chấp là của ta, hoặc là nắm giữ hai chấp ấy, bám víu đều không thật pháp. Nên nói tất cả hữu tình là không thật hữu tình; nên biết không hữu tình ấy là khái niệm chẳng thật. Nói chẳng thật ấy phải biết đó là khái niệm không phải hữu tình, như trong tưởng không thật hữu tình, tất cả hữu tình vọng chấp là thật; nên nói tất cả hữu tình không thật hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói không thật ấy là đối với trong này không thật, không khởi. Vì tất cả pháp đều là không chơn thật, cũng không phát khởi. Hữu tình trong này do hư dối chấp trước mà tự ràng buộc. Nên có thể nói tất cả hữu tình đều là hư dối, duyên theo hữu tình, họ đối với việc làm của mình không thể hiểu rõ, nên nói là không thật hữu tình. Tức là trong nghĩa này phải giác ngộ viên mãn cùng khắp. Nếu họ đối với các hành có giác ngộ viên mãn cùng khắp, thì biết người ấy gọi là Bồ Tát. (Hết Q.593, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)

 

Thích nghĩa:

(1). Nguyên văn đoạn Kinh này bằng chữ Hán như sau: nhược năng thông đạt thị tắc danh vi thanh lương ly tiễn như hữu lương dược danh viết ly tiễn tùy sở trước xứ chúng tiễn giai trừ độc dược ư trung đắc trụ giả thử dược uy lực sở bức khiển cố như thị nhược hữu chư Bật đẳng. thành tựu thử pháp thanh lương ly tiễn sở vị thành tựu thông đạt Bát Nhã cụ lục hằng trụ thông đạt Bát Nhã viễn ly nhất thiết  Tam Giới nhiễm trước siêu việt nhất thiết ác ma quyến võng” 

Nguyên văn bản dịch của Quangduc.com là:

“Ai thông đạt như vậy thì gọi là mát mẻ, như xa lìa tên bắn. Như có vị lương y giỏi được mệnh danh là lìa mũi tên. Những chỗ bị tên bắn, ông ta đều có thể chữa lành, thuốc độc không còn trong vết thương. Vì nhờ công lực của dược thảo mà trừ khử được hết. Nếu các Bí sô thành tựu được pháp mát mẻ lìa mũi tên này, gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã. Nếu đầy đủ sáu hằng tánh thông đạt Bát Nhã, thì xa lìa tất cả nhiễm trước ba cõi, vượt khỏi lưới của tất cả ác ma”.

Chúng tôi phỏng dịch là: “Này Thiện Dũng Mãnh! Ai thông đạt như vậy thì được coi là an ổn như người thoát tên độc. Như có vị lương y giỏi trị được tên độc, chỗ bị tên bắn, ông ta đều có thể chữa lành, thuốc độc không còn tác hại nữa. Vì nhờ công lực của dược thảo mà trừ khử được hết. Nếu các Bí sô thành tựu được pháp giải này, gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã. Nếu đầy đủ sáu hằng tánh thông đạt Bát Nhã này, thì xa lìa tất cả nhiễm trước ba cõi, vượt khỏi võng ma”.

 (2). Ba minh hay tam minh: (三明) Phạm: Tri-vidya. Pàli: Ti-vijjà.  Cũng gọi Tam đạt, Tam chứng pháp. Trí tuệ sáng tỏ, thông đạt vô ngại, trừ hết ngu muội, chứng được vị Vô học. Tam minh gồm có: 1/. Túc mệnh trí chứng minh (Phạm: Pùrva-nivàsànusmfti-jĩàna-sàkwàtkriya-vidỳa); cũng gọi Túc trụ tùy niệm trí tác chứng minh, Túc trụ trí chứng minh, Túc trụ trí minh, Túc mệnh minh, Túc mệnh trí: Trí tuệ biết rõ tướng trạng của mình và chúng sinh từ một đời cho đến trăm nghìn vạn ức đời. 2/. Sinh tử trí chứng minh (Phạm: Cyuty-upapattì-jĩàna-sàkwàt-kriyavidỳa), cũng gọi Sinh tử trí chứng minh, Thiên nhãn minh, Thiên nhãn trí: Trí tuệ biết rõ tướng trạng sống chết của chúng sinh lúc tử lúc sinh, sắc thiện sắc ác, hoặc do nhân duyên tà pháp thành tựu ác hạnh, khi mệnh chung sinh vào đường ác; hoặc do nhân duyên chính pháp thành tựu thiện hạnh, khi mệnh chung sinh vào đường thiện... 3/. Lậu tận trí chứng minh (Phạm: Àsrava-kwaya-jĩàna-sàkwàt-kriyavidỳa), cũng gọi Lậu tận trí minh, Lậu tận minh, Lậu tận trí: Trí tuệ biết rõ như thực đã chứng được lý Tứ đế, giải thoát tâm hữu lậu, diệt trừ tất cả phiền não. (Tóm lược Từ điển Phật Quang).

(3). Bờ này bờ kia ý nói bờ mê bến giác, bỉ ngạn thử ngạn.

(4). Tát đỏa: Sattva (S), Being, Satta (P)Hữu tình, hữu thức, hàm sanh, chúng sanh; Vật có sanh mạng, chúng sanh trong thập đạo, trong lục giới. (Từ điển Phật học Việt Anh - Minh Thông).

Lưu ý: Đôi khi các từ này đã được chúng tôi giải thích rồi. Sở dĩ, ở đây lặp lại, vì chúng tôi tìm thấy lối giải thích sau thú vị hay rõ nghĩa hơn.

 

Thay lời lược giải:

 

Điểm đáng ghi nhớ của quyển thứ 593 là lời Phật thuyết về “Bát nhã Ba la mật”: Thế nào gọi là Bát nhã Ba la mật? Làm sao thông đạt Bát Nhã? Thế nào là trí và thế nào là tận trí? Thế nào là Bồ Tát, là Bồ đề, là Bồ đề Tát đỏa và thế nào là hữu tình?

 

1. Thế nào gọi là Bát Nhã?

 

Câu hỏi này được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần và hầu hết câu trả lời đều gần như khác nhau. Sở dĩ, khác nhau là vì Bát Nhã mênh mông vi diệu, nên có thể diễn nói nhiều cách, nhưng ngôn ngữ bị giới hạn không thể diễn nói luận bàn hết được, phải diễn nói nhiều lần. Nên trong nhiều đoạn Kinh thường bảo Bát Nhã không thể diễn nói luận bàn v.v... Quyển 593, phần “Bát Nhã Ba La Mật” này, Phật nói với Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

“... Sao gọi là Bát nhã Ba la mật? Các ngươi nên biết! Thật chẳng có chút pháp nào có thể gọi là Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật sâu xa vượt qua tất cả con đường danh ngôn. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bát nhã Ba la mật sâu xa thật không thể nói đây là Bát nhã Ba la mật, cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật thuộc kia, không thể nói Bát nhã Ba la mật do kia, cũng không thể nói Bát nhã Ba la mật từ kia. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì trí tuệ có thể thấu đạt thật tánh các pháp, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Trí tuệ của Như Lai còn không thể đắc, huống chi đắc Bát nhã Ba la mật.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là hiểu các pháp và biết các pháp nên gọi là Bát Nhã.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã hiểu các pháp ra sao?

Nghĩa là các pháp khác nhau, nên danh ngôn cũng khác nhau, nhưng tất cả pháp không lìa danh ngôn. Nếu hiểu các pháp hoặc biết các pháp đều bất khả thuyết, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà nói, nên gọi là Bát Nhã.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy nghĩa là giả thi thiết. Do giả thi thiết nên gọi là Bát Nhã. Nhưng tất cả pháp chẳng thể thiết lập, không thể động chuyển, không thể giảng nói, không thể trình bày, biết như vậy gọi là như thật biết.

Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã đó không phải là biết, không phải không biết, không phải đây, không phải kia, nên gọi là Bát Nhã.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát Nhã ấy là sở hành của trí, sở hành phi trí, chẳng phải cảnh trí cùng cảnh phi trí, vì trí xa lìa tất cả cảnh.

Nếu trí là cảnh tức là phi trí, không từ phi trí mà được có trí.

Cũng không từ trí mà có phi trí, không từ phi trí mà có phi trí.

Cũng không từ trí mà được có trí, không do phi trí mà gọi là trí.

Cũng không do trí mà gọi là phi trí, không do phi trí mà gọi là phi trí.

Cũng không do trí mà gọi là trí, tức phi trí gọi là trí. Do đây tức trí gọi là phi trí. Trong đây, trí không thể hiển thị nên gọi là trí, không thể hiển thị thuộc về trí này, không thể hiển thị nguyên do của trí này, không thể hiển thị từ trí này, nên trong trí không có thật tánh trí, cũng không có thật trí trụ trong tánh trí.

Trí và tánh trí đều bất khả đắc, phi trí cùng tánh cũng lại như vậy, chắc chắn không do phi trí gọi là trí.

Nếu do phi trí gọi là trí thì tất cả phàm phu đều có trí.

Nếu có như thật đối với trí, phi trí đều không thể đắc (nhược hữu như thật ư trí phi trí câu sở đắc). Đối với trí, phi trí như thật biết khắp, đây gọi là trí. Nhưng thật tánh trí chẳng phải như đã nói. Vì sao? Vì thật tánh trí lìa ngôn ngữ. Trí chẳng phải cảnh của trí, chẳng phải cảnh phi trí. Vì trí vượt khỏi tất cả cảnh, không thể nói đây là cảnh của trí hay phi trí.

Thiện Dũng Mãnh! Đây gọi là như thật giảng nói tướng trí. Như vậy, tướng trí thật không thể nói, không thể hiển bày, nhưng theo sự hiểu biết của hữu tình mà trình bày. Kẻ trí cũng bất khả thuyết. Cảnh trí còn không có huống có kẻ trí. Nếu có thể như thật biết, như thật tùy ngộ thì gọi là Bát Nhã”.

Bát nhã Ba la mật vượt qua danh ngôn thế tục, không thể nói đây là Bát Nhã, cũng không thể nói thuộc kia, cũng không thể nói do đây hay từ đây, do kia hay từ kia mà có Bát Nhã. Trí tuệ có thể hiểu và biết các pháp thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì do tu luyện tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, nhất là lục Ba la mật đến một lúc nào đó chín mùi nứt vỡ thì Nhất thiết trí trí, vô trước trí, tự nhiên trí, vô đẳng trí, vô đẳng đẳng trí, vô thượng trí, vô thượng thượng trí, vô tận trí, vô sư trí, hậu đắc trí... tự nhiên xuất hiện. Trí này cho phép hiểu và biết thật tánh của tất cả các pháp. Nhưng các pháp khác nhau, nên danh ngôn cũng khác, nhưng tùy theo sự hiểu biết của hữu tình mà nói, nên gọi là Bát Nhã.

Vậy, Bát Nhã cũng chỉ là giả thi thiết. Do giả thi thiết nên gọi là Bát Nhã. Nhưng tất cả pháp chẳng thể thiết lập, không thể giảng nói, không thể trình bày, biết như vậy gọi là như thật biết.

Tiếp theo đó là một tràng thuyết giảng về thực chứng của trí này để nói lên chỗ ngộ, chỗ tùy ngộ của chư Phật. Tùy ngộ có nghĩa đối với trí, phi trí như thật biết khắp, đây gọi là trí. Ở đây không phải là lý luận mà ở đây nói lên sở ngộ, chỗ ngộ, chỗ chứng biết khắp, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Đó là chỗ thâm sâu siêu xuất, không thể dùng ngôn ngữ thế gian diễn nói được. Trí Bát Nhã chỉ có người đã ngộ nhập, thông đạt hay tự chứng mới có thể giảng nói, còn phàm phu không thể nào nói năng luận bàn. Vì vậy, nên gọi là trí xuất thế.

Nhưng còn nói năng đắc sở đắc thì cũng chẳng khế hợp Bát Nhã. Ngôn ngữ thế gian không đủ để diễn tả trí này. Nên tất cả những gì được nói ra đây chỉ là thi thiết hay giả lập. Không có thi thiết, không có giả lập thì không có Phật, không có Bát nhã Ba la mật, không có Nhất thiết trí trí.

 

2. Thế nào là thông đạt Bát Nhã?

 

Lại là một câu hỏi mắc mỏ nữa! Đây là vấn đề chính, vấn đề sinh tử của hành giả Bát Nhã, mục đích là Giác ngộ, đạt huệ và sang được bờ kia hay nói khác là đắc Bát Nhã hay Nhất thiết trí trí. Một khi đắc được trí này thì có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh quốc độ. Nhưng câu hỏi được đặt ra trong phần này là: Nếu cái gì cũng không, thì làm sao thông đạt Bát Nhã?

Quyển 593, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI, ĐBN. Nói rằng:

“Nghĩa là Bát Nhã này không có sự thông đạt. Nếu Bát Nhã này có sự thông đạt tức là giả lập. Nếu là giả lập thì không gọi là Bát Nhã thông đạt. Nghĩa là đối với trong này hoàn toàn không có gì cả. Không có ở đây, không có ở kia, cũng không ở giữa, không có được thông đạt, không có bị thông đạt, không chỗ thông đạt, không thời thông đạt, không người thông đạt, nên gọi là thông đạt.

Lại ở trong này hoàn toàn vô sở hữu, không có người hành, không có chốn hành, không đây, không kia, cũng không ở giữa, nên gọi thông đạt, lại là thông đạt tuệ. Nói thông đạt là thông đạt tuệ. Thông đạt này hoàn toàn vô sở hữu, không trên, không dưới, không chậm, không mau, không tiến, không lùi, không qua, không lại nên gọi là thông đạt.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tuệ thông đạt là thông đạt cái gì? Nghĩa là có cái thấy hoàn toàn thông đạt.

Do cái gì thông đạt? Do Bát Nhã thông đạt.

Bát Nhã làm sao thông đạt? Là tướng giả lập mà có thông đạt. Các tướng giả lập tất cả là phi tướng. Như vậy, phi tướng gọi là tướng giả lập.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ai thành tựu Bát Nhã như vậy tức là có thể như thật thông đạt ba cõi. Như thật thông đạt ba cõi là thế nào? Nghĩa là không phải ba cõi gọi là ba cõi.

Vì sao? Vì trong này không có cõi để thông đạt. Thông đạt ba cõi tức chẳng phải cõi. Do thông đạt ba cõi nên gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã.

Thế nào là thành tựu thông đạt Bát Nhã? Là không có việc nhỏ nào mà không thông đạt hoàn toàn. Đối với tất cả việc hoàn toàn thông đạt nên gọi là thông đạt Bát Nhã. Như vậy, Bát Nhã đối với tất cả việc đều siêu việt. Nếu thành tựu Bát Nhã như vậy thì những điều thấy, nghe, ngửi, nếm, biết đều thông đạt”.

Trước tiên, Bát Nhã nói: Không có ở đây, không có ở kia, cũng không ở giữa, không có sự thông đạt, không bị thông đạt, không chỗ thông đạt, không thời thông đạt, không người thông đạt. Tất cả đều giả lập... tất cả đều rỗng không! Nếu như thật hiểu như thế tức là thông đạt, thông đạt tuệ. Cái gì không thể hiểu, không thể biết, không thể nghĩ tưởng nổi; muốn cho người khác hiểu biết, nghĩ tưởng nổi thì chỉ còn cách là thí dụ, giả lập hay thi thiết. Không có giả lập, không có thi thiết thì không thể hiểu tất cả pháp. Đó là phương cách giải thích của Phật. Trước khi Phật xuất hiện, không ai biết đến ba cõi: Dục, Sắc và Vô sắc là gì? Phật thi thiết có ba cõi, chúng sanh luân hồi không thoát khỏi ba cõi này. Nhờ Phật giả nói do có tội chướng mà chúng sanh phải lặn hụp trong ba cõi, nên chúng ta biết được ba cõi. Nhưng, chẳng có ba cõi, nhờ giả lập mà chúng ta biết ba cõi. Ba cõi cũng không.

 Vậy, câu nói: Tất cả đều giả lập... tất cả đều rỗng không! Nếu như thật hiểu như thế tức là thông đạt, thông đạt tuệ. Không có gì bí ẩn ở đây. Rốt ráo, tất cả là giả nói, rỗng không, chẳng có gì thông đạt ở đây, hiểu như vậy là thông đạt tuệ! Hiểu thế nào là giả nói, giả thi thiết thì đó chính là thông đạt tuệ. Thật khó nuốt, khó tiêu hóa! Nhưng đó là đường lối của Bát Nhã, của Đại thừa, hiểu như thế là thông đạt tuệ.

Ghi nhớ thuộc ký ức tức phải qua trung gian của thức. Nhưng ký ức chỉ có thể cất giữ trong một thời gian ngắn, rồi lần lần tàn lụn với thời gian. Còn thâm hiểu, thông đạt tức khắc bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào nó là tuệ, tuệ không cần nhớ, không cần kêu gọi đến ký ức, nó trở thành máu mủ trong tự thể, sẵn sàng phát chiếu. Nó là một thứ trực giác thực chứng không qua trung gian của bất cứ thứ gì. Biết liền biết, bén nhạy, nhanh chóng như tia điện chớp. Đó là cái diệu dụng hiện tiền của tuệ. Còn chần chừ so đo, suy nghĩ là sai, đó là thức. Thức thì không bao giờ vói tới huệ nổi. Muốn với tới tuệ thì phải có sự chuyển y và sự chuyển y này bắt nguồn từ Bát Nhã. Vì vậy, mới nói Bát Nhã không biết, nhưng không có gì chẳng biết.

Phần sau của đoạn kinh này cho chúng ta cái nhìn cụ thể hơn: Căn cứ vào cái gì mà nói là thông đạt? Căn cứ vào Bát Nhã nên nói là thông đạt. Hay nói khác là nhờ Bát Nhã biết khắp, biết hoàn toàn, nên nói là thông đạt. Biết khắp dù bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào, nên nói Bát Nhã đối với tất cả đều siêu việt. Nếu tu tập và thành tựu Bát Nhã đến mức siêu việt như thế, thì thấy nghe nếm ngửi... đều là mắt tuệ Phật, nên nói là thông đạt tuệ.

Ở đây không cần biết, không cần tưởng hay phi tưởng mà nói là thông đạt. Chỉ cần biết Bát Nhã biết khắp, biết hoàn toàn không trừ bất cứ chi tiết nhỏ nhặt nào, siêu xuất khắp trần gian, thì được xem là thông đạt: Biết hết tất cả vô minh thì hết vô minh, biết hết tất cả trí thì được vô tận trí. Đó là thông đạt, thông đạt tuệ.

Và thông đạt này dĩ nhiên phải xuyên qua Trí Bát Nhã, không qua bất cứ phương tiện trung gian nào khác. Cũng vậy siêu xuất khắp trần gian, nên giả lập nói là xuất thế gian.

 

Cũng cùng đoạn kinh trên, Phật thuyết tiếp:

“Thông đạt cái gì? Nghĩa là vô thường, khổ, bệnh, ung nhọt, tên bắn, không, trở ngại, hại, khác, hoại, động, mau diệt, không ngã, không sanh, không diệt, không tướng v.v…

Này Thiện Dũng Mãnh! Ai thông đạt như vậy thì gọi là tự nhiên như giải được tên độc. Như có vị lương y giỏi trị được tên độc, chỗ bị tên, ông ta đều có thể chữa lành, chất độc không còn tác hại nữa. Vì nhờ công lực của dược thảo mà trừ khử được hết. Nếu các Bí sô thành tựu được pháp giải tên độc này, gọi là thành tựu thông đạt Bát Nhã. Nếu đầy đủ sáu hằng tánh thông đạt Bát Nhã này, thì xa lìa tất cả nhiễm trước ba cõi, vượt khỏi lưới của tất cả ác ma.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như Kim cương khoan được các vật, khoan chỗ nào cũng xuyên qua. Cũng vậy, nếu các Bí sô v.v… đạt được Kim cương dụ, do được tuệ thông đạt dung nạp, nên quán pháp gì cũng đều thông đạt. Tuệ thông đạt này được định Kim cương dụ bảo hộ, quán đến pháp nào cũng đều thông đạt. Nếu ai thành tựu trí tuệ thông đạt này, có thể xuất thế gian, diệt hết các khổ, dù đạt đến các khổ đã tận nhưng không bị đắm nhiễm. Tuệ thông đạt này cũng gọi là ba minh.

Này Thiện Dũng Mãnh! Gọi là minh là vĩnh viễn diệt trừ vô minh. Đây cũng gọi là biết khắp vô minh, cũng gọi là ý niệm diệt khổ uẩn.

Như vị lương y thông minh biết rộng, làm điều gì cũng xem xét rõ ràng, nhờ thế mà thành tựu trí tuệ giảo nghiệm vi diệu, biết rõ các thuốc, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, biết rõ bệnh tướng có thể chữa nhiều chứng bệnh khổ. Bất cứ bệnh tật nào cũng chữa lành. Vì sao? Vì người ấy thông thạo về thuốc, nguyên nhân, tướng trạng của bệnh, phương pháp hòa hợp thuốc, cho nên có thể trừ tất cả bệnh khổ. Nếu ai có thể thành tựu minh thứ ba (lậu tận minh), thì có thể diệt các vô minh, dứt tất cả khổ, trừ tất cả sanh, già, bệnh, chết và các pháp sầu than, khổ, ưu, não. Đây gọi là thông đạt Bát Nhã xuất thế.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta nương nghĩa này mật ý nói: Tất cả thế gian tuệ là hơn hết, nghĩa là thông đạt thật tánh các pháp. Nhờ chánh tri này làm cho chấm dứt sanh vào các cõi”.

 

Ở đây không nói là giả lập nữa mà Phật lấy lương y giỏi để làm thí dụ để giải thích cụ thể thế nào là thông đạt. Kinh ví người thông đạt Bát Nhã như lương y giỏi có thể chữa lành vết thương do tên độc gây ra. Lương y biết nguyên nhân của bệnh, biết sức công phá và tác hại của độc chất, biết cái khổ của người trúng tên. Lương y lại thông thạo phương pháp chẩn bệnh, biết cách hòa hợp thuốc, nên có thể trừ độc, trừ đau đớn cho người trúng phải tên. Tất cả những thứ đó do kinh nghiệm tạo thành và thực chứng từ bản thân. Do kinh nghiệm và thực chứng này mà người đó trở thành một lương y giỏi.

Những ai thông đạt Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, có thể diệt trừ vô minh, các phiền não lậu tận, các sầu than, ưu, não khác v.v... Diệt trừ hết vô minh mê muội thì sáng suốt, nên nói là có tam minh. Khi có tam minh thì điều gì cũng thông suốt. Vì vậy, Phật mật ý nói rằng:  “Tất cả thế gian tuệ là hơn hết, nghĩa là thông đạt thật tánh các pháp”. Thông đạt thật tánh các pháp thì không ai có thể so sánh, không ai bì kịp, nên nói là xuất thế gian. Người chánh trí này không những tự mình có thể mà còn có khả năng chấm dứt các khổ qua lại trong ba cõi sáu đường cho những chúng sanh khác!

 

3. Thế nào là tận trí?

 

Lại là câu hỏi khó nuốt nữa! “... Chấm dứt vô tri gọi là tận trí, biết khắp tất cả pháp vô tri nên gọi là chấm dứt vô tri. Do chấm dứt vô tri nên gọi là tận trí, chẳng phải pháp vô tri có tận, không tận; nhưng lìa vô tri nên gọi là tận trí, như thật biết khắp. Pháp vô tri này hoàn toàn vô sở hữu, nên gọi là lìa. Như vậy, do trí biết pháp vô tri, không riêng biệt, có thể đắc nên gọi là xa lìa vô tri; nhưng pháp vô tri thật bất khả đắc. Trí còn không có huống là có vô tri”.

“(...)Nếu người có thể tận đắc giải thoát thì gọi là tận trí. Tuy nói như vậy mà như không nói. Đã có trí tận thì hoàn toàn không thể nói, chỉ là giả danh. Nên nói chấm dứt vô tri cũng gọi là tận trí. Nếu đem vô tận tận trí mà xem xét các pháp, thì tận trí cũng không. Nếu biết như vậy liền lìa tận trí, cho đến bờ vô tận. Bờ vô tận này tức là không bờ, cũng là bờ Niết bàn. Tuy nói như vậy mà như không nói”.

Đây không phải là lý luận. Đây là lối diễn tả mà không có gì để diễn tả. Đó cũng không phải là lối nói khẳng định của thắng nghĩa đế, Phật dựa vào sự hiểu biết thế gian mà nói về trí tối cao này. Nhưng ngôn ngữ thế gian cũng không đủ để diễn tả trí này, nên chỉ có thể nói biết hết tất cả vô minh thì hết vô minh, biết hết tất cả trí thì được vô tận trí.

Tất cả đều chứng biết từ nội tâm, khó giảng nói cho người!

 

4. Thế nào Bồ đề? Thế nào là Bồ đề Tát đỏa?

Thế nào là Bồ Tát ? Thế nào là hữu tình?

 

Trong Hội thứ VII gọi là “Mạn Thù Thất Lợi” phần đã thuyết thế nào là Phật, thế nào là Bồ đề Tát đỏa, thế nào là hữu tình? Ở phần “Bát Nhã Ba La Mật” quyển 593 này lại lặp lại các “khái niệm” này một lần nữa ở một tầng cao hơn.

Tát đỏa là hữu tình, là hàm sanh, hàm thức: Nghĩa là hữu tình còn nằm trong cái võ triền phược thì gọi là Tát đỏa. Tát đỏa thoát khỏi võ triền phược gọi là Bồ đề, tức hữu tình giác ngộ hay tỉnh thức. Bồ đề Tát đỏa là hữu tình do tu tập pháp lành được giác ngộ thì gọi là Bồ Tát hay gọi là Bồ đề Tát đỏa. Đó là lối định nghĩa thông thường của tri kiến thế gian, tức nói theo Tục đế.  Đối với bậc giác ngộ thì sao?

 

1- Thế nào là Bồ đề?

 

Bồ đề thông thường được định nghĩa là giác (, giác ngộ, tỉnh thức), là trí (, trí tuệ) và cũng chỉ cho chánh giác. Nhưng ở đây chúng tôi không luận về Bồ đề mà chính Phật “giảng luận” khi Phật bảo:

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật tùy sự hiểu rõ các pháp, nếu có thể tùy sự hiểu rõ tức trái với giác ngộ. Vì sao? Vì trong đây không có vật để gọi là tùy sự hiểu rõ. Tùy sự hiểu rõ không, nên giác ngộ cũng không. Tức là đối với các pháp không thông đạt nghĩa, tùy sự hiểu rõ thông đạt pháp tánh bình đẳng là Bồ đề. Tùy sự hiểu rõ các pháp nên gọi là Bồ đề. Làm sao có thể tùy sự hiểu rõ các pháp, vì trong đây không có vật để gọi Bồ đề, nên đối với trong đây cũng không có tùy sự hiểu rõ.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì nếu có đắc được chút phần Bồ đề nào, tức là trong Bồ đề đắc Bồ đề. Nhưng trong Bồ đề không có Bồ đề, nên nghĩ như vậy là hiện chứng Bồ đề. Vì chẳng tùy sự hiểu rõ, chẳng thông đạt nên gọi là giác ngộ. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì tất cả pháp không thể tùy sự hiểu rõ, không thể thông đạt. Lại pháp và phi pháp đều không có tự tánh, do giác ngộ lý này nên gọi là Bồ đề.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể đắc Bồ đề. Không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể rõ Bồ đề. Vì như thật Bồ đề không thể rõ, không thể nêu ra, không phải các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sanh Bồ đề, vì tánh Bồ đề không sanh, không khởi”.

Nếu thật hiểu như thế thì tất hiểu Bồ đề là như thế nào? Bồ đề cũng không. Giác ngộ cũng không. Trong không chẳng có sự hiển lộ đây kia, nên chẳng thể nói chẳng thể hiểu. Những hiển lộ đây kia chỉ là do tạo tác do tâm. Vì vậy, Kinh bảo “Vì chẳng tùy sự hiểu rõ, chẳng thông đạt nên gọi là giác ngộ. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì tất cả pháp không thể tùy sự hiểu rõ, không thể thông đạt. Lại pháp và phi pháp đều không có tự tánh, do giác ngộ lý này nên gọi là Bồ đề”.

Đây không phải là câu nói “õm ờ” vì tất cả pháp và phi pháp đều không có tự tánh. Không có tự tánh nên nói là không. Nếu giác ngộ lý này nên gọi là Bồ đề.

 

 

2- Thế nào là Bồ đề Tát đỏa?

 

Nếu chiết tự thì Bồ đề là giác ngộ và Tát đỏa là hữu tình. Hữu tình còn nằm trong mê tức là còn nằm trong cái vỏ triền phược thì gọi là hữu tình. Khi hữu tình thoát cái khỏi cái vỏ triền phược gọi là Như Lai thoát triền thì gọi là Bồ Tát. Nên cụm từ Bồ đề Tát đỏa gọi chung là Bồ Tát hay hữu tình giác ngộ. Đó là nói theo Tục đế. Hãy xem Phật giảng về Bồ đề Tát đỏa như thế nào?

Này Thiện Dũng Mãnh! Không phải trong Bồ đề có thể đắc Bồ đề, chẳng phải trong Bồ đề có thể đắc Tát đỏa. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bồ đề siêu việt, Bồ đề không sanh, Bồ đề không khởi, Bồ đề không tướng. Không phải trong Bồ đề có tánh Tát đỏa, không phải trong Bồ đề có thể đắc Tát đỏa. Không do Tát đỏa thiết lập Bồ đề, không do Bồ đề thiết lập Tát đỏa. Vì tùy sự hiểu rõ Tát đỏa không có tự tánh nên gọi là Bồ đề, biết trong Bồ đề thật không có Tát đỏa, nên gọi là Bồ đề Tát đỏa.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Bồ đề Tát đỏa không phải tưởng Tát đỏa hiện bày. Trừ tưởng Tát đỏa nên gọi là Bồ đề. Tuy nói như vậy mà như không nói.

Vì sao? Vì Bồ đề Tát đỏa lìa ngôn ngữ. Bồ đề Tát đỏa lìa tánh Tát đỏa. Bồ đề Tát đỏa lìa tưởng Tát đỏa, biết Bồ đề như vậy nên gọi là Bồ Tát.

Làm sao Bồ Tát có thể biết Bồ đề? Nghĩa là biết Bồ đề siêu việt tất cả, Bồ đề không tạo, Bồ đề không sanh, Bồ đề không diệt. Không phải tánh Bồ đề có thể rõ Bồ đề. Cũng không phải Bồ đề hiển bày, không thể hiện rõ, không thể thiết lập, không thể dẫn chuyển, nên gọi là Bồ đề. Nếu không thể trái ngược tùy sự hiểu rõ, thông đạt, không phân biệt, dứt hẳn phân biệt thì gọi là Bồ đề Tát đỏa. Tuy nói như vậy mà như không nói.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bồ đề Tát đỏa không thể đắc vậy. Nếu Bồ đề Tát đỏa có thể đắc, tức đắc đây là Bồ đề, đây thuộc Bồ đề, đây là Tát đỏa, đây thuộc Tát đỏa; nhưng không thể nói đây là Bồ đề, đây thuộc Bồ đề, cũng không thể nói đây là Tát đỏa, đây thuộc Tát đỏa. Vì có thể tùy sự hiểu rõ thật không có Tát đỏa. Không có tánh Tát đỏa, lìa tánh Tát đỏa nên gọi là Bồ Tát. Do không có Tát đỏa, trừ tưởng Tát đỏa nên gọi là Bồ Tát ”.

Tùy theo sự hiểu rõ thật không có Tát đỏa, không có tánh Tát đỏa. Bồ Tát cũng không, không có tánh Bồ Tát, tất cả đều không có tự tánh nên nói là không. Điều đó có nghĩa hiểu rõ Tát đỏa (hữu tình) không thật Tát đỏa(hữu tình), hiểu như vậy thì gọi là Bồ Tát.

Bồ đề cũng không. Trong không không có sanh diệt đổi dời, chuyển hay chẳng chuyển, tất cả đều bất khả đắc, đều như như bất động. Như đó là bình đẳng, bình đẳng cũng là không, không đó là đệ nhất nghĩa. Thấy như vậy thì Bồ đề không khác với Bồ Tát, không khác Tát đỏa, tất cả đều lìa tướng, lìa tướng là Bồ đề, không hai không khác không phân biệt.

Tất cả đều là danh tướng, giả danh chẳng khác nào như huyễn như hóa.

 

3- Thế nào là Bồ Tát ?

 

“Này Thiện Dũng Mãnh! Không phải chỉ lời dối gạt bậc Bồ Tát, được pháp Bồ Tát, chẳng do lời nói mà chứng được quả vị Vô Thượng Bồ đề. Không do ngữ nghiệp tự xưng danh mà liền được Bồ đề. Cũng không do lời tự xưng danh bậc Bồ Tát, được pháp Bồ Tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tất cả hữu tình hành hạnh Bồ đề, không biết, không hiểu thật tánh các pháp, thì không gọi là Bồ Tát.

Vì sao? Vì chẳng biết hữu tình, chẳng phải hữu tình vậy. Nếu biết hữu tình chẳng phải tánh hữu tình là hành hạnh Bồ đề, nên thành Bồ Tát. Nhưng do các hữu tình điên đảo, không thể hiểu rõ việc làm của mình, cảnh giới của mình, hành xứ của mình. Nếu như thật biết rõ việc làm của mình, thì hành không còn phân biệt. Bởi hành phân biệt, nên tất cả phàm phu ngu si duyên cảnh hư dối, khởi hành điên đảo. Cũng duyên Bồ đề mà khởi kiêu mạn chấp trước. Vì họ duyên vọng cảnh, sanh ra điên đảo kiêu mạn, hành hạnh phân biệt nên không thể đắc pháp của Bồ Tát, huống là đắc Bồ đề. Nếu ai có thể biết rõ pháp ấy như vậy, thì chẳng còn khởi hành duyên hư dối, cũng không còn duyên các pháp sanh kiêu mạn. Đây gọi là Bồ Tát hành nơi vô hành.

Bồ Tát không nên do phân biệt mà khởi hành phân biệt. Nếu ở chỗ không có sở phân biệt, thì không phải chỗ này mà có sở hành. Nếu chỗ này không khởi phân biệt, thì không phải chỗ này lại có sở hành. Chư Phật Bồ Tát đối với tất cả hành không có sự phân biệt mà tu hành. Tất cả kiêu mạn rốt ráo không khởi, Bồ Tát biết tất cả pháp như vậy. Đối với tất cả pháp không còn dính mắc, không còn phân biệt, không dạo, không đi. Như vậy, gọi là chơn Bồ Tát hạnh, lấy vô sở hành làm phương tiện. Nếu các Bồ Tát có thể hành như thế thì gọi là Bồ Tát chơn hạnh”.

Đó là chỗ giác ngộ của người hành Bồ Tát đạo, nên được gọi là Bồ Tát. Hành không phân biệt, không chấp đắm nên không có năng hành sở hành, không còn thi vi tạo tác nữa. Lấy cái không phân biệt không chấp trước làm phương tiện tu hành nên gọi là chơn Bồ Tát hạnh. Mong rằng chúng ta theo kịp những gì Phật nói.

 

4- Thế nào là hữu tình?

 

Hữu tình cũng chỉ là tứ đại, năm ấm hòa hợp, hiện có mà không thật có, nên nói hữu tình không thật hữu tình. Vì mê cái ngã nên phân biệt chấp ta, chấp cái của ta, nên gọi hữu tình. Kinh bảo:

“Pháp nào không có? Nghĩa là chấp ta, chấp của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu, pháp đó chẳng có. Nếu có pháp đó thì tất cả hữu tình đều chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp kia là nắm giữ, bám víu, nên cho là thật có, không gọi hư dối. Không có pháp đó mà các hữu tình vọng chấp là ta, chấp là của ta, chính ta chấp cái của ta, sự chấp ấy là nắm giữ, bám víu đều không thật có, đều là hư dối, nên nói thế này: Tất cả hữu tình không thật hữu tình, tất cả hữu tình đều là vô minh duyên hành hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không phải hữu tình là có chút thật pháp có thể chấp là ta, hoặc chấp là của ta, hoặc là nắm giữ hai chấp ấy, bám víu đều không thật pháp. Nên nói tất cả hữu tình là không thật hữu tình; nên biết không hữu tình ấy là khái niệm chẳng thật. Nói chẳng thật ấy phải biết đó là khái niệm không phải hữu tình, như trong tưởng không thật hữu tình tất cả hữu tình vọng chấp là thật; nên nói tất cả hữu tình không thật hữu tình”.

Không biết bao nhiêu lần Kinh bảo là hữu tình không thật, nhưng mấy ai tin. Con người bằng xương bằng thịt, có đi đứng nằm ngồi, có sống có chết, có nói năng cảm thọ mà bảo là không thật, thì làm sao tin được? Ở đây, Phật không phá tướng mà Phật phá chấp. Vì chấp ngã là thật nên mới thấy có “ta”, có “cái của ta”. Nếu không thấy ngã thì cái “Ta” ở đâu?

Bát Nhã bảo “hữu tình không thật hữu tình”, vì trong thân tứ đại hư ảo như huyễn mà chấp ta, bám víu vào ngã bảo là ta, cái đó không thật, điên đảo khởi chấp thật, tự cho là hữu tình. Nếu thấy bản chất hữu tình là vô sinh, không có tự tánh thì sẽ thấy hữu tình không thật hữu tình. Chưa có đoạn kinh nào trong toàn bộ ĐBN thuyết về hữu tình hay bằng đoạn kinh này!

Toàn thể quyển 593 nói riêng và toàn phần “Bát Nhã Ba La Mật” nói chung, Phật thuyết về trí và sự thông đạt trí này. Nhưng ngôn ngữ thế gian không thể giảng nói cái gọi là bất khả thuyết, bất khả tư nghì. Phật phải thi thiết, giả lập, mới có thể hiểu được. Tất cả lời giảng nói không phải tưởng, không phải là hý luận, đều hàm ngụ cái không thể giảng nói luận bàn, để cuối cùng kết luận: “Tuy nói như vậy mà như không nói gì” hay “tuy nói như vậy mà như không nói”. Chúng ta phải cố gắng hiểu câu nói này. Đó không phải là câu nói “vờ vĩnh dở hơi” mà các câu nói này cốt diễn tả cái không thể nói, không thể kêu gọi, không thể đặt tên, không thể chỉ thẳng, không thể luận bàn bởi danh ngôn thế tục.

Cũng chính vì lý do đó mà chúng tôi mượn chữ mượn lời để “thay lời lược giải” mà thôi, không trực tiếp nói là luận giảng.

 

Chúng ta tụng tiếp Q.594, phần “Bát Nhã Ba La Mật”:

 
Quyển thứ 594

 

(Sao gọi là Bồ Tát?)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát có thể hiểu biết pháp như thế, thì mới gọi là chơn thật Bồ Tát. Nói Bồ Tát ấy nghĩa là có thể tùy sự hiểu rõ ý niệm hữu tình không thật, không sanh.

Lại nữa, Bồ Tát cũng có thể biết như thật tất cả pháp như Phật. Vì sao Bồ Tát biết như thật giống như Phật? Nghĩa là biết như thật tánh tất cả pháp không thật, không sanh, cũng không hư vọng. Các Bồ Tát đối với tánh các pháp chẳng chấp trước như phàm phu ngu si, cũng chẳng sở đắc như phàm phu ngu si. Biết thật như vậy nên gọi là Bồ Tát. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Bởi vì Bồ đề ấy không có chấp trước, không có phân biệt, không có chứa nhóm, không có sở đắc vậy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tánh Bồ đề có chút sở đắc, vì tất cả pháp bất khả đắc. Đối với pháp không thể đắc nên gọi Bồ đề. Tuy chư Phật nói Bồ đề như vậy mà như không nói, vì lìa các tướng vậy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát phát tâm Bồ đề suy nghĩ: Hôm nay ta phát tâm Bồ đề này tức là Bồ đề, ta đang hướng tới Bồ đề này nên phát tâm tu hành. Các Bồ Tát có sở đắc nên chẳng gọi Bồ Tát, chỉ có thể gọi là Tát đỏa(hữu tình)cuồng loạn. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì Bồ Tát chấp chắc chắn có tánh phát khởi, chấp chắc chắn có phát tâm, chấp chắc chắn có tánh Bồ đề.

Nếu các Bồ Tát phát Bồ đề tâm mà có chấp trước, thì chỉ có thể gọi là đối với tâm Bồ đề có chấp Tát đỏa, chẳng gọi Bồ Tát phát tâm chơn tịnh. Do tạo tác phát tâm Bồ đề như vậy, nên gọi là tạo tác Tát đỏa, không gọi là Bồ Tát. Do vị ấy gia hạnh phát tâm Bồ đề như vậy nên gọi là gia hạnh Tát đỏa, không gọi là Bồ Tát.

Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát đó đã chấp thủ việc phát Bồ đề tâm, nên chỉ có thể gọi là phát tâm Tát đỏa, không gọi là Bồ Tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không kẻ thật năng phát tâm Bồ đề, vì Bồ đề tâm chẳng thể phát vậy, vì Bồ đề không sanh cũng không tâm vậy. Các Bồ Tát kia chỉ chấp phát tâm, chẳng hiểu rõ nghĩa Bồ đề tâm không sanh.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu sanh tánh bình đẳng tức thật tánh bình đẳng. Nếu thật tánh bình đẳng tức tánh tâm bình đẳng. Nếu tánh tâm bình đẳng tức là Bồ đề. Nếu đối trong đây có tánh như thật tức đối trong đây không sở phân biệt. Nếu có phân biệt tâm và Bồ đề thì bèn chấp trước tâm và Bồ đề. Do hai thứ đây, phát Bồ đề tâm phải biết chẳng gọi kẻ chơn phát tâm.

 

(Bồ Tát phát tâm Bồ đề và chấp trước sự phát tâm này tức Bồ Tát còn sở đắc thì chỉ gọi là Tát đỏa (hữu tình) cuồng loạn, chẳng phải Bồ Tát. Đối với pháp không thể đắc nên gọi Bồ đề. Bồ đề không sanh, cũng không tâm. Nếu phân biệt tâm và Bồ đề tức chấp trước tâm và Bồ đề. Do hai thứ chấp đây, nên chẳng gọi kẻ chơn thật phát tâm. Chỉ gọi chơn thật phát tâm khi tâm bình đẳng, tâm bình đẳng này gọi là Bồ đề).

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Bồ đề cùng tâm chẳng phải mỗi có khác, chẳng ở trong tâm có thật Bồ đề, chẳng phải trong Bồ đề có thật tâm, Bồ đề cùng tâm như thật như lý đều chẳng thể nói đây giác đây tâm. Bởi như thật giác Bồ đề cùng tâm đều chẳng thể đắc, không sanh chẳng sanh, nên gọi Bồ Tát, cũng gọi Ma ha tát và như thật hữu tình. Vì sao? Vì như thật biết chẳng thật có tánh. Như thật biết chẳng thật có tánh gì? Là các thế gian đều chẳng thật có, chẳng thật sở nhiếp, chẳng thật có sanh, chỉ giả an lập.

Sao là thế gian chẳng thật có sanh chỉ giả an lập? Chẳng thật có ấy, vì không thật sanh vậy. Vì không thật sanh và chẳng thật có, nên nói các pháp không thật không tánh. Do như thật biết chẳng thật có tánh, nên cũng có thể nói như thật hữu tình. Đối trong thật có cũng chẳng chấp thật có, nên lại có thể nói tùy như thật hữu tình. Mặc dù nói như vậy mà như không nói. Vì sao? Vì lý như thật chẳng phải có chút hữu tình hoặc Ma ha tát. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì chứng vào Đại thừa gọi Ma ha tát vậy.     

 

(Sao gọi là Đại thừa?)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Sao gọi Đại thừa? Nghĩa là Nhất thiết trí gọi là Đại thừa. Sao gọi Nhất thiết trí? Nghĩa là có bao các trí hoặc trí hữu vi, hoặc trí vô vi, hoặc trí thế gian, hoặc trí xuất thế gian, hoặc trí năng chứng vào như thế thảy gọi Ma ha tát. Vì sao? Vì năng xa lìa tưởng đại hữu tình gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại vô minh gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại chư hành gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại vô tri gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại chúng khổ gọi Ma ha tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu năng xa lìa được tưởng đại hữu tình gọi Ma ha tát. Các vị ấy đối tất cả pháp tâm tâm sở, tuy vô sở đắc mà năng biết rõ được bản tánh của tâm. Các vị ấy đối Bồ đề và Bồ đề phần pháp, tuy vô sở đắc mà năng biết rõ được bản tánh Bồ đề. Do trí đây các vị ấy chẳng đối nội tâm thấy có Bồ đề, cũng chẳng lìa tâm thấy có Bồ đề. Chẳng đối trong Bồ đề thấy có thật tâm, cũng chẳng lìa Bồ đề thấy có thật tâm. Như vậy trừ khiển, không sở tu tập, không sở trừ khiển, đối sở tu tập và sở trừ khiển đều không sở đắc, không sở nương cậy, không sở chấp đắm. Mặc dù chẳng thấy có tâm tánh Bồ đề, mà năng phát khởi được tâm Đại Bồ đề.

Nếu có thể phát tâm Bồ đề như thế thì mới gọi là chơn thật Bồ Tát. Dù phát tâm Bồ đề như thế mà đối Bồ đề không sở dẫn phát. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì những vị ấy đã an trụ vào đại Bồ đề. Nếu không sở chấp trước được như trọn chẳng thấy có Bồ đề tâm sanh diệt sai khác, cũng chẳng thấy có kẻ phát tâm hướng tới Đại Bồ đề, không thấy không chấp không sở phân biệt, phải biết đã trụ Vô thượng Bồ đề. Nếu không sở chấp trước khởi thắng giải và tâm giải thoát được như thế, phải biết gọi là chơn thật Bồ Tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát không lìa tưởng tâm và tưởng Bồ Tát, mà phát Bồ đề tâm những vị ấy đã xa Bồ đề, chẳng gần Bồ đề.    

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát không thấy Bồ đề có xa có gần, thì biết những vị ấy đã gần Vô thượng Bồ đề, cũng gọi là người chơn phát Bồ đề tâm. Ta nương nghĩa này mật ý nói rằng, nếu ai có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì họ có thể chứng biết ngã và hữu tình đều không có tự tánh, tức có thể biết khắp các pháp không hai. Do có thể biết khắp các pháp không hai, nên nhất định thấu suốt được ngã và hữu tình, cùng tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, lý không sai khác. Nếu biết khắp các pháp không hai, tức có thể biết khắp tất cả pháp Phật. Hoặc có thể biết khắp ngã, tức biết khắp ba cõi.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu biết khắp ngã họ liền đến được bờ kia của các pháp. Vì sao gọi là bờ kia của các pháp? Nghĩa là tất cả pháp thật tánh bình đẳng, không đắc pháp này, cũng không chấp pháp này. Hoặc không đắc bờ kia, cũng không chấp bờ kia, đó gọi là người biết khắp đến bờ kia. Tuy nói như vậy mà như không nói.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các chúng Bồ Tát nên hướng tới các bậc Bồ Tát như thế, nên chứng các bậc Bồ Tát như thế. Phải biết tức là Bồ Tát Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là ở trong ấy không một chút pháp nào có thể hướng tới, có thể chứng. Vì ở trong ấy không thể thi thiết, có thể đến đi.

Khi ấy, Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các hàng tăng thượng mạn hành hữu tướng, chớ ôm lòng sợ hãi đối với lời Phật đã nói.

Xá lợi Tử bảo Khánh Hỷ:

- Chẳng phải kẻ tăng thượng mạn hành hữu tướng, nên đem lòng sợ hãi! Vì sao? Vì kẻ ôm lòng sợ hãi muốn lìa tăng thượng mạn, nhưng bị bạn ác nhiếp phục, nghe pháp sâu xa không thể đo lường, sợ mất sở cầu liền sanh sợ hãi.

Này Khánh Hỷ! Chỉ có những người vì muốn đoạn trừ tăng thượng mạn, siêng năng tinh tấn hành chánh hạnh mới có sợ hãi. Vì sao? Vì họ đã biết lỗi tăng thượng mạn, cầu không tăng thượng mạn và cầu đoạn trừ tăng thượng mạn, rồi nghe pháp sâu xa không thể đo lường, nên sợ mất sở cầu bèn sanh sợ hãi.

Này Khánh Hỷ! Nếu có người đối với tăng thượng mạn không thấy, không đắc, không nương, không chấp, thì họ không sợ hãi các pháp.

Này Khánh Hỷ! Không phải Như Lai vì kẻ tăng thượng mạn mà nói pháp như thế, vì không có sự sợ hãi kia. Nếu có những người vì muốn đoạn trừ tăng thượng mạn, siêng năng tu hành, nghe pháp như vậy có thể hiểu biết rõ ràng thì không còn sợ hãi.

Này Khánh Hỷ! Nên biết, tăng thượng mạn hiển bày là tăng ích cho thắng pháp. Như có kẻ hiện hành tăng thượng mạn, là chắc chắn họ hiện hành tăng ích cho thắng pháp. Vì hành tăng ích chẳng phải hành bình đẳng, kẻ ấy nếu thích hành hạnh bình đẳng thì đối với pháp sâu xa này ôm lòng do dự không sanh sợ hãi, cũng không tin nhận.

Này Khánh Hỷ! Trong bình đẳng không bình đẳng đều không có chỗ đắc. Hoặc trong bình đẳng không bình đẳng đều không chỗ nương. Hoặc trong bình đẳng không bình đẳng đều không chỗ chấp trước. Những người đó đối các pháp chẳng kinh chẳng e chẳng sợ chẳng hãi.

Này Khánh Hỷ! Pháp sâu xa này chẳng phải chỗ hành của các phàm phu ngu si. Pháp sâu xa này chẳng phải cảnh giới của các phàm phu ngu si. Pháp sâu xa này không phải chỗ biết của các phàm phu ngu si. Vì vượt qua tất cả chỗ hành, chỗ nhận, chỗ giác ngộ của phàm phu ngu si. Có những người hướng đến Thanh văn thừa, tuy hành pháp sâu xa nhưng pháp này không phải chỗ hành của họ. Có những người hướng đến Độc giác thừa, tuy hành pháp sâu xa nhưng pháp này không phải chỗ hành của họ. Có những người hướng đến Bồ Tát thừa, nếu hành hữu tướng, xa lìa bạn lành, bị bạn ác nhiếp phục, họ đối với pháp không nhiễm đắm như vậy. Cũng không thể hành được vì chẳng phải cảnh của họ.

Khánh Hỷ nên biết! Chỉ trừ Thanh văn thừa chứng ngộ chân lý, cầu đại Bồ đề và Bồ Tát thừa được bạn lành khuyên răn, thì đối với pháp sâu xa này sanh tin hiểu. Đối với pháp sâu xa này có thể tùy thuận mà hành, thì đối với pháp sâu xa này có thể chứng biết.

Này Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát xa lìa các tướng, an trụ vô tướng, hành không sai khác, thì đối với các pháp sâu xa rốt ráo, ra khỏi các thứ lưới nghi phân biệt chấp trước. Tùy chỗ muốn họ đều có thể thành tựu. Đối với tâm Bồ đề hoàn toàn không chỗ đắc. Đối với tánh các pháp không hiểu sai khác, cũng không phát khởi các hành sai khác. Tùy có chỗ hướng đến đều có thể ngộ nhập. Họ đối với pháp môn sâu xa như vậy đều có thể thọ trì, tâm không nghi ngờ. Vì sao? Vì họ đối với các pháp đều trụ tùy thuận, không chỗ trái nghịch. Nếu đối với các pháp khởi lời gạn hỏi, bất cứ câu hỏi nào, đều có thể tùy thuận trả lời tất cả. Hòa hợp bên này và bên kia, khiến không trái nghịch nhau. Phật vì họ nên nói pháp sâu xa này.

Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Khánh Hỷ:

- Này Khánh Hỷ! Ngươi nên thọ trì lời Xá lợi Tử đã nói. Xá lợi Tử và Ta đều nói như vậy không khác. Khánh Hỷ nên biết! Kẻ tăng thượng mạn đối với giáo pháp này không thể ngộ nhập, vì chẳng phải cảnh của họ, chẳng phải bậc của họ vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Giáo pháp như thế thuận tánh các pháp, thuận Bồ đề Phật, đối với Bồ đề Phật có thể trợ bạn. Nếu các loài hữu tình tin hiểu thấp kém đối với pháp Phật sâu xa rộng lớn này, tâm chẳng ngộ vào, chẳng năng thọ hành được

Khánh Hỷ nên biết! Kẻ tăng thượng mạn tin hiểu thấp kém, đối với Bồ đề Phật và pháp sâu xa trụ trong trái nghịch. Họ làm gì cũng tùy thuộc tăng thượng mạn nên không thể tin nhận pháp sâu xa này.

Khánh Hỷ nên biết! Nay trong chúng hội này thanh tịnh tối thắng, xa lìa tạp nhiễm, từng ở nhiều chỗ Phật phát thệ nguyện rộng lớn, vun trồng vô lượng căn lành thù thắng, từng thờ vô biên chư Phật quá khứ. Và đã từ lâu tin hiểu pháp sâu xa, tu hành thuần thục hạnh sâu xa, nên nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tin tưởng hoàn toàn vào chúng này, không còn nghi ngờ, nói ra pháp môn nào đều rõ ràng, không có dè dặt, tiếc lời khi thuyết pháp yếu.

Khánh Hỷ nên biết! Nay chúng hội này thanh tịnh bền chắc, không như những thứ ngói, sỏi, đất mặn v.v…, đã từng cúng dường hơn trăm ngàn đức Phật, nên an trụ kiên cố trong các pháp Phật.

Khánh Hỷ nên biết! Ví dụ ngói sỏi là nói về phàm phu ngu si, nghĩa là không thể dung nạp pháp sâu xa. Còn ví dụ đất mặn v.v… phải biết là chỉ rõ các hữu tình tăng thượng mạn, vì không thể sanh trưởng hạnh sâu xa.

Khánh Hỷ nên biết! Nay hội chúng này lìa bỏ những tập khởi căn lành rộng lớn của tăng thượng mạn, ấy là pháp khí sâu xa.

Khánh Hỷ nên biết! Ví như vua rồng ở ao lớn Vô nhiệt, có nhân duyên nên sanh đại hoan hỷ, sống trong cung của mình hưởng vui ngũ dục. Vì vui mừng nên từ trong cung phun mưa lớn đủ tám công đức. Khi ấy, các rồng con cũng vui mừng đến cung mình, hưởng vui năm dục, cùng nhau du hý đùa giỡn, phun một trận mưa ngọt.

Cũng vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các chúng hội rưới mưa pháp lớn. Khi ấy, có vô lượng chúng trưởng tử đại Bồ Tát nghe rồi kết tập. Hoặc trong cõi Kham Nhẫn này, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trước các chúng hội rưới mưa pháp lớn. Hoặc trong mỗi mỗi cõi Phật kia, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trước chúng hội đó rưới mưa pháp lớn.

Này Khánh Hỷ! Như vua rồng ở biển cả có khi vui mừng, từ trong cung phun mưa lớn. Và có những vua rồng khác sống lâu trong cung mình, cũng vui mừng làm mưa xuống. Trong những trận mưa lớn này phải khéo biết phân đều, nên các rồng con đều hoan hỷ nhận lãnh mưa lớn của vua cha đã rưới.

Vì sao? Vì có những rồng khác v.v… khi phun mưa không biết phân đều, cũng không vui mừng nhận thọ. Cũng vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở trong hội đại chúng rưới mưa pháp báu sâu xa. Có chúng đại Bồ Tát trưởng tử của Phật, từ lâu đã trồng vô lượng căn lành thù thắng, sanh trưởng nơi pháp môn sâu xa, thành tựu nhiều ý vui rộng lớn, nhận lãnh mưa pháp môn lớn của Như Lai, nghe rồi vui mừng khéo biết phân đều. Vì nghĩa này nên nay đức Như Lai ở trong đại chúng thanh tịnh, rống lớn tiếng sư tử, rưới mưa pháp lớn, làm nhiều lợi ích.

Này Khánh Hỷ! Như vua Chuyển luân có nhiều con, mang dòng tộc mẹ thanh tịnh, hình tướng đoan nghiêm. Bấy giờ, vua ấy có nhiều kho báu, gọi hết các con đến phân phát ban cho. Trong tâm vua hoàn toàn không dối gạt hay thiên vị. Những người con được nhiều của báu, càng kính mến vua cha, đều nghĩ thế này: “Hôm nay chúng ta đều biết, phụ vương đã cho chúng ta lợi đồng nhau”. Cũng vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là đại pháp chủ, làm đại pháp vương. Tự nhiên triệu tập các đệ tử chơn chánh của Phật, đem kho pháp lớn phân bố ban cho. Tâm Ngài hoàn toàn không hư dối thiên vị. Khi ấy, các đệ tử Phật đạt được pháp vi diệu, đều kính mến Như Lai. Họ nghĩ thế này: Ngày nay chúng ta biết rõ, Như Lai ban cho pháp lợi đồng nhau. Chúng ta phải nỗ lực tinh tấn, nối truyền giống Phật khiến chẳng dứt mất.    

Này Khánh Hỷ! Pháp báu vi diệu sâu xa này chẳng phải các hữu tình khác có thể tin nhận. Như kẻ tin hiểu thấp kém, kẻ tăng thượng mạn, kẻ hành ác kiến, kẻ hành hữu tướng, kẻ hành có sở đắc, kẻ bị ngã mạn phá hoại, kẻ bị tham, sân, si xô đè, kẻ vượt đường mà đi v.v… Hạng người như vậy gọi là hữu tình khác. Đối với pháp môn này không thể tin nhận.

Khánh Hỷ nên biết! Các loài hữu tình tin hiểu thấp kém, không thể quí mến của báu Luân vương. Còn con Luân vương mới sanh kính mến của báu ấy.

Khánh Hỷ nên biết! Các loài hữu tình bần cùng thấp kém, đâu thể tham châu báu của Luân vương như: Xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, chủ báu, quan thần, chủ binh báu và các loại y phục tốt đẹp khác, kể cả nhiều của báu quí giá như: Chân châu Mạt ni, kim ngân, san hô, lưu ly v.v… Người nghèo khổ kia giả như thấy được, cũng xấu hổ vì không thể lấy, không thể dùng. Dù có đem đi bán, không biết giá trị, ra giá rất thấp, theo giá trả bèn bán. Hoặc không xét phân biệt báu vật, tâm bèn nhàm chán vứt bỏ đi.

Khánh Hỷ nên biết! Người nghèo khổ kia chẳng những không hiểu rõ giá trị của báu vật, mà còn không biết tên của báu vật đó. Như vậy, Khánh Hỷ! Chỉ có con của Pháp thân Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc các Thanh văn v.v… đã chứng ngộ chân lý, cầu đại Bồ đề, hoặc các Bồ Tát được bạn lành chơn tịnh giúp đỡ hộ trì, thì mới có thể tin nhận kho báu pháp bảo này. Sự kính mến sâu xa kia chẳng thể đắc pháp bảo tương ưng Không, nhưng có thể thọ dụng giáo lý tương ưng với Phật pháp chơn tịnh; cũng có thể tu hành tất cả pháp, không chấp trước các Bồ Tát hạnh.

Khánh Hỷ nên biết! Các loài hữu tình bần cùng thấp kém là kẻ thiếu nghe chánh pháp, phá hoại sự nghe chánh pháp. Người ngu si không mắt, làm sao mong cầu kho báu chánh pháp. Giả như có gặp được cũng không biết kính trọng, đối với hữu tình khác coi nhẹ mà bán rẻ, hoặc tâm nhàm chán bèn vứt bỏ đi.

Này Khánh Hỷ! Nếu kẻ đồ tể, hoặc kẻ gánh thây chết, hoặc các công thợ, hoặc những kẻ bần tiện nuôi mạng bằng nghề xấu xa thì không bao giờ tìm cầu được nhiều trân bảo quí giá. Giả sử họ có thấy cũng không lấy được, không dùng được, hoặc dù có cũng tùy giá rẻ liền bán cho người, hoặc nhàm chán mà vứt bỏ đi.

Khánh Hỷ nên biết! Hạng đồ tể v.v… tức là nói về tất cả ngoại đạo, cũng là các chúng đệ tử ngoại đạo; hoặc những kẻ bần tiện, người sinh sống nghề xấu xa, là chỉ cho phàm phu ngu si. Kẻ kia thường lún chìm trong ao bùn ác kiến. Tất cả thời hành có sở đắc, ưa tướng trói buộc, hành hạnh hữu tướng, hướng đến các cõi vượt đường mà đi, không thể mong cầu của báu chánh pháp. Giả như có người gặp được của báu nhưng không thể giữ dùng, hoặc quá nhàm chán vứt bỏ, hoặc coi thường mà cho người khác.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Phật tử hành theo Phật hành, vì muốn an trụ giữ gìn mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ v.v… và vô biên Phật pháp khác khiến không đoạn tận, thì sẽ cầu được kho pháp báu sâu xa. Họ đối với kho pháp báu sâu xa như vậy, thâm tâm khởi tưởng chân bảo quí trọng, khéo thọ dùng, tinh tấn chuyên cần, giữ gìn không cho hoại mất.

Khánh Hỷ nên biết! Chẳng phải dã can có thể học được tiếng rống sư tử; chỉ có sư tử con do sư tử chúa sanh mới có thể học được tiếng rống ấy.    

Khánh Hỷ nên biết! Nói dã can là dụ cho các tà kiến của phàm phu ngu si. Họ chắc chắn không thể tinh tấn siêng năng, phương tiện học tiếng rống đại Sư tử Chánh đẳng giác, mà phải các đệ tử Phật sanh từ trí tự nhiên Chánh đẳng giác, mới có thể tinh tấn siêng năng tu học tiếng rống đại Sư tử Chánh đẳng giác. Như vậy, chỉ có đệ tử Phật mới có thể nhận dùng pháp tài Vô thượng Chánh đẳng giác.

Khi ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Kỳ diệu thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể tập họp chúng hội thanh tịnh như thế. Hi hữu thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể nhóm chúng hội tối thắng, chúng hội tự nhiên, chúng hội khó chinh phục, chúng hội như Kim cương không động, không chuyển, không loạn, để thuyết Bát nhã Ba la mật.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Ông đã tán thán hoàn hảo về công đức của chúng hội.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Công đức của chúng hội chẳng phải con có thể khen ngợi. Vì sao? Vì nay nhờ chúng hội này thành tựu vô lượng, vô biên công đức, như núi Diệu Cao khen chẳng thể hết được.

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, nay chúng hội này thành tựu vô lượng, vô biên công đức thù thắng thanh tịnh hiếm có. Chư Phật Thế Tôn khen ngợi còn không thể hết huống là các hữu tình khác.

Này Xá lợi Tử! Trong chúng hội này, không phải sức của Phật Thế Tôn có thể tập hợp, cũng chẳng phải Như Lai ưa thích chúng hội này mà khiến cho họ tập hợp; chỉ do sức căn lành của chúng này nghe danh Ta mà đến nhóm hội.

Lại nữa, đại chúng này không vì Phật đến, cũng chẳng phải thần thông của Như Lai làm cho họ đến, mà do sức căn lành của chúng này tự giác ngộ phát khởi mà đến đây, đúng pháp là như vậy. Nếu Phật Thế Tôn muốn nói diệu pháp sâu xa như thế, thì nhất định có các đại Bồ Tát như thế, từ các nước Phật mà đến nhóm hội.

Này Xá lợi Tử! Nếu chư Phật Thế Tôn quá khứ, hiện tại, vị lai hoặc mười phương cõi, muốn khai thị tạng pháp Bồ Tát sâu xa mầu nhiệm để dứt trừ tất cả nghi, thì chắc chắc có đại chúng với vô lượng, vô biên công đức tối thắng thanh tịnh như thế tập hợp. Nếu có đại chúng với vô lượng, vô biên công đức tối thắng thanh tịnh như thế tập hợp, thì chư Phật Thế Tôn nói tạng pháp Bồ Tát sâu xa mầu nhiệm để dứt trừ tất cả nghi.

Phật lại bảo đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

- Này Thiện Dũng Mãnh! Ta ở bất cứ nơi nào cũng vì các chúng đại Bồ Tát tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, giúp họ siêng năng tu học.

Sự học Bát nhã Ba la mật của chúng Bồ Tát như thế nào? Nếu có thể thông đạt được thật tánh các pháp là Bát nhã Ba la mật. Như vậy, Bát nhã Ba la mật mầu nhiệm sâu xa không thể nói. Nay theo chỗ biết cảnh giới văn cú thế tục của các ông, Ta phương tiện diễn nói Bát nhã Ba la mật sâu xa, giúp các chúng đại Bồ Tát nghe rồi, phương tiện tinh tấn siêng năng tu học.

 

(Tất cả pháp không phải là Bát Nhã, lìa tất cả pháp

cũng không phải là Bát Nhã?)

 

Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn chẳng phải Bát nhã Ba la mật; thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Lìa sắc uẩn chẳng phải Bát nhã Ba la mật; lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì bờ kia của sắc uẩn không phải là sắc uẩn; bờ kia của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không phải là thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Như bờ kia sắc uẩn, sắc uẩn cũng vậy; như bờ kia thọ, tưởng, hành, thức uẩn, thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng vậy.

Thiện Dũng Mãnh! Trong đây, bờ kia của sắc uẩn không phải là sắc uẩn, là nói sắc uẩn lìa trói buộc; bờ kia của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không phải là thọ, tưởng, hành, thức uẩn, là nói thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa trói buộc.

Như bờ kia sắc uẩn, sắc uẩn cũng vậy. Nói tự tánh sắc uẩn như vậy, tức là nói sắc uẩn như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia thọ, tưởng, hành, thức uẩn; thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng vậy. Nói tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn như vậy, tức là nói thọ, tưởng, hành, thức uẩn như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.

Như sắc uẩn như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Như thọ, tưởng, hành, thức uẩn như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy.

Thiện Dũng Mãnh! Nhãn xứ chẳng phải Bát nhã Ba la mật; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Lìa nhãn xứ chẳng phải Bát nhã Ba la mật; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì bờ kia của nhãn xứ không phải là nhãn xứ; bờ kia của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như bờ kia nhãn xứ, nhãn xứ cũng vậy; như bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vậy.

Thiện Dũng Mãnh! Trong đây, bờ kia của nhãn xứ không phải là nhãn xứ, là nói nhãn xứ lìa trói buộc; bờ kia của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, là nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ lìa trói buộc.

Như bờ kia nhãn xứ, nhãn xứ cũng vậy. Nói tự tánh nhãn xứ như vậy, tức là nói nhãn xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vậy. Nói tự tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như vậy, tức là nói nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.

Như nhãn xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy. Như nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy.

Thiện Dũng Mãnh! Sắc xứ chẳng phải Bát nhã Ba la mật; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Lìa sắc xứ chẳng phải Bát nhã Ba la mật; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì bờ kia của sắc xứ không phải là sắc xứ; bờ kia của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như bờ kia sắc xứ, sắc xứ cũng vậy; như bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vậy.

Thiện Dũng Mãnh! Trong đây, bờ kia của sắc xứ không phải là sắc xứ, là nói sắc xứ lìa trói buộc; bờ kia của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, là nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ lìa trói buộc.

Như bờ kia sắc xứ, sắc xứ cũng vậy. Nói tự tánh sắc xứ như vậy, tức là nói sắc xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vậy. Nói tự tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như vậy, tức là nói thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.

Như sắc xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát Nhã cũng lại như vậy. Như thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy.

Nhãn giới cho đến nhãn thức giới cũng lại như vậy.

Thiện Dũng Mãnh! Tất cả pháp chẳng phải Bát nhã Ba la mật; lìa tất cả pháp cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì bờ kia của tất cả pháp không phải là tất cả pháp. Như bờ kia tất cả pháp, tất cả pháp cũng vậy.

Thiện Dũng Mãnh! Trong đây, bờ kia của tất cả pháp không phải là tất cả pháp, là nói tất cả pháp lìa trói buộc. Như bờ kia tất cả pháp, tất cả pháp cũng vậy. Nói tự tánh tất cả pháp như vậy, tức là nói tất cả pháp như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.

Như tất cả pháp như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không nương vào sắc uẩn; cũng không nương vào thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Bát nhã Ba la mật không nương vào nhãn xứ; cũng không nương vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Bát nhã Ba la mật không nương vào sắc xứ; cũng không nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Bát nhã Ba la mật không nương vào nhãn giới; cũng không nương vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Bát nhã Ba la mật không nương vào sắc giới; cũng không nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Bát nhã Ba la mật không nương vào nhãn thức giới; cũng không nương vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Bát nhã Ba la mật không nương vào tất cả pháp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong sắc uẩn, không ở ngoài sắc uẩn, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Cũng không ở trong thọ, tưởng, hành, thức uẩn, không ở ngoài thọ, tưởng, hành, thức uẩn, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong 12 xứ, 18 giới không ở ngoài 12 xứ, 18 giới không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong tất cả pháp, không ở ngoài tất cả pháp, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật cùng ngũ uẩn chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Bát nhã Ba la mật cùng 12 xứ, 18 giới chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cùng tất cả pháp chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ngũ uẩn như (chơn như ngũ uẩn) tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ như, 18 giới như tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp như tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ngũ uẩn ấy tánh lìa ngũ uẩn. Vì sao? Vì chẳng phải trong ngũ uẩn có tánh ngũ uẩn. Đây là vô sở hữu, nên gọi Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ mười tám giới ấy tánh lìa tất cả xứ giới. Vì sao? Vì chẳng phải trong 12 xứ 18 giới có tánh tất cả xứ giới. Đây là vô sở hữu, nên gọi Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp ấy tánh lìa tất cả pháp. Vì sao? Vì chẳng phải trong tất cả pháp có tánh tất cả pháp. Đây là vô sở hữu, nên gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tự tánh sắc uẩn lìa sắc uẩn. Tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Tự tánh lìa này gọi là Bát nhã Ba la mật. Tự tánh 12 xứ lìa 12 xứ. Tự tánh 18 giới lìa 18 giới. Tự tánh lìa này gọi là Bát nhã Ba la mật. Tự tánh tất cả pháp lìa tất cả pháp. Tự tánh lìa này gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Ngũ uẩn không có tự tánh ngũ uẩn. Không có tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ không có tự tánh 12 xứ. Mười tám giới không có tự tánh 18 giới. Không có tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không có tự tánh tất cả pháp và không có tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Thay lời lược giải:

 

1. Phần đầu của quyển 594, nói đến Tát đỏa, Bồ Tát, Bồ đề, Bồ đề Bồ Tát hay Bồ đề Tát đỏa như phần cuối của quyển 593. Quyển 594 đề cập đến Ma ha tát hay Bồ Tát Ma ha tát. Thông thường do phân biệt giác tâm(nguyện đại, hạnh đại, chúng sanh đại) giữa các chúng sanh đó mà nói lên sự khác biệt về danh tướng. Nhưng theo Phật nếu thật giác Bồ đề cùng tâm chẳng thể đắc, không sanh chẳng sanh, nên gọi là Bồ Tát, cũng gọi Ma ha tát. Phật bảo:

“Này Thiện Dũng Mãnh! Bồ đề cùng tâm chẳng phải mỗi có khác, chẳng ở trong tâm có thật Bồ đề, chẳng phải trong Bồ đề có thật tâm, Bồ đề cùng tâm như thật như lý đều chẳng thể nói đây giác đây tâm. Bởi như thật giác Bồ đề cùng tâm đều chẳng thể đắc, không sanh chẳng sanh, nên gọi Bồ Tát, cũng gọi Ma ha tát và như thật hữu tình. Vì sao? Vì như thật biết chẳng thật có tánh. Như thật biết chẳng thật có tánh gì? Là các thế gian đều chẳng thật có, chẳng thật sở nhiếp, chẳng thật có sanh, chỉ giả an lập.

Sao là thế gian chẳng thật có sanh chỉ giả an lập? Chẳng thật có ấy, vì không thật sanh vậy. Vì không thật sanh và chẳng thật có, nên nói các pháp không thật không tánh. Do như thật biết chẳng thật có tánh, nên cũng có thể nói như thật hữu tình. Đối trong thật có cũng chẳng chấp thật có, nên lại có thể nói tùy như thật hữu tình. Mặc dù nói như vậy mà như không nói. Vì sao? Vì lý như thật chẳng phải có chút hữu tình hoặc Ma ha tát. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì chứng vào Đại thừa gọi Ma ha tát vậy”.     

Đó là ý nghĩa về các danh tướng kể trên. Thông thường theo thế đế, sở dĩ được gọi là đại Bồ Tát hay Bồ Tát Ma ha tát là những vị tu hành có nguyện đại, hạnh đại, chúng sanh đại. Câu kết luận của đoạn kinh này làm chúng ta ngạc nhiên: “Vì lý như thật chẳng có chút hữu tình hoặc Ma ha tát. Vì sao? Vì chứng vào Đại thừa gọi là Ma ha tát”. Vậy, phải biết như thế nào gọi là Đại thừa, xin đọc tiếp:

 

2. Hầu hết các Kinh sách đều nói Đại thừa là cỗ xe lớn có thể chở nhiều chúng sanh đến bờ bên kia. Nhưng ở đây Đại thừa lại nói về trí, nói về Ma ha tát, Bồ đề, Bồ Tát...

“Này Thiện Dũng Mãnh! Sao gọi Đại thừa? Nghĩa là Nhất thiết trí gọi là Đại thừa. Sao gọi Nhất thiết trí? Nghĩa là có bao các trí hoặc trí hữu vi, hoặc trí vô vi, hoặc trí thế gian, hoặc trí xuất thế gian, hoặc trí năng chứng vào như thế thảy gọi Ma ha tát. Vì sao? Vì năng xa lìa tưởng đại hữu tình gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại vô minh gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại chư hành gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại vô tri gọi Ma ha tát. Lại năng xa lìa nhóm đại chúng khổ gọi Ma ha tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu năng xa lìa được tưởng đại hữu tình gọi Ma ha tát. Các vị ấy đối tất cả pháp tâm tâm sở, tuy vô sở đắc mà năng biết rõ được bản tánh của tâm. Các vị ấy đối Bồ đề và Bồ đề phần pháp, tuy vô sở đắc mà năng biết rõ được bản tánh Bồ đề. Các vị ấy do trí đây chẳng đối nội tâm thấy có Bồ đề, cũng chẳng lìa tâm thấy có Bồ đề. Chẳng đối trong Bồ đề thấy có thật tâm, cũng chẳng lìa Bồ đề thấy có thật tâm. Như vậy trừ khiển, không sở tu tập, không sở trừ khiển, đối sở tu tập và sở trừ khiển đều không sở đắc, không sở nương cậy, không sở chấp đắm. Mặc dù chẳng thấy có tâm tánh Bồ đề, mà năng phát khởi được tâm Đại Bồ đề.

Nếu có thể phát tâm Bồ đề như thế thì mới gọi là chơn thật Bồ Tát ”.

Không thấy tâm, không thấy Bồ đề, không sở trừ khiển, không sở tu tập... Phát tâm Bồ đề hay phát tâm hướng đến Đại thừa, sự phát tâm này cũng không năng sở, không phân biệt chấp đắm. Nếu hành được như thế tức an trụ Bồ đề, an trụ Đại thừa mới gọi là chơn Bồ Tát !

 

3. Điểm đáng chú ý thứ ba trong quyển thứ 594, là Kinh đề cập đến uẩn, xứ, giới và tất cả pháp, tức Kinh muốn nói đến danh sắc(1), thân căn(2) và khí thế gian(3) hay nói khác là muốn đề cập đến TÂM và VẬT, y báo chánh báo hay nhân sinh quan và vũ trụ quan(4), mà trong đó Bát nhã Ba la mật giữ vai trò quan trọng trong việc bày tỏ quan điểm của mình. Phật bảo:

Bát nhã Ba la mật không nương vào sắc uẩn; cũng không nương vào thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Bát nhã Ba la mật không nương vào nhãn xứ; cũng không nương vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Bát nhã Ba la mật không nương vào sắc xứ; cũng không nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Bát nhã Ba la mật không nương vào nhãn giới; cũng không nương vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Bát nhã Ba la mật không nương vào sắc giới; cũng không nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Bát nhã Ba la mật không nương vào nhãn thức giới; cũng không nương vào nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Bát nhã Ba la mật không nương vào tất cả pháp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong sắc uẩn, không ở ngoài sắc uẩn, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Cũng không ở trong thọ, tưởng, hành, thức uẩn; không ở ngoài thọ, tưởng, hành, thức uẩn; không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong 12 xứ, 18 giới không ở ngoài 12 xứ, 18 giới, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong tất cả pháp, không ở ngoài tất cả pháp, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật cùng ngũ uẩn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bát nhã Ba la mật cùng 12 xứ, 18 giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cùng tất cả pháp chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ngũ uẩn như (chơn như ngũ uẩn) tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ như, mười tám giới như tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp tánh như chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ngũ uẩn ấy tánh lìa ngũ uẩn. Vì sao? Vì chẳng phải trong ngũ uẩn có tánh ngũ uẩn. Đây là vô sở hữu, nên gọi Bát nhã Ba la mật. 12 xứ 18 giới ấy tánh lìa tất cả xứ giới. Vì sao? Vì chẳng phải trong 12 xứ 18 giới có tánh tất cả xứ giới. Đây là vô sở hữu, nên gọi Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp ấy tánh lìa tất cả pháp. Vì sao? Vì chẳng phải trong tất cả pháp có tánh tất cả pháp. Đây là vô sở hữu, nên gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Tự tánh sắc uẩn lìa sắc uẩn. Tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Tự tánh lìa này gọi là Bát nhã Ba la mật. Tự tánh 12 xứ lìa 12 xứ. Tự tánh 18 giới lìa 18 giới. Tự tánh lìa này gọi là Bát nhã Ba la mật. Tự tánh tất cả pháp lìa tất cả pháp. Tự tánh lìa này gọi là Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ngũ uẩn không có tự tánh ngũ uẩn. Không có tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ không có tự tánh 12 xứ. Mười tám giới không có tự tánh 18 giới. Không có tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không có tự tánh tất cả pháp và không có tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Nói Bát Nhã không nương vào uẩn, xứ, giới, Bát Nhã cũng không ở trong uẩn xứ giới, không ở ngoài, cũng không ở giữa, xa lìa mà trụ. Điều đó có nghĩa Bát Nhã cũng không nương, không trụ, không chấp... Kinh cũng nói thêm rằng mặc dù vạn hữu trong thiên sai vạn biệt như thế nào đi nữa cũng đều không có tự tánh và không có tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật.

Nói tự tánh các pháp lìa tất cả pháp. Tự tánh này gọi là Bát nhã Ba la mật. Bát Nhã cũng là pháp. Không pháp nào có tự tánh, nên nói là không. Tự tánh là cái tự có bản thể riêng biệt, “nó là nó”, cái có thể tự sanh. Nhưng không có pháp nào có tự thể riêng biệt, nên gọi là không. Trong tánh Không tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc thì làm gì có buộc, có lìa. Có buộc, có lìa, là có dính mắc là do tâm hành của con người, không phải do các pháp. Bát Nhã không có trói, không mở cũng không lìa. Vì Bát Nhã cũng là không. Biết như vậy gọi là Bát nhã Ba la mật, nên có thể lìa tất cả.

Trong phần cuối của quyển 594 có đoạn kinh quan trọng đáng ghi nhớ là: “Ngũ uẩn như (chơn như ngũ uẩn) tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ như, mười tám giới như tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp tánh như chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Chỉ khi nào thấy được như như của uẩn xứ giới hay của vạn pháp, tánh nó chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác. Như này là như thường tại chẳng lúc nào chẳng như tức chứng được chơn như thật tướng của tất cả pháp thì gọi là thấy Bát Nhã. Vì như cũng là không, Bát Nhã cũng là không. Thấy pháp như, pháp không là thấy thật tướng của tất cả pháp, tức thấy tánh bình đẳng như như bất động của tất cả pháp. Thấy biết như vậy, thì được tâm thanh tịnh như chơn như, như pháp giới, như pháp tánh, như thật tế... Như vậy, là nhập pháp giới nên gọi là giác ngộ.

Ngày nào còn thấy trần cảnh lao xao gọi là “Hợp trần bội giác” nên mất tâm. Vì vậy Kinh bảo: Tự tánh tất cả pháp lìa tất cả pháp. Tự tánh lìa này gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Thích nghĩa cho phần “Thay lời lược giải” này:

(1). Danh sắc: (名色) Phạm, Pàli: nàma-rùpa là từ gọi chung danh và sắc, là chi thứ tư trong 12 chi nhân duyên. Cũng gọi danh sắc chi. Thông thường gọi một cách tổng quát tất cả tinh thần (danh) và vật chất (sắc). Danh nói về phương diện tâm, sắc chỉ phương diện vật. Danh sắc cũng chỉ chung cho năm uẩn. Trong năm uẩn: Thụ, Tưởng, Hành, Thức là tâm pháp; tâm không có hình thể, phải nhờ danh biểu hiện, cho nên gọi Thụ, Tưởng, Hành, Thức là danh. Sắc uẩn do nhiều cực vi tạo thành, là vật thể có chất ngại, nên gọi là sắc. Về ý nghĩa của danh sắc, giữa các tông phái có sự giải thích khác nhau. Hữu bộ đứng trên lập trường Thai sinh học để lý giải 12 duyên khởi, chủ trương mỗi chi trong 12 chi duyên khởi đều lấy năm uẩn làm thể. Trong đó, năm uẩn của sát na đầu tiên lúc thụ thai kết sinh, gọi là thức, chi Thức. Sau khi thụ thai, bốn sắc căn: mắt, tai, mũi, lưỡi chưa thành, sáu chỗ chưa đủ, gọi là danh sắc, chi Danh sắc. Nhưng tông Duy thức thì cho chi Danh sắc là chủng tử của dị thục uẩn, tức là năm chi thức v.v... nhờ chi Vô minh và chi Hành giúp đỡ mà dẫn sinh ra quả ở vị lai, gọi là Chủng tử danh ngôn của Dị thục vô ký, trong đó, ngoại trừ chủng tử của bản thức, sáu căn, xúc, thụ, còn lại đều là danh sắc. Hoặc có thuyết nói, chủng tử của năm uẩn đều là danh sắc. Ngoài ra, nếu giải thích 12 duyên khởi trên quan điểm luận lý và quan hệ, thì duyên thức mà sanh danh sắc, duyên danh sắc mà có lục xứ, tức danh sắc là đối tượng của thức nương vào cơ năng của lục xứ, rồi do thức nhận biết tất cả pháp. [X. Trường a hàm Q.10 Kinh Đại duyên phương tiện; luận Đại tỳ bà sa Q.23; luận Câu xá Q.9; luận Thành duy thức Q.8; luận Du già sư địa Q.9, Q.56, Q.93; luận Thuận chính lý Q.26; Đại thừa nghĩa chương Q.4; Đại thừa Pháp Tướng Tôn danh mục Q.1 phần dưới]. (xt. Thập Nhị Nhân Duyên) - Từ điển Phật Quang.

Thích nghĩa này có tánh bác học, vì dựa vào 12 duyên khởi và Duy thức học. Nếu không học qua hai môn này, không dễ gì hiểu được danh sắc là như thế nào. Nói nôm na, danh là những gì thuộc thân căn như nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý. Đối tượng của sáu cơ năng này là sắc thanh hương vị xúc pháp. Sự tương quan giữa căn (danh) và trần (sắc) tức tương quan giữa con người và môi trường sống của con người, gọi chung là danh sắc. Nói một cách chuyên môn danh sắc là thân căn và khí thế gian hay nhân sinh và vũ trụ, là đối tượng nghiên cứu của các khoa nhân văn kể cả tôn giáo. Với định nghĩa sơ khởi đó, đi xa hơn chúng ta mới có thể hiểu thế nào là thân căn và khí thế gian hay nói khác là các quan điểm thuộc nhân sinh và vũ trụ, được giải thích sau đây.

(2). Thân căn: (身根) Phạm, Pàli: Kàyendriya. Gọi tắt: Thân. Chỉ cho tịnh sắc (vật chất rất nhỏ nhiệm) tiếp thu lấy xúc cảnh vô kiến hữu đối, là chỗ nương gá của thức thân. Ở đây chỉ cho tịnh sắc căn trong thân thể chứ không phải nói về phù trần căn của nhục thể; là 1 trong 5 căn, 1 trong 6 căn, 1 trong 12 xứ, 1 trong 18 giới, 1 trong 22 căn. Theo Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương, quyển 3 thì nghĩa của chữ Thân là lấy theo nghĩa chứa nhóm, nghĩa nương tựa của tiếng Phạm Kàya (Hán âm: Ca da). Các đại chủng và tạo sắc khác như nhãn căn... tuy cũng đều chứa nhóm, nhưng Thân căn là chỗ nương tựa của các căn và nhiều pháp, tức nhiều pháp đều chứa nhóm trong thân căn, cho nên đặc biệt gọi Thân là Kàya. Thân căn này, trong 12 xứ được gọi là Thân xứ (Phạm: Kàyàyatana), trong 18 giới, gọi là Thân giới (Phạm:Kàya-dhàtu). Thông thường gọi Thân là chỉ chung cho khối thịt, khác hẳn với Thân căn. Trong các luận Tỳ bà sa... gân, thịt... được gọi chung là Phù trần căn, đối với Thân căn có tác dụng năng xúc thì gọi là Thắng nghĩa căn. Thân căn chỉ tồn tại ở cõi Dục và cõi Sắc, cõi Vô sắc thì không. Luận Đại tỳ bà sa quyển 90 cho rằng Thân căn ở địa ngục khác với Thân căn ở cõi người, nghĩa là trong địa ngục cho dù bị cắt đứt ra từng lóng đốt, cho đến vữa nát ra cũng vẫn còn Thân căn. [X. luận Đại tỳ bà sa Q.144; luận Du già sư địa Q.3, 54; luận Thành duy thức Q.10; luận Câu xá Q.4; Câu xá luận quang ký Q.2, 4; Thành duy thức luận thuật ký Q.3, phần đầu, 10 phần cuối; Phật gia danh tướng thông thích Q.thượng (Hùng thập lực)]. - Từ điển Phật Quang.

(3). Khí thế hay khí thế gian: (器世間) Phạm: Bhàjana-loka, cũng gọi Khí thế giới, Khí giới, Khí. Chỉ cho đất nước là nơi sinh sống của tất cả chúng sinh, 1 trong 3 thế gian. Vì đất nước chứa đựng chúng sinh giống như đồ dùng chứa đựng các vật nên gọi là Khí, dễ biến đổi, dễ hư nát nên gọi là Khí thế gian. Cứ theo luận Đại tỳ bà sa, quyển 134, thì trong 1 kiếp Khí thế gian được tạo thành, trong 19 kiếp các loài hữu tình dần dần sinh trụ. Khí thế gian chỉ đến cõi trời Sắc cứu kính, phía trên đó là trời Vô sắc. Tiểu thừa cho rằng Khí thế gian do cộng nghiệp của chúng sinh chiêu cảm lấy, còn Duy thức Đại thừa thì chủ trương rằng Khí thế gian là do thức A lại da biến hiện. Ngoài ra, trong luận Tịnh độ của Ngài Thiên thân, Tịnh độ trang nghiêm của Phật A di đà được gọi là Khí thế gian thanh tịnh, vì Tịnh độ này là do sức bản nguyện của Như lai kiến lập, cho nên gọi là Khí thế gian, nhưng khác với quốc độ hữu lậu do cộng nghiệp của chúng sinh chiêu cảm. [X. luận Đại tỳ bà sa Q.133; luận Câu xá Q.11; luận Thành duy thức Q.2; Vãng sinh luận chú Q.3; Câu xá luận quang ký Q.11; Thành duy thức luận thuật ký Q.3 phần đầu; Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết Q.5; Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký Q.17; Hoa nghiêm Kinh tùy sớ diễn nghĩa sao Q.1; Bách pháp vấn đáp sao Q.1; Phiên dịch danh nghĩa tập Q.7]. (xt. Thế Gian) - Từ điển Phật Quang.

(4). Nhân sinh quan và vũ trụ quan: Quan điểm về cuộc đời, về ý nghĩa và mục đích cuộc sống giữa con người và vũ trụ hay quan niệm về mối tương quan vật chất và tinh thần giữa con người với con người và giữa con người với vũ trụ.

Tất cả thích nghĩa trên có tánh cách trừu tượng siêu hình, rất khó hiểu khó nhớ. Tuy nhiên, đó là những “khái niệm” sống động do Phật và chư Tổ phát minh. Chính nhờ những khái niệm này mà chúng ta có thể xác định vị trí của chúng ta trong mối hỗ tương giữa Tâm và Vật hay giữa con người và vũ trụ.

 

Chúng ta tụng tiếp Q. 595, phần “Bát Nhã Ba La Mật”:


Quyển thứ 595

 

Gợi ý:

Quyển 595 cũng thuyết về Nhân sinh quan và Vũ trụ quan Bát Nhã như quyển 594, chỉ triển khai thêm, nội dung không khác. Điểm đáng lưu ý là phần đầu của quyển 596 kế tiếp cũng lại tiếp tục thuyết về uẩn xứ giới như quyển 594 và 595. Nên chúng tôi đem phần đầu quyển 596, ghép vào phần cuối của quyển thứ 595 cho tư tưởng được liên tục mà không ảnh hưởng gì tới bố cục hay giáo lý Bát nhã Ba la mật. Có lẽ Tăng đoàn khi trùng tu Kinh Đại Bát Nhã phân đoạn không được chính xác chăng? Đây không phải sửa sai hay chấn chỉnh mà đây chỉ trình bày lại cho thông suốt thôi. Đọc tiếp quý vị sẽ rõ. Chúng tôi chỉ thay đổi hình thức, lấy phần đầu của quyển dưới để lên phần cuối của quyển trên (có cùng một chủ đề về uẩn xứ giới) cho tư tưởng được liên tục mà không thay đổi cấu trúc hay nội dung chủ đề. Nếu không thay đổi cấu trúc hay nội dung, thì chẳng có gì phải lo ngại. Chúng tôi chịu trách nhiệm về sự thay đổi này. Tu Phật không có nghĩa là quá câu nệ hay bảo thủ!

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không phải sở hành sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không phải sở hành thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không phải sở hành sắc uẩn nên không biết, không thấy. Nếu đối với sắc uẩn không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Thiện Dũng Mãnh! Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không phải sở hành thọ, tưởng, hành, thức uẩn nên không biết, không thấy. Nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật.

Mười hai xứ không phải sở hành 12 xứ. 12 xứ không phải sở hành 12 xứ nên không biết, không thấy. Nếu đối với 12 xứ không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười tám giới không phải sở hành 18 giới. 18 giới không phải sở hành 18 giới nên không biết, không thấy. Nếu đối với 12 xứ, 18 giới không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không phải sở hành tất cả pháp. Tất cả pháp không phải sở hành tất cả pháp nên không biết, không thấy. Nếu đối với tất cả pháp không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không bỏ tự tánh sắc uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không bỏ tự tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! 12 xứ không bỏ tự tánh 12 xứ. 18 giới không bỏ tự tánh 18 giới. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không bỏ tự tánh tất cả pháp. Nếu đối với tự tánh biết khắp như vậy thì gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn cùng với năm uẩn không hợp, không lìa. Như vậy, năm uẩn không hợp, không lìa gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ cùng với 12 xứ không hợp, không lìa. 18 giới cùng với 18 giới cũng không hợp, không lìa. Như vậy, 12 xứ 18 giới không hợp, không lìa gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp cùng với tất cả pháp không hợp, không lìa. Như vậy, tất cả pháp không hợp, không lìa gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không thêm, không bớt. Như vậy, năm uẩn không thêm, không bớt gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ không thêm, không bớt. Mười tám giới cũng không thêm, không bớt. Như vậy, 12 xứ, 18 giới không thêm, không bớt gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không thêm, không bớt. Như vậy, tất cả pháp không thêm, không bớt gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không dơ, không sạch. 12 xứ không dơ, không sạch. 18 cũng không dơ, không sạch. Như vậy, 12 xứ 18 giới không dơ, không sạch gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không dơ, không sạch. Như vậy, tất cả pháp không dơ, không sạch gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, năm uẩn không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không có pháp sạch, không có pháp không sạch. 18 giới cũng không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, 12 xứ 18 giới không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không có pháp sạch, không có pháp không sạch. Như vậy, tất cả pháp không có pháp sạch, không có pháp không sạch gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, năm uẩn không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát nhã Ba la mật. Mười hai xứ không dời chuyển, không hướng vào. Mười tám giới không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, 12 xứ 18 giới không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không dời chuyển, không hướng vào. Như vậy, tất cả pháp không dời chuyển, không hướng vào gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, năm uẩn không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không trói buộc, không lìa trói buộc. 18 giới không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, 12 xứ 18 giới không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không trói buộc, không lìa trói buộc. Như vậy, tất cả pháp không trói buộc, không lìa trói buộc gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không chết, không sống. Như vậy, năm uẩn không chết, không sống gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không chết, không sống. 18 giới không chết, không sống. Như vậy, 12 xứ 18 giới không chết, không sống gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không chết, không sống. Như vậy, tất cả pháp không chết, không sống gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, năm uẩn không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. 18 giới không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, 12 xứ 18 giới không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển. Như vậy, tất cả pháp không lưu chuyển, không có pháp lưu chuyển gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không tận, không có pháp tận. Như vậy, năm uẩn không tận, không có pháp tận gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không tận, không có pháp tận. 18 giới không tận, không có pháp tận. Như vậy, 12 xứ 18 giới không tận, không có pháp tận gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không tận, không có pháp tận. Như vậy, tất cả pháp không tận, không có pháp tận gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, năm uẩn không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. 18 giới không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, 12 xứ 18 giới không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt. Như vậy, tất cả pháp không có pháp tập hợp, không có pháp hoại diệt gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, năm uẩn không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. 18 giới không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, 12 xứ 18 giới không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không có pháp sanh khởi, không có pháp tận. Như vậy, tất cả pháp không có pháp sanh khởi, không có pháp tận gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vây, năm uẩn không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. 18 giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, 12 xứ 18 giới không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại. Như vậy, tất cả pháp không có pháp biến hoại, không có pháp không biến hoại gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch. Như vậy, năm uẩn không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp cũng như vậy.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si. Như vậy, năm uẩn không có pháp tham, sân, si; không có pháp lìa tham, sân, si gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp cũng như vậy.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn chẳng tác giả, chẳng khiến tác giả, chẳng khởi giả, chẳng đẳng khởi giả, chẳng liễu giả, chẳng khiến liễu giả, chẳng thọ giả, chẳng khiến thọ giả, chẳng tri kiến giả. Như vậy, năm uẩn chẳng tác giả, chẳng khiến tác giả, chẳng khởi giả, chẳng đẳng khởi giả, chẳng liễu giả, chẳng khiến liễu giả, chẳng thọ giả, chẳng khiến thọ giả, chẳng tri kiến giả là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ, 18 giới chẳng tác giả, chẳng khiến tác giả, chẳng khởi giả, chẳng đẳng khởi giả, chẳng liễu giả,chẳng khiến liễu giả, chẳng thọ giả, chẳng khiến thọ giả, chẳng tri kiến giả gọi là Bát nhã Ba la mật. Như vậy, 12 xứ 18 giới và tất cả pháp cũng lại như thế.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên. Như vậy, năm uẩn không đoạn, không thường, không hữu biên, không vô biên gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp cũng lại như thế.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái. Như Vậy, năm uẩn không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái gọi là Bát nhã Ba la mật. Như vậy, 12 xứ 18 giới và tất cả pháp cũng lại như thế.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không thiện, không phải không thiện. Như vậy, năm uẩn không thiện, không phải không thiện gọi là Bát nhã Ba la mật. 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp không thiện, không phải không thiện, gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không thể thi thiết có đến, có đi, có trụ, không trụ. Mười hai xứ, 18giới cũng không thể thi thiết có đến, có đi, có trụ, không trụ. Tất cả uẩn xứ giới không đến, không đi, không trụ, không phải không trụ như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không thể thi thiết có xa, có bờ kia. 12 xứ, 18 giới cũng không thể thi thiết có xa, có bờ kia. Tất cả uẩn xứ giới không thể thi thiết có xa, có bờ kia như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không thể thi thiết có yêu, có giận, có sợ, có si. 12 xứ, 18 giới cũng không thể thi thiết, có yêu, có giận, có sợ, có si. Tất cả uẩn xứ giới không yêu, không giận, không sợ, không si như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.  

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không cho, không lấy, không giữ giới, không phạm giới, không nhẫn, không phải không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ, không ác tuệ. 12 xứ, 18 giới cũng không cho, không lấy, không giữ giới, không phạm giới, không nhẫn, không phải không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ, không ác tuệ. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không cho, không lấy, không giữ giới, không phạm giới, không nhẫn, không phải không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ, không ác tuệ như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không điên đảo, không phải không điên đảo. 12 xứ, 18 giới cũng không điên đảo, không phải không điên đảo. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không điên đảo, không phải không điên đảo như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi. 12 xứ, 18 giới đều không niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn vô minh, không giải thoát. Uẩn xứ giới đều vô minh, không giải thoát. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều vô minh, không giải thoát như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.  

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí. 12 xứ, 18 giới cũng không tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không tĩnh lự, đẳng trì, đẳng chí như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không hữu lượng, không vô lượng, không thần thông, không phải không thần thông. Mười hai xứ, 18 giới cũng không hữu lượng, không vô lượng, không thần thông, không phải không thần thông. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không hữu lượng, không vô lượng, không thần thông, không phải không thần thông như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không phải Không, không phải chẳng Không, không hữu tướng, không vô tướng, không hữu nguyện, không vô nguyện. 12 xứ, 18 giới cũng không phải Không, không phải chẳng Không, không hữu tướng, không vô tướng, không hữu nguyện, không vô nguyện. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không phải Không, không phải chẳng Không, không hữu tướng, không vô tướng, không hữu nguyện, không vô nguyện như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không hữu vi, không vô vi, không hữu lậu, không vô lậu, không thế gian, không xuất thế gian, không có buộc, không lìa buộc. 12 xứ, 18 giới cũng không hữu vi, không vô vi, không hữu lậu, không vô lậu, không thế gian, không xuất thế gian, không có buộc, không lìa buộc. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không hữu vi, không vô vi, không hữu lậu, không vô lậu, không thế gian, không xuất thế gian, không có buộc, không lìa buộc như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không hữu trước, không vô trước, không hữu trí, không vô trí. 12 xứ, 18 giới đều không hữu trước, không vô trước, không hữu trí, không vô trí. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không hữu trước, không vô trước, không hữu trí, không vô trí như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không nắm giữ, không lay động, không hý luận. Mười hai xứ mười tám giới cũng không nắm giữ, không lay động, không hý luận. Như vậy, tất cả uẩn xứ giới đều không nắm giữ, không lay động, không hý luận như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không có tưởng, không vô tưởng. 12 xứ 18 giới cũng không có tưởng, không vô tưởng. Tất cả uẩn, xứ, giới đều không có tưởng, không vô tưởng, như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không vắng lặng, không phải không vắng lặng. 12 xứ, 18 giới cũng không vắng lặng, không phải không vắng lặng. Tất cả uẩn, xứ, giới đều không vắng lặng, không phải không vắng lặng như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Năm uẩn không Niết bàn, không phải không Niết bàn. 12 xứ, 18 giới cũng không Niết bàn, không phải không Niết bàn. Tất cả uẩn, xứ, giới đều không Niết bàn, không phải không Niết bàn như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói năm uẩn bị nhiếp sanh khởi chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói năm uẩn được nhiếp sanh khởi có bao như tướng(chơn như các pháp), tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật(1). Đã nói 12 xứ, 18 giới thảy bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói 12 xứ, 18 giới thảy được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói duyên khởi bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói duyên khởi được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói điên đảo bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói điên đảo được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói các che (ngũ uẩn hay ngũ che) bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói các che được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói 36 ái hành(2) bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói ba mươi sáu ái hành được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói 62 kiến thú(3)bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói sáu mươi hai kiến thú được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói bốn vô lượng, năm thần thông chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói bốn vô lượng, năm thần thông có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói hữu vi sở nhiếp thế gian tất cả các pháp căn lành bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói hữu vi sở nhiếp thế gian tất cả các pháp căn lành được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói 37 pháp trợ đạo, Tứ đế, bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói 37 pháp trợ đạo, Tứ đế được nhiếp sanh khởi, có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh không phải là Bát nhã Ba la mật. Nói giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến thanh tịnh sở hữu như tướng, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, gọi là Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói vô vi sở nhiếp pháp xuất thế gian không nương vô lậu, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói vô vi sở nhiếp pháp xuất thế gian không nương vô lậu có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô tác, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô tác có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Đã nói minh giải thoát lìa diệt Niết bàn, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói minh giải thoát lìa diệt Niết bàn có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật. Vì sao?

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì Bát nhã Ba la mật như vậy không phải sắc uẩn nắm giữ, cũng không phải thọ, tưởng, hành, thức uẩn nắm giữ; không phải 12 xứ, 18 giới nắm giữ; không phải địa giới nắm giữ, cũng không phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới nắm giữ; không phải cõi Dục nắm giữ, cũng không phải cõi Sắc, Vô sắc nắm giữ; không phải hữu vi nắm giữ, cũng không phải vô vi nắm giữ; không phải thế gian nắm giữ, cũng không phải xuất thế gian nắm giữ; không phải hữu lậu nắm giữ, cũng không phải vô lậu nắm giữ; không phải pháp thiện nắm giữ, cũng không phải pháp bất thiện nắm giữ; không phải hữu tình giới nắm giữ, cũng không phải phi hữu tình giới nắm giữ, cũng không xa lìa các pháp riêng như vậy mà có Bát nhã Ba la mật. (Hết Q.595, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng bị các pháp nhiếp thuộc, cũng không phải không bị các pháp nhiếp thuộc. Như vậy, pháp nhiếp thuộc và pháp không nhiếp có được như tướng (chơn như), như pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh như sở hữu gọi là Bát nhã Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Đã nói năm uẩn bị nhiếp sanh khởi chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói năm uẩn được nhiếp sanh khởi có bao như tướng (chơn như các pháp), tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật”. Nếu năm uẩn bị nhiếp phục (như nói mưa ngoài trời như mưa trong lòng nên sanh đau buồn) tức sanh khởi thì không gọi là Bát nhã Ba la mật. Có nghĩa nếu con người bị ngoại cảnh chi phối sanh tâm nhiễm tịnh, vui buồn... Người đó bị ngũ che nên không thấy được tánh giác. Vì sao? Vì hợp trần thì bội giác. Nếu ngũ uẩn bị nhiếp phục mà thấy được chơn như thực tướng của tất cả pháp, người đó có thể nói là nhập pháp giới hay giác ngộ. Vì sao? Vì bội trần thì hợp giác. Từ giác ở đây đồng nghĩa với Bát Nhã Trí hay nói khác là giác ngộ (Giác ngộ hay Bát Nhã không hai không khác). Khi giác ngộ thì có Bát Nhã Trí hay ngược lại thì có thể tháo gỡ sự nhiếp thuộc của thế giới nội hay ngoại mà được như như.

(2). Ba mươi sáu ái hành: Ái hành là vì dục vọng che mờ tâm trí đưa đến hành động sai quấy, khác với kiến hành là vì cái thấy sai lầm gây ra phiền não. Trong các Kinh có khi nói đến 18 ái hành, có khi nói đến 36 ái hành trong số 108 ái hành.

(3). Sáu mươi hai tà kiến còn gọi là lục thập nhị kiến: Nhiều Kinh giải thích có nội dung khác nhau.

1- Theo Kinh Đại Bát Nhã :

- Một: Năm uẩn duyên với bốn trạng thái làm thành hai mươi kiến giải:

1/. Bốn kiến giải của Sắc: 1). Sắc là thường, 2). Sắc là vô thường, 3). Sắc là cả thường lẫn vô thường, 4). Sắc là không (phi) thường cũng không (phi) vô thường.

2/. Bốn kiến giải của Thọ: 1). Thọ là thường, 2). Thọ là vô thường, 3). Thọ là cả thường lẫn vô thường, d) Thọ là phi thường phi vô thường.

3/. Bốn kiến giải của Tưởng: 1). Tưởng là thường, 2). Tưởng là vô thường, 3). Tưởng là cả thường lẫn vô thường, d) Tưởng là phi thường phi vô thường.

4/. Bốn kiến giải của Hành: 1). Hành là thường, 2). Hành là vô thường, 3). Hành là cả thường lẫn vô thường, 5). Hành là phi thường phi vô thường.

5/. Bốn kiến giải của Thức: 1). Thức là thường, 2). Thức là vô thường, 3). Thức là cả thường lẫn vô thường, 4). Thức là phi thường phi vô thường.

- Hai: Năm uẩn duyên với tứ biên làm thành hai mươi kiến giải:

1/. Bốn kiến giải của Sắc: 1). Sắc là hữu biên, 2), Sắc là vô biên, 3). Sắc là cả hữu lẫn vô biên, 4). Sắc phi hữu phi vô biên.

2/. Bốn kiến giải của Thọ: 1). Thọ hữu biên, 2). Thọ vô biên, 3). Thọ hữu lẫn vô biên, 4). Thọ phi hữu phi vô biên,

3/. Bốn kiến giải của Tưởng: 1). Tưởng hữu biên, 2). Tưởng vô biên, 3). Thọ là hữu lẫn vô biên, 4). Thọ phi hữu phi vô biên.

4/. Bốn kiến giải của Hành: 1). Hành hữu biên, 2). Hành vô biên, 3). Hành cả hữu lẫn vô biên, 4). Hành phi hữu phi vô biên.

5/. Bốn kiến giải của Thức: 1). Thức hữu biên, 2). Thức vô biên, 3). Thức cả hữu lẫn vô biên, 4). Thức phi hữu phi vô biên.

- Ba: Năm uẩn duyên với bốn chuyển làm thành 20 kiến giải:

1/. Bốn kiến giải của Sắc: 1). Sắc như khứ (sắc kể như mất), 2). Sắc chẳng như khứ (sắc kể như chẳng mất), 3). Sắc như khứ chẳng như khứ (sắc kể như mất mà cũng kể như chẳng mất), 4). Sắc phi như khư phi chẳng như khứ (sắc chẳng kể như mất, chẳng kể như chẳng mất).

2/. Bốn kiến giải của Thọ: 1). Thọ như khứ, 2). Thọ chẳng như khứ, 3). Thọ như khứ chẳng như khứ, 4). Thọ phi như khứ phi chẳng như.

3/. Bốn kiến giải của Tưởng: 1). Tưởng như khứ, 2). Tưởng chẳng như khứ, 3). Tưởng như khứ chẳng như khứ, 4). Tưởng phi như khứ phi chẳng như khứ.

4/. Bốn kiến giải của Hành: 1). Hành như khứ, 2). Hành chẳng như khứ, 3). Hành như khứ chẳng như khứ, 4). Hành phi như khứ phi chẳng như khứ.

5/. Bốn kiến giải của Thức: 1). Thức như khứ, 2). Thức chẳng như khứ, 3). Thức như khứ chẳng như khứ, 4). Thức phi như khứ phi chẳng như khứ.

- Bốn: Đồng Nhất thân tâm.

- Năm: Dị Biệt thân tâm.

2- Theo tông Thiên Thai: có 62 ngã kiến:

1/. Bốn kiến giải của sắc: 1). Sắc là Ngã, 2). Lìa Sắc vẫn có Ngã, 3). Sắc là lớn, ngã là nhỏ; ngã trụ trong sắc, 4). Ngã là lớn, sắc là nhỏ; sắc trụ trong ngã. Cùng một tiến trình như vậy đối với Thọ, Tưởng, Hành Thức trong hiện tại, quá khứ và vị lai sẽ tạo thành 60 kiến giải, cọng với:

2/. Đoạn Kiến, và

3/. Thường Kiến thì thành 62 kiến. Đã thích nghĩa rồi, chỉ lặp lại để nhớ.

3- Theo Kinh Phạm Võng, Trường A hàm: Có ghi lại tất cả sáu mươi hai luận chấp (có kiến giải sai lầm, nên gọi là tà kiến) thịnh hành, bao hàm tất cả các vấn đề và các giải đáp những vấn đề ấy của thời bấy giờ. Có mười tám luận chấp về quá khứ: Bốn chủ trương thuyết thường trú, bốn chủ trương thuyết vừa thường trú vừa vô thường, bốn chủ trương thuyết hữu biên và vô biên, bốn chủ trương thuyết ngụy biện, và hai chủ trương thuyết không có nhân quả. Có bốn mươi bốn luận chấp về tương lai: Mười sáu chủ trương là còn tri giác sau khi chết, tám chủ trương là không còn tri giác sau khi chết, tám chủ trương là không phải còn cũng không phải không còn tri giác sau khi chết, bảy chủ trương thuyết đoạn diệt, và năm chủ trương thuyết hiện tại là Niết bàn. Sau khi trình bày những sai lầm của sáu mươi hai luận chấp, đức Phật nói: “Hàng trăm hàng ngàn học thuyết đang hiện hành và tranh chấp lăng xăng trong giới triết học và tôn giáo hiện nay đều nằm kẹt trong cái lưới của sáu mươi hai luận chấp ấy, không thể nào vượt thoát ra nổi. Các vị khất sĩ! Đừng đi vào trong cái lưới mê hồn ấy để mất hết thời giờ và cơ hội tu tập đạo giải thoát. Đừng đi vào cái lưới của sự hý luận... Tất cả những luận chấp kia đều phát sinh do sự lừa gạt của tri giác và của cảm thọ(chúng tôi thường dùng cụm từ cảm giác và ý thức). Vì không tu tập chánh niệm, vì không quán chiếu nên người ta không biết được chân tướng của tri giác và cảm thọ, do đó đã bị tri giác và cảm thọ lừa gạt. Nếu thấy được nguồn gốc và bản chất của tri giác và cảm thọ, người ta sẽ thấy được tự tính vô thường và duyên sinh của sự vật, người ta sẽ không bị vướng vào lưới tham ái, lo âu và sợ hãi, người ta sẽ không bị vướng vào cái lưới của sáu mươi hai luận chấp”.

Kinh Phạm Võng cho thấy rằng tất cả sáu mươi hai luận chấp về bản tính của ngã và ngoại giới bắt nguồn từ hai tri lượng (pramàna, source of knowledge): Kinh nghiệm và suy luận. Sự khác biệt giữa hai phái cực đoan, duy lý và duy nghiệm, là ở điểm phe duy lý không chấp nhận phương pháp thực tu thực chứng mà chỉ dùng lý trí và suy luận”. (Trích trong tác phẩm “Nhận Thức và Tánh Không” của Hồng Dương Nguyễn văn Hai).

 

Thay lời lược giải:

 

Toàn quyển 595 của phần “Bát Nhã Ba La Mật” này thuyết về uẩn xứ giới tức danh sắc hay thân căn và khí thế gian cũng như quyển 594 nói trên. Kinh bảo nó không phải là cảnh sở hành. Vì sao? Vì tất cả pháp tự nó vô tri trong như như tướng của nó, nó “không dơ không sạch, không lưu chuyển, không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch, không trói buộc cũng không lìa trói buộc; tất cả pháp không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si; tất cả pháp chẳng tác giả, chẳng khiến tác giả...; tất cả pháp không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái; tất cả pháp không thiện, không phải không thiện v.v... và v.v... ” Nếu tri nhận tất cả pháp như vậy thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Nên kinh nói:

“... Năm uẩn không Niết bàn, không phải không Niết bàn. 12 xứ, 18 giới cũng không Niết bàn, không phải không Niết bàn. Tất cả uẩn, xứ, giới đều không Niết bàn, không phải không Niết bàn như thế, đấy gọi là Bát nhã Ba la mật”. Đó là nói theo đệ nhất nghĩa đế, mà đệ nhất nghĩa đế, gọi là Bát nhã Ba la mật.

Thấy tất cả pháp không động chuyển, tâm như như bất động tức thấy Bát nhã Ba la mật. Nên kinh bảo tiếp:

“... Đã nói năm uẩn bị nhiếp sanh khởi chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói năm uẩn được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói 12 xứ, 18 giới thảy bị nhiếp sanh khởi, chẳng gọi Bát nhã Ba la mật. Đã nói 12 xứ, 18 giới thảy được nhiếp sanh khởi có bao như tướng, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật”.

 

 Thấy sắc mê sắc, muốn nắm giữ, rồi sanh thi vi tạo tác. Từ đó sanh ra vui buồn, sướng khổ... Chiêu cảm ngũ dục lục trần lúc nào cũng đưa đến mất mát nhiều hơn là được. Đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa các uẩn với các căn trần xứ giới trong cuộc đời thường tục. Nhưng nếu thấy thế giới nội và ngoại là “không thể thi thiết có đến có đi, có trụ không trụ; không thể thi thiết có xa có bờ kia; không thể thi thiết có yêu có giận, có sợ có si; không cho không lấy, không giữ giới không phạm giới, không nhẫn không phải không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ không ác tuệ, không điên đảo không phải không điên đảo, không hữu lượng không vô lượng, không thần thông không phải không thần thông, không phải Không không phải chẳng Không, không hữu tướng không vô tướng, không hữu nguyện không vô nguyện, không hữu vi không vô vi, không hữu lậu không vô lậu, không thế gian không xuất thế gian, không có buộc không lìa buộc, không hữu trước không vô trước, không hữu trí không vô trí, không nắm giữ, không lay động, không hý luận, không có tưởng không vô tưởng, không vắng lặng không phải không vắng lặng, không Niết bàn không phải không Niết bàn...” thì siêu xuất hồng trần tức được tịch lặng an nhiên. Vì sao? Vì tất cả pháp trên là nhị pháp, còn nằm trong nhị pháp là còn khổ, dứt khỏi nhị pháp liền hết khổ, tức được Niết bàn. Tri giác được như vậy tức là trí tuệ, thành đạo tướng trí. Vì vậy, trong Tâm Kinh Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát mới bảo Xá Lợi Phất: “Này Xá Lợi Phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế”. Nếu xem các uẩn, xứ, giới là không, tức tâm không mà vật cũng không, trong ngoài rỗng không trong suốt thì không còn quái ngại nữa.

Thật ra quyển thứ 595 chỉ là chi tiết hóa hay diễn dịch rộng thêm ảnh hưởng của VẬT đối với TÂM hay ngược lại, tuy nói nhiều nhưng không ra ngoài hai chiều hỗ tương sanh khởi của các đối tượng này.

 

Chúng ta đọc tiếp Q.596, phần “Bát Nhã Ba La Mật”:

 

Quyển thứ 596 

 

(Như như).

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Như ấy có nghĩa là gì? Thiện Dũng Mãnh! Như ấy là tánh các pháp, chẳng phải như phàm phu ngu si có thể đắc, cũng không phải người khác có thể đắc. Nhưng tánh các pháp như các Như Lai và đệ tử Phật, Bồ Tát đã thấy, pháp tánh như thế lý thú chơn thật thường không biến đổi, nên gọi là như. Tức như đây nói là Bát nhã Ba la mật sâu thẳm của Bồ Tát.      

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật sâu thẳm đối với tất cả pháp như vậy, không thêm, không bớt, không hợp, không lìa, không thiếu, không đủ, không lợi, không hại, không di chuyển, không hướng đến, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không lưu chuyển, không hoàn diệt, không tập khởi, không ẩn mất, không hữu tướng, không vô tướng, không bình đẳng, không phải không bình đẳng, không thế tục, không thắng nghĩa, không vui, không khổ, không thường, không vô thường, không sạch, không phải không sạch, không ngã, không vô ngã, không chắc thật, không hư dối, không người làm, không vật làm, không dung nạp, không phải không dung nạp, không tin hiểu, không phải không tin hiểu, không tự tánh, không phải không tự tánh, không chết, không sống, không sống, không chết, không nổi, không chìm, không nối, không dứt, không hòa hợp, không phải không hòa hợp, không có tham, không lìa tham, không có sân, không lìa sân, không có si, không lìa si, không điên đảo, không phải không điên đảo, không sở duyên, không phải không sở duyên, không có tận, không phải không tận, không có trí, không phải không trí, không tánh thấp, không tánh cao, không có ân, không phải không ân, không đi qua, không trở lại, không có tánh, không phải không tánh, không thương, không ghét, không sáng, không tối, không tinh tấn, không giải đãi, không phải Không, không phải chẳng Không, không hữu tướng, không vô tướng, không có nguyện, không vô nguyện, không tạo tác, không phải không tạo tác, không ẩn mất, không phải không ẩn mất, không vô minh, không giải thoát, không vắng lặng, không phải không vắng lặng, không Niết bàn, không phải không Niết bàn, không như lý, không phải không như lý, không biết khắp, không phải không biết khắp, không ra khỏi, không phải không ra khỏi, không điều phục, không phải không điều phục, không giữ giới, không phạm giới, không tán loạn, không phải không tán loạn, không diệu tuệ, không ác tuệ, không thức, không phải không thức, không trụ, không phải không trụ, không đồng phần, không khác phần, không có, không phải không có, không được, không phải không được, không hiện quán, không phải không hiện quán, không tác chứng, không phải không tác chứng, không thông đạt, không phải không thông đạt. Bát nhã Ba la mật sâu thẳm đối với tất cả pháp, không vì các sự việc này mà hiện tiền.

(Nói tóm lại, các pháp như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như. Như này là chơn như thật tướng của tất cả pháp. Chỉ có chư Phật với chư Phật mới thấu hiểu như này. Tất cả phẩm “Chơn Như” của Đại Bát Nhã đều nói “Như” như thế: Tuy trong đối đãi mà lìa nhị nguyên, nên mới nói là như thường tại, chẳng lúc nào chẳng như. Chỉ có Như Lai hiểu cái như này, nên mới được gọi là Như Lai).

 

(Như mộng, như huyễn, như bóng nắng...)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Như người trong mộng nói mộng đã thấy các thứ tự tánh. Đã nói tự tánh cảnh mộng như thế đều không có. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Mộng còn không có, huống là có thể nói tự tánh cảnh mộng! Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật dù giả nói có các thứ tự tánh, mà Bát nhã Ba la mật đây thật không tự tánh khá tuyên nói được. Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Như mộng chẳng vì chỉ rõ các pháp mà hiện tiền. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cũng lại chẳng vì chỉ rõ các pháp mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như huyễn sĩ nói đã thấy các thứ tự tánh của huyễn. Đã nói tự tánh cảnh huyễn như thế đều không có. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Huyễn còn không có, huống chi có tự tánh cảnh huyễn! Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật dù giả nói có các thứ tự tánh, mà Bát nhã Ba la mật đây thật không tự tánh khá tuyên nói được. Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Như huyễn chẳng vì sanh khởi các pháp mà hiện tiền. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cũng lại chẳng vì sanh khởi các pháp mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như bóng nắng, người ta nói nhiều loại tự tánh bóng nắng. Nói tự tánh bóng nắng như vậy đều không có. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì bóng nắng còn không có, huống là có thể nói có tự tánh bóng nắng. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy giả nói có nhiều loại tự tánh, nhưng Bát nhã Ba la mật này thật không tự tánh có thể nói. Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Như bóng không vì hiển bày các pháp mà hiện tiền. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cũng không vì hiển bày các pháp mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như quáng nắng, người ta nói nhiều loại tự tánh của quáng nắng. Nói tự tánh quáng nắng như vậy đều không có. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì quáng nắng còn không có, huống là có thể nói có tự tánh của quáng nắng. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy giả nói có nhiều loại tự tánh, nhưng Bát nhã Ba la mật này thật không tự tánh có thể nói. Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Như quáng nắng không vì hiển bày các pháp mà hiện tiền. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cũng không vì hiển bày các pháp mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như người đứng ở trong hang núi thảy nghe tiếng vang, trọn không thấy, nhưng khi tự nói lại nghe tiếng mình. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật dù có nghe các thứ văn cú, mà pháp đã nghe trọn không tự tánh. Chỉ trừ khi nói thì có thể nghe hiểu. Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Như tiếng vang chẳng vì chỉ rõ các pháp mà hiện tiền. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cũng lại chẳng vì chỉ rõ các pháp mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như người thấy bọt nước nổi, liền nói nhiều loại tự tánh bọt nổi. Nói tự tánh bọt nổi đều không có. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì nói bọt nước nổi còn không thật có, huống là có tự tánh có thể nói. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy giả nói có nhiều loại tự tánh, nhưng Bát nhã Ba la mật này thật không có tự tánh có thể nói. Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Như bọt nổi không vì các pháp sanh khởi mà hiện tiền. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cũng không vì các pháp sanh khởi mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như người lột bẹ chuối để tìm lõi, thật sự tuy không được lõi nhưng có bẹ chuối để dùng. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy không chơn thật nhưng có tác dụng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người vì muốn chỉ bày hư không rộng lớn, dù có nói thế nào cũng không thể chỉ rõ hư không được. Cũng vậy, vì muốn trình bày Bát nhã Ba la mật, dù nói như thế nào nhưng Bát nhã Ba la mật này không thể trình bày.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như hư không rộng lớn, dù đem nhiều cách trình bày, nói ra nhưng hư không rộng lớn, khó có thể trình bày được. Cũng vậy, tuy dùng nhiều thứ ngôn từ trình bày Bát nhã Ba la mật, nhưng Bát nhã Ba la mật này không có pháp chơn thật có thể trình bày.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như ánh sáng dù có trình bày rõ ràng nhưng không có thật pháp để nắm bắt được. Tuy không thể nắm bắt nhưng vẫn có sự hiển chiếu của ánh sáng ấy. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy giả mượn văn cú nói ra nhiều cách, nhưng không có pháp chơn thật để nắm bắt. Tuy không thể nắm bắt nhưng có thể chiếu soi các pháp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như ngọc mạt ni tuy có ánh sáng lớn, mà ánh sáng ấy không trong ngoài khá được. Như vậy, Bát nhã Ba la mật dù năng soi sáng tất cả pháp tánh, mà trong ngoài ấy trọn chẳng thể được.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như ánh sáng ngọn đèn tuy chao động nhưng có thể soi rõ, giúp người có mắt thấy các màu sắc. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy đối với các pháp đều không có chỗ trụ nhưng có thể chiếu khắp, khiến các Thánh giả thấy thật tánh các pháp.

 

(Bát Nhã không phải là thực tại cứu cánh)

 

Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Kỳ lạ thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuy thuyết Bát nhã Ba la mật, nhưng nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh(viên thành thật)(1).

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì năm uẩn không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh. Mười hai xứ, mười tám giới cũng không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Vô minh không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não (12 duyên khởi) cũng không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Thường vô thường, khổ vui, ngã vô ngã, tịnh bất tịnh, vắng lặng không vắng lặng, điên đảo không điên đảo, các triền cái, kiến hành, tăng ích, tổn giảm, sanh, trụ, dị, diệt, tập, khởi, ẩn, mất không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, đẳng khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến tri giả, kiến giả, khiến kiến giả không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Pháp chắc thật, hư dối, tới lui, qua lại, thấy có thấy không, trong ngoài v.v… không phải là những thực tại cứu cánh nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, Dục, Sắc, Vô sắc giới, hữu tình giới, pháp giới không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Nghiệp dị thục quả, nhân duyên, đoạn thường, ba đời, ba thời không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Bố thí, keo kiệt, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ, tâm, ý, thức không ngừng chết sống, tạp nhiễm, thanh tịnh không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, khổ, tập, diệt, đạo tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, vô lượng thần thông, không, vô tướng, vô nguyện không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Thiện, phi thiện, hữu lậu, vô lậu, thế gian, xuất thế gian, có tội, không tội, hữu vi, vô vi, hữu ký, vô ký, đen trắng, trắng đen, chống trái, thâu nhiếp, liệt, trung, diệu, tham, sân, si không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Thấy, nghe, hay, biết, nương, chấp, an trụ, tầm, tứ, sở duyên, dối nịnh, ganh ghét, tham lam, hòa hợp, nhị tướng, vô sanh, vô tác, chỉ quán, minh giải, tận ly, nhiễm diệt, vứt bỏ các chỗ nương tựa, thế tục, thắng nghĩa không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Pháp Thanh văn địa, pháp Độc giác địa, Nhất thiết trí trí, vô trước trí, tự nhiên trí, vô biên trí, vô đẳng đẳng trí, đại nguyện Bồ Tát, Thanh văn viên mãn, Độc giác viên mãn, vô lượng, vô biên, vô đẳng đẳng, Nhất thiết pháp trí, nhất thiết pháp như thật vô kiến, nhất thiết pháp tri kiến không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Chơn thật, thanh thoát, vắng lặng, cực vắng lặng, rất cực vắng lặng không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tướng hảo đầy đủ, các lực vô úy, mười tám pháp Phật bất cộng không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Niết bàn cho đến tất cả pháp hoặc thiện hoặc phi thiện đều không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Như hư không rộng lớn, không sắc, không thấy, không ngăn ngại, không tánh không phải là những thực tại cứu cánh. Như vậy, Bát nhã Ba la mật không sắc, không thấy, không ngăn ngại, không tánh nên không phải là những thực tại cứu cánh.

Xá lợi Tử! Ví như cầu vòng tuy có đủ màu sắc đẹp hiện ra nhưng không chút thật có. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy mượn các thứ ngôn ngữ trình bày nhưng sự trình bày không có tánh để đắc.

Xá lợi Tử! Ví như hư không tuy dùng các thứ thước tấc đo lường nhưng chưa từng thấy có chừng bằng đầu ngón tay là thực tại cứu cánh. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy nương vào các thứ ngôn ngữ trình bày nhưng chưa từng thấy có chút tự thể là thực tại cứu cánh.

 (Rốt ráo tất cả mọi thứ đều không phải là thực tại cứu cánh. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy nương vào các thứ ngôn ngữ văn cú trình bày nhưng chẳng có chút tự thể có thể nắm bắt được, nên nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh. Kết luận này cho chúng ta tự thẩm định giá trị Bát nhã Ba la mật trong việc thành tựu Thánh trí. Chẳng có gì để mong cầu nắm bắt ở đây. Bát Nhã là Không, nhưng đừng có tưởng là cái không chi. Nên nói Bát nhã Ba la mật tuy không phải là thật vật, giống như ánh sáng không thể nắm bắt mà vẫn chiếu soi!)

 

(Bát Nhã lấy vô tánh làm tự tánh)

 

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật này rất khó thấy.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Vì người năng thấy bất khả đắc.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật rất khó giác.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì người năng giác bất khả đắc.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật này không thể hiển bày.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì pháp có thể hiển bày bất khả đắc.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế không thể chỉ rõ được!.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì pháp năng chỉ rõ chẳng thể được vậy.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật lấy vô tánh làm tánh.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô tánh của uẩn, xứ, giới, duyên khởi làm tự tánh. Lấy vô tánh của các điên đảo, các triền cái, tà kiến, ái hành làm tự tánh. Lấy vô tánh của ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, đẳng khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến tri giả, kiến giả, khiến kiến giả làm tự tánh. Lấy vô tánh của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới làm tự tánh. Lấy vô tánh của Dục, Sắc, Vô sắc giới làm tự tánh. Lấy vô tánh của bố thí, keo kiệt, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ làm tự tánh. Lấy vô tánh của các Bồ đề phần pháp, Thánh đế, chỉ quán, vô lượng thần thông, tĩnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, minh thoát làm tự tánh. Lấy vô tánh của tận ly, nhiễm diệt làm tự tánh. Lấy vô tánh của vô sanh trí, diệt trí, Niết bàn làm tự tánh. Lấy vô tánh của Thanh văn địa, Độc giác địa, Phật địa, thế tục tri kiến, thắng nghĩa tri kiến và vô trước trí, Nhất thiết trí trí làm tự tánh.

 

(Bát Nhã lấy gì để hiện tiền?)

 

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì pháp thành tựu, hoại diệt mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật không vì pháp thành tựu sanh khởi, không vì pháp hoại diệt vô ngã mà hiện tiền.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì duyên pháp làm phương tiện mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì tất cả pháp không sở duyên, nên không có pháp có thể làm sở duyên phát khởi Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp không vì tăng giảm mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá tăng giảm.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì vượt khỏi tất cả pháp mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật không thấy có pháp khá vượt.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì tổn hại, hay lợi ích tất cả pháp mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật không thấy có pháp tổn hại, hay lợi ích.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì tập hợp xa lìa tất cả pháp mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá hợp tan.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì giữ, bỏ, điều phục pháp mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp giữ, bỏ, điều phục.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp tạo ân oán mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp tạo ân oán kia.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có khởi, không khởi mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá sanh khởi, không sanh khởi.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chút tương ưng, không tương ưng mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật không thấy có pháp khá cùng tương ưng, không tương ưng.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chút cộng trụ, hay không bất cộng trụ mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá cộng trụ và không cộng trụ.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chỗ sanh khởi, không sanh khởi mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá sanh khởi, không sanh khởi.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có lưu chuyển, không lưu chuyển mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá lưu chuyển, không lưu chuyển.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật như thế chẳng vì chút pháp làm dụng làm cụ mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng thấy chút pháp nào khá làm dụng làm cụ mà hiện tiền vậy.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp chứng tánh bình đẳng, tánh không bình đẳng mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có chút pháp nào khá chứng tánh bình đẳng, tánh không bình đẳng.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có lấy, bỏ mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá lấy, bỏ.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật như thế chẳng vì đối pháp có sở tác vậy mà hiện tiền.

 Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp có sở tác kia.

 

(Bát nhã Ba la mật không là gì cả, không thấy không biết, nên nói không phải là sở tác. Nếu các pháp không có sở tác, thì Bát Nhã cũng không phải là tác chủ mà hiện tiền).

 

(Tại sao nói Bát Nhã là sâu xa?)

 

Xá lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này rất là sâu xa.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các uẩn xứ giới sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa.

Các chi duyên khởi sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Điên đảo, năm triền cái, tà kiến, ái hành sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Ngã, hữu tình v.v… sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Hý luận, không hý luận sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Bố thí, keo kiệt, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Khổ, tập, diệt, đạo, giải thoát, giải thoát tri kiến sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại bình đẳng sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Các lực vô úy, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Vô lượng thần thông sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Trí không chấp mắc ba đời, trí tận tất cả Phật pháp, trí vô sanh, trí diệt, trí vô tác, trí lìa nhiễm sâu xa nên Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa. Trí các ngăn che sâu xa nên Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa.

Này Xá lợi Tử! Ví như biển lớn sâu rộng vô lượng. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật này cũng sâu rộng vô lượng. Nói sâu rộng nghĩa là sự chứng đạt công đức vô biên.

Này Xá lợi Tử! Ví như biển lớn là chỗ tập hợp vô lượng, vô biên các loại châu báu lớn. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tập hợp vô lượng, vô biên ngọc báu đại pháp bảo.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì hiển thị tất cả pháp mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có chút pháp nào khá hiển thị mà hiện tiền.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có trí, không trí mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá gọi có trí và không trí.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chứa đựng mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp chứa đựng.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có sở nhiếp thọ mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá nhiếp thọ vậy.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chỗ nương tựa mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá nương tựa.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có tàng giữ(cất giữ) mà hiện tiền.

Phật đáp:

Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá tàng giữ.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có sở chấp mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp sanh sở chấp vậy.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có sở đắm trước mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá sanh ra đắm trước.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có sở trụ mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá cộng trụ.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có liên tục, có gián đoạn mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp liên tục hay gián đoạn vậy.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp khởi tham, sân, si, lìa tham, sân, si mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp sanh tham, sân, si và lìa tham, sân, si.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp phát khởi năng tri giả và khiến tri giả mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp phát khởi năng tri giả và khiến tri giả.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp rõ biết bản tánh, không bản tánh mà hiện tiền.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá biết bản tánh, không bản tánh.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng vì đối pháp có thanh tịnh vậy mà hiện tại tiền

Phật dạy:

- Như vậy, Bát nhã Ba la mật sâu thẳm chẳng thấy có pháp khá thanh tịnh vậy.

 

(Bát Nhã sâu xa bản tánh thanh tịnh).

 

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các uẩn, xứ, giới bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Duyên khởi, điên đảo, tà kiến, ái hành, tham, sân, si v.v… bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, đẳng khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến tri giả, kiến giả bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh vậy. Đoạn thường biên, vô biên bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, từ, bi, hỷ, xả bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Không điên đảo, khổ, tập, diệt, đạo, thần thông, Thánh đạo, Thanh văn địa, Độc giác địa, Bồ Tát địa, Phật, Pháp, Tăng bảo, pháp Thanh văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Bồ Tát thừa, giải thoát, giải thoát tri kiến, Niết bàn bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, vô trước, tri kiến, mười tám pháp Phật bất cộng bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Dục, Sắc, Vô sắc giới, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hữu tình giới, pháp giới bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh.

 

(Bát Nhã không sắc, không thấy, không chỗ đối ngại).

 

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không sắc, không thấy, không chỗ đối ngại.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy chút pháp nào có sắc, có thấy, có chỗ đối ngại.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không có sở tạo tác.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Kẻ năng tạo tác bất khả đắc vậy.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không sở thú hướng.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu thẳm chẳng thấy có pháp khá thú hướng tới vậy.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không thể thiết lập.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy pháp có thể thiết lập.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật tức là bất cộng.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy pháp khá chung cộng.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật tức là vô tướng.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì tướng các pháp bất khả đắc.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không sở soi rõ.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì năng sở soi rõ bất khả đắc vậy.

 

(Bát Nhã là vô biên).

 

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật tức là vô biên.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các uẩn, xứ, giới vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Duyên khởi, điên đảo, tà kiến, ái hành, tham, sân, si v.v… vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Đoạn thường, thời trước, thời sau, thời giữa vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, không điên đảo vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, sở duyên, giải thoát, giải thoát tri kiến vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Thanh văn địa, Độc giác địa, Phật địa, Phật, Pháp, Tăng bảo, pháp Thanh văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Bồ Tát thừa vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Ngã, hữu tình v.v… Dục, Sắc, Vô sắc giới, vô lượng thần thông, các triền cái, quá khứ, vị lai, hiện tại, vô trước, tri kiến, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hữu tình giới, pháp giới vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. (Q.596, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)

 

(Bát Nhã sâu xa không ngằn mé)

 

Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa ngằn trước giữa sau đều bất khả đắc, đối tất cả pháp cũng vô sở đắc.

Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không ngằn mé.

Xá lợi Tử! Như thái hư không ngằn mé bất khả đắc. Như vậy, Bát nhã Ba la mật ngằn mé cũng bất khả đắc.

Xá lợi Tử! Như địa thủy hỏa phong không thức giới ngằn mé bất khả đắc. Như vậy, Bát nhã Ba la mật ngằn mé cũng bất khả đắc.

Xá lợi Tử! Phải biết Bát nhã Ba la mật ngôi trước giữa sau đều không ngằn mé, cũng không phương cõi.

Xá lợi Tử! Các uẩn, xứ, giới, duyên khởi, điên đảo, các triền cái, tà kiến, ái hành, tham, sân, si, ngã, hữu tình v.v…, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã, Bồ đề phần pháp, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, khổ, tập, diệt, đạo, vô lượng thần thông, minh thoát, giải thoát tri kiến, các pháp phàm phu, pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật và các pháp môn khác không ngằn mé, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không ngằn mé.

Xá lợi Tử! Biên giới của Bát nhã Ba la mật sâu xa bất khả đắc nên gọi là không ngằn mé. Vì bất khả đắc nên gọi là không ngằn mé.

Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa vì không biên giới nên gọi không ngằn mé, vì không ngằn mé nên gọi không biên giới.

Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa tánh ngã, tánh chấp thủ bất khả đắc, nên gọi là không ngằn mé, không biên giới.

Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp không ngằn mé, không biên giới nên Bát nhã Ba la mật cũng không ngằn mé, không biên giới. Vì hư không rộng lớn không ngằn mé, không biên giới nên các pháp cũng không ngằn mé, không biên giới.

 

(Nói tội phước, phàm thánh, uế tịnh, có không hay vô lượng vô biên, không ngằn mé v.v... và v.v... là ở con người. Bát Nhã là vô động, không sắc, không thấy, không chỗ đối ngại, không thể so sánh nên nói là vô biên, sâu xa, không ngằn mé, không biên giới, rộng lớn như hư không).

 

Thích nghĩa:

 (1). Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm dịch là “Viên thành thật”. Nguyên văn chữ Hán cũng là viên thành thật, nghĩa là giữ nguyên văn, không dịch gì cả. Viên thành thật là absolute reality (bhùtatathatà), (bhùta= thực tại, tathatà = chơn như) nên có thể dịch là “thực tại cứu cánh, thực tại kỳ cùng, hay thực tại rốt ráo hay hiện hữu tuyệt đối hay hiện hữu siêu việt”. Cứu cánh hay tuyệt đối chỉ là một, tức là chung cùng, rốt ráo tối hậu nhất.

Viên thành thật là một trong “Tam tánh tam vô tánh” trong Duy Thức Học: 1- Tánh biến kế sở chấp (parikalpita laksana); 2- Tánh y tha khởi (paratantra laksana) và 3- Tánh viên thành thật (parinispanna laksana). Tại sao gọi là viên thành thật? Vì những hiện hữu siêu việt, gọi là thắng nghĩa, nghĩa là xa lìa tất cả tướng không thật và giả tạm. Chỉ khi nào tàng thức trút bỏ hết phiền não, mê dục thì mới có được diệu trí để nhận thức nó. Đây chỉ là cái ý niệm bình đẳng, không sai biệt, nên không có tự tánh. Nhưng một khi nói là đạt được cứu cánh, tuyệt đối hay siêu việt... thì cứu cánh tuyệt đối hay siêu việt không còn ở đó nữa.

Để rõ nghĩa này. Chúng tôi dùng từ điển Phật quang giải thích về “Tam vô tánh” để bổ túc cho thích nghĩa trên.

Tam vô tánh: (三無性) Phạm:Trividhà ni#svabhàvatà. Cũng gọi Tam chủng vô tự tính, Tam vô tự tính, Tam chủng vô tính. Ba thứ Vô tính đối lại với 3 pháp hữu tính do tông Pháp tướng thành lập. Tức khi luận cứu về 3 tính: Biến kế sở chấp, Y tha khởi và Viên thành thực thì thấy chúng đều không có tự tính, nên mới thành lập thuyết Tam vô tính. Đó là: 1. Tướng vô tính (Phạm: Lakwaịani#svabhàvatà), cũng gọi Tướng vô tự tính. Đối với tính Biến kế sở chấp mà lập ra tính này. Bởi vì tính Biến kế sở chấp vốn là cái tình có lý không, nghĩa là về mặt mê tình tuy có, nhưng chẳng qua chỉ là giả tướng hiện ra ngay lúc ấy, ví như hoa đốm trong hư không, đứng về phương diện lý mà nói thì thể và tướng đều không có, nên gọi là Tướng vô tính. 2. Sinh vô tính (Phạm: Utpattini#svabhàvatà), cũng gọi Sinh vô tự tính tính. Đối với tính Y tha khởi mà lập ra tính này. Bởi vì các pháp y tha là nhờ nhiều duyên mà sinh, không có thực tính nhất định, ví như việc ảo thuật, nên gọi là Sinh vô tính. 3. Thắng nghĩa vô tính (Phạm: Pramàrtha-ni#svabhàvatà), cũng gọi Thắng nghĩa vô tự tính tính, Vô chân tính, Đệ nhất nghĩa đế vô tự thể tướng. Đối lại với tính Viên thành thực mà lập ra tính này. Chân như là chân lý thù thắng, cũng là đối cảnh của trí căn bản vô phân biệt, vì thế gọi là Thắng nghĩa. Do xa lìa tính Ngã pháp của Biến kế sở chấp ở trước mà giả nói là vô tính chứ chẳng phải hoàn toàn vô tính. Đây chính là chân như, cũng chính là thực tính Duy thức. Nhưng Tam vô tính này được coi là mật ý thuyết chứ chẳng phải liễu nghĩa, vì tính của 2 tự tính sau trong 3 tự tính chẳng phải là không; ở đây tạm nói nó là vô tính để bác bỏ cái thực tính do người thế tục chấp trước. [X.phẩm Vô tự tính tướng trong kinh Giải thâm mật Q.2, luận Du già sư địa Q.73, 74; luận Hiển dương thánh giáo Q.16; luận Biện trung biên Q.thượng; luận Tam vô tính]. (xt. Tam Tính).

 

Thay lời lược giải:

 

Quyển 596 nói lên “thái độ” của Bát Nhã đối với vạn hữu như thế nào? Chúng sanh đối với những gì hiện bày có thể thấy, có thể nghe, có thể ngửi, có thể nếm, có thể xúc chạm được thì cho là thật có, nên có cái nhìn dễ dãi đầy thuộc tánh trên muôn sự muôn vật. Do đó, chúng sanh nẩy sanh phân biệt chấp đắm hoặc thương hoặc ghét, hoặc vui hoặc buồn, hoặc sợ, hoặc si... nên nắm bắt buông bỏ hay xa lánh. Nhưng trí Bát Nhã biết tất cả vạn hữu dù thiên sai vạn biệt, đều là tổ hợp của các duyên sanh do tứ đại hợp thành, duyên hợp thì có, duyên tan thì rã rời, biến hoại. Nói như vậy để chúng sanh đừng bám víu vào cái hư giả (như huyễn như mộng...) mà gặp nhiều phiền não, khổ lụy thân tâm.

Bát Nhã cũng là pháp, pháp nào pháp nào mà chẳng huyễn chẳng hóa, nhưng không vì vậy mà xa lìa hay đoạn diệt pháp khác.

 

1.  Cái thấy từ bờ kia:

 

1- Bát Nhã với cái nhìn như huyễn, như mộng:

 

“Như người trong mộng nói mộng đã thấy các thứ tự tánh. Đã nói tự tánh cảnh mộng như thế đều không có. Vì sao? Vì mộng còn không có, huống là có thể nói tự tánh cảnh mộng! Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật dù giả nói có các thứ tự tánh, mà Bát nhã Ba la mật đây thật không tự tánh khá tuyên nói được. Lại nữa, như mộng chẳng vì chỉ rõ các pháp mà hiện tiền. Như vậy, Bát nhã Ba la mật cũng lại chẳng vì chỉ rõ các pháp mà hiện tiền”.

 “(...)Ví như người lột bẹ chuối để tìm lõi, thật sự tuy không được lõi nhưng có bẹ chuối để dùng. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy không chơn thật nhưng có tác dụng”.

“(...) như ánh sáng dù có trình bày rõ ràng nhưng không có thật pháp để nắm bắt được. Tuy không thể nắm bắt nhưng vẫn có sự hiển chiếu của ánh sáng ấy. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy giả mượn văn cú nói ra nhiều cách, nhưng không có pháp chơn thật để nắm bắt. Tuy không thể nắm bắt nhưng vẫn chiếu soi các pháp”.

Ở đây nói huyễn nói mộng là nói về cái không thật, cái giả có, hư ảo của các pháp, tức là không, rỗng không để đừng bám víu vào nó. Ở đây không phá pháp mà phá chấp. Nói như vậy không có nghĩa là phải xa lìa các pháp. Bát Nhã cũng vậy dù không có chút thật tánh, không thể diễn nói, dù không thể nắm bắt, không thể sanh khởi... nhưng Bát Nhã vẫn hiển bày, vẫn chiếu soi nếu hành giả Bát Nhã biết tuân theo những chỉ dẫn của nó, “ví người lột bẹ chuối để tìm lõi, tuy không thấy lõi nhưng có bẹ chuối để dùng; ví như ánh sáng dù có trình bày rõ ràng nhưng không phải thật pháp để nắm bắt. Tuy không thể nắm bắt nhưng vẫn chiếu soi”, vì nhờ có ánh sáng đó trái đất có sự sống. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy giả mượn văn cú nói ra nhiều cách, nhưng không phải pháp chơn thật để nắm bắt. Tuy không thể nắm bắt nhưng vẫn chiếu soi, đem lại lợi ích cho tất cả hữu tình.

 

2- Bát Nhã với cái nhìn như như.

 

Phật bảo: “Này Thiện Dũng Mãnh! Như ấy có nghĩa là gì? Thiện Dũng Mãnh! Như ấy là tánh các pháp, chẳng phải như phàm phu ngu si có thể đắc, cũng không phải người khác có thể đắc. Nhưng tánh các pháp như các Như Lai và đệ tử Phật, Bồ Tát đã thấy, pháp tánh như thế lý thú chơn thật thường không biến đổi, nên gọi là như. Tức như đây nói là Bát nhã Ba la mật sâu thẳm của Bồ Tát.      

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật sâu thẳm đối với tất cả pháp như vậy, không thêm không bớt, không hợp không lìa, không thiếu không đủ, không lợi không hại, không di chuyển, không hướng đến, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không lưu chuyển không hoàn diệt, không tập khởi không ẩn mất, v.v...”  

Pháp tánh như thế lý thú chơn thật thường không biến đổi, nó như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, nên gọi là như. Nên quyển 306, phẩm “Phật Mẫu”, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo: “Hoặc như của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc như của tất cả hữu tình, hoặc như của tất cả pháp đều không hai, không riêng biệt, chỉ là một như; vì như như thế không riêng, không khác, không hoại, không tận, chẳng thể phân biệt”.

Đó chính là cái như tướng của vạn hữu, người nào chứng được cái như này thì giống như Như Lai không khác hay ít nhất cũng được gọi là Như Lai tùy sanh.

 

3- Bát Nhã bản tánh thanh tịnh.

 

“Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh.

Phật đáp:

- Đúng vậy! Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các uẩn, xứ, giới bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Duyên khởi, điên đảo, tà kiến, ái hành, tham, sân, si v.v… bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, đẳng khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến tri giả, kiến giả bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh vậy. Đoạn thường biên, vô biên bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, từ, bi, hỷ, xả bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Không điên đảo, khổ, tập, diệt, đạo, thần thông, Thánh đạo, Thanh văn địa, Độc giác địa, Bồ Tát địa, Phật, Pháp, Tăng bảo, pháp Thanh văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Bồ Tát thừa, giải thoát, giải thoát tri kiến, Niết bàn bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, vô trước, tri kiến, mười tám pháp Phật bất cộng bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh. Dục, Sắc, Vô sắc giới, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hữu tình giới, pháp giới bản tánh thanh tịnh nên Bát nhã Ba la mật sâu xa bản tánh thanh tịnh”.

Tất cả pháp là không, tất cả pháp là như, như đó là bình đẳng. Bình đẳng nên gọi là thanh tịnh. Một pháp thanh tịnh, khắp mười phương pháp giới đồng thanh tịnh. Một phương thanh tịnh, mười phương như hư không đồng thanh tịnh.

 Ở đây một lần nữa trước khi chấm dứt 16 pháp hội, Phật ôn lại các pháp như huyễn như mộng, các pháp như, các pháp bình đẳng và bình đẳng này nói là thanh tịnh. Đó chính là cái thấy của bậc chứng ngộ từ bờ kia. Nếu chúng sanh nào có cái thấy như vậy thì như Như Lai không khác.

 

2. Tất cả pháp không phải là thực tại cứu cánh:

 

 Phật bảo:

“Thường vô thường, khổ vui, ngã vô ngã, tịnh bất tịnh, vắng lặng không vắng lặng, điên đảo không điên đảo, các triền cái, kiến hành, tăng ích, tổn giảm, sanh, trụ, dị, diệt, tập, khởi, ẩn, mất không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

“Thiện phi thiện, hữu lậu vô lậu, thế gian xuất thế gian, có tội không tội, hữu vi vô vi, hữu ký vô ký, đen trắng trắng đen, chống trái thâu nhiếp, liệt, trung, diệu, tham, sân, si không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Thấy, nghe, hay, biết, nương, chấp, an trụ, tầm, tứ, sở duyên, dối nịnh, ganh ghét, tham lam, hòa hợp, nhị tướng, vô sanh, vô tác, chỉ quán, minh giải, tận ly, nhiễm diệt, vứt bỏ các chỗ nương tựa, thế tục, thắng nghĩa không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Chơn thật, thanh thoát, vắng lặng, cực vắng lặng, rất cực vắng lặng không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tướng hảo viên mãn, các lực vô úy, mười tám pháp Phật bất cộng không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Niết bàn cho đến tất cả pháp hoặc thiện hoặc phi thiện đều không phải là những thực tại cứu cánh, nên Ta nói Bát nhã Ba la mật không phải là những thực tại cứu cánh.

Như hư không rộng lớn, không sắc, không thấy, không ngăn ngại, không tánh không phải là những thực tại cứu cánh. Như vậy, Bát nhã Ba la mật không sắc, không thấy, không ngăn ngại, không tánh nên không phải là những thực tại cứu cánh. Ví như cầu vòng tuy có đủ màu sắc đẹp hiện ra nhưng không chút thật có. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy mượn các thứ ngôn ngữ trình bày nhưng sự trình bày không có tánh để đắc”.

Vì vậy nói: “Bát nhã Ba la mật tuy nương vào các thứ ngôn ngữ trình bày nhưng chưa từng thấy có chút tự thể là thực tại cứu cánh”.

Bát Nhã không vì tất cả pháp đối đãi hay không đối đãi, Bát Nhã không phải là pháp thành tựu hay hoại diệt, không phải là pháp sở duyên hay không sở duyên, không phải là pháp tăng hay giảm, không phải là pháp tập hợp hay xa lìa... Bát Nhã cũng không phải là pháp lưu chuyển hay hoàn diệt, cũng chẳng phải là pháp có lấy có bỏ, có tạo tác hay không tạo tác... Bát nhã Ba la mật là vô sắc, vô kiến, vô đối, vô tánh, chẳng có chút khá trụ khá vượt, khá vào khá đắc, khá chứng khá thọ, chỗ được coi là công đức. Bát Nhã không vì tất cả pháp xấu hay tốt mà hiện tiền. Bất cứ chỗ nào, ở đâu Bát Nhã cũng nói đến các pháp đối đãi, các pháp lưỡng nguyên... Bát Nhã là đệ nhất nghĩa đế, không bao giờ trụ trong đó.

Kỳ cùng Bát Nhã chẳng phải là thực tại cứu cánh. Một khi Bát Nhã đạt được cứu cánh rồi, thì cứu cánh không còn là cứu cánh nữa. Vậy, chẳng có gì gọi là kỳ đặc, phi thường, chẳng có gì được thần-thánh-hóa hay tôn sùng ở đây. Pháp nhĩ tự nhiên thôi! Vì vậy, Phật thuyết pháp 49 năm mà tuyên bố “Ta không nói một chữ”. Pháp nhĩ tự nhiên thành dù có Phật hay không. Khi thấu đạt như vậy, thì nói huyền thuyết diệu làm gì thêm nhọc!

Nói về cứu cánh hay đòi hỏi một cái gì tuyệt đối là rơi vào vực thẳm tuyệt mù không đáy. Tất cả sự thật phơi bày trước mắt, nó là nó, là bình đẳng, như như… giản dị thế thôi. Đừng nghĩ tưởng gì khác! Nhất niệm khởi, trần lao dậy sóng!

Tới đây, chúng ta rõ ra rằng nhờ thấy mặt trái mới biết mặt phải, nhờ thấy tục mới hiểu chân, nhờ đứng ở bờ bên này nên mới có thể thấy bờ bên kia... Không có gì là huyễn hoặc kỳ bí trong Bát Nhã.

Tùy theo thế tục Phật phương tiện giả nói, không thi thiết thì không thể hiểu pháp. Vậy, nói đa thù hay nhất thể, hữu hạn hay vô hạn hay gì gì chăng nữa... cũng được, miễn đừng phân biệt, chấp đắm. Chúng ta có thể tìm thấy giáo pháp này khắp trong 600 quyển Đại Bát Nhã.

Không có gì đặc thù, tuyệt đối hay siêu việt ở đây. Nếu đối diện với Thiền sư mà đặt vấn về “dao to búa lớn” như vậy, có lẽ bị các Ngài cho ăn ba mươi gậy. Đói ăn mệt ngủ là đời sống đạo hay nói như Thiền sư Nam Tuyền “Tâm bình thường là đạo”.

 

Có một vị Thiền sư Trụ trì chùa Thê Hiền ở Lư Sơn từng nói với Tăng đồ rằng: “Chỉ cần ra khỏi cổng tăng đường, nhìn thấy ngọn Ngũ Lão phong, là chuyện tham học một đời coi như đã đủ”. Tại sao thế? Vì ngọn Ngũ Lão trong câu chuyện này là biểu trưng của sự hiện tiền. Vậy, ngày ngày sáng trưa chiều tối lúc nào cũng nhìn thấy Ngũ Lão phong hiện diện trước mắt. Đó là cái hiện tiền, “cái ấy”, cái sẵn có trước mắt.

Thấy như vậy biết như vậy là đủ, chẳng lãng phí một đời tu học. Đó là trí tuệ, tìm đâu xa, nó là nó!

Sát na vĩnh hằng chính là hiện tại. Đừng nghĩ tưởng mông lung!

 

3. Tất cả pháp là không.

 

“Bát nhã Ba la mật không vì pháp thành tựu, hoại diệt mà hiện tiền, Bát nhã Ba la mật không vì pháp thành tựu sanh khởi, không vì pháp hoại diệt vô ngã mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật không vì duyên pháp làm phương tiện mà hiện tiền, vì tất cả pháp không sở duyên, nên không có pháp có thể làm sở duyên phát khởi Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp không vì tăng giảm mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá tăng giảm. Bát nhã Ba la mật không vì vượt khỏi tất cả pháp mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật không thấy có pháp khá vượt. Bát nhã Ba la mật không vì tổn hại, hay lợi ích tất cả pháp mà hiện tiền, Bát nhã Ba la mật không thấy có pháp tổn hại, hay lợi ích. Bát nhã Ba la mật không vì tập hợp xa lìa tất cả pháp mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá hợp tan. Bát nhã Ba la mật không vì giữ, bỏ, điều phục pháp mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp giữ, bỏ, điều phục. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp tạo ân oán mà hiện tiền, Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp tạo ân oán. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có khởi, không khởi mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá sanh khởi, không sanh khởi. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chút tương ưng, không tương ưng mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật không thấy có pháp khá cùng tương ưng, không tương ưng. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chút cọng trụ, hay bất cọng trụ mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá cọng trụ và không cọng trụ. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có lưu chuyển không lưu chuyển mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá lưu chuyển không lưu chuyển. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng vì chút pháp làm dụng làm cụ mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng thấy chút pháp nào khá làm dụng làm cụ mà hiện tiền vậy. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp chứng tánh bình đẳng tánh không bình đẳng mà hiện tiền, Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có chút pháp nào khá chứng tánh bình đẳng tánh không bình đẳng. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có lấy, có bỏ mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá lấy, khá bỏ. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng vì đối pháp có sở tác mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp có sở tác kia”.

Đối với Bát Nhã Nội không, Ngoại không, Nội ngoại đều không, Không không, Đại không, Đệ nhất nghĩa không, Hữu vi không, Vô vi không, Tất cánh không, Vô thủy không, Tán không, Tánh không, Tự tướng không, Chư pháp không, Bất khả đắc không, Vô pháp không, Hữu pháp không, Vô pháp hữu pháp cũng không... Nói tóm lại, tất cả đều không và cái không sau cùng cũng không nốt. Khi tâm thể được gột sạch như thế thì còn gì để bám víu hay trói buộc. Nên Kinh nói: “Bát nhã Ba la mật như thế chẳng vì đối pháp có sở tác mà hiện tiền”. Vì sao? Vì “Bát nhã Ba la mật lấy pháp Không làm cảnh sở hành”.

Bát Nhã không trụ không chấp thì lấy cái gì làm sở tác sở hành. Vì vậy mới nói Bát Nhã hành vô biên cảnh. Bát Nhã không đem lại một kết quả trực tiếp nào. Bát Nhã chỉ hoạt dụng qua phương tiện. Vì vậy, có một số học giả trong đó có Tăng Triệu mới bảo Bát Nhã là “vô tri”. Kinh Bát nhã Ba la mật cũng nói tất cả pháp là vô tri trì độn. Nếu nói như vậy, Bát Nhã cũng là pháp, nên nó không thoát khỏi thông lệ này. Do ái pháp không ai dám xác định như vậy, nên không thấy “tận không”.

Nhưng văn nghĩa của đoạn Kinh trên biểu lộ tánh cách vô tri của Bát Nhã. Có lẽ không ai thích lối diễn tả Bát Nhã bằng từ này. Vậy, có thể nói Bát Nhã là “trung tính” chăng? Có lẽ cũng không ai chấp nhận ý kiến này cả. Vì vậy, mới có đoạn Kinh kế tiếp.

 

4. Bát Nhã lấy vô tánh của tất cả pháp làm tự tánh:

 

“Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật lấy vô tánh làm tánh.

 Phật bảo:

- Đúng vậy! Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô tánh của uẩn, xứ, giới, duyên khởi làm tự tánh. Lấy vô tánh của các điên đảo, các triền cái, tà kiến, ái hành làm tự tánh. Lấy vô tánh của ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, đẳng khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến tri giả, kiến giả, khiến kiến giả làm tự tánh. Lấy vô tánh của địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới làm tự tánh. Lấy vô tánh của Dục, Sắc, Vô sắc giới làm tự tánh. Lấy vô tánh của bố thí, keo kiệt, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ làm tự tánh. Lấy vô tánh của các Bồ đề phần pháp, Thánh đế, chỉ quán, vô lượng thần thông, tĩnh lự giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, minh thoát làm tự tánh. Lấy vô tánh của tận ly, nhiễm diệt làm tự tánh. Lấy vô tánh của vô sanh trí, diệt trí, Niết bàn làm tự tánh. Lấy vô tánh của Thanh văn địa, Độc giác địa, Phật địa, thế tục tri kiến, thắng nghĩa tri kiến và vô trước trí, Nhất thiết trí trí làm tự tánh. Nghĩa là Bát Nhã lấy vô tánh tất cả pháp làm tự tánh”.

Tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Đó là “điều” khó hiểu, khó giác, khó tiêu hóa đối với trí năng thường tục của chúng ta. Để chứng minh điều đó, xin độc giả đọc kỹ các đoạn kinh trích dẫn sau đây:

 

- Phẩm “Bát Nhã Hành Tướng” quyển 38, Hội thứ I, ĐBN. Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- “Cái gì là tự tánh của Bát Nhã? Cái gì là tự tánh của tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật? Cho đến cái gì là tự tánh của pháp ở bên trong, ở bên ngoài hay ở giữa hai?

Vô tánh là tự tánh của Bát Nhã; vô tánh là tự tánh của tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, cho đến vô tánh là tự tánh của pháp ở bên trong, bên ngoài hay ở giữa hai.

 Vì vậy, nên biết Bát Nhã, lìa tự tánh Bát Nhã. Tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng lìa tự tánh tịnh lự cho đến tự tánh bố thí Ba la mật; cho đến pháp ở bên trong, bên ngoài hay ở giữa hai, lìa tự tánh pháp ở bên trong, bên ngoài hay ở giữa hai.

Tự tánh cũng lìa tự tánh, tướng cũng lìa tướng; tự tánh cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tự tánh; tướng của tự tánh cũng lìa tự tánh của tướng, tự tánh của tướng cũng lìa tướng của tự tánh. Nếu đại Bồ Tát mà học những pháp ở trên như vậy, thì có khả năng hoàn thành Nhất thiết tướng trí. Vì đại Bồ Tát ấy biết tất cả pháp không sanh, không thành”.

Còn dựa vào tánh và tướng, thể và dụng là còn nắm bắt, nên chưa thật sự được vô ngại. Nên, không những tự tánh cũng lìa tự tánh mà cả tướng cũng lìa tướng; tự tánh cũng lìa tướng, tướng cũng lìa tự tánh v.v... thì mới thấy cái chân. Đó là lý do tại sao các pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Khi hiểu ra tất cả pháp là vô tánh, là nhất tướng chỗ gọi là vô tướng tức không còn chấp tâm thủ tướng nữa, mới thấy tất cả pháp là chân thật mà tránh được đảo điên. Chẳng có pháp nào có tự tánh nên nói lấy vô tánh làm tự tánh. Vô tánh cũng tức là không.

 

- Quyển 526, phẩm “Phương Tiện Khéo léo”, Hội thứ VI, ĐBN. Tu Bồ Đề bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Nhất thiết chủng trí lấy gì làm tánh? Lấy gì làm sở duyên? Lấy gì làm tăng thượng? Lấy gì làm hành tướng? Lấy gì làm tướng?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh, lấy vô tánh làm sở duyên, chánh niệm làm tăng thượng, vắng lặng làm hành tướng, vô tướng làm tướng.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Chỉ Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh hay sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh? Nói rộng cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng lấy vô tánh làm tánh, hay hữu vi giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm tánh?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Chẳng những Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh, mà sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh. Cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm tánh.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào Nhất thiết chủng trí lấy vô tánh làm tánh? Sắc thọ tưởng hành thức cũng lấy vô tánh làm tánh, cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng lấy vô tánh làm tánh?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Vì Nhất thiết chủng trí không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Vì sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, pháp này lấy vô tánh làm tánh.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên Nhất thiết chủng trí không có tự tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không có tự tánh?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Vì Nhất thiết chủng trí không tự tánh hòa hợp vậy. Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Sắc thọ tưởng hành thức cho đến hữu vi giới và vô vi giới cũng không tự tánh hòa hợp. Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Do nhân duyên đây, các Bồ Tát Ma ha tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh.

Tất cả pháp không có thực thể riêng của nó, tất cả đều do nhiều yếu tố kết hợp mà thành hay nói khác là do duyên hội nên Kinh nói không tự tánh hòa hợp. “Nếu pháp không tự tánh hòa hợp, pháp ấy lấy vô tánh làm tánh. Do nhân duyên đây, các Bồ Tát Ma ha tát nên biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tánh. Đó là cái thấy, cái thực chứng của chư Phật.

Đây không phải là khái niệm, khái niệm là cái gì trừu tượng, khái quát, còn nằm trong ước đoán hay thức. Vậy, vô tánh là gì? Vô tánh chính là chỗ ngộ của Phật. Vì những điều mà Phật biết không thể diễn tả bằng ngôn thuyết. Vì vậy, Phật thi thiết để người Thế tục hiểu. Thi thiết cũng như bất cứ giả lập nào được dựng lên theo sự hiểu biết của chúng sanh để thể hiện những gì mà Phật đã chứng và muốn nói.

Vậy, ý Phật muốn nói gì về vô tánh? Phẩm “Tam Tiệm Thứ”, quyển 372, Hội thứ I, ĐBN nói: ... Các Bồ Tát Ma ha tát lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán...” Chúng ta phải hiểu câu nói này như thế nào cho đúng? Phật bảo lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán. Đây có thể nói là phương tiện giả lập, vì không thể chỉ thẳng nên nói là giả lập. Giả lập để biết, để chứng minh các điều kiện trong việc thành tựu Bát Nhã hay Giác ngộ.

Nguyên văn của đoạn Kinh trên được trích dẫn như sau: Các Bồ Tát Ma ha tát lấy vô tánh làm Thánh đạo, lấy vô tánh làm hiện quán, đạt tất cả pháp, đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Do nhân duyên đây, phải biết tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh”.

Nên Phật bảo: Ta lúc bấy giờ, quán tất cả pháp bình đẳng, lấy vô tánh làm tánh, do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề...”

Xét kỹ câu nói trên của Phật: “Bấy giờ Ta quán tất cả pháp bình đẳng lấy vô tánh làm tánh, do một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng Bồ đề. Phật bảo do quán sát tất cả pháp bình đẳng lấy vô tánh làm tánh mà chứng được Vô Thượng Bồ đề. Tại sao? Vì vô tánh tức là không, bình đẳng cũng là không. Trong không thì còn gì để phân biệt chấp đắm, còn gì để ôm giữ, cất dấu, bám víu nữa. Nên không còn thi vi tạo tác. Vì không còn thi vi tạo tác nên không bị quái ngại. Do vậy, trong một sát na tương ưng với Bát Nhã mà chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Đây không phải là phương pháp suy luận loại suy hay diễn dịch theo qui thức luận thường tục. Chư Phật, chư Bồ Tát thâm nhập được pháp không, pháp như, sống trong đệ nhất nghĩa đế thì thấy ở đâu mọi thời đều bình đẳng như như. Bình đẳng như như đưa đến vô thức vô niệm vô tâm mà sanh trí tuệ. Nên nói là chứng Vô Thượng Bồ đề.

Đó chính áo nghĩa của tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh!

 

- Một đoạn Kinh khác trong quyển 598, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI. Giải thích thêm thế nào là các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh như sau:

Thiện Dũng Mãnh! Không có chút pháp tánh được coi là thực tại cứu cánh, tất cả pháp đều thế tục giả lập, chẳng phải trong ấy có chút tự tánh. Vì không tự tánh nên đều chẳng thật có. Các pháp đều lập vô tánh làm tánh, vậy nên các pháp không thật không sanh. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các pháp điên đảo đều chẳng thật có, các pháp đều từ điên đảo mà khởi. Các điên đảo ấy đều không thật tánh. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp đều lìa tự tánh, tìm cầu tự tánh trọn chẳng thể đắc, vậy nên đều lấy vô tánh làm tánh”.

Đây lại là lối thuyết giảng hết sức bí nhiệm: Các pháp đều từ điên đảo khởi. Các điên đảo ấy đều không thật tánh. Vì tất cả pháp đều lìa tự tánh, tìm cầu tự tánh trọn chẳng thể đắc, vậy nên đều lấy vô tánh làm tánh.

Dù nói tánh hay tướng, dù nói tự tánh hay tự tướng, dù nói vô tánh hay vô tướng... đều bắt nguồn từ điên đảo do sở duyên khởi mà sở duyên không thật thì chẳng có gì thật cả.

Tới đây, có lẽ chúng ta có thể hiểu những gì mà Phật giả thi thiết. Hoặc Phật nói tất cả pháp không thật, giả có, trì độn hoặc Phật nói như huyễn như mộng hoặc nói vô tánh, vô tướng, không, như như, bình đẳng hay thanh tịnh... không ngoài mục đích giúp chúng sanh đập vỡ thùng keo sơn mà được tự tại.

Vậy đối với tất cả pháp chúng ta phải có thái độ như thế nào để phù hợp với Bát Nhã? Câu trả lời khẳng định là: Đối với tất cả pháp phải nói là không, là như, là bình đẳng để được vô thức, vô niệm, vô tâm thì họa chăng mới có chút phần khế hợp với Bát Nhã?

 

5. Bát Nhã là vô biên.

 

Phật bảo: “Vì các uẩn, xứ, giới vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Duyên khởi, điên đảo, tà kiến, ái hành, tham, sân, si v.v… vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Đoạn thường, thời trước, thời sau, thời giữa vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, không điên đảo vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, sở duyên, giải thoát, giải thoát tri kiến vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Thanh văn địa, Độc giác địa, Phật địa, Phật, Pháp, Tăng bảo, pháp Thanh văn thừa, pháp Độc giác thừa, pháp Bồ Tát thừa vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Ngã, hữu tình v.v… Dục, Sắc, Vô sắc giới, vô lượng thần thông, các triền cái, quá khứ, vị lai, hiện tại, vô trước, tri kiến, địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới, hữu tình giới, pháp giới vô biên nên Bát nhã Ba la mật cũng vô biên”.

Bát Nhã chi phối tất cả càng khôn vũ trụ, nhiếp thuộc tất cả. Nên nói tất cả các pháp vô biên, để đối trị cái vô biên đó thì Bát Nhã cũng phải vô biên.

 

6. Bát Nhã không ngằn mé.

 

“Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa ngằn trước giữa sau đều bất khả đắc, đối tất cả pháp cũng vô sở đắc. Bát nhã Ba la mật sâu xa không ngằn mé. Như thái hư không ngằn mé bất khả đắc. Như vậy, Bát nhã Ba la mật ngằn mé cũng bất khả đắc. Như địa thủy hỏa phong không thức giới ngằn mé bất khả đắc. Như vậy, Bát nhã Ba la mật ngằn mé cũng bất khả đắc.

Xá lợi Tử! Các uẩn, xứ, giới, duyên khởi, điên đảo, các triền cái, tà kiến, ái hành, tham, sân, si, ngã, hữu tình v.v…, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã, Bồ đề phần pháp, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, khổ, tập, diệt, đạo, vô lượng thần thông, minh thoát, giải thoát tri kiến, các pháp phàm phu, pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật và các pháp môn khác không ngằn mé, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không ngằn mé.

Xá lợi Tử! Biên giới của Bát nhã Ba la mật sâu xa bất khả đắc nên gọi là không ngằn mé. Vì bất khả đắc nên gọi là không ngằn mé. Bát nhã Ba la mật sâu xa tánh ngã, tánh chấp thủ bất khả đắc, nên gọi là không ngằn mé, không biên giới.

Xá lợi Tử! Vì tất cả pháp không ngằn mé, không biên giới nên Bát nhã Ba la mật cũng không ngằn mé, không biên giới. Vì hư không rộng lớn không ngằn mé, không biên giới nên các pháp cũng không ngằn mé, không biên giới”.

Tất cả pháp vô biên không ngằn mé, như không gian rộng lớn. Bát Nhã cũng vô biên không ngằn mé bao trùm tất cả. Học một pháp biết tất cả pháp, học một pháp biết tất cả cảnh. Pháp đó chính là Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật nhiếp thu tất cả. Đây chỉ là hệ quả của cái gọi là vô biên của Bát Nhã. Vô biên không ngằn mé như hư không, không khác.

Khi tụng Hội thứ X nói về lý thú Bát nhã Ba la mật, Kinh nói tất cả pháp có đặc tánh gì thì Bát nhã Ba la mật có đặc tánh đó: Tất cả pháp không biên giới, không ngằn mé... Bát nhã Ba la mật cũng không biên giới, không ngằn mé... như hư không, không có giới hạn v.v...

Không thể khu định Bát Nhã vào bất cứ một phạm trù nào. Chúng ta từng phát biểu khi chúng ta nhốt Bát Nhã vào một lâu đài dù bằng vàng, bằng kim cương hay bằng ngọc Ma ni rộng lớn như hư không là chúng ta giết nó. Bát Nhã là khai phóng, không những cho chính nó mà còn tạo điều kiện chấp cánh cho những người biết tuân theo nó một cách khôn khéo, mới có thể thực hiện một bước nhảy.

 

7. Tất cả pháp sâu xa.

 

“Vì các uẩn xứ giới sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Các chi duyên khởi sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Điên đảo, năm triền cái, tà kiến, ái hành sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Ngã, hữu tình v.v… sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Hý luận, không hý luận sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Bố thí, keo kiệt, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Khổ, tập, diệt, đạo, giải thoát, giải thoát tri kiến sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại bình đẳng sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Các lực vô úy, mười tám pháp Phật bất cộng sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Vô lượng thần thông sâu xa nên Bát nhã Ba la mật này rất sâu xa. Trí không chấp mắc ba đời, trí tận tất cả Phật pháp, trí vô sanh, trí diệt, trí vô tác, trí lìa nhiễm sâu xa, nên Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa. Trí các ngăn che sâu xa. nên Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa.

Bát nhã Ba la mật sâu xa không thấy có pháp khá gọi có trí và không trí, Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có tàng chứa (cất giữ) mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có sở nhiếp thọ mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có chỗ nương tựa mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có sở chấp, có sở đắm trước, có sở trụ mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp có liên tục, có gián đoạn mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp phát khởi năng tri giả và khiến tri giả mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật không vì đối với pháp rõ biết bản tánh, không bản tánh mà hiện tiền. Bát nhã Ba la mật như thế chẳng vì đối pháp có thanh tịnh vậy mà hiện tiền, vì Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng thấy có pháp khá thanh tịnh vậy”.

Nếu hiểu được tất cả pháp là sâu xa thì có thể hiểu Bát Nhã cũng sâu xa. Nói vô biên, không ngằn mé hay sâu xa cũng chỉ để so sánh với không gian vô tận, chẳng có gì khác. Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 597, Phật dạy: Bát nhã Ba la mật lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Ví như phong giới hành cảnh vô biên, Bát nhã Ba la mật như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Như hư không giới hành cảnh vô biên, Bát nhã Ba la mật như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Lại như phong giới lấy hư không rộng lớn làm cảnh sở hành, Bát nhã Ba la mật lấy các pháp Không làm cảnh sở hành”.

Mục 6. và mục 7. là trùng tụng, chỉ thêm nghĩa cho Bát Nhã là vô biên. Chỉ cần nói Bát nhã Ba la mật lấy không gian làm cảnh sở hành. Thế là đủ, nói thêm cũng bằng thừa.

Toàn thể quyển 596, phần “Bát Nhã Ba La Mật” này hầu như nhắc lại những gì Phật đã thuyết trong các pháp hội trước. Bây giờ, ôn lại thôi. Tại sao phải ôn lại? Vì đây là chơn pháp giới của bậc đã thành Chánh giác, phải trì tụng thực hành miên mật mới có hy vọng tháo gỡ những thói quen, tập tục thế gian!

 

(Phần thứ III Tổng luận sẽ giải rộng về tất cả pháp này trong mục “Cái thấy từ bờ kia”).

 

Chúng ta đọc tiếp Q.597, phần “Bát Nhã Ba La Mật”.

 

Quyển thứ 597

 

(Đối với các pháp còn không đắc huống chi phi pháp)

 

Lúc ấy, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm sao nương pháp như thế hành cảnh tướng(1)?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát đối với pháp còn không thể đắc huống chi phi pháp. Đạo còn không đắc huống chi phi đạo. Đối với tịnh giới còn không đắc, cũng không chấp huống gì phạm giới. Các Bồ Tát này không rơi vào ba cõi, cũng không rơi vào các đường sanh tử, không chấp thân mạng huống gì cảnh ngoài. Đối với dòng sanh tử đã làm bờ bến, đã qua biển lớn, đã vượt nạn lớn.

Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát này nương pháp như thế hành các cảnh tướng, biết tất cả tánh đều không tánh cảnh.  Do nhân duyên này, các thiện sĩ đối với tất cả cảnh đều không chấp trụ. Như Sư tử chúa không vướng mắc các cảnh, các thiện sĩ này đối với các cảnh giới không nhiễm, không tạp. Vượt qua tất cả cảnh, như nhà buôn lớn không gì trở ngại. Các Thiện sĩ này nương pháp như thế hành các cảnh tướng không bị chấp trước.

Này Xá lợi Tử! Ta hoàn toàn không thấy bất cứ một vị Bồ Tát nào trong đại chúng này không tin hiểu sâu xa, hay còn nghi hoặc do dự về pháp này.

Này Xá lợi Tử! Tất cả Bồ Tát ở trong chúng hội đối với pháp này không nghi hoặc, do dự nữa. Như vậy, các thiện sĩ này đối với pháp tự mình không còn do dự, cũng có thể vĩnh viễn đoạn dứt tất cả sở nghi của hữu tình. Do nhân duyên này, các thiện sĩ đối với tất cả pháp đều không do dự, có thể vì loài hữu tình quyết định giảng nói tất cả tánh của pháp đều vô sở hữu.

Này Xá lợi Tử! Vào đời sau nếu có người nghe được pháp này, đối với tất cả pháp cũng dứt trừ được nghi ngờ, do dự; cũng dứt hẳn các sở nghi cho tất cả hữu tình. Nghĩa là tuyên nói pháp yếu như Ta đã nói.

Này Xá lợi Tử! Ta hoàn toàn không nói các loài hữu tình căn lành cạn cợt mà có thể tin hiểu sâu xa và thọ dụng được pháp này. Họ chẳng thể dùng được tài pháp như vậy.

Xá lợi Tử! Các loài hữu tình căn lành mỏng còn không được nghe tên pháp như vậy, huống là có thể giữ gìn, suy nghĩ, tu tập. Nếu có người được nghe pháp này, Ta nhất định thọ ký cho họ được pháp Phật. Đời sau họ đối với các pháp Phật có thể rống tiếng rống sư tử. Như ngày nay Ta ở trong đại chúng rống tiếng rống sư tử, rống tiếng không sợ hãi, rống tiếng đại trượng phu, rống tiếng tự nhiên trí.

 

(Sau khi thuyết giảng tất cả những cái vi diệu rồi, để đem lại lòng tin tuyệt đối, Phật nói đến phước đức vô lượng vô biên cho hữu tình nào tin nhận thọ trì Kinh này để khuyến khích những người con Phật trong việc tín thọ phụng hành).

 

Này Xá lợi Tử! Nếu có người được nghe pháp yếu sâu xa đã thuyết như vậy, cho đến có thể khởi một lòng tin vui không phỉ báng, thì Ta cũng thọ ký cho họ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các hữu tình nghe pháp sâu xa sanh hoan hỷ tin nhận rất hiếm có.

Này Xá lợi Tử! Nếu các hữu tình nghe pháp sâu xa sanh lòng tin vui, phát tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì không phải các hữu tình này có thể đạt được. Ta nói thành tựu căn lành rộng lớn, đầy đủ tư lương, mặc giáp mũ lớn, mới mong chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy, nếu các hữu tình nghe nói Bát nhã Ba la mật sâu xa hoan hỉ tin thích, luôn luôn nghe nhận, người này đạt được phước vô lượng, vô biên, huống là có thể thọ trì, giảng nói cho người khác. Nếu chưa vào Chánh tánh ly sanh hoặc người đối với nhị thừa không quyết định, Ta đều thọ ký cho kẻ ấy được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi lạc cho hữu tình tận đời vị lai, thường không đoạn mất.

Này Xá lợi Tử! Nếu các hữu tình thành pháp thấp kém, Ta không thấy họ đối với pháp rộng lớn có thể thọ dụng. Pháp rộng lớn đó là sự giác ngộ của Phật.                      

Này Xá lợi Tử! Các loài hữu tình có nhiều người thành tựu pháp thấp kém, sự tin hiểu cũng đều thấp kém, không thể vun trồng thiện căn rộng lớn, họ đối với chánh pháp không thâm hiểu sâu xa, không thể tin nhận.

Này Xá lợi Tử! Các loài hữu tình thành tựu pháp rộng lớn, chỗ tin hiểu cũng đều rộng lớn, hướng đến Đại thừa, thành tựu sự nghiệp, khéo mặc giáp mũ, khéo suy nghĩ chọn nghĩa lý sâu xa, khéo đi đường lớn ngay thẳng không nguy hiểm, xa lìa rừng rậm, đi đường bằng phẳng, không có các chông gai, sỏi đá, hầm hố, sạch sẽ không dơ, không tà không cong, làm lợi ích thế gian, tạo an vui thế gian, thương xót thế gian, cùng các trời, người làm nghĩa rộng lớn, đem lại lợi ích an vui cho các hữu tình, làm sự soi sáng lớn, tạo chiếc thang vững chắc, đủ đại từ bi thương xót tất cả. Đối với hữu tình muốn làm lợi ích, muốn cùng an vui, muốn giúp an ổn, ban khắp cho hữu tình đầy đủ sự an vui. Như vậy, hữu tình tức là Bồ Tát, là Ma ha tát, có thể khéo thọ dụng của báu đại pháp là Ma ha tát, có thể khéo tầm cầu của báu đại pháp, của báu tối thắng đều thuộc về họ không phải ai khác. Vì sao? Nếu có loài hữu tình không gần bạn lành, chưa trồng thiện căn, phước đức cạn mỏng, tin hiểu thấp kém, thì họ đối với chánh pháp không hiểu sâu rộng, không thể tin nhận như vậy. Ta y theo từng loại hữu tình sai khác mà mật ý nói: Các loài hữu tình tin hiểu thấp kém thích các hữu tình tin hiểu thấp kém, các loài hữu tình tin hiểu rộng lớn, lại thích hữu tình tin hiểu rộng lớn.

 

(Bát Nhã lấy pháp gì làm cảnh sở hành?)

 

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật lấy pháp gì làm cảnh sở hành?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Ví như phong giới hành cảnh vô biên, Bát nhã Ba la mật như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Như hư không giới hành cảnh vô biên, Bát nhã Ba la mật như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Lại như phong giới lấy hư không rộng lớn làm cảnh sở hành, Bát nhã Ba la mật lấy các pháp Không làm cảnh sở hành.

Này Xá lợi Tử! Như hư không giới và phong giới đều không thể thấy bất cứ nơi nào, cũng lại không vì sanh khởi pháp tướng mà hiện tiền. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật đối với pháp đều không chỉ rõ được, cũng lại không vì sanh khởi pháp tướng mà hiện tiền.

Này Xá lợi Tử! Như hư không giới và phong giới đều không thể chấp, không phải là những thực tại cứu cánh, cũng không sắc tướng để có thể tính đếm. Bát nhã Ba la mật như thế đều chẳng thể nắm, chẳng phải là những thực tại cứu cánh, chẳng phải sắc chẳng phải tướng có thể tính đếm được.

Này Xá lợi Tử! Như hư không giới và phong giới không có chút pháp có thể nói là những thực tại cứu cánh có thể chỉ bày. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật không có chút pháp có thể xem là những thực tại cứu cánh có thể chỉ bày.

 

(Bát Nhã lấy gì làm tướng?)

 

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật hoàn toàn không có tướng.

Này Xá lợi Tử! Như hư không giới hay phong giới không có chút pháp được xem là những thực tại cứu cánh có thể chỉ tướng. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật không có chút pháp được xem là những thực tại cứu cánh có thể chỉ tướng. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật này lìa các tướng, không có chút tướng nào có thể đắc.

Này Xá lợi Tử! Như cõi hư không không chỗ vướng mắc, chướng ngại, Bát nhã Ba la mật này không chỗ vướng mắc, chướng ngại. Do đây nên nói Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô trước làm tướng.

Này Xá lợi Tử! Không phải pháp vô trước có tướng có thể đắc. Nhưng vì tùy theo danh ngôn nghĩa lý thế gian mà nói như thế này: Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô trước làm tướng.

Này Xá lợi Tử! Tuy nói Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô trước làm tướng, nhưng vì Bát nhã Ba la mật này không có tướng có thể đắc, nên không thể nói lấy vô trước làm tướng, vì pháp vô trước không có tướng trạng.

Này Xá lợi Tử! Nói vô trước ấy là trước biết khắp, trước chẳng thể được, trước như thật tánh, biết khắp tất cả điên đảo chấp trước gọi là vô trước. Chẳng phải trong chấp trước có trước khá được. Do đấy, nên nói chấp trước như thật tánh, chấp trước chẳng thể được.

Này Xá lợi Tử! Nói vô trước tức là Bát nhã Ba la mật. Đây tức nói vô trước là tướng trí.

Này Xá lợi Tử! Các pháp đều lấy vô trước làm tướng. Vì tướng các pháp bất khả đắc nên gọi là tướng vô trước. Không có chút pháp nào vì khởi tướng mà hiện. Vì ở trong đây không có tướng nào có thể đắc, nên gọi là vô tướng. Do vô tướng nên nói vô trước. Nếu tất cả pháp có chút tướng ấy thì ở trong đây có trước có thể đắc. Vì tất cả pháp tướng đều không, nên trong đây không có trước có thể đắc. Nói các pháp lấy vô trước làm tướng, tuy là nói thế mà không như thế, vì tướng vô trước không thể nói được. Vì sao? Vì tướng vô trước vô sở hữu, tánh xa lìa nên bất khả đắc.

Này Xá Lợi Tử! Pháp vô trước tướng chẳng khá chỉ ra, không thể hiển rõ. Nhưng vì hữu tình phương tiện chỉ ra vô trước tướng đây, nên chẳng nên chấp.

 

Này Xá lợi Tử! Các tướng tạp nhiễm tức là vô tướng. Không phải pháp tạp nhiễm làm phát khởi tướng mà hiện tiền.

Này Xá lợi Tử! Các pháp tạp nhiễm, điên đảo hiện tiền, các điên đảo ấy đều là vô tướng. Nếu là vô tướng thì không thể nói được, nên pháp hữu tướng tức là vô tướng.

Này Xá lợi Tử! Các pháp thanh tịnh cũng không có tướng. Vì sao? Các pháp tạp nhiễm còn không có tướng huống gì pháp thanh tịnh mà có tướng được.

Này Xá lợi Tử! Nếu người có thể biết khắp tánh như thật của các pháp tạp nhiễm, thì với các tạp nhiễm kia đều bất khả đắc. Nhưng các hữu tình do điên đảo nên khởi các tạp nhiễm. Các điên đảo ấy đều không chơn thật. Nếu không chơn thật thì không có thật thể, cũng không có thật tướng. Nếu có khả năng biết khắp như thật tức là thanh tịnh. Các tướng tạp nhiễm còn bất khả đắc, huống là tướng thanh tịnh mà có thể đắc. Thế nên hai pháp thanh tịnh và tạp nhiễm đều không có tướng, không phải là thực tại cứu cánh.

Này Xá lợi Tử! Các pháp vô tướng không phải là thực tại cứu cánh gọi là vô trước. Nên nói các pháp lấy vô trước làm tướng, vì tất cả pháp lấy vô trước làm tướng nên nói là vô trước. Phàm phu ngu si chấp tướng vô trước.

 

Này Xá lợi Tử! Như vậy, nói tất cả pháp lấy vô trước làm tướng, phải biết tướng vô trước này tức là chỗ hành của trí. Cũng là chỗ hành của Bát nhã Ba la mật. Chỗ hành của tướng trí vô trước này, cũng gọi là Bát nhã Ba la mật. Nên nói Bát nhã Ba la mật hành vô biên cảnh. Các tánh vô trước, nên biết đó gọi là hành vô biên cảnh.

Lại, Xá Lợi Tử! Chỗ sở hành ấy, phải biết đây chỉ rõ chỗ phi sở hành, vì Bát nhã Ba la mật sâu thẳm chẳng phải tướng hành xứ có thể năng chỉ rõ ra được.

Này Xá lợi Tử! Cảnh sở hành ấy, phải biết chỉ rõ cảnh phi sở hành. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều bất khả đắc. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng phải cảnh sở hành. Vì tất cả pháp không tánh cảnh vậy. Nếu năng biết khắp các pháp như thế, đấy thời gọi là hành tất cả cảnh. Tuy nói như vậy mà như không nói. Nếu năng biết khắp các pháp như thế đều không chấp trước, gọi vô trước tướng. Do lý thú đây nên nói Bát nhã Ba la mật lấy vô trước làm tướng.

Này Xá lợi Tử! Như đã nói pháp yếu sâu xa, cảnh trí Như Lai, hoặc muốn tuyên thuyết, phân biệt, khai thị, giúp đỡ nhiều ít, trong sự giúp đỡ này, chỉ có bậc chứng ngộ chân lý hướng tới đại giác ngộ, các hàng Thanh văn, đại Bồ Tát Bất thối chuyển và bậc quán chiếu thấu suốt chúng sanh, đối với Vô sanh thừa không còn bị quay trở lại. Bậc quán chiếu thấu suốt chúng sanh cũng đối với pháp yếu sâu xa như vậy có thể chơn chánh tu hành xa lìa nghi hoặc. Và Bồ Tát thân chứng đã được tịnh nhẫn, đối với pháp yếu này cũng chắc chắn không còn nghi ngờ. Còn phàm phu ngu si đối với pháp vi diệu này thì không phải chỗ hành của họ.

Này Xá lợi Tử! Như vậy, giáo pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đã nói khó đắc; hoàn toàn không bao giờ rơi vào tay các loài hữu tình tin hiểu thấp kém. Nếu các hữu tình đã từng phụng thờ nhiều Phật, thành tựu căn lành, thanh tịnh tối thắng, với lòng tin hiểu rộng lớn, thì nên biết, giáo pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật sâu xa đã nói, sẽ rơi vào tay các hữu tình đã trồng vô lượng căn lành rộng lớn, thành tựu nhu hòa, ý vui thanh tịnh, quá khứ đã ở chỗ vô lượng Phật, gieo trồng hạt giống Bồ đề, phát thệ nguyện rộng, hành Bồ Tát hạnh, cưỡi xe Phật cưỡi, gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, như lý thưa hỏi giáo pháp sâu xa.

Nếu giáo pháp tương ưng Bát Nhã này rơi vào tay các vị ấy, thì nên biết các hữu tình này đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn hoặc gần chứng Vô sanh pháp nhẫn. Hoặc giáo pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật này rơi vào tay các vị ấy, nên biết các hữu tình này mau chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ngoại trừ vì nguyện lực từ bi nên không cầu mau chứng, và các hữu tình này đã được chư Phật thọ ký, hoặc không lâu sẽ được thọ ký. Nên biết, giả như các hữu tình này chưa được Phật hiện tiền thọ ký, thì cũng coi như vị đã được Phật hiện tiền thọ ký.

Này Xá lợi Tử! Nếu các hữu tình căn lành chưa thuần thục, phước đức cạn mỏng, thì tên Kinh Bát nhã Ba la mật này còn không được nghe, huống gì được cầm nắm, đọc tụng, nhận giữ, biên chép, cúng dường, vì người khác rộng nói. Họ không bao giờ làm được như vậy. Nếu các hữu tình căn lành đã thành thục, nhờ nguyện lực đời trước thì được gặp Kinh này, nghe, nhận giữ, biên chép, đọc tụng, cung kính, cúng dường vì người khác rộng nói.

Này Xá lợi Tử! Nếu các hữu tình căn lành vững chắc, ý vui nhu hòa, giáo pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật này rơi vào tay các vị ấy, thì Ta thọ ký cho các thiện nam, thiện nữ v.v… kia, hoặc Bồ Tát thừa, hoặc Thanh văn thừa, nhờ đắc pháp này mà thâm tâm vui thích an lạc. Dù trước đây hay giải đãi, thích ngủ nghỉ, khởi biết bất chánh, không trụ chánh niệm, hoặc tâm tán loạn, hoặc ham ăn uống, hoặc ưa của báu, hoặc thích lời thô tháo, hoặc vui bạo ác, hoặc ôm lòng ngạo mạn, hoặc căn ám độn không hiểu rõ, nhưng nhờ sức căn lành như vậy, mà tất cả lỗi trước đều chuyển đổi, do đắc pháp yếu sâu xa này. Giả sử là Thanh văn chuyển thành Bồ Tát, đối với pháp sâu xa thêm vui thích, đối với các cảnh giới có thể không buông lung, đối với các pháp lành vui thích tu hành, mạnh mẽ chánh cần, lìa giải đãi, một lòng nhiếp niệm, giữ gìn các căn, không nói lời thô, không làm bạo ác, thường tu cung kính, thích tập đa văn, nỗ lực tinh tấn, không bị tham nhiễm, khéo lựa chọn pháp nghĩa sâu xa. Nếu muốn đầy đủ công đức như vậy phải siêng năng tu học pháp yếu sâu xa.

Này Xá lợi Tử! Nếu các Bồ Tát hoặc Thanh văn thừa nghe pháp yếu này được quả thù thắng. Nghĩa là nghe pháp yếu sâu xa này, quyết định không trở lại làm các việc buông lung. Đối với các pháp ác không sanh tin giữ, khéo muốn tinh tấn không lui. Đối với chỗ tu hành không sanh khinh lờn chậm hoãn. Đối với pháp tà bên ngoài không thích nghĩ tìm. Đối với pháp tham, sân, si không biểu hiện nhiều. Các quả vô lượng, vô biên như vậy đều do được nghe pháp yếu sâu xa này.

Này Xá lợi Tử! Pháp yếu sâu xa không phải chỉ có tai nghe liền gọi là quả, mà cần phải không buông lung, tinh tấn tu hành, hiểu rõ như thật xa lìa các ác. Mình và người đều lợi mới gọi là quả.

Lại nữa, người nghe pháp nghĩa là đối với pháp yếu biết rõ như thật, tinh tấn tu học, đối với chánh pháp không khởi sự hiểu và làm sai khác. Người nào đối với chánh pháp phát sanh sự hiểu và làm sai khác, phải biết kẻ ấy không gọi là nghe pháp.

Này Xá lợi Tử! Đối với nghĩa phương tiện thiện xảo mà các ông đã nghe, không được hiểu trái ngược, an trụ chánh hạnh. Nếu đối với pháp nghĩa mà phát khởi sự hiểu biết trái ngược, không tu hành chơn chánh, thì phải biết họ đối với chánh pháp của Phật nhất định không thuận nhẫn.

Xá lợi Tử! Ở trong chánh pháp và Tỳ nại da của Ta, nếu người nào làm đúng như pháp gọi là thuận nhẫn. Nói thuận nhẫn ấy nghĩa là đối với chánh pháp chọn lựa không trái, phát triển chánh hạnh.

Này Xá lợi Tử! Người nào đầy đủ thuận nhẫn, an trụ chánh hạnh, phải biết vị ấy chắc chắn không rơi vào các đường ác, địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, mau chứng đắc quả thù thắng chánh pháp.

Này Xá lợi Tử! Nếu các hữu tình không tin giữ căn lành chút nào, thì dù họ có thoát khỏi các đường ác, siêng tu tinh tấn, cũng không thể giữ gìn, cho đến đối với pháp chưa đủ chánh kiến, vẫn bị rơi vào đường ác.

Này Xá lợi Tử! Nếu đối với chánh pháp tu học đầy đủ đắc thuận nhẫn rồi, mới không gây tạo và nhận lấy nghiệp cảm đường ác, chẳng còn lười biếng lui về ngôi thấp kém, chẳng sợ sa đọa, đối sở tu hành tâm chẳng khinh dễ hưỡn đãi. Vì sao? Xá lợi Tử! Họ đối với phần tạp nhiễm, thanh tịnh có khả năng biết khắp một cách đúng đắn, được thấy như thật, đạt tất cả pháp. Đối với nghĩa lý chánh pháp sâu xa họ đã đắc chánh kiến, đầy đủ thuận nhẫn, thông minh lanh lẹ, điều hòa uyển chuyển, giữ giới thanh tịnh, thực hành khuôn phép chánh hạnh luật nghi. Do được thuận nhẫn hoàn toàn đầy đủ, nên không những trời, rồng, Dược xoa, A tu la v.v… cung kính mà còn thương tưởng, quay về cúng dường, vây quanh ủng hộ, khiến ác duyên không làm tổn hại thân thể và chỗ tu hành không dừng bỏ.

 

(Cứ theo chỉ dẫn này tu hành chắc chắn sẽ đạt được chánh hạnh chánh tri thì có thể đắc vô sanh pháp nhẫn. Đây là lời khuyến dẫn chân thành và thiết thực nhất được Phật thuyết vào lúc sắp chấm dứt 22 năm thuyết Bát nhã Ba la mật này).

 

Lúc ấy, Xá lợi Tử bảo Thiện Hiện:

- Vì sao cụ thọ im lặng không nói, vì sao không nói Bát nhã Ba la mật sâu xa? Hôm nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tiền làm chứng. Nay đại chúng đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa là pháp khí chơn thật. Ý vui thanh tịnh xin nguyện nghe pháp sâu xa.

Thiện Hiện đáp:

- Xá lợi Tử! Tôi đối với các pháp đều không thấy gì, nên tôi im lặng không nói.

Này Xá lợi Tử! Tôi hoàn toàn chẳng thấy Bát nhã Ba la mật sâu xa, cũng chẳng thấy có Bồ Tát, không năng thuyết, không sở thuyết. Cũng không thấy do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây, nương đây mà thuyết. Tôi đối với trong đây đã không thấy gì, sao lại bảo tôi vì các chúng Bồ Tát giảng thuyết Bát nhã Ba la mật.

Giả sử tôi muốn thuyết, ai là người thuyết, thuyết cái gì. Cũng lại không biết, vì sao, nguyên nhân gì, thuộc gì, nương gì mà thuyết? Tôi phải giảng thuyết Bát nhã Ba la mật sâu xa này như thế nào?

 

(Bát Nhã sâu xa không thể giảng nói)

 

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thể giảng nói, không thể trình bày, không thể hý luận.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không năng giảng nói, không năng trình bày, không năng hý luận. Nếu có thể dùng phương tiện biểu thị như vậy tức là trình bày Bát nhã Ba la mật.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không thể lấy tướng quá khứ, không thể lấy tướng vị lai, không thể lấy tướng hiện tại để nói.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không có tướng nên không thể nói được.

Này Xá lợi Tử! Tôi hoàn toàn không thấy Bát nhã Ba la mật sâu xa có tướng như vậy, có thể đem tướng này tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật?

Này Xá lợi Tử! Tướng ba đời uẩn, xứ, giới v.v… không phải Bát nhã Ba la mật sâu xa. Tướng ba đời uẩn, xứ, giới v.v… có chơn như, tánh không hư dối, tánh không đổi khác, tánh như sở hữu, là Bát nhã Ba la mật sâu thẩm.

Này Xá lợi Tử! Tướng ba đời uẩn, xứ, giới v.v… có chân như, tánh không hư dối, tánh không đổi khác, tánh như sở hữu, không thể thiết lập, không thể trình bày, không thể hý luận, không phải nghiệp nói v.v… không phải chỗ có thể giải thích, trình bày.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không do trình bày tướng các pháp mà hiện tiền. Không do trình bày tướng uẩn, xứ, giới mà hiện tiền. Không do trình bày tướng hành, không hành mà hiện tiền. Không do trình bày tướng duyên khởi mà hiện tiền. Không do trình bày tướng danh sắc mà hiện tiền. Không do trình bày tướng ngã, hữu tình v.v… mà hiện tiền. Không do trình bày tướng pháp giới mà hiện tiền. Không do trình bày tướng có trói buộc, lìa trói buộc mà hiện tiền. Không do trình bày tướng nhân duyên mà hiện tiền. Không do trình bày tướng khổ, vui mà hiện tiền. Không do trình bày tướng an lập, không an lập mà hiện tiền. Không do trình bày tướng sanh, diệt mà hiện tiền. Không do trình bày tướng nhiễm, tịnh mà hiện tiền. Không do trình bày tướng bản tánh, không phải bản tánh mà hiện tiền. Không do trình bày tướng thế tục, thắng nghĩa mà hiện tiền. Không do trình bày tướng chắc thật, hư dối mà hiện tiền. Không do trình bày tướng dời chuyển, vào ra mà hiện tiền.

Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật sâu thẳm lìa các tướng, nên không thể trình bày đây là Bát nhã Ba la mật, ở đây là Bát nhã Ba la mật, do đây là Bát nhã Ba la mật, vì đây là Bát nhã Ba la mật, nhân đây là Bát nhã Ba la mật, thuộc đây là Bát nhã Ba la mật, nương đây là Bát nhã Ba la mật.

Này Xá lợi Tử! Tôi chẳng thấy pháp, do pháp đây nói chỉ ra Bát nhã Ba la mật.

Này Xá lợi Tử! Không có chút pháp có hiển bày, có thể nắm giữ Bát nhã Ba la mật sâu thẳm.

Này Xá lợi Tử! Không phải Bát nhã Ba la mật sâu xa có thể hiển bày, có thể nắm giữ các uẩn, xứ, giới, duyên khởi, minh thoát(2).

Này Xá lợi Tử! Các diệu tuệ thông đạt vượt ngoài thế gian cũng không thể hiển bày, nắm giữ Bát nhã Ba la mật.

Này Xá lợi Tử! Nếu như pháp không thể hiển bày, nắm giữ các pháp, thì làm sao trình bày Bát nhã Ba la mật.

Này Xá lợi Tử! Nếu có thể biết rõ nghĩa lý chơn thật các pháp, thì có thể biết rõ, giảng nói Bát nhã Ba la mật.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không phải do nêu rõ pháp sở hữu mà hiện tiền.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu xa không do trình bày uẩn, xứ, giới mà hiện tiền. Không do trình bày danh và sắc mà hiện tiền. Không do trình bày các pháp nhiễm tịnh mà hiện tiền. Không do trình bày các duyên khởi mà hiện tiền. Không do trình bày các điên đảo mà hiện tiền. Không do trình bày ngã, hữu tình v.v… mà hiện tiền. Không do trình bày địa, thủy, hỏa, phong, không thức giới mà hiện tiền. Không do trình bày Dục, Sắc, Vô sắc giới mà hiện tiền. Không do trình bày bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, giận dữ, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ mà hiện tiền. Không do trình bày niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, vô lượng thần thông mà hiện tiền. Không do trình bày các đạo đế, đạo quả mà hiện tiền. Không do trình bày pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật địa mà hiện tiền. Không do trình bày sở hữu pháp trí và phi trí mà hiện tiền. Không do trình bày pháp Niết bàn mà hiện tiền.

Này Xá lợi Tử! Như không có pháp, do trình bày pháp mà hiện tiền, tôi làm sao nói Bát nhã Ba la mật sâu thẩm này?                                                                    

Này Xá lợi Tử! Nếu ai có thể rõ biết Bát nhã Ba la mật đã nói như vậy, không do trình bày pháp sở hữu mà hiện tiền, thì có thể biết rõ Bát nhã Ba la mật, cũng có thể giảng nói Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật sâu thẳm không vì các pháp có hợp có tan mà hiện tiền. Vì sao? Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật không vì các uẩn, xứ, giới có hợp có tan; không vì các hành có hợp có tan; không vì duyên khởi có hợp có tan; không vì điên đảo có hợp có tan; không vì Dục, Sắc, Vô sắc giới có hợp có tan; không vì địa, thủy, hỏa, phong, không thức giới có hợp có tan; không vì ngã, hữu tình v.v… có hợp có tan; không vì pháp giới có hợp có tan; không vì bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, giận dữ, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ có hợp có tan; không vì niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, vô lượng thần thông có hợp có tan; không vì các đạo đế và đạo quả có hợp có tan; không vì Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật địa và pháp có hợp có tan; không vì ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại bình đẳng có hợp có tan; không vì Niết bàn có hợp có tan mà hiện tiền.

Này Xá lợi Tử! Không có pháp nào vì pháp nào có hợp có tan mà hiện tiền, thì tôi làm sao tuyên nói Bát nhã Ba la mật sâu xa. Tôi xem nghĩa đây tác thuyết như vầy: Thật ra Bát nhã Ba la mật sâu thẩm không thể giảng nói.

Này Xá lợi Tử! Tôi hoàn toàn không thấy có pháp như thế, để gọi là người nói, pháp được nói, và có thể gọi là do đây, vì đây, nhân đây, thuộc vào đây, nương theo đây mà có lời lẽ để nói. Cho nên làm sao khiến tôi vì các Bồ Tát mà thuyết Bát nhã Ba la mật.

 

(Thế nào gọi là điên đảo?)

 

Bấy giờ, Phật bảo đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

- Thiện nam tử! Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp đều không chỗ hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp đều do điên đảo cùng khởi, không thật, không có, là tà ngụy hư dối.                                                                       

Này, Thiện Dũng Mãnh! Ví như kẻ đối pháp có sở hành, đều hành điên đảo, đều hành chẳng thật. Như vậy, Bồ Tát nếu có sở hành, lẽ hành điên đảo, lẽ hành chẳng thật. Chẳng phải các Bồ Tát là hành điên đảo và hành chẳng thật mà hiển rõ ra, và cũng chẳng phải Bồ Tát hành hạnh điên đảo và hành chẳng thật mà năng hành Bát nhã Ba la mật được.

Này, Thiện Dũng Mãnh! Điên đảo chẳng thật thời chẳng phải sở hành, vậy nên Bồ Tát chẳng đối trong ấy mà hành.                                                               

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói điên đảo tức là hư dối, là sự chấp trước của phàm phu ngu si. Các pháp như vậy, không có như vậy, chấp trước như vậy, không như tướng của nó, nên nói là điên đảo không thật. Các Bồ Tát không hành điên đảo, không hành không thật, do đây Bồ Tát gọi là thật ngữ, cũng được gọi hành giả không đạo.

Nếu thật không đạo, thời không sở hành, nên nói Bồ Tát hành không sở hành. Tất cả hành dứt gọi Bồ Tát hành. Bồ Tát hành không thể trình bày là đây, do đây, tại đây, từ đây, không thể hiển bày rõ ràng Bồ Tát hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát dứt tất cả hành, hành hạnh Bồ Tát nghĩa là dứt hành có lấy đắm của dị sanh, Thanh văn, Độc giác, hành hạnh Bồ Tát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bồ Tát đối các Phật pháp cũng lại chẳng hành, cũng chẳng chấp trước đây là Phật pháp, do đây Phật pháp, tại đây Phật pháp, thuộc đây Phật pháp. Như vậy, Bồ Tát cũng lại chẳng hành hạnh tất cả phân biệt phân biệt khác, nghĩa là các Bồ Tát chẳng hành phân biệt và phân biệt khác, vì dứt tất cả phân biệt phân biệt khác, gọi Bồ Tát hạnh.

 

(Từng chữ từng chữ, từng lời từng lời chư Phật, Bồ Tát, các Thanh văn như cỡ Thiện Hiện đều nói lên chỗ thiết yếu này: “Tôi hoàn toàn không thấy có pháp như thế, để gọi là người nói, pháp được nói, và có thể gọi là do đây, vì đây, nhân đây, thuộc vào đây, nương theo đây mà có lời lẽ để nói. Cho nên làm sao khiến tôi vì các Bồ Tát mà thuyết Bát nhã Ba la mật”. Hơn thế nữa Kinh bảo: “Các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp đều không chỗ hành. Vì sao? Vì tất cả pháp đều do điên đảo cùng khởi, không thật, không có, là tà ngụy hư dối”. Khi hiểu được như thế thì có thể giảng nói, có thể hành Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, đây là chỗ thiết yếu nhất để hiểu Bát nhã Ba la mật mà Phật nhắn nhủ trước khi chấm dứt 22 năm thuyết Bát nhã Ba la mật. Nên cần trụ tâm nghe giảng từng chữ từng lời thôi!)         

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Phân biệt, nghĩa là phân biệt tự tánh các pháp. Phân biệt khác, nghĩa là đối với các pháp phân biệt sai khác, không phải tất cả pháp có thể phân biệt và phân biệt khác. Vì tất cả pháp không thể phân biệt và phân biệt khác. Nếu phân biệt pháp thì đối với các pháp có phân biệt khác, nhưng tất cả các pháp xa lìa phân biệt và phân biệt khác.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói phân biệt nghĩa là một bên. Nói phân biệt khác là hai bên. Chẳng phải các Bồ Tát hành có bên, không bên. Nếu các Bồ Tát đối với bên không bên đều không sở hành, thì các Bồ Tát cũng không thấy giữa. Nếu người thấy giữa tức hành ở giữa. Nếu người hành giữa tức hành có bên, chẳng phải giữa có hành có hiển có chỉ ra, vì lìa hành tướng vậy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đã nói giữa ấy, phải biết tức là tám chi Thánh đạo. Thánh đạo như thế đối tất cả pháp đều không sở đắc mà hiện tiền. Thánh đạo như thế đối tất cả pháp đều không sở kiến mà hiện tiền.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đối với pháp không tu, không khiển, bấy giờ gọi là đạo ngưng dứt. Đạo ngưng dứt này đối với tất cả pháp, không tu, không khiển, vượt qua sự tu khiển, chứng tất cả pháp bình đẳng. Do chứng các pháp bình đẳng thật tánh, nên tướng đạo còn không có huống gì thấy có đạo.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đạo ngừng dứt ấy nghĩa là A la hán Bí sô đã lậu tận. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì khiển đạo nên tu chẳng tu chẳng khiển nên gọi là khiển. Khiển cũng không có nên gọi là khiển. Vì tu khiển nên gọi là khiển.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có tu khiển ưng có sở đắc chẳng gọi là khiển. Trong đây khiển ấy là khiển tánh tu. Trong ấy không tu nên gọi là khiển, vì tu không có nên khiển cũng chẳng có. Tuy nói như vậy mà như không nói. Vì sao?

Này Thiện Dũng Mãnh! Khiển chẳng thể nói, vì lìa tánh khiển vậy. Lại lìa pháp nào? Nghĩa là pháp điên đảo chẳng còn đẳng khởi và pháp chẳng thật, chẳng đẳng khởi lại nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải các điên đảo năng khởi được điên đảo. Bởi vì điên đảo ấy không thật khởi ra, vì chẳng phải ở trong ấy có thật khởi vậy. Nếu ở trong ấy có thật khởi ra thời chẳng gọi điên đảo. Vì không thật khởi nên gọi điên đảo.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chúng các Bồ Tát tùy giác các pháp lìa các điên đảo. Vì sao? Các Bồ Tát biết rõ điên đảo đều chẳng thật có. Nghĩa là trong điên đảo không có tánh điên đảo. Do biết điên đảo thật không sở hữu, chẳng phải trong điên đảo có tánh điên đảo, nên nói Bồ Tát tùy giác các pháp lìa các điên đảo. Do giác các pháp lìa các điên đảo, chẳng còn đối pháp lại sanh điên đảo nữa. Nếu đối trong ấy không còn điên đảo, thời đối pháp đấy cũng không sở hành. Vì sao?

Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả điên đảo đều có hành, do có hành nên có cùng khởi. Sự hành, cùng khởi đều do điên đảo hư dối phân biệt. Các Bồ Tát đối với pháp hành đều không phân biệt, cũng không cùng khởi, nên gọi là xa lìa điên đảo. Do không điên đảo nên không có sở hành. Do không có sở hành thì không có sở khởi. Nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành. Không chỗ hành ấy nghĩa là đối với các pháp hoàn toàn không chỗ hành, cũng không quán xét, cũng không thị hiện có tướng hành. Cho nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành. Nếu có thể hành được không chỗ hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật.

 

(Hành không có năng hành, không có sở hành)

  

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên sắc là hành Bát nhã Ba la mật; hành không duyên thọ, tưởng, hành, thức(5 uẩn)là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát này biết tánh các duyên là xa lìa. Nếu biết tánh các duyên kia xa lìa thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên nhãn là hành Bát nhã Ba la mật; hành không duyên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý(6 căn)là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát này biết tánh các duyên không thật. Nếu biết tánh các duyên kia không thật thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên sắc là hành Bát nhã Ba la mật; hành không duyên thanh, hương, vị, xúc, pháp là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát này biết tánh các duyên điên đảo phát khởi. Nếu biết điên đảo phát khởi chẳng thật. Nếu biết tánh các duyên điên đảo phát khởi không thật thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên nhãn thức là hành Bát nhã Ba la mật; hành không duyên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức(6 thức)là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát này biết các duyên đều là hư dối. Nếu biết các duyên đều hư dối thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành chẳng duyên danh sắc, là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này giác các sở duyên không tánh sở duyên. Nếu giác sở duyên không tánh sở duyên thời không sở hành, nên nói Bồ Tát hành không sở hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên ngã, hữu tình v.v… là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát như thật biết ngã, hữu tình v.v… tánh tướng không chơn thật. Nếu có thể biết ngã, hữu tình v.v… tánh tướng không chơn thật, thì đối với các hành đều không chỗ hành. Nếu đối với các hành hoàn toàn không chỗ hành thì lìa các hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát không hành tưởng ngã, tưởng hữu tình, cho đến tưởng người biết, tưởng người thấy là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Các Bồ Tát này khắp năng trừ khiển được sở duyên ba cõi. Nếu các Bồ Tát khắp năng trừ khiển sở duyên ba cõi thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát không hành điên đảo, tà kiến, các triền cái là hành Bát nhã Ba la mật; hành không duyên điên đảo, tà kiến, các triền cái là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát này biết các duyên điên đảo, tà kiến, triền cái đều không thật có. Nếu biết hành điên đảo, tà kiến, triền cái đều không thật có thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên khởi là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát này biết khắp duyên khởi và duyên kia. Nếu các Bồ Tát biết khắp duyên khởi và duyên kia thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp năng trừ khiển được sở duyên ba cõi. Nếu các Bồ Tát khắp năng trừ khiển sở duyên ba cõi thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát biết khắp sự duyên bố thí, tham lam cho đến trí tuệ, ác tuệ. Nếu các Bồ Tát biết khắp sự duyên như vậy thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, vô lượng thần thông v.v… là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đối các sở duyên giác trọn tự tại, cũng năng trừ khiển. Nếu các Bồ Tát đối các sở duyên giác trọn tự tại, cũng năng trừ khiển được thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này trừ khiển sở duyên khổ tập diệt đạo. Nếu năng trừ khiển được sở duyên bốn đế, thời không sở khiển, cũng không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên minh thoát là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên minh thoát. Nếu năng trừ khiển sở duyên minh thoát thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành chẳng duyên vô tận vô sanh vô tạo tác, là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên vô tận vô sanh vô tạo tác. Nếu năng trừ khiển các sở duyên đây thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên địa thủy hỏa phong không thức giới. Nếu năng trừ khiển các sở duyên dây thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật địa là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật địa. Nếu các Bồ Tát khắp năng trừ khiển sở duyên Thanh văn, Độc giác, Bồ tác, Phật địa thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật. Nếu các Bồ Tát khắp năng trừ khiển sở duyên pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ tác, Phật thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên Niết bàn là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát biết tất cả duyên Niết bàn. Nếu các Bồ Tát biết tất cả duyên Niết bàn thì không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên tướng hảo thanh tịnh là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên thanh tịnh tướng hảo. Nếu các Bồ Tát năng trừ khiển sở duyên thanh tịnh tướng hảo thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên thanh tịnh cõi Phật là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên thanh tịnh cõi Phật. Nếu các Bồ Tát khắp năng trừ khiển sở duyên thanh tịnh cõi Phật thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên công đức Thanh văn viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên công đức Thanh văn viên mãn. Nếu các Bồ Tát khắp năng trừ khiển sở duyên công đức Thanh văn viên mãn thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đại Bồ Tát hành không duyên công đức Bồ Tát viên mãn là hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này khắp trừ khiển được sở duyên công đức Bồ Tát viên mãn. Nếu các Bồ Tát khắp năng trừ khiển sở duyên công đức Bồ Tát viên mãn thời không chỗ hành, nên nói Bồ Tát hành không chỗ hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành được Bát nhã Ba la mật như thế là biết khắp tất cả sở duyên mà hành, trừ khiển tất cả sở duyên mà hành, tức hành Bát nhã Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Hành theo “sự tướng” tức nương chấp, dính mắc bởi tướng, nên nói là bị tướng trói hay tướng che, vì vậy mới “mất tâm”. Cảnh là cảnh, cảnh là như như. Nếu cảnh như thì tâm cũng như, như này là như như bất động. Nhưng vì tâm vọng động có vui có buồn, nên nói mất tâm là vậy! Lên một tầng nữa, Kinh bảo: “Phàm phu ngu si nương vào cảnh duyên mà sanh tâm, tâm sở rồi chấp có duyên, chấp có tất cả tâm, tâm sở. Các Bồ Tát biết duyên và tâm, tâm sở phát sanh hoàn toàn không có, nên không sanh tâm, tâm sở. Nếu Bồ Tát quán tất cả tâm, tâm sở như vậy thì được bản tánh thanh tịnh và trong sáng. Còn phàm phu ngu si thì điên đảo, vọng sanh tạp nhiễm nên nghĩ: Do duyên vào cảnh nên sanh tâm, tâm sở. Nếu biết rõ cảnh đã duyên vô sở hữu thì tâm, tâm sở đều không sanh. Đã không sanh thì cũng không trụ diệt, vì bản tánh của tâm, tâm sở trong sáng và thanh tịnh, lìa các tạp nhiễm, được thanh tịnh nên vui”.

(2). Minh thoát: Làm trong sáng, minh bạch để giải thoát khỏi những phiền não trói buộc của vô minh, tham ái.

 

Thay lời lược giải:

 

1. Đối với các pháp còn không đắc hiến chi phi pháp.

 

Mở đầu quyển 597, Phật bảo: “Các đại Bồ Tát đối với pháp còn không thể đắc huống chi phi pháp. Đạo còn không đắc huống chi phi đạo. Đối với tịnh giới còn không đắc, cũng không chấp huống gì phạm giới”. “Các đại Bồ Tát này nương pháp như thế hành các cảnh tướng, biết tất cả tánh đều không tánh cảnh. Do nhân duyên này, các thiện sĩ đối với tất cả cảnh đều không chấp trụ”.

Vì Bồ Tát biết tất cả pháp đều vô sỡ hữu, bất khả đắc. Nên Bồ Tát không mong cầu, nắm bắt, cất giữ. Nếu không mong cầu, nắm bắt, cất giữ... thì không tham đắm. Nếu không tham đắm thì không bị dính mắc trói buộc. Đó là pháp rộng lớn, pháp rộng lớn đó là sự giác ngộ của chư Phật, kẻ cạn cợt không dễ gì tín thọ được, chỉ có người trí tuệ mới có thể thọ trì pháp này

.

 

2. Hành mà vô sở hành:

 

Kinh nói: “Bát nhã Ba la mật như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Ví như phong giới hành cảnh vô biên, Bát nhã Ba la mật như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Như hư không giới hành cảnh vô biên, Bát nhã Ba la mật như thế lấy pháp vô biên làm cảnh sở hành. Lại như phong giới lấy hư không làm cảnh sở hành, Bát nhã Ba la mật như thế lấy các pháp không làm cảnh sở hành”.

Hành mà không có năng hành, không sở hành là hành như hư không. Đó là vô công dụng hạnh, vô đạo hành. Hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật. Nhưng đây là lối nói quá ẩn mật, cuối quyển 597 này, Phật sẽ giải thích từng chữ từng chữ, từng lời từng lời thế nào là hành mà không có sở hành.

 

3. Pháp nào không có tướng thì lấy vô trước làm tướng.

 

Kinh thường nói Bát Nhã không có tướng, Bát Nhã không thấy tướng, không thấy nên không phân biệt, không chấp tướng. Vì vậy, tới đây Phật bảo: “Tuy nói Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô trước làm tướng, nhưng vì Bát nhã Ba la mật này không có tướng có thể đắc, nên không thể nói lấy vô trước làm tướng, vì pháp vô trước không có tướng trạng”.

(...) “Vì vô tướng nên nói vô trước. Nếu tất cả pháp có chút tướng, lẽ đối trong đây có trước khá được. Vì tất cả pháp trọn không có các tướng, vậy không có tướng thì không có trước. Nên nói các pháp lấy vô trước làm tướng. Mặc dù nói như vậy mà như không nói, vì vô trước tướng chẳng thể nói vậy. Vì sao? Vì vô trước tướng không có sở hữu, tánh xa lìa, chẳng thể được vậy”.

Vì vậy, Bát Nhã không hành có tướng, không hành vô tướng nên không đắc tướng là điều dĩ nhiên. Thấy Có thấy Không là có động chuyển làm sao đắc Bát Nhã Trí? Nên, Bát nhã Ba la mật không hành CÓ, không hành KHÔNG, mới chứng tánh.

 

4. Vô trước là chỗ hành của trí.

 

 Như vậy, nói tất cả pháp lấy vô trước làm tướng, phải biết tướng vô trước này tức là chỗ hành của trí. Cũng là chỗ hành của Bát nhã Ba la mật. Chỗ hành của tướng trí vô trước này, cũng gọi là Bát nhã Ba la mật. Nên nói Bát nhã Ba la mật hành vô biên cảnh. Các tánh vô trước, nên biết đó gọi là hành vô biên cảnh.

Chỗ sở hành ấy, phải biết đây chỉ rõ chỗ phi sở hành, vì Bát nhã Ba la mật sâu thẳm chẳng phải tướng hành xứ có thể năng chỉ rõ ra được.

Cảnh sở hành ấy, phải biết chỉ rõ cảnh phi sở hành. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng phải cảnh sở hành. Vì tất cả pháp không tánh cảnh vậy. Nếu năng biết khắp các pháp như thế, đấy thời gọi là hành tất cả cảnh. Tuy nói như vậy mà như không nói. Nếu năng biết khắp các pháp như thế đều không chấp trước, gọi vô trước tướng. Do lý thú đây nên nói Bát nhã Ba la mật lấy vô trước làm tướng”.

Đây cũng không phải là một chuỗi dài lý luận, cũng không phải là ý niệm mà đây là chỗ chứng của chư Phật. Tại sao kinh bảo “tất cả pháp chẳng phải là cảnh sở hành, tất cả pháp không tánh cảnh?” Vì cảnh là như như, chẳng lúc nào chẳng như. Sở dĩ, cảnh có động có lay là do tâm, không do cảnh. Câu nói của thì hào Nguyễn Du là: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tại sao? Vì lòng buồn, nhiều tâm sự... mới thấy cảnh đeo sầu. Người tu thanh tịnh thúc liễm được thân tâm nên không trước tướng, do nghĩa thú đây nên nói Bát nhã Ba la mật lấy vô trước làm tướng. Tu không phải chán cảnh mà chán tâm!

Do thúc liễm thân tâm, không còn phân biệt chấp trước nữa, nên được như như bất động mà sanh trí. Nên nói vô trước là chỗ hành của trí (mà vô trước cũng chính là trí). Giải thích đâm ra dài dòng, nhưng trí vô trước lúc nào cũng hiện tiền, đối với bậc nhập được pháp không, pháp như, sống trong đệ nhất nghĩa thì thấy tất cả pháp đều bình đẳng như như, nên không còn phân biệt chấp trước nữa.

 

5. Không đạo hành.

 

Trên nói hành không sở hành là hành Bát nhã Ba la mật. Ở đây lại nói: “Điên đảo chẳng thật thời chẳng phải sở hành, vậy nên Bồ Tát chẳng đối trong ấy mà hành.                                                               

Nói điên đảo tức là hư dối, là sự chấp trước của phàm phu ngu si. Các pháp như vậy, không có như vậy, chấp trước như vậy, không như tướng của nó, nên nói là điên đảo không thật. Các Bồ Tát không hành điên đảo, không hành không thật, do đây Bồ Tát gọi là thật ngữ, cũng được gọi hành giả không đạo”.

Nếu thật không đạo, thời không sở hành, nên nói Bồ Tát hành không sở hành. Tất cả hành dứt gọi Bồ Tát hành. Bồ Tát hành không thể trình bày là đây, do đây, tại đây, từ đây, không thể hiển bày rõ ràng Bồ Tát hành. Vì sao? Vì các Bồ Tát dứt tất cả hành, hành hạnh Bồ Tát nghĩa là dứt hành có lấy đắm của dị sanh, Thanh văn, Độc giác...”.

Dứt hành, không có nghĩa là không hành, hành thì cứ hành nhưng đừng có chấp đắm, nếu chấp đắm tức điên đảo. Điên đảo chẳng thật, hư dối, vậy nên Bồ Tát chẳng đối trong ấy hành có lấy đắm như dị sanh.

 

6. Bát Nhã không thể thuyết

nhưng có thể dùng phương tiện biểu thị:

 

“Bát nhã Ba la mật sâu xa không thể giảng nói, không thể trình bày, không thể hý luận. Bát nhã Ba la mật sâu xa không năng giảng nói, không năng trình bày, không năng hý luận. Nếu có thể dùng phương tiện biểu thị như vậy tức là trình bày Bát nhã Ba la mật”.

Cái thấy của phàm phu thì phổ quát, vô hiệu năng, giả lập, khả thuyết, có thể luận bàn. Còn cái thấy của Bát Nhã là cái thấy đặc thù không giả lập (nirvikalpaka), không phát biểu, không truyền đạt luận bàn được, không sai biệt (abhinna), siêu phàm, là thực tại tối hậu, vô hình dung (niràkàra). Nếu có thể trình bày được như thế tức là dùng phương tiện biểu thị giảng nói Bát Nhã.

Vì sao Bát Nhã không thể giảng thuyết? Vì Bát Nhã cũng như tất cả pháp là tịch lặng, là viễn ly, là xa lìa, bản tánh thanh tịnh. Ở đâu Bát Nhã cũng lặp đi lặp lại tư tưởng trái ngược này đối với trí năng thường tục của chúng sanh. Bát Nhã không thể giảng nói, trình bày hay hý luận. Nếu có thể dùng phương tiện biểu thị như vậy tức là trình bày giảng nói Bát Nhã.

Trong phần thứ III, Tổng luận sẽ nói thêm ý này.

 

Kết luận:

 

Toàn quyển thứ 597 có lối trình bày giảng nói hết sức chặt chẽ trí tuệ. Kinh thường nói: Pháp nào không có tướng thì lấy vô tướng làm tướng. Một khi nói vô tướng thì không đồng, không dị, không phân biệt. Nếu không phân biệt tướng thì không còn chấp trước nữa. Ở đây, quyển 597 nói gọn: Pháp nào không có tướng thì lấy vô trước làm tướng. “Phải biết tướng vô trước này tức là chỗ hành của trí. Cũng là chỗ hành của Bát nhã Ba la mật. Chỗ hành của tướng trí vô trước này, cũng gọi là Bát nhã Ba la mật. Nên nói Bát nhã Ba la mật hành vô biên cảnh. Các tánh vô trước, nên biết đó gọi là hành vô biên cảnh.

Chỗ sở hành ấy, phải biết đây chỉ rõ chỗ phi sở hành, vì Bát nhã Ba la mật sâu thẳm chẳng phải tướng hành xứ có thể năng chỉ rõ ra được”.

Vì vậy, Kinh mới nói: “Cảnh sở hành ấy, phải biết chỉ rõ cảnh phi sở hành. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều bất khả đắc. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng phải cảnh sở hành. Vì tất cả pháp không tánh cảnh vậy. Nếu năng biết khắp các pháp như thế, đấy thời gọi là hành tất cả cảnh. Tuy nói như vậy mà như không nói. Nếu năng biết khắp các pháp như thế đều không chấp trước, gọi vô trước tướng. Do lý thú đây nên nói Bát nhã Ba la mật lấy vô trước làm tướng”.

Cảnh là như như, cảnh là bất động, cảnh không thật... Có động có chuyển là do tâm. Vì vậy, Kinh bảo “tất cả pháp không có tánh cảnh”.

Lại nữa, tại sao gọi là hành không đạo hành? Vì “Bồ Tát không hành điên đảo, không hành không thật, do đây Bồ Tát gọi là thật ngữ, cũng được gọi hành giả không đạo. Nếu thật không đạo, thời không sở hành, nên nói Bồ Tát hành không sở hành”.

Sở dĩ, chúng tôi lặp lại tư tưởng này là vì sao? Vì, đó là giáo lý tuyệt đỉnh của phần “Bát Nhã Ba La Mật” này, càng đọc càng thấy ảo diệu! Không quyển nào như quyển 597, từng chữ từng chữ, từng lời từng lời Phật thuyết tất cả pháp sâu mầu này trước khi chấm dứt 22 thuyết Bát Nhã. Phật bảo:

“(...) Nếu các hữu tình căn lành chưa thuần thục, phước đức cạn mỏng, thì tên Kinh Bát nhã Ba la mật này còn không được nghe, huống gì được cầm nắm, đọc tụng, nhận giữ, biên chép, cúng dường, vì người khác rộng nói. Họ không bao giờ làm được như vậy. Nếu các hữu tình căn lành đã thành thục, nhờ nguyện lực đời trước thì được gặp Kinh này, nghe, nhận giữ, biên chép, đọc tụng, cung kính, cúng dường vì người khác rộng nói.

(...) Nếu các hữu tình căn lành vững chắc, ý vui nhu hòa, giáo pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật này rơi vào tay các vị ấy, thì Ta thọ ký cho các thiện nam, thiện nữ v.v… kia, hoặc Bồ Tát thừa, hoặc Thanh văn thừa, nhờ đắc pháp này mà thâm tâm vui thích an lạc. Dù trước đây hay giải đãi, thích ngủ nghỉ, khởi biết bất chánh, không trụ chánh niệm, hoặc tâm tán loạn, hoặc ham ăn uống, hoặc ưa của báu, hoặc thích lời thô tháo, hoặc vui bạo ác, hoặc ôm lòng ngạo mạn, hoặc căn ám độn không hiểu rõ, nhưng nhờ sức căn lành như vậy, mà tất cả lỗi trước đều chuyển đổi, do đắc pháp yếu sâu xa này. Giả sử là Thanh văn chuyển thành Bồ Tát, đối với pháp sâu xa thêm vui thích, đối với các cảnh giới có thể không buông lung, đối với các pháp lành vui thích tu hành, mạnh mẽ chánh cần, lìa các giải đãi, một lòng nhiếp niệm, giữ gìn các căn, không nói lời thô, không làm bạo ác, thường tu cung kính, thích tập đa văn, nỗ lực tinh tấn, không bị tham nhiễm, khéo lựa chọn pháp nghĩa sâu xa. Nếu muốn đầy đủ công đức như vậy thì phải siêng năng tu học pháp yếu sâu xa”.

Bao nhiêu lời chiết giải như trên cũng không đủ diễn tả hết tinh thần của quyển 597 này. Đây là pháp khó nói, khó chỉ, khó giải. Tốt hơn hết là Quý vị phải tự nghiền ngẫm thêm.

 

Chúng ta đọc tiếp Q.598, phần “Bát Nhã Ba La Mật”.

 

Quyển thứ 598

 

Gợi ý:

Từ quyển 598 cho đến hết 600 quyển, tức 3 quyển cuối cùng, Phật ôn lại những pháp tu đã từng thuyết giảng ở các Hội trước. Tuy nhiên, Phật chọn lựa các pháp hết sức giản dị để giáo hóa chúng sanh ở bất cứ trình độ nào. Đó là bố cục kỳ diệu của kinh này.

 

(Thế nào là thanh tịnh?)

 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy thì không duyên vào sự thanh tịnh của sắc để hành; cũng không duyên vào sự thanh tịnh của thọ, tưởng, hành, thức để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên của sắc cho đến thức bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của mười hai xứ, mười tám giới để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên của 12 xứ, 18 giới bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của danh sắc để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên danh sắc bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của ngã để hành; cũng không duyên vào sự thanh tịnh của ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên ngã cho đến khiến kiến giả bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào (sự thanh tịnh của) điên đảo để hành; cũng không duyên vào (sự thanh tịnh của) tà kiến và các triền cái để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên điên đảo, tà kiến và các triền cái bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật. 

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của duyên khởi để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên của duyên khởi bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên cõi Dục Sắc Vô Sắc bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của bố thí, xan tham, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, Bát Nhã, ác tuệ để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên bố thí xan tham cho đến Bát Nhã, ác huệ bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của địa giới để hành; cũng không duyên vào sự thanh tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên địa giới cho đến thức giới bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của quá khứ, hiện tại, vị lai để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên quá khứ vị lai hiện tại bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của vô trước để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên vô trước bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của 37 pháp trợ đạo, vô lượng thần thông, để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên 37 pháp trợ đạo cho đến thần thông bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì đẳng chí bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của minh và giải thoát để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên minh và giải thoát bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là không duyên vào sự thanh tịnh của tận trí, vô sanh trí, Nhất thiết trí để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên tận trí, vô sanh trí, Nhất thiết trí bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy thì không duyên vào tất cả các pháp thanh tịnh của hữu tình để hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này đã biết khắp được sở duyên tất cả các pháp của hữu tình bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành như thế thời chẳng duyên tất cả thanh tịnh mà hành. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát năng thông suốt được sở duyên tất cả pháp bản tánh thanh tịnh vậy. Nếu các Bồ Tát thông suốt sở duyên tất cả bản tánh thanh tịnh là hành Bát nhã Ba la mật.

 

(Biết khắp các hành mà tu hành Bát Nhã)

 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành như thế thời không thấy đây là sắc cho đến thức, đây do sắc cho đến thức, đây thuộc sắc cho đến thức, đây theo sắc cho đến thức. Các Bồ Tát này vì chẳng thấy pháp của sắc thảy như thế nên mới đối sắc thảy thấy không cao, không thấp, không sanh, không diệt, không hành, không quán. Đối sở duyên sắc thảy cũng chẳng hành chẳng quán. Nếu các Bồ Tát năng hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật. 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không thấy đây là nhãn cho đến ý, đây là do nhãn cho đến ý, đây là thuộc nhãn cho đến ý, đây là từ nhãn cho đến ý. Các Bồ Tát ấy không thấy pháp của nhãn thảy như thế, thì đối với nhãn thảy thấy không cao, không thấp, không sanh, không diệt, không hành, không quán, và đối với nhãn thảy duyên vào cũng không hành, không quán. Nếu các Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không thấy đây là sắc cho đến pháp, đây là do sắc cho đến pháp, đây là thuộc sắc cho đến pháp, đây là từ sắc cho đến pháp. Các Bồ Tát ấy thấy pháp của sắc thảy như thế, thì đối với sắc thảy thấy không cao, không thấp, không sanh, không diệt, không hành, không quán, và đối với sắc thảy duyên vào cũng không hành, không quán. Nếu các Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không thấy đây là nhãn thức cho đến ý thức, đây là do nhãn thức cho đến ý thức, đây là thuộc nhãn thức cho đến ý thức, đây là từ nhãn thức cho đến ý thức. Các Bồ Tát ấy không thấy pháp của nhãn thức thảy như thế, thì đối với nhãn thức thảy thấy không cao, không thấp, không sanh, không diệt, không hành, không quán, và đối với nhãn thức thảy duyên vào cũng không hành, không quán. Nếu các Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không hành sắc là quá khứ, vị lai, hiện tại; cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức là quá khứ, vị lai, hiện tại. Không hành nhãn là quá khứ, vị lai, hiện tại; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là quá khứ, vị lai, hiện tại. Không hành sắc là quá khứ, vị lai, hiện tại; cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là quá khứ, vị lai, hiện tại. Không hành nhãn thức là quá khứ, vị lai, hiện tại; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu các Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không hành sắc là ngã, ngã sở; cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức là ngã, ngã sở. Không hành nhãn là ngã, ngã sở; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là ngã, ngã sở. Không hành sắc là ngã, ngã sở; cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là ngã, ngã sở. Không hành nhãn thức là ngã, ngã sở; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là ngã, ngã sở. Nếu các Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không hành sắc là vui, là khổ v.v…; cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức là vui, là khổ v.v… Không hành nhãn là vui, là khổ v.v…; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là vui, là khổ v.v... Không hành sắc là vui, là khổ v.v…; cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là vui, là khổ v.v... Không hành nhãn thức là vui, là khổ v.v…; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là vui, là khổ v.v... Nếu các Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không hành sắc là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác; cũng không hành thọ, tưởng, hành, thức là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác. Không hành nhãn là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác. Không hành sắc là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác; cũng không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác. Không hành nhãn thức là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác; cũng không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là thuộc ngã chứ chẳng phải gì khác. Nếu các Bồ Tát hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không hành sắc cho đến thức, không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành Không, không hành bất Không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác.

Đối với nhãn cho đến ý cũng không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành Không, không hành bất Không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác.

Đối với sắc cho đến pháp cũng không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành Không, không hành bất Không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác.

Đối với nhãn thức cho đến ý thức cũng không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành Không, không hành bất Không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác. Vì sao?

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả đối với các pháp ấy đều có nương chấp, xoay chuyển, hý luận, và ái thú. Nghĩa là ta có thể hành xoay chuyển như vậy; đối với điều này ta hành hý luận như vậy; do điều này mà ta hành ái thú như vậy; dựa vào điều này mà ta hành nương chấp như vậy. Trong đó, Bồ Tát biết rõ tất cả nương chấp, động chuyển, hý luận, ái thú. Vì biết cái hại đây nên họ tránh được chỗ nương chấp, vì không chỗ nương chấp nên hoàn toàn không có sở hành, cũng không có chứa giữ, cất dấu. Vì không có chứa giữ cất dấu nên không bị trói buộc, cũng không lìa trói buộc. Do đó, mà không có phát khởi và không theo phát khởi. Bồ Tát nào biết cáí hại về nương chấp ấy là tu hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với sắc cho đến thức không hành thường hay vô thường, không hành vui hay không vui, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành Không hay bất Không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng, không hành như tiếng vọng trong hang.

Đối với nhãn cho đến ý cũng không hành thường hay vô thường, không hành vui hay không vui, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành Không hay bất Không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng, không hành như tiếng vọng trong hang.

Đối với sắc cho đến pháp cũng không hành thường hay vô thường, không hành vui hay không vui, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành Không hay bất Không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng, không hành như tiếng vọng trong hang.

Đối với nhãn thức cho đến ý thức cũng không hành thường hay vô thường, không hành vui hay không vui, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành Không hay bất Không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng, không hành như tiếng vọng trong hang.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì các pháp ấy có tầm, có tứ, có hành, có quán. Trong đây, nếu Bồ Tát biết rõ tất cả có tầm, có tứ, có hành, có quán để dẹp tất cả hành và biết khắp các hành mà tu hành Bát nhã Ba la mật, thì đó là giảng nói các hạnh của Bồ Tát.

 

(Tất cả pháp không thể nghĩ bàn)

 

Bấy giờ, Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa thật không thể nghĩ bàn.

Phật dạy:

- Này Thiện Dũng Mãnh! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì sắc cho đến thức không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát Nhã sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

nhãn cho đến ý không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

sắc cho đến pháp không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

nhãn thức cho đến ý thức không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

danh sắc không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

duyên khởi không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

tạp nhiễm không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

nghiệp quả không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

điên đảo, tà kiến và các triền cái không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát Nhã sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

hữu tình giới, pháp giới không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

tham, sân, si không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

37 pháp trợ đạo, vô lượng thần thông, các tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, 4 Thánh đế, minh và giải thoát, trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật địa, pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật, trí quá khứ, vị lai, hiện tại, trí vô trước, Niết bàn, Phật, Pháp, Tăng bảo không thể nghĩ bàn nên Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa cũng không thể nghĩ bàn.

Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa chẳng phải do tâm sanh ra gọi là không thể nghĩ bàn, cũng chẳng phải không sanh tâm gọi là không thể nghĩ bàn.

 

(Tâm và tâm sở đều vô sở hữu).

 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu nói rằng do tâm sanh thì đó là điên đảo, còn nói rằng tâm không sanh thì cũng là điên đảo. Nếu có thể thông đạt tâm và tâm sở(1) đều vô sở hữu thì chẳng điên đảo.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải bản tánh của tâm có sanh, có khởi, có tận, có diệt mà tương ưng với điên đảo bảo rằng tâm, tâm sở có sanh, có khởi, có tận, có diệt.

Này Thiện Dũng Mãnh! Phải biết trong đây tâm khá khai thị(2), do điên đảo khởi cũng khá khai thị (tâm điên đảo đều có thể giáo hóa).

Này Thiện Dũng Mãnh! Ngu phu dị sanh chẳng thể giác liễu tâm khá khai thị, và chẳng giác liễu từ điên đảo khởi cũng khá khai thị được. Bởi chẳng giác liễu khá khai thị nên đối tâm xa lìa chẳng năng chánh biết, cũng chẳng chánh biết xa lìa sở duyên.

Bởi đấy chấp đắm tâm tức là ngã, tâm là ngã sở, tâm nương nơi ngã, tâm từ ngã sanh. Sau người kia chấp tâm rồi, lại chấp là thiện, hoặc chấp phi thiện, hoặc chấp là vui, hoặc chấp là khổ, hoặc chấp là đoạn, hoặc chấp là thường, hoặc chấp kiến thú, hoặc chấp các che, hoặc chấp điên đảo, hoặc chấp bố thí xan tham, hoặc chấp trì giới phạm giới, hoặc chấp an nhẫn giận dữ, hoặc chấp tinh tiến lười biếng, hoặc chấp tĩnh lự tán loạn, hoặc chấp Bát Nhã ác huệ, hoặc chấp ba cõi, hoặc chấp duyên khởi, hoặc chấp danh sắc, hoặc chấp tham sân si, hoặc chấp ganh ghét keo rít thảy, hoặc chấp ngã mạn, hoặc chấp khổ tập diệt đạo, hoặc chấp lục đại chủng, hoặc chấp hữu tình pháp giới, hoặc chấp niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi, hoặc chấp tịnh lự giải thoát, đẳng trì đẳng chí, hoặc chấp vô lượng thần thông, hoặc chấp minh và giải thoát, hoặc chấp tận trí, vô sanh trí, hoặc chấp vô tạo tác trí, hoặc chấp Phật Pháp Tăng Bảo, hoặc chấp Thanh văn Độc giác Bồ Tát Phật địa, hoặc chấp Thanh văn Độc giác Bồ Tát Phật, hoặc chấp vô trước trí, hoặc chấp bát Niết bàn, hoặc chấp Phật trí, hoặc chấp tướng hảo, hoặc chấp cõi Phật, hoặc chấp Thanh văn viên mãn, hoặc chấp Độc giác viên mãn, hoặc chấp Bồ Tát viên mãn, hoặc chấp các tạp nhiễm thanh tịnh khác nữa. (Q.598, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)

Này Thiện Dũng Mãnh! Đối với các pháp môn như vậy mà các Bồ Tát không sanh tâm chấp trước, thấy biết các hữu tình đã tạo ra tâm, tâm sở điên đảo, và trong tất cả hoàn cảnh các Bồ Tát cũng không khởi tâm điên đảo, cũng không nương vào tâm sanh các điên đảo. Vì sao? Thiện Dũng mãnh! Vì các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, xa lìa tâm, tâm sở điên đảo, chứng bản tánh tâm thanh tịnh trong sáng, trong đó hoàn toàn không phát sanh tâm, tâm sở.

Này Thiện Dũng Mãnh! Phàm phu ngu si nương vào cảnh duyên mà sanh tâm, tâm sở rồi chấp có duyên, chấp có tất cả tâm, tâm sở. Các Bồ Tát biết duyên, tâm và tâm sở phát sanh hoàn toàn không có, nên không sanh tâm, tâm sở. Nếu Bồ Tát quán tất cả tâm, tâm sở như vậy thì được bản tánh thanh tịnh và trong sáng. Còn phàm phu ngu si thì điên đảo, vọng sanh tạp nhiễm nên nghĩ như vầy: Do duyên vào cảnh nên sanh tâm, tâm sở, biết rõ cảnh đã duyên vô sở hữu thì tâm, tâm sở đều không sanh. Đã không sanh thì cũng không trụ diệt, vì bản tánh của tâm, tâm sở trong sáng và thanh tịnh, lìa các tạp nhiễm, được thanh tịnh nên vui. Tánh của tâm không sanh cũng không trụ diệt; cũng không khiến pháp có sanh trụ v.v… Chỉ kẻ phàm phu ngu si mới chấp việc này một cách sai lầm, còn Bồ Tát thì biết bản tánh của tâm, tâm sở không sanh cũng không trụ diệt nên tu hành Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Như vậy, khi hành Bồ Tát không nghĩ: Ta hành Bát nhã Ba la mật, nay ta nương vào đây mà hành Bát nhã Ba la mật, ta do đây mà hành Bát nhã Ba la mật, ta theo đây mà hành Bát nhã Ba la mật.

Hoặc các Bồ Tát nghĩ như vầy: Đây là Bát nhã Ba la mật, đây là do Bát nhã Ba la mật, đây là nương vào Bát nhã Ba la mật, đây thuộc vào Bát nhã Ba la mật. Vì họ nghĩ như vậy nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la mật, các Bồ Tát không thấy, không đắc mà hành thì đó là hành Bát nhã Ba la mật.

 

Thiện Dũng Mãnh bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nào hành Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy là hành vô thượng; Bồ Tát nào hành Bát Nhã như vậy là hành thanh tịnh; Bồ Tát nào hành Bát Nhã như vậy là hành trong sáng; Bồ Tát nào hành sâu Bát Nhã như vậy là hành vô sanh; Bồ Tát nào hành sâu Bát Nhã như vậy là hành vô diệt; Bồ Tát nào hành sâu Bát Nhã như vậy là hành siêu xuất; Bồ Tát nào hành sâu Bát Nhã như vậy là khó khắc phục.

Nghĩa là các ác ma hoặc quyến thuộc hoặc hành có tướng, có sở đắc khác; hoặc ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, sở hữu các kiến: Hoặc đoạn thường kiến, hoặc các uẩn kiến, hoặc các xứ kiến, hoặc các giới kiến, hoặc chư Phật kiến, hoặc chư Pháp kiến, hoặc chư Tăng kiến, hoặc Niết bàn kiến, hoặc tưởng chứng đắc, hoặc tăng thượng mạn, hoặc hành tham sân si, hoặc hành điên đảo, triền cái, hoặc vượt đạo lộ để hướng đến đều không thể thắng được. Vậy nên Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật sâu thẳm vượt các thế gian không ai bì kịp, rất tôn rất thắng.

 

Bấy giờ, Phật bảo Thiện Dũng Mãnh:

- Này Thiện Dũng Mãnh! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, Bồ Tát nào hành Bát nhã Ba la mật vượt lên trên thế gian là người rất tôn quí, rất thù thắng, không ai sánh kịp. Tất cả ác ma hoặc quyến thuộc của thiên ma đều không khuất phục, cho đến các kiến chấp thuộc tánh tướng của Niết bàn cũng không thể khuất phục. Những việc làm của tất cả phàm phu ngu si v.v… không thể nào chiến thắng những việc mà Bồ Tát này đã làm.

Này Thiện Dũng Mãnh! Kẻ phàm phu ngu si không thể làm công việc của Bồ Tát này, hàng hữu học, vô học, Thanh văn, Độc giác cũng không thể.

Này Thiện Dũng Mãnh! Thanh văn, Độc giác nào có thể làm công việc này thì không gọi là Thanh văn, Độc giác mà gọi là Bồ Tát, vị này sẽ đắc bốn điều không sợ(3) v.v… vô biên công đức của Như Lai. Vì Thanh văn, Độc giác không thể hành như vậy nên không được gọi là Bồ Tát, không được bốn điều không sợ v.v… vô biên công đức của Như Lai.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật sâu xa mà Bồ Tát hành là bốn điều không sợ v.v… chỗ công đức của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các Bồ Tát nào hành sâu thì nên lấy sự chứng đắc bốn điều không sợ v.v… để làm sự nghiệp. Các Bồ Tát nào hành sâu Bát nhã Ba la mật thì mau chứng đắc công đức bốn điều không sợ v.v… của Như Lai.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát chưa chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhờ sức đại nguyện, hoặc sức hộ trì của chư Như Lai mà hành sâu Bát nhã Ba la mật thì mau được tiếp nhận vô biên công đức bốn điều không sợ v.v…

Này Thiện Dũng Mãnh! Thanh văn, Độc giác không thể nguyện cầu công đức bốn điều không sợ v.v… của chư Như Lai. Chư Phật Thế Tôn cũng không hộ niệm, giúp vị ấy chứng đắc bốn điều không sợ v.v...

Này Thiện Dũng Mãnh! Các chúng Bồ Tát nhờ sức đại nguyện, hoặc sức hộ trì của chư Như Lai nên có thể chứng đắc bốn điều không sợ v.v... Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì các chúng Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, nhất định đạt được bốn sự hiểu biết thông suốt(4). Bốn sự hiểu biết thông suốt là gì? Là, nghĩa hiểu biết thông suốt; pháp hiểu biết thông suốt; từ hiểu biết thông suốt; biện tài hiểu biết thông suốt. Đó gọi là bốn sự hiểu biết thông suốt. Các chúng Bồ Tát nào thành tựu bốn sự hiểu biết thông suốt như vậy, tuy chưa chứng đắc sở cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng nhờ sức đại nguyện thì có thể tiếp nhận công đức bốn điều không sợ v.v… của Như Lai.

Chư Phật Thế Tôn biết họ thành tựu căn lành thù thắng về bốn sự hiểu biết thông suốt, biết họ đã đắc được chỗ công đức của Bát nhã Ba la mật sâu xa, nên dùng sức thần thông hộ niệm thêm, để họ tiếp nhận công đức bốn điều không sợ v.v… của chư Như Lai. Cho nên, Bồ Tát nào muốn cầu chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt, muốn cầu tiếp nhận công đức bốn điều không sợ v.v… của Như Lai, thì nên học Bát nhã Ba la mật, nên hành Bát nhã Ba la mật chớ có chấp trước.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát Nhã, thông đạt các pháp là nhân, hoặc tập, hoặc mất, hoặc diệt, không có một chút pháp nào mà không hợp với Bát nhã Ba la mật, thì các Bồ Tát ấy như thật biết rõ tướng nhân, tập, diệt, đạo của các pháp.

 

(Vì các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh,

Nên chẳng tu chẳng khiển).

 

Sau khi biết rõ tướng nhân, tập, diệt, đạo của các pháp rồi thì đối với sắc chẳng tu chẳng khiển; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng tu chẳng khiển. Đối với nhãn chẳng tu chẳng khiển; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý chẳng tu chẳng khiển.

Đối với sắc chẳng tu chẳng khiển; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp chẳng tu chẳng khiển. Đối với nhãn thức chẳng tu chẳng khiển; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức chẳng tu chẳng khiển. Đối với danh sắc chẳng tu chẳng khiển. Đối với nhiễm tịnh chẳng tu chẳng khiển. Đối với duyên khởi chẳng tu chẳng khiển. Đối với điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành chẳng tu chẳng khiển. Đối với tham, sân, si chẳng tu chẳng khiển. Đối với cõi Dục, Sắc, Vô sắc chẳng tu chẳng khiển. Đối với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng tu chẳng khiển. Đối với hữu tình giới, pháp giới chẳng tu chẳng khiển. Đối ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, chẳng tu chẳng khiển. Đối với đoạn kiến, thường kiến chẳng tu chẳng khiển. Đối với bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ chẳng tu chẳng khiển. Đối với niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, chẳng tu chẳng khiển. Đối với tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí chẳng tu chẳng khiển. Đối với đoạn diệt điên đảo chẳng tu chẳng khiển. Đối với khổ, tập, diệt, đạo chẳng tu chẳng khiển. Đối với vô lượng thần thông không tu, không bỏ. Đối với trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác không tu, không khiển. Đối với địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật chẳng tu chẳng khiển. Đối với pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật chẳng tu chẳng khiển. Đối với thiền chỉ, thiền quán chẳng tu chẳng khiển. Đối với Niết bàn chẳng tu chẳng khiển. Đối với trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại chẳng tu chẳng khiển. Đối với trí vô trước chẳng tu chẳng khiển. Đối với Phật trí chẳng tu chẳng khiển. Đối với công đức bốn điều không sợ v.v… của Như Lai chẳng tu chẳng khiển. Vì sao?   

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì danh sắc không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì nhiễm tịnh không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì duyên khởi không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì tham, sân, si không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì cõi Dục, Sắc, Vô sắc không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì hữu tình giới, pháp giới không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì ngã, hữu tình, mạng sống, sự sanh, sự nuôi, trưởng thành, người, ý sanh, tuổi trẻ, người làm, người nhận, người biết, người thấy không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì đoạn kiến, thường kiến không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không có tự tánh nên chẳng tu chẳng khiển. Vì niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì đoạn điên đảo không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì khổ, tập, diệt, đạo không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì vô lượng thần thông không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì thiền chỉ, thiền quán không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì Niết bàn không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì trí vô trước không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển. Vì trí Phật không có tự tánh nên chẳng thể tu khiển.

Thiện Dũng Mãnh! Không có chút pháp tánh được coi là thực tại cứu cánh, tất cả pháp đều thế tục giả lập, chẳng phải trong ấy có chút tự tánh. Vì không tự tánh nên đều chẳng thật có. Các pháp đều lập vô tánh làm tánh, vậy nên các pháp không thật không sanh. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các pháp điên đảo đều chẳng thật có, các pháp đều từ điên đảo khởi. Các điên đảo ấy đều không thật tánh. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp đều lìa tự tánh, tìm cầu tự tánh trọn chẳng thể đắc, vậy nên đều lấy vô tánh làm tánh.

Thiện Dũng Mãnh! Vô tánh ấy không thật không sanh, nên gọi vô tánh. Đây thời chỉ rõ tánh chẳng phải thật có, nên gọi vô tánh. Nếu tánh chẳng có thời chẳng thể tu, cũng chẳng thể khiển, điên đảo sở khởi chẳng phải thật có, nên chẳng thể tu cũng chẳng thể khiển. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp lấy vô tánh làm tánh, xa lìa tự tánh thời chẳng phải thật vật. Vì chẳng thật vật nên không tu không khiển.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các đại Bồ Tát đối trong các pháp trụ kiến như thật, tu hành Bát nhã Ba la mật, đối tất cả pháp không tu không khiển, gọi tu Bát nhã Ba la mật. Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành như thế, năng trụ như thế tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

 

(Đối với tất cả pháp không thủ, không chấp,

không trụ, không trước).

 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng khởi tâm tương ưng(5) với tướng của uẩn, xứ, giới. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự não hại. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự sân giận. Chẳng khởi tâm tương ưng với tham lam. Chẳng khởi tâm tương ưng với phiền não. Chẳng khởi tâm tương ưng với phẫn nộ. Chẳng khởi tâm tương ưng với giải đãi. Chẳng khởi tâm tương ưng với tán loạn. Chẳng khởi tâm tương ưng với ác tuệ. Chẳng khởi tâm tương ưng với dục kiết sử. Chẳng khởi tâm tương ưng với chấp duyên sắc. Chẳng khởi tâm tương ưng với chấp Vô sắc. Chẳng khởi tâm tương ưng với tham dục. Chẳng khởi tâm tương ưng với ly gián. Chẳng khởi tâm tương ưng với tà kiến. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự chấp trước về tài lợi, địa vị. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự chấp trước phú quí. Chẳng khởi tâm tương ưng với dòng tộc giàu hơn người. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự chấp trước sanh thiên. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự chấp trước cõi Dục. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự chấp trước cõi Sắc, Vô sắc. Chẳng khởi tâm tương ưng với địa vị Thanh văn. Chẳng khởi tâm tương ưng với địa vị Độc giác. Chẳng khởi tâm tương ưng với sự chấp trước các Bồ Tát hạnh, cho đến không khởi tâm tương ưng với sự chấp trước Niết bàn.

Các đại Bồ Tát này trọn nên tâm thanh tịnh như thế, nên đối các hữu tình dù khởi đầy Từ Bi Hỷ Xả, mà năng trừ khiển được tưởng hữu tình. Đối tưởng hữu tình không chấp mà trụ, đối bốn phạm trụ(6)cũng không chấp trước; trọn nên diệu huệ phương tiện khéo léo. Nhờ thành tựu pháp như vậy nên vị ấy không chấp trước, tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

Vì các Bồ Tát ấy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn, nên đối với các uẩn, xứ, giới không thủ, không chấp. Đối với danh sắc không thủ, không chấp. Đối với nhiễm tịnh không thủ, không chấp. Đối với duyên khởi không thủ, không chấp. Đối với điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành không thủ, không chấp. Đối với tham, sân, si không thủ, không chấp. Đối với cõi Dục, Sắc, Vô sắc không thủ, không chấp. Đối với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thủ, không chấp. Đối với hữu tình giới, pháp giới không thủ, không chấp. Đối ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ‎ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả không lấy không chấp. Đối với đoạn kiến, thường kiến không thủ, không chấp. Đối với bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không thủ, không chấp. Đối với niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi, không thủ, không chấp. Đối với tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không thủ, không chấp. Đối với đoạn điên đảo không thủ, không chấp. Đối với khổ, tập, diệt, đạo không thủ, không chấp. Đối với vô lượng thần thông không thủ, không chấp. Đối với trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác không thủ, không chấp. Đối với địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không thủ, không chấp. Đối với pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không thủ, không chấp. Đối với thiền chỉ, thiền quán không thủ, không chấp. Đối với cảnh giới Niết bàn không thủ, không chấp. Đối với trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không thủ, không chấp. Đối với trí vô trước không thủ, không chấp. Đối với trí Phật không thủ, không chấp. Đối với trí lực vô úy v.v… của Phật và vô biên Phật pháp khác không thủ, không chấp. Đối với dứt điên đảo, tà kiến, triền cái v.v… không thủ, không chấp. Vì sao?

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp chẳng thể tùy lấy, chẳng thể chấp thọ, không năng tùy lấy không năng chấp thọ. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Không có chút pháp nào khá chấp thọ, cũng không chút pháp năng chấp thọ. Vì sao? Vì hoặc năng chấp thọ hoặc sở chấp thọ đều chẳng thể đắc. Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp đều chẳng chắc thật như việc huyễn vậy. Vì tất cả pháp đều tánh chẳng tự tại, trơ lì chẳng thể đắc vậy. Vì tất cả pháp đều như bóng sáng chẳng thể lấy vậy.Vì tất cả pháp thảy đều hư ngụy, không tự tánh vậy. Vì tất cả pháp đều như nhóm bọt chẳng thể bắt nắm vậy. Vì tất cả pháp đều như bọt nổi khởi rồi chóng diệt vậy. Vì tất cả pháp như quáng nắng do điên đảo mà sanh. Vì tất cả pháp đều như cây chuối, lõi không chắc thật vậy. Vì tất cả pháp đều như trăng trong nước chẳng thể bắt lấy vậy. Vì tất cả pháp đều như cầu vồng hư dối phân biệt vậy. Vì tất cả pháp đều không có tác dụng nên không thể phát sanh. Vì tất cả pháp đều như nắm tay rỗng không nên tánh, tướng nó không thật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát sau khi quán sát như vậy rồi, đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ và không trước. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát giữ gìn lòng tin sâu sắc đối với tất cả pháp, không còn chấp trước, không chấp chặt, không tham ái là hành Bát nhã Ba la mật. Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy, trụ như vậy mà tu hành Bát nhã Ba la mật thì mau được viên mãn.

 

(Đây là một đoạn Kinh tuy ngắn mà diễn đặc tánh của tất cả pháp thật sâu sắc, nếu tin hiểu như thế và giữ lòng tin chân thật, không chấp trước, không tham ái là hành Bát nhã Ba la mật sớm được viên mãn!)

 

(Rốt ráo Bồ Tát không cần học).

 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Khi các Bồ Tát học như vậy là không học về uẩn xứ giới; không vượt qua uẩn xứ giới mà học. Không học về uẩn xứ giới sanh; không học về uẩn xứ giới diệt. Không vì nhiếp phục uẩn xứ giới mà học; không vì không nhiếp phục uẩn xứ giới mà học. Không vì uẩn xứ giới nhiếp phục hay chuyển dời mà học; không vì uẩn xứ giới hướng vào hay an trụ mà học.  

Thích nghĩa:

(1). Tâm và tâm sở: Nếu thích nghĩa theo Duy Thức Học thì Tâm còn gọi là Tâm vương gồm có 8: 1. Nhãn thức, 2. Nhĩ thức, 3. Tỷ thức, 4. Thiệt thức, 5. Thân thức,  6. Ý thức, 7. Mạc na thức và 8. A lại gia thức (còn gọi là Tàng thức). Sở dĩ gọi là Tâm vương vì tám món này tự tại, tự chủ như ông vua. Còn Tâm sở có 51 món (xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư; dục, thắng giải, niệm định, huệ; tín, tinh tấn, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại; tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến; phẫn, hận, phú, não, tật, san, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tùy, vô tàm, vô úy, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. 51 món này tùy thuộc Tâm vương mà khởi và giúp đỡ Tâm vương để tạo tác giống như quần thần giúp vua trong vấn đề triều chính.

(2). Nguyên văn bản dịch dùng từ “khai thị”. Khai thị có nghĩa là diễn nói để cho hiểu, hay nói khác là khai tâm hay mở đạo nhãn.

(3). Bốn điều không sợ (Tứ vô sở úy):

Phẩm “Quảng Thừa”, quyển 06, tập 01, kinh MHBNBLMĐ do La Thập dịch, ghi tứ vô sở úy tóm tắt như sau:

Thế nào là bốn? Phật nói lời thành thật rằng ta là bậc nhất thiết chánh trí (Chánh Đẳng Giác). Đối với những điều như thật gạn hỏi về các pháp của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả hàng Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên Vương, Phạm Vương, Ma Vương, cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ nhất.

Phật nói lời thành thật rằng ta là bậc tất cả lậu đã dứt diệt. Đối với chỗ gạn hỏi như thật về lậu phiền não đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ ngôi thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Trời, Người cùng chúng sanh khác không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ hai.

Phật nói lời thành thật rằng ta đây biết những pháp chướng ngại chánh đạo giải thoát. Đối với những lời gạn hỏi như thật về pháp chướng đạo đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bậc thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ ba.

Phật nói lời thành thật rằng những thánh đạo mà ta đã dạy quyết định có thể ra khỏi thế gian, theo đây thực hành thời có thể hết khổ. Đối với những lời gạn hỏi như thật về thánh đạo đây của tất cả đại chúng, Phật không tự thấy có mảy may e sợ. Vì thế nên Phật được rất an ổn, được vô sở úy, an trụ bậc thánh chúa, ở giữa đại chúng như sư tử hống chuyển pháp luân thanh tịnh mà tất cả Nhơn, Thiên cùng chúng sanh khác đều không chuyển được. Đây là vô sở úy thứ tư”.

Đó là giải thích rộng theo kinh MHBNBLMĐ, phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 53, Hội thứ I, ĐBN và phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 381, Hội thứ I, ĐBN. Nhóm của Ngài Huyền Trang dịch cũng có đoạn Kinh giải thích về bốn điều không sợ hay tứ vô sở úy. Nói ngắn gọn là: 1- Nhất thiết trí vô sở úy, 2- Lậu tận vô sở úy, 3- Thuyết chướng đạo vô sở úy và 4- Thuyết tận khổ đạo vô sở úy. 

(4). Bốn điều hiểu biết thông suốt hay tứ vô ngại giải hay tứ vô ngại biện là: 1- Pháp vô ngại, 2- Nghĩa vô ngại, 3- Từ vô ngại và 4- Nhạo thuyết vô ngại. Bốn trí không ngăn ngại này cũng chính là Bốn biện tài vô ngại (Tứ vô ngại biện), Bồ Tát khi đạt được bốn trí này thì có thể vì tất cả chúng sinh mà biện thuyết Chánh pháp không ngăn ngại.

Lưu ý: (3). và (4). đã thích nghĩa rồi trong phần thứ I Tổng luận.

(5). Tương ưng và bất tương ưng: Tương ưng là hợp với nhau, cùng nhau, khế hợp nhau. Bất tương ưng ngược lại là không hợp với nhau.

(6). Tứ phạm trụ hay tứ phạm trú: S, P: catur-brahmavihāra; Hán Việt: Tứ phạm trú (四梵住), cũng được gọi là Tứ vô lượng tâm (四無量心): Một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thức cao thượng phát sinh. Bốn phạm trú là: Từ (s: maitrī) vô lượng, Bi (s, p: karuṇā) vô lượng, Hỷ (s, p: muditā) vô lượng và Xả (s: upekṣā) vô lượng. Bốn tâm này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bậc và tham muốn. Trong Đại thừa, Bốn phạm trú cũng được gọi là hạnh Ba la mật (s: pāramitā; Lục độ). Đó là tâm thức của Bồ Tát muốn cứu độ chúng sinh. Thực hành Bốn phạm trú, thiền giả sẽ tái sinh tại cõi Thiên (s, p: deva). Có khi Bốn phạm trú cũng được gọi là “bốn vô lượng” (vô lượng; s: apramāṇa; p: appa-maññā). Đức Phật giảng về phép thiền định này như sau: “Có bốn vô lượng. Hỡi các tỷ-khưu, một người tràn đầy tâm từ (bi, hỷ, xả) sẽ phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh mình. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm từ (bi, hỷ, xả), tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền não”. (Từ điển Đạo Uyển)

 

Thay lời lược giải:

 

1. Hành không sở duyên.

 

Vô tướng tức vô trước. Nếu không có tướng thì không còn chỗ để duyên, dù là duyên vào sự thanh tịnh của danh sắc, của ngã hay bất cứ pháp nào. Không chỗ duyên thì không chỗ nương vịn, cất giữ; không chỗ nương vịn cất giữ tức không còn chấp tâm thủ tướng nữa, thì không bị trói, không bị trói thì không có chỗ hành. Ngoài không phan duyên, trong không bám giữ, trong ngoài rỗng rang trong suốt, thì được an nhiên tịch lặng. Kinh nói: “Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không hành sắc cho đến thức, không hành tập, không hành diệt, không hành sâu, không hành cạn, không hành Không, không hành bất Không, không hành hữu tướng, không hành vô tướng, không hành hữu nguyện, không hành vô nguyện, không hành có tạo tác, không hành không có tạo tác.

Vì tất cả đối với các pháp ấy đều có nương chấp, xoay chuyển, hý luận và ái thú. Nghĩa là ta có thể hành xoay chuyển như vậy; đối với điều này ta hành hý luận như vậy; do điều này mà ta hành ái thú như vậy; dựa vào điều này mà ta hành nương chấp như vậy. Trong đó, Bồ Tát biết rõ tất cả nương chấp, động chuyển, hí luận, ái thú. Vì biết cáí hại đây nên họ tránh được chỗ nương chấp, vì không chỗ nương chấp nên hoàn toàn không có sở hành, cũng không có chứa giữ, cất dấu. Vì không có chứa giữ cất dấu nên không bị trói buộc, cũng không lìa trói buộc. Do đó, mà không có phát khởi và không theo phát khởi. Bồ Tát nào biết cái hại về nương chấp ấy là tu hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, nếu các Bồ Tát tu hành Bát Nhã, đối với sắc cho đến thức không hành thường hay vô thường, không hành vui hay không vui, không hành ngã hay vô ngã, không hành tịnh hay bất tịnh, không hành Không hay bất Không, không hành như huyễn, không hành như mộng, không hành như bóng, không hành như tiếng vọng trong hang.

Vì sao? Vì các pháp có tầm, có tứ, có hành, có quán. Trong đây, nếu Bồ Tát biết rõ tất cả có tầm, có tứ, có hành, có quán để dẹp tất cả hành và biết khắp các hành mà tu hành Bát nhã Ba la mật, thì đó là giảng nói các hạnh của Bồ Tát ”.

Tất cả mọi thứ đều bắt đầu từ sở duyên. Có sở duyên là có nương vịn như chim nương cành như dây leo nương dậu. Nương vịn ở đâu? Nương vịn ở tâm và tâm sở, nên mới có chấp đắm, rồi nắm bắt hay buông bỏ. Tất cả đều do năng sở tạo thành. Nếu không thấy biết thì chẳng có động chuyển, đổi dời nữa. Đoạn kế nói tiếp:

 

2. Không chấp tâm và tâm sở.

 

“... Lại nữa, nếu nói rằng do tâm sanh thì đó là điên đảo, còn nói rằng tâm không sanh thì cũng là điên đảo. Nếu có thể thông đạt tâm và tâm sở đều vô sở hữu thì chẳng điên đảo. Chẳng phải bản tánh của tâm có sanh, có khởi, có tận, có diệt... tương quan với điên đảo mà bảo rằng tâm, tâm sở có sanh, có khởi, có tận, có diệt.

Bởi chấp đắm tâm tức là ngã, tâm là ngã sở, tâm nương nơi ngã, tâm từ ngã sanh. Sau người kia chấp tâm rồi, lại chấp là thiện hoặc chấp phi thiện, hoặc chấp là vui hoặc chấp là khổ, hoặc chấp là đoạn hoặc chấp là thường, hoặc chấp kiến thú hoặc chấp các che, hoặc chấp điên đảo, hoặc chấp bố thí xan tham, hoặc chấp trì giới phạm giới, hoặc chấp an nhẫn giận dữ, hoặc chấp tinh tiến lười biếng, hoặc chấp tĩnh lự tán loạn, hoặc chấp trí tuệ, ác huệ, hoặc chấp ba cõi, hoặc chấp duyên khởi, hoặc chấp danh sắc, hoặc chấp tham sân si, hoặc chấp ganh ghét keo kiết, hoặc chấp ngã mạn, hoặc chấp khổ tập diệt đạo, hoặc chấp lục đại chủng, hoặc chấp hữu tình pháp giới, hoặc chấp niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi, hoặc chấp tịnh lự giải thoát, đẳng trì đẳng chí, hoặc chấp vô lượng thần thông, hoặc chấp minh và giải thoát, hoặc chấp tận trí, vô sanh trí, hoặc chấp vô tạo tác trí, hoặc chấp Phật Pháp Tăng Bảo, hoặc chấp Thanh văn Độc giác Bồ Tát Phật địa, hoặc chấp Thanh văn Độc giác Bồ Tát Phật, hoặc chấp vô trước trí, hoặc chấp bát Niết bàn, hoặc chấp Phật trí, hoặc chấp tướng hảo, hoặc chấp cõi Phật, hoặc chấp Thanh văn viên mãn, hoặc chấp Độc giác viên mãn, hoặc chấp Bồ Tát viên mãn, hoặc chấp các tạp nhiễm thanh tịnh khác nữa”.

 Tâm một khi dao động rồi, thấy cái gì cũng chấp. Nếu thấy biết tất cả pháp là không, là như huyễn như mộng... thì không còn chấp trước, không còn điên đảo nữa. Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, xa lìa tâm, tâm sở điên đảo, nên chứng bản tánh tâm thanh tịnh trong đó hoàn toàn không phát sanh tâm hay tâm sở.

Kinh nói:Phàm phu ngu si nương vào cảnh duyên mà sanh tâm, tâm sở rồi chấp có duyên, chấp có tất cả tâm, tâm sở. Các Bồ Tát biết duyên và tâm, tâm sở phát sanh hoàn toàn không có, nên không sanh tâm, tâm sở. Nếu Bồ Tát quán tất cả tâm, tâm sở như vậy thì được bản tánh thanh tịnh và trong sáng. Còn phàm phu ngu si thì điên đảo, vọng sanh tạp nhiễm nên nghĩ: Do duyên vào cảnh nên sanh tâm, tâm sở.

Nếu biết rõ cảnh đã duyên vô sở hữu thì tâm, tâm sở đều không sanh. Đã không sanh thì cũng không trụ diệt, vì bản tánh của tâm, tâm sở trong sáng và thanh tịnh, lìa các tạp nhiễm, được thanh tịnh nên vui”.

Bài học quá thậm thâm sâu sắc, rất giản dị nhưng khó hành. Nếu không thủ tâm chấp tướng thì không còn phân biệt, chấp đắm. Đó là chỗ cần hạ thủ. Nói thì dễ nhưng thực hành mới thật là khó!

 

3. Vì các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh

nên không tu cũng không khiển.

 

“Không có chút pháp tánh được coi là thực tại cứu cánh, tất cả pháp đều thế tục giả lập, chẳng phải trong ấy có chút tự tánh. Vì không tự tánh nên đều chẳng thật có. Các pháp đều lập vô tánh làm tánh, vậy nên các pháp không thật không sanh. Vì sao? Vì các pháp điên đảo đều chẳng thật có, các pháp đều từ điên đảo khởi. Các điên đảo đều không thật tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lìa tự tánh, tìm cầu tự tánh trọn chẳng thể đắc, vậy nên đều lấy vô tánh làm tánh.

Vô tánh ấy không thật không sanh, nên gọi vô tánh. Đây thời chỉ rõ tánh chẳng phải thật có, nên gọi vô tánh. Nếu tánh chẳng có thời chẳng thể tu, cũng chẳng thể khiển, điên đảo sở khởi chẳng phải thật có, nên chẳng thể tu cũng chẳng thể khiển. Vì sao? Vì tất cả pháp lấy vô tánh làm tánh, xa lìa tự tánh thời chẳng phải thật vật. Vì chẳng thật vật nên không tu không khiển.

Nếu các đại Bồ Tát đối trong các pháp trụ kiến như thật, tu hành Bát nhã Ba la mật, đối tất cả pháp không tu không khiển, gọi tu Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát năng hành như thế, năng trụ như thế tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn”.

 

4. Đối với tất cả pháp không thủ, không chấp,

không trụ, không trước.

 

“Vì tất cả pháp chẳng thể tùy lấy, chẳng thể chấp thọ, không năng tùy lấy không năng chấp thọ. Vì sao? Vì không có chút pháp nào khá chấp thọ, cũng không chút pháp năng có chấp thọ. Vì hoặc năng chấp thọ hoặc sở chấp thọ đều chẳng thể đắc. Vì tất cả pháp đều chẳng chắc thật như việc huyễn vậy. Vì tất cả pháp đều tánh chẳng tự tại, trơ lì chẳng thể đắc vậy. Vì tất cả pháp đều như bóng sáng chẳng thể lấy vậy.Vì tất cả pháp thảy đều hư ngụy, không tự tánh vậy. Vì tất cả pháp đều như nhóm bọt chẳng thể bắt nắm vậy. Vì tất cả pháp đều như bọt nổi khởi rồi chóng diệt vậy. Vì tất cả pháp như quáng nắng do điên đảo mà sanh. Vì tất cả pháp đều như cây chuối, lõi không chắc thật vậy. Vì tất cả pháp đều như trăng trong nước chẳng thể bắt lấy vậy. Vì tất cả pháp đều như cầu vồng hư dối phân biệt vậy. Vì tất cả pháp đều không có tác dụng nên không thể phát sanh. Vì tất cả pháp đều như nắm tay rỗng không nên tánh, tướng nó không thật.

Các Bồ Tát sau khi quán sát như vậy rồi, đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ và không trước. Nếu các Bồ Tát giữ gìn lòng tin sâu sắc đối với tất cả pháp, không còn chấp trước, không chấp chặt, không tham ái là hành Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát hành như vậy, trụ như vậy mà tu hành Bát nhã Ba la mật thì mau được viên mãn”.

Đấy là bài học quý báu cho bất cứ ai đối với tất cả pháp biết như mộng ảo, bào huyễn, như mây như khói, như bọt nổi, tu tán đổi dời... không thủ, không chấp, không trụ, không trước, không tham ái là hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

 

5. Rốt ráo Bồ Tát không phải học:

 

 Không cần tìm đâu xa các giáo pháp gọi là siêu việt để tu để hành. Toàn quyển 598 nói lên các giáo pháp hết sức giản dị: Không chỗ phan duyên thì không có chỗ bám, không chỗ bám thì không có chỗ tàng chứa cất giữ, không có chỗ tàng chứa cất giữ thì không chỗ hành, không chỗ hành thì không còn động chuyển nữa, tâm mới được như như.

Ngoài không phan duyên, trong không chỗ bám, trong ngoài rỗng rang trong suốt, thì được an nhiên tịch lặng. Bởi chấp đắm tâm tức tâm là ngã, là ngã sở. Tâm nương nơi ngã, tâm từ ngã sanh. Tâm vốn không bỗng phát điên đảo, rồi sanh ra lo âu phiền muộn mới tìm cách tháo gỡ. Suốt đời loanh quanh hết buộc rồi gỡ, tự mình làm rối mình thật vô tích sự, mà không tự biết!

Vì vậy, kinh khuyên đừng chấp tâm và tâm sở. Vì sao? Vì các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh. Nên đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ, không trước. Rốt ráo, không cần học, không cần tu, cũng không cần khiển.

Khi Bồ Tát quán biết các pháp như thế là không phải học, không cần vượt qua uẩn xứ giới mà học. Không học uẩn xứ giới sanh hay diệt, không vì nhiếp phục hay không nhiếp phục uẩn xứ giới mà học, không vì uẩn xứ giới nhiếp phục hay dời chuyển mà học, không vì uẩn xứ giới hướng vào hay an trụ mà học.

Một khi đối với tất cả pháp không thủ, không chấp, không trụ, không trước, không tham ái... thì cần học, cần tu, cần khiển cái gì? Nói dễ nhưng tu được như thế mới siêu xuất.

Chưa có quyển nào trong 600 quyển ĐBN như quyển 598 này: Thuyết về TÂM và VẬT quá hay! Nếu đối với trần cảnh Tâm không động, không chuyển thì Tâm là Tâm và Vật là Vật, Tâm Vật chẳng có liên hệ gì thì không cần phải học phải tu. Nhưng tiếc thay Tâm con người luôn luôn biến động. Nên thấy là cần học cần khiển. Đúng là tự mình làm rối mình. Than trời trách đất chỉ mỏi miệng thêm!

 

Chúng ta đọc tiếp Q.599, phần “Bát Nhã Ba La Mật”.

 

Quyển thứ 599  

 

(Bồ Tát đối với căn trần xứ giới và ba thời

chẳng học chẳng duyên như thế nào?)


            Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế, chẳng đối sắc học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã; cũng chẳng đối thọ tưởng hành thức học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế, chẳng đối nhãn học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã; cũng chẳng đối nhĩ tỷ thiệt thân ý (lục căn) học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế, chẳng đối sắc học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã; cũng chẳng đối thanh hương vị xúc pháp (lục trần) học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế, chẳng đối nhãn thức học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã; cũng chẳng đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức (lục thức) học hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc không hoặc chẳng không, hoặc ngã hoặc vô ngã.

Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế chẳng duyên sắc hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành; cũng chẳng duyên thọ tưởng hành thức hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế, chẳng duyên nhãn hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành; cũng chẳng duyên nhĩ tỷ thiệt thân ý hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế, chẳng duyên sắc hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành; cũng chẳng duyên thanh hương vị xúc pháp hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát khi học như thế, chẳng duyên nhãn thức hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành; chẳng duyên nhĩ tỷ thiệt thân ý thức hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hành.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát học như vậy, tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát quá khứ, nhưng không lấy sở hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc quá khứ; tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát vị lai, nhưng không lấy sở hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc vị lai; tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát hiện tại, nhưng không lấy sở hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc hiện tại.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành như thế, tuy quán quá khứ không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không hằng, không lâu, an trụ pháp chẳng biến đổi, mà chẳng hành nơi quá khứ như thế. Tuy quán vị lai không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không hằng, không lâu, an trụ pháp chẳng biến đổi, mà chẳng hành nơi vị lai như thế. Tuy quán hiện tại không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không hằng, không lâu, an trụ pháp chẳng biến đổi, mà chẳng hành nơi hiện tại như thế.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào hành được như vậy, trụ như vậy tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào hành được như vậy thì tất cả ác ma không làm hại được. Nếu Bồ Tát hành như vậy thì biết rõ ràng về việc làm của ác ma, không bị các ma làm tổn hại. 

 

(Không sở duyên thì không sở chấp, không nương trụ)

 

Lại nữa. này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát nào hành được như vậy (không lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã, vô ngã sở, vô thường... để quán, để hành ba thời quá khứ vị lai, hiện tại), an trụ pháp chẳng biến đổi thì không duyên vào ngũ uẩn; cũng không duyên vào 12 xứ, 18 giới. Không duyên vào danh sắc. Không duyên vào tạp nhiễm. Không duyên vào điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành. Không duyên vào tham, sân, si. Không duyên vào ngã, hữu tình v.v… Không duyên vào đoạn, thường. Không duyên vào biên, vô biên. Không duyên vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Không duyên vào duyên khởi. Không duyên vào địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không duyên vào hữu tình giới, pháp giới. Không duyên vào chắc thật, hư vọng. Không duyên vào trói buộc, lìa trói buộc. Không duyên vào sự đoạn diệt tham, sân, si. Không duyên vào bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ. Không duyên vào niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi. Không duyên vào đoạn điên đảo. Không duyên vào tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Không duyên vào từ, bi, hỷ, xả. Không duyên vào khổ, tập, diệt, đạo. Không duyên vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác. Không duyên vào trí vô trước. Không duyên vào địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật. Không duyên vào thần thông trí kiến. Không duyên vào giải thoát. Không duyên vào giải thoát trí kiến. Không duyên vào Niết bàn. Không duyên vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại. Không duyên vào trí lực, vô úy v.v… của Phật. Không duyên vào cõi Phật thanh tịnh. Không duyên vào tướng hảo thanh tịnh. Không duyên vào sự viên mãn của Thanh văn. Không duyên vào sự viên mãn của Độc giác. Không duyên vào sự viên mãn của Bồ Tát. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp chẳng có sở duyên, vì tất cả các pháp chẳng có năng duyên, chẳng phải tất cả pháp có chấp thủ mà cho rằng nó có sở duyên.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có sở duyên tức là có tác động chấp trước; nếu có chấp trước thì sẽ có sầu, than, khổ, ưu, não. Nếu có sở duyên tức là bị trói buộc, không giải thoát mà xa lìa đạo. Do đó, làm cho tất cả khổ não tăng trưởng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có sở duyên tức là sự nương chấp, động chuyển và hí luận. Nếu có sở duyên tức là có những đấu tranh, kiện tụng. Nếu có sở duyên tức là có vô minh, si ám. Nếu có sở duyên tức là có sợ hãi. Nếu có sở duyên tức là bị lưới ma và võng  ma trói buộc. Nếu có sở duyên tức là có khổ bức bách và tìm cầu an lạc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bồ Tát nào quán sát thấy có những tai họa như vậy thì không duyên vào các pháp. Vì không duyên vào tất cả các pháp nên không có chấp thủ, vì không chấp thủ nên không trụ vào tất cả các pháp. Bồ Tát không có sở duyên như vậy nhưng đối với cảnh giới nhất định được tự tại. Mặc dù đối với cảnh giới nhất định được tự tại nhưng không có nương chấp, cũng không chỗ trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy, thì không bị phan duyên vào tất cả pháp; nếu không chấp trước và không tranh luận với tất cả pháp thì an trụ không bị nhiễm.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu đối với khắp cảnh giới và pháp sở duyên mà các Bồ Tát ấy đều không bị trói buộc thì (như vậy)đã tu hành Bát nhã Ba la mật. (Q.598, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào hành như vậy và trụ như vậy thì tu hành Bát nhã Ba la mật mau được viên mãn. Vì vậy, tất cả ác ma không thể nào làm trở ngại được, cả quyến thuộc của quân ma cũng không thể nào khống chế được, có muốn tìm điều xấu của các vị cũng không thể tìm được, cũng không có cách nào quấy nhiễu. Nhưng các vị ấy có thể chinh phục được ma và quân ma, biết rõ tất cả việc của ma, không làm theo việc của ma mà hành một cách tự tại, làm chấn động, thiêu đốt các cung điện của ma, cũng có thể chinh phục tất cả ngoại đạo nhưng không bị ngoại đạo chinh phục; cũng có thể bẻ gãy tất cả các luận phái khác mà không bị các luận phái khác bẻ gãy.

 

(Không phân biệt, không phân biệt khác)

 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào có thể hành như vậy tức là đối với ngũ uẩn không trụ phân biệt, không phân biệt khác. Đối với 12 xứ 18 giới không trụ phân biệt, không phân biệt khác. Do nhân duyên này mà các Bồ Tát đối với các danh sắc không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với nhiễm tịnh không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với duyên khởi không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với đoạn kiến, thường kiến không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với cõi Dục, Sắc, Vô sắc không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với hữu tình giới, pháp giới không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với tham, sân, si không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với chắc thật, hư vọng không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với có trói buộc, lìa trói buộc không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả và các tưởng kia chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với dứt điên đảo v.v… không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với khổ, tập, diệt, đạo không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với từ, bi, hỷ, xả không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với trí kiến thần thông không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với trí vô trước không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với minh và giải thoát không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với giải thoát, giải thoát tri kiến không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với trí lực, vô úy v.v… của Phật không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với tướng hảo thanh tịnh không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với cõi Phật thanh tịnh không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với sự viên mãn của Thanh văn không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với sự viên mãn của Độc giác không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với sự viên mãn của Bồ Tát không khởi phân biệt, không phân biệt khác.

 

(Chẳng khởi phân biệt, thì không phân biệt khác)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu có phân biệt thời có phân biệt khác. Nếu đối chỗ này không có phân biệt, thời đối chỗ ấy không có phân biệt khác. Ngu phu dị sanh tất cả đều là phân biệt tạo ra và tư tưởng của họ cũng đều do phân biệt khác phát sanh. Vậy nên, Bồ Tát chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói phân biệt ấy là bên thứ nhất, phân biệt khác ấy là bên thứ hai. Nếu đối chỗ này chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác, thời đối chỗ ấy xa lìa hai bên, cũng không có giữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu bảo có giữa cũng là phân biệt, phân biệt giữa ấy cũng gọi có bên. Nếu đối chỗ này có phân biệt ấy, thời đối chỗ đây có phân biệt khác. Do nhân duyên đây có nghĩa không dứt phân biệt, phân biệt khác. Nếu đối chỗ này không phân biệt ấy, thời đối chỗ đấy không phân biệt khác. Do nhân duyên đây có nghĩa dứt phân biệt, phân biệt khác.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đoạn trừ phân biệt nghĩa là trong đó hoàn toàn không có gì để đoạn trừ cả. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì do sức phân biệt, phân biệt khác là vô sở hữu, hư vọng nên phát sanh điên đảo; vì nó tịch tĩnh nên điên đảo cũng không có; vì điên đảo cũng không nên hoàn toàn không có chỗ đoạn trừ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì không có sự đoạn trừ nên mới hiển bày ý niệm về khổ đoạn. Nghĩa là trong đó không có một chút khổ nào để đoạn trừ nên gọi là khổ đoạn. Nếu khổ tự tánh có chút chơn thật thì mới có thể đoạn trừ, nhưng tự tánh khổ không chút chơn thật nên không có chỗ để đoạn trừ, chỉ thấy khổ không có nữa nên gọi khổ đoạn. Nghĩa là biết khắp khổ trọn không tự tánh chút phần khá được nên gọi khổ đoạn. Nếu mọi người đối với khổ mà hoàn toàn không phân biệt và phân biệt khác thì gọi là khổ tịch tĩnh, tức là làm cho khổ không còn có ý nghĩa phát sanh nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát thấy như vậy thì đối với các pháp không khởi phân biệt và không phân biệt khác. Này Thiện Dũng Mãnh! Đó gọi là Bồ Tát biết rõ tánh phân biệt và phân biệt khác mà tu hành Bát nhã Ba la mật.

 

(Thành quả của việc không khởi phân biệt,

không phân biệt khác)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát nào hành như vậy và trụ như vậy để tu hành Bát nhã Ba la mật thì mau được viên mãn. Cho nên tất cả ác ma không thể nào làm chướng ngại họ được. Chúng quân ma có làm việc gì các vị ấy đều biết rõ, nên làm việc gì vị ấy cũng không theo việc của ma, ngược lại được tự tại khiến cho bọn ác ma tự nhiên lui tan, đánh bại bọn chúng làm cho ít dần. Thân tâm các vị ấy thanh thản không hề sợ hãi nên quân ác ma không thể nào quấy nhiễu họ được. Nhờ vậy mà chấm dứt tất cả nhân sanh về cõi ác, đoạn trừ và bít lấp những con đường tà vạy trong thế gian, xa lìa các ám chướng băng qua dòng thác bạo.

Đối với tất cả pháp được mắt thanh tịnh, đem lại ánh sáng lớn cho các loài hữu tình, nối dõi hạt giống Phật để không bị đoạn mất. Chứng đắc tánh bình đẳng của chơn đạo, thương xót hữu tình mà có pháp nhãn thanh tịnh, đầy đủ tinh tấn, xa lìa giải đãi, đạt được tâm an nhẫn và xa lìa sân hận, nhập các tĩnh lự không còn chỗ nương, đắc được chân trí tuệ, thành tựu trí tuệ thông đạt, trừ bỏ các việc ác, viễn ly các triền cái, thoát khỏi bẫy rập của ác ma, chặt đứt lưới ái, an trụ trong chánh niệm, được giới thanh tịnh đến bờ tịnh giới, an trụ vào các công đức, xa lìa các tội lỗi, an định tuệ không thể lay động. Tất cả các luận phái khác không thể nào bẻ gãy được, đắc các pháp thanh tịnh, vĩnh viễn không cho mất, giảng nói các pháp mà không có lo sợ, vào giữa đại chúng tâm không rụt rè. Bố thí diệu pháp không giấu tiếc, đem đạo bình đẳng làm sạch các đạo lộ, thề xa lìa tà đạo, tu những điều nên tu, đem các pháp thanh tịnh huân sâu vào những điều nên huân tập, đem trí tuệ thanh tịnh làm sạch những điều nên làm sạch, lòng độ lượng sâu rộng như biển lớn, yên lặng bất động khó lường, biển pháp vô biên không ngần mé.    

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy, được thành tựu hạnh đó và vô biên các công đức khác thì công đức ấy khó lường được bờ mé của nó, ngoài Phật Thế Tôn ra không ai có thể biết được.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Bồ Tát nào tu hành Bát nhã Ba la mật như vậy thì diệu sắc không giảm, tài của địa vị không giảm, quyến thuộc không giảm, nòi giống không giảm, gia tộc không giảm, quốc độ không giảm, không sanh nơi biên địa, không gặp chỗ nạn, không ở chung với hữu tình xấu ác, cũng không gần gũi lân cận với sự nghiệp nhơ nhuốc, tự tâm không thối lui, trí tuệ không giảm sút, nghe và thọ nhận những pháp môn nơi người khác đều thể nhập vào pháp tánh bình đẳng, nối dõi hạt giống về Nhất thiết trí trí của Phật, làm cho hưng thạnh mãi không bị đoạn mất.

Đối với pháp của chư Phật đã nhận được ánh sáng và được gần với Nhất thiết trí trí. Nếu có ác ma muốn đến chỗ của vị ấy để quấy nhiễu thì khiến cho ma và quyến thuộc của chúng đều thành tro bụi, làm cho biện tài của chúng tan nát và lưới ma đứt lìa. Giả sử có triệu, ức quyến thuộc chúng ma đến quấy nhiễu, nhưng tâm của vị ấy không hề dao động. Khi ấy, ác ma và quân chúng ma đều kinh hãi lui tan và nghĩ rằng: Bồ Tát này đã vượt qua cảnh giới của ta, vị ấy sẽ không thực hành điều gì trong cảnh giới của chúng ta, cũng không an trụ và không hề đắm trước. Ngược lại còn làm cho các hữu tình khác đều ra khỏi cảnh giới của ta và mau được giải thoát.

Sau khi ác ma suy nghĩ như vậy buồn rầu ảo não, bèn nói với nhau như vầy: “Bồ Tát đã gây tổn hại đến bè đảng quyến thuộc của chúng ta, làm cho chúng ta không còn thế lực nữa”. Nói xong, ác ma buồn khổ hối hận.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu Bát nhã Ba la mật sâu xa, thể hội Bát nhã Ba la mật sâu xa, thì khi ấy cung điện của ma đều mất oai lực ánh sáng, khắp mọi nơi đều từ từ phát ra tướng khói lửa. Ác ma kinh hãi, buồn khổ và lo sợ giống như bị dao đâm vào tim, như trúng mũi tên độc. Tất cả chúng đều than thở như vầy: Nay Bồ Tát này làm cho hữu tình không còn tiếp nhận sự khuyến dụ của chúng ta nữa.

Bồ Tát này sẽ làm cho hữu tình thoát khỏi cảnh giới của chúng ta. Bồ Tát này sẽ làm cho hữu tình đoạn diệt cảnh giới của chúng ta. Bồ Tát này sẽ làm cho hữu tình phá hủy võng lưới của chúng ta. Bồ Tát này sẽ làm cho hữu tình vĩnh viễn thoát khỏi các dục nhơ nhuốc. Bồ Tát này sẽ làm cho hữu tình thoát khỏi lưới của các kiến. Bồ Tát này sẽ làm cho hữu tình ra khỏi con đường tà vạy của triền cái. Bồ Tát này an lập các hữu tình, làm cho họ được sống trong chánh đạo. Bồ Tát này dẫn các hữu tình vĩnh viễn ra khỏi u minh các kiến.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các ác ma thấy Bồ Tát này có pháp thù thắng và lợi ích như vậy nên buồn khổ ưu sầu giống như bị mũi tên găm vào tim, như nguời bị mất kho báu lớn mà âu sầu khổ não cùng cực. Vì ác ma ấy thân tâm hối hận, ưu sầu khổ não, như bị trúng tên độc ngày đêm kinh hoàng đứng ngồi không yên.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát nào hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu Bát nhã Ba la mật sâu xa, thể hội Bát nhã Ba la mật sâu xa, thì lúc ấy ác ma tập trung lại một chỗ suy nghĩ và tìm cách để phá hoại Bồ Tát. Chúng nói với nhau như vầy: “Chúng ta sẽ lập mưu gì, làm việc gì để phá hoại chánh hạnh mà Bồ Tát này đã tu hành”.

Khi ấy, tâm bọn ác ma nghi ngờ mê loạn liền âu sầu, khổ não không vui như bị trúng tên độc, chúng khuyến khích lẫn nhau cùng đến chỗ Bồ Tát để rình tìm chỗ sơ hở của vị ấy, làm cho vị ấy lo sợ mà thay đổi công phu. Nhưng nhờ sức oai thần của Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, làm thần lực của các ác ma mất hết, thậm chí bọn chúng không thể động đến đầu sợi lông của Bồ Tát, huống gì làm cho thân tâm của Bồ Tát thay đổi. Vì biết Bồ Tát đã xa lìa sự sợ hãi nên ác ma kinh hoàng rợn tóc gáy. Các ác ma lại tìm mọi cách để làm mê hoặc nhưng vì tâm thần bị suy yếu và lo sợ nên các kế hoạch của chúng đều thất bại. Bấy giờ, vua ác ma liền nghĩ như vầy: Ta còn không phá hoại được Bồ Tát này, huống gì quyến thuộc của ta hay những người khác làm sao có thể phá vị ấy được. Nghĩ vậy, vua ác ma lo sợ hết đường tính toán, bèn quay trở về cung điện của mình sống trong sầu khổ.

Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật đầy đủ oai lực lớn như vậy, quyến thuộc của ác ma không thể nào làm cho tâm vị ấy mê hoặc dù trong khoảnh khắc, huống gì có thể làm chướng ngại các việc khác.

Bồ Tát nào tu hành Bát nhã Ba la mật như vậy, thành tựu công đức trí tuệ và sức oai thần lớn như vậy, giả sử có các hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều biến thành ma, mỗi ác ma dẫn theo chúng ác ma như vậy, vì muốn quấy nhiễu nên đến chỗ Bồ Tát và dùng hết thần lực của mình, cũng không thể nào làm chướng ngại sự tu hành Bát nhã Ba la mật của vị ấy. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì khi ấy, Bồ Tát đã thành tựu sức đao kiếm của trí tuệ sâu xa, cũng thành tựu không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, và sức trí tuệ không gì sánh bằng, nên không bị bọn ác ma hung bạo chinh phục.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đao lớn gọi là đạo trí tuệ, kiếm lớn cũng gọi là kiếm trí tuệ. Đao lớn là đao trí tuệ, nên Bát nhã Ba la mật chẳng phải là cảnh sở hành của bọn ác ma.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các ngoại đạo tu tiên đã đắc bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, còn vượt khỏi cảnh giới của ác ma ở cõi Dục, để sanh vào trong bốn cảnh giới Vô sắc của các Phạm thiên. Vậy đối với diệu trí ở thế gian mà Bồ Tát đã thành tựu chẳng phải cảnh giới hoạt động của họ, huống gì là đối với Bát nhã Ba la mật chân thật, thì làm sao ác ma có thể hoạt động trong cảnh giới này được. Với diệu trí của những vị tiên nhơn ngoại đạo đã đắc được Sắc, Vô sắc định, cũng chẳng phải cảnh giới của ác ma hoạt động, huống gì đối với Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Khi nào Bồ Tát thành tựu Bát nhã Ba la mật, thì khi ấy Bồ Tát được gọi là người thành tựu oai lực lớn. Nếu ai thành tựu oai lực Bát Nhã thì gọi là người thành tựu đao trí tuệ sắc bén, nếu có ai thành tựu đao bén Bát Nhã thì gọi là người thành tựu đao trí tuệ sắc bén. Cho nên các quân ma không thể nào chiến thắng được, ngược lại vị ấy có thể chiến thắng tất cả quân ma.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát thành tựu đao kiếm sắc bén của Bát nhã Ba la mật, có đầy đủ oai lực lớn thì các Bồ Tát không nương vào đâu cả, làm việc gì cũng không bị lệ thuộc. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì có lệ thuộc thì có động chuyển, có động chuyển thì có dao động, có dao động thì có đổi dời hí luận.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các hữu tình có lệ thuộc, có động chuyển, có dao động, có đổi dời hí luận thì các hữu tình đó theo sức của ma mà hành, thì chưa thoát khỏi cảnh giới của ma.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các hữu tình dù sanh lên tận trời Hữu Đảnh cũng trụ ở chỗ ấy, bị lệ thuộc vào chỗ ấy, nương tựa vào chỗ ấy. Như vậy, tất cả đều rơi vào cảnh giới của ác ma, chưa ra khỏi bẫy rập của ác ma, nên bị ác ma trói buộc và luôn chạy theo ác ma. Giống như Mãnh Hý Tử(1) và A la đồ Ca la ma Tử(2) cùng tất cả tiên nhơn ngoại đạo khác cũng trụ Vô sắc, bị lệ thuộc vào nơi ấy, nương tựa cõi ấy.    

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu Bát nhã Ba la mật sâu xa, thể hội Bát Nhã sâu xa, thì các Bồ Tát ấy không trụ vào đâu và làm việc gì cũng không hề bị lệ thuộc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát dõng mãnh tinh tấn tu hành Bát nhã Ba la mật và tùy thuận an trụ, thì lúc ấy Bồ Tát không nương tựa vào 5 uẩn; cũng không nương tựa vào 12 xứ 18 giới. Không nương tựa vào danh sắc. Không nương tựa vào điên đảo, tà kiến, các triền cái và các ái hành. Không nương tựa vào duyên khởi. Không nương tựa vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Chẳng nương tựa ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả và các tưởng kia. Không nương tựa vào địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không nương tựa vào hữu tình giới, pháp giới. Không nương tựa vào sơ tĩnh lự, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Không nương tựa vào hữu ái. Không nương tựa vào không hữu ái. Không nương tựa vào đoạn kiến, thường kiến. Không nương tựa vào hữu tánh, vô tánh. Không nương tựa vào bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ. Không nương tựa vào niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi. Không nương tựa vào các đoạn điên đảo. Không nương tựa vào tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Không nương tựa vào khổ, tập, diệt, đạo. Không nương tựa vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác. Không nương tựa vào trí vô trước. Không nương tựa vào minh và giải thoát. Không nương tựa vào giải thoát tri kiến. Không nương tựa vào địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật. Không nương tựa vào pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật. Không nương tựa vào Niết bàn. Không nương tựa vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại. Không nương tựa vào tánh bình đẳng của ba đời. Không nương tựa vào trí lực, vô úy v.v… của Phật. Không nương tựa vào Nhất thiết trí trí. Không nương tựa vào sự viên mãn của tướng hảo. Không nương tựa vào sự viên mãn của cõi Phật. Không nương tựa vào sự viên mãn của Thanh văn. Không nương tựa vào sự viên mãn của Độc giác. Không nương tựa vào sự viên mãn của Bồ Tát. Không nương tựa vào tất cả pháp. Không nương tựa vào sự di chuyển. Không nương tựa vào sự dao động. Không nương tựa vào sự hý luận.

Do không nương tựa nên khiển trừ tất cả, cũng chẳng chấp trước đạo không nương tựa. Đối không nương tựa cũng chẳng ỷ chấp. Cũng lại chẳng đắc đây là nương tựa, cũng lại chẳng đắc nương tựa ở đây, cũng lại chẳng đắc nương tựa thuộc đây, cũng lại chẳng đắc nương tựa cái nương đây. Đối chỗ nương cũng không ỷ chấp. Như vậy, Bồ Tát đối chỗ nương cũng không ỷ cậy, không đắc, không chấp, không lấy, không nói, không mừng, không đắm mà trụ. Chẳng bị tất cả chỗ nương làm nhiễm, đối chỗ nương cũng không trệ ngại, chứng được tịnh pháp, tránh được tất cả sự nương chấp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này y vào tất cả pháp, nương tựa vào trí kiến vi diệu thanh tịnh để tu hành Bát nhã Ba la mật. Nhờ đó mà ác ma không thể làm hại được, cả quân của ác ma cũng không thể chiến thắng được, nhưng ngược lại các vị ấy có thể chiến thắng tất cả quân ma.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát chưa phát tâm Vô Thượng Bồ đề, thì trước tiên nên tích tập vô lượng, vô số tư lương căn lành, cúng dường nhiều đức Phật, tôn thờ nhiều bạn lành, thưa hỏi pháp yếu với nhiều đức Phật, phát thệ nguyện rộng lớn, ý vui đầy đủ, thích thực hành bố thí cho các hữu tình, tôn trọng, giữ gìn giới thanh tịnh, nhẫn nhục và hòa nhã với mọi người, tinh tấn dõng mãnh lìa bỏ các giải đãi, tôn trọng tu hành tĩnh lự trong sáng, cung kính tu học tuệ thanh tịnh, thì đó là các Bồ Tát đã phát tâm quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Lại nữa, phải siêng năng tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật, lấy sức trí tuệ để đánh bại các chúng ma và luôn nghĩ: Đừng để ác ma rình tìm chỗ sơ hở của chúng ta mà quấy nhiễu.

Nhờ sức lực này khiến cho ác ma không thể làm hại, gây chướng ngại sự tu học, cũng khiến cho chúng ma không khởi tâm như vầy: Chúng ta phải rình tìm chỗ sơ hở của các Bồ Tát ấy và làm nhiễu loạn để gây chướng ngại sự tu học của họ.

Giả sử ác ma có khởi tâm ấy thì chúng sẽ tự nghĩ biết: Ta làm như vậy chắc chắn sẽ gặp khổ lớn. Do đó, tâm bọn chúng rất lo sợ: Nay chúng ta chớ có để tan thân mất mạng, nên dứt bỏ tâm quấy nhiễu ấy ngay. Thế rồi tâm xấu của ác ma biến mất.                                         

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhờ nhân duyên này mà ác ma không làm chướng ngại sự học Bát nhã Ba la mật sâu xa của Bồ Tát.

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát nghe nói Bát nhã Ba la mật liền sanh tâm thuần tịnh thì sẽ tăng trưởng ý vui, thâm tâm tôn trọng khen ngợi công đức và tưởng vị ấy như Đại sư, nghe nói giáo pháp tương ưng với sáu Ba la mật, cũng không sanh tâm do dự hay nghi ngờ.

Nhờ nghe pháp sâu xa mà tâm không bị mê loạn, cũng không do dự và nghi ngờ, quyết không gây nhân tạo nghiệp thiếu pháp, tâm cũng không đưa đến quả báo thiếu pháp, khuyến khích, hướng dẫn vô lượng, vô biên hữu tình tin thọ tu học Bát nhã Ba la mật sâu xa, khen ngợi, động viên vô lượng, vô biên hữu tình, làm cho họ tin thọ tu học 6 pháp Ba la mật.

Các Bồ Tát ấy ý vui đầu tiên thanh tịnh, tất cả ý vui không bị tạp nhiễm, các quân ma không thể nào làm chướng ngại được. Vì vị ấy biết rõ tất cả việc làm của quân ma, nên tất cả quân ma không thể nào xâm phạm được. Do đó, các vị ấy không theo sức lực của ác ma mà tu hành tự tại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhờ nhân duyên này mà các Bồ Tát không bị quyến thuộc ác ma quấy nhiễu nữa.

 

(Tất cả pháp không hợp không lìa)

 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật thì không hành sắc là tướng hợp; không hành sắc là tướng lìa. Không hành thọ, tưởng, hành, thức là tướng hợp; không hành thọ, tưởng, hành, thức(5 uẩn) là tướng lìa.

Không hành nhãn là tướng hợp; không hành nhãn là tướng lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là tướng hợp; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý(6 căn) là tướng lìa.

Không hành sắc là tướng hợp; không hành sắc là tướng lìa. Không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp là tướng hợp; không hành thanh, hương, vị, xúc, pháp(6 trần) là tướng lìa.

Không hành nhãn thức là tướng hợp; không hành nhãn thức là tướng lìa. Không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức là tướng hợp; không hành nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức(6 thức) là tướng lìa.

Không hành tướng của 5 uẩn là tướng hợp, lìa. Không hành tướng của 12 xứ, 18 giới là tướng hợp, lìa.

Không hành 5 uẩn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành 12 xứ, 18 giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành duyên với 5 uẩn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành duyên với 12 xứ, 18 giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh.

Không hành sự phát sanh của 5 uẩn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành sự phát sanh của 12 xứ, 18 giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với tự tánh của 5 uẩn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với tự tánh của 12 xứ, 18 giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành bản tánh của 5 uẩn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành bản tánh của 12 xứ, 18 giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với bản tánh của 5 uẩn là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với bản tánh của 12 xứ, 18 giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành 5 uẩn của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành 12 xứ, 18 giới của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Không hành duyên với 5 uẩn của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Không hành duyên với 12 xứ, 18 giới của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không cùng 5 uẩn hoặc hợp, hoặc lìa; không cùng 12 xứ 18 giới hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng danh sắc hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng điên đảo, tà kiến, các triền cái, và các ái hành hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng cõi Dục, Sắc, Vô sắc hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng tham, sân, si hoặc hợp, hoặc lìa.

Không cùng ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, hữu tướng, vô tướng hoặc hợp hoặc lìa. Không cùng đoạn kiến, thường kiến hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng giới, xứ hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng hữu tình giới, pháp giới hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng duyên khởi hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng năm diệu dục(3) hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng tạp nhiễm, thanh tịnh hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng niệm trụ, chánh moan, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng đoạn điên đảo v.v… hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng khổ, tập, diệt, đạo hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng thiền chỉ, thiền quán hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng minh và giải thoát hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng giải thoát tri kiến hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng vô lượng thần thông hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác, trí vô trước hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng sanh tử, Niết bàn hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng trí lực, vô úy v.v… của Phật hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng tướng hảo viên mãn hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng trang nghiêm cõi Phật hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng sự viên mãn của Thanh văn hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng sự viên mãn của Độc giác hoặc hợp, hoặc lìa. Không cùng sự viên mãn của Bồ Tát hoặc hợp, hoặc lìa. Vì sao?

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả các pháp không hợp, lìa. Chẳng phải tất cả pháp vì hợp hay lìa mà hiện tiền. Hợp nghĩa là thường, mà lìa nghĩa là đoạn. Bản tánh của các pháp không do giác sát (quan sát giác biết) mà có hợp, có lìa.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu tánh các pháp vì hợp vì lìa mà hiện tiền, thời các pháp ấy có thể đắc, có kẻ tác kẻ khiến tác, kẻ khởi kẻ khiến khởi, kẻ thọ kẻ khiến thọ, kẻ biết kẻ khiến biết, kẻ thấy kẻ khiến thấy, kẻ hợp kẻ khiến hợp, kẻ lìa kẻ khiến lìa. Như Lai cũng lẽ thi thiết các pháp: Đây là kẻ tác kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa kẻ khiến lìa. Nếu là như vậy thì Như Lai cũng có thể thiết lập ra các pháp, đây là kẻ tác, kẻ khiến, cho đến kẻ lìa, kẻ khiến lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Do tánh các pháp không vì hợp, lìa mà hiện tiền, nên các pháp không có kẻ tác, kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa, kẻ khiến lìa, chút phần khá được. Vì chẳng thể được nên Phật chẳng thi thiết.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các pháp đều do điên đảo khởi ra, chẳng phải các điên đảo có hợp có lìa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các việc điên đảo không chút khá được, cũng chẳng khá được tánh thật sanh thật khởi. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Điên đảo chẳng thật, hư vọng dối trá, trống rỗng không có gì. Chẳng phải với trong ấy có chút thật pháp khá gọi tên điên đảo!

Này Thiện Dũng Mãnh! Điên đảo làm mê loạn hữu tình, làm cho hữu tình trở thành dối trá, hiện hư vọng phân biệt, sanh nương chấp, động chuyển và hý luận.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như dùng nắm tay không để lừa trẻ con, nó không biết cho là có vật thật. Kẻ phàm phu ngu si cũng như vậy, bị hư vọng điên đảo làm mê hoặc, đối với pháp tánh không có hợp, lìa mà thấy sai lầm hợp lìa nên cho là thật có. Do ngu si điên đảo, ở trong không thật có mà khởi tưởng là thật có, nên khó giải thoát. Thế nên, tất cả phàm phu ngu si vì thấy sai lầm về hợp, lìa mà bị điên đảo trói buộc nên rong ruổi, trôi lăn trong sanh tử. Vì cho rằng, đắc hợp, trụ hợp, thấy hợp, chấp hợp, liền có sự chấp có; còn lìa nghĩa là trừ khiển hợp mà được lìa vậy.

 

(Đây là một chuỗi dài như khoa Phân Tâm Học: Do tác động của căn trần xứ giới đối với nội tâm, tạo ra thức tình động niệm, mà bị trôi lăn. Vì vậy, chúng tôi nói đạo Phật lập cước trên các “khái niệm”(4) sinh động này. Thật là bài học giản dị nhưng quý giá vô cùng. Nếu chấp hành nghiêm chỉnh, chắc chắn sẽ đạt được những diệu dụng không thể nghĩ bàn)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu chỗ có hợp, chỗ ấy có lìa. Nếu ở trong hợp mà không đắc, không nương tựa và không khởi chấp trước thì không thấy lìa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu ở trong lìa mà có đắc, có nương tựa và khởi chấp trước thì đó là có hợp, nên khổ đau sanh tử chưa thể giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát ấy quán sát thật nghĩa này, nên đối với pháp tánh chẳng hợp, chẳng lìa; cũng không vì pháp hoặc hợp, hoặc lìa mà có sở tác hoặc có tu học.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nhờ biết rõ về hợp, lìa mà các Bồ Tát đã tu hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Bồ Tát nào an trụ Bát nhã Ba la mật như vậy, thì vị ấy mau viên mãn pháp Nhất thiết trí. 

 

(Không năng hành, sở hành là hành Bát Nhã)

 

Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng hành ngũ uẩn đắm không đắm. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới đắm không đắm. Chẳng hành ngũ uẩn thanh tịnh đắm không đắm. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới thanh tịnh đắm không đắm. Chẳng hành ngũ uẩn sở duyên đắm không đắm. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới sở duyên đắm không đắm. Chẳng hành ngũ uẩn hợp lìa đắm không đắm. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới hợp lìa đắm không đắm. Chẳng hành ngũ uẩn thanh tịnh hợp lìa đắm không đắm. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới thanh tịnh hợp lìa đắm không đắm.

Chẳng hành sở duyên thanh tịnh của ngũ uẩn là hợp hay lìa. Chẳng hành sở duyên thanh tịnh của 12 xứ, 18 giới là hợp hay lìa. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả đều có dời chuyển, nương chấp, dao động, hoặc hành, hoặc quán. Bồ Tát biết rõ tất cả như vậy, nên ở trong đó không hành, không quán nữa.

Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát Nhã, chẳng hành ngũ uẩn quá khứ vị lai hiện tại đắm không đắm. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới quá khứ vị lai hiện tại đắm không đắm. Chẳng hành ngũ uẩn quá khứ vị lai hiện tại thanh tịnh chẳng thanh tịnh. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới quá khứ vị lai hiện tại thanh tịnh chẳng thanh tịnh.

Chẳng hành ngũ uẩn của quá khứ vị lai hiện tại đắm không đắm, sở duyên thanh tịnh chẳng thanh tịnh. Chẳng hành 12 xứ, 18 giới của quá khứ vị lai hiện tại đắm không đắm, sở duyên thanh tịnh chẳng thanh tịnh. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát này hành Bát nhã Ba la mật đều chẳng thấy pháp hành và chẳng hành.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát ấy đều không có sở hành nên có thể ngộ nhập biết rõ các hành mà tu hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành như thế, mau được viên mãn pháp Nhất thiết trí.

 

Thích nghĩa:

(1). Udraka: Uất Đà Ca La Ma Tử(s), Uddaka-Ramaputta (P), còn gọi  Mãnh Hý Tử hay Uất Đầu Lam Phất là người dạy Phật tu định.

(2). Urada: còn gọi A la đồ Ca la ma Tử là người dạy Phật tu thiền.

Trong bước đầu dấn thân vào cuộc sống xuất gia, đức Phật học thiền và định với hai ông tiên này nhưng rồi từ giã hai lão sư ra đi. Vì Ngài không hài mãn giáo lý của hai ông và cho rằng: “Giáo lý ấy không đưa đến phản tỉnh, đến xả trừ, đến thâm ngộ, đến diệu giác, đến Niết Bàn mà chỉ đạt đến cảnh giới hư vô”. Đã thích nghĩa nhiều lần, nhắc lại để nhớ Phật sử.

(3). Ngũ diệu dục: (五妙欲) Gọi tắt: Ngũ diệu. Chỉ cho 5 cảnh: Sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm cảnh hữu lậu này bản chất của chúng là khổ đau, nhơ nhớp, nhưng lòng ham muốn (dục) của người thế tục lại cảm nhận là vui sướng, là tuyệt diệu, vì thế gọi là Ngũ diệu dục. Phạm: Paĩca kàmà. Pàli: Paĩca Kàmà.

 

1- Ngũ Dục: Cũng gọi Ngũ diệu dục, Diệu ngũ dục, Ngũ diệu sắc. Chỉ cho 5 thứ tình tham muốn do say đắm 5 trần cảnh: Sắc, thanh, hương, vị, xúc mà nổi lên. Đó là: 1/. Sắc dục (Phạm: Rùpa-kàma): Tham đắm sắc đẹp của thế gian. 2/. Thanh dục (Phạm: Zabda-kàma): Say đắm về âm thanh như lời ca, tiếng nhạc... 3/. Hương dục (Phạm: Gandha-kàma): Đắm say mùi thơm như các loại nước hoa quyến rũ. 4/. Vị dục (Phạm: Rasa-kàma): Tham muốn những thức ăn uống ngon ngọt. 5/. Xúc dục (Phạm: Sprawỉavya-kàma): Ham thích sự xúc chạm mịn màng, trơn láng. Trái với ngũ dục thô trọng này của cõi Dục là 5 dục của cõi Sắc và cõi Vô sắc được gọi là Thanh khiết ngũ dục (5 dục trong sạch). [X. Kinh Phật di giáo; luận Đại trí độ Q.17, 37; Ma ha chỉ quán Q.4 hạ].

 

2- Ngũ Dục: Chỉ cho 5 món dục: Tài dục, Sắc dục, Ẩm thực dục, Danh dục và Thụy miên dục. 1/. Tài dục: Tham muốn tiền của. 2/. Sắc dục: Tham muốn sắc đẹp thế gian. 3/. Ẩm thực dục: Tham muốn sự ăn uống. 4/. Danh dục: Tham muốn danh vọng cao sang. 5/. Thụy miên dục: Tham muốn sự ngủ nghỉ. [X. Hoa nghiêm Kinh tùy sớ diễn nghĩa sao Q.27; Đại minh tam tạng pháp số Q.24].- Từ điển Phật Quang.

Vì tham dục (dâm dục, thực dục... ) nên mới thác sanh lưu đài trong cõi Dục. Vì tham sắc nên lưu đài trong cõi Sắc và vì tham vô sắc nên mới lưu đài trong cõi Vô Sắc. Đó là 3 cõi của nhân thiên.TB

(4). Ngũ uẩn, lục căn, lục trần, lục thức: Không phải là đối tượng của các môn khoa học như Y khoa, Phân Tâm học hay Tâm lý học nên khó có thể dùng một danh từ cụ thể để diễn tả những thứ này. Chúng ta có thể nói ngũ uẩn, lục căn, lục trần, lục thức là hiện tượng, là khái niệm hay quan niệm chăng? Nếu xác nhận lục căn lục trần là hiện tượng thì không đúng. Vì sao, vì chúng là đối tượng của Mắt, Tai, Mũi... thuộc Y khoa. Nhưng ngũ uẩn, lục thức không thuộc Y khoa. Ngũ uẩn và lục thức có thể nói là hiện tượng chăng? Có lẽ gần như vậy, gần như vậy nhưng không phải vậy, vì phạm trù của nó quá mong lung. Bởi vì, hiện tượng có ba nghĩa:

1- Hình tượng, trạng thái đang biến chuyển hiện ra trong ý thức, cái mình cảm biết được về phương diện vật chất cũng như tinh thần (Hiện tượng sinh học. Hiện tượng tình cảm),

2- Tất cả cái gì hiện ra trong thời gian và không gian và bày những tương quan định bằng nhiều thứ loại; nó có một thực thể khách quan. Mưa là một hiện tượng tự nhiên. Chiến tranh là một hiện tượng xã hội.

3- Cái gì có tính cách quá khác thường (Hắn là một hiện tượng trong văn giới).

Còn nói ngũ uẩn là những khái niệm thì cũng không đúng hẳn. Bởi vì khái niệm có nghĩa: Ý niệm khái quát về các sự vật, có tính cách phỏng đoán, ước định của tưởng, còn nằm trong thức.

Nếu cho ngũ uẩn, lục căn, lục thức là quan niệm thì gần thực tế hơn. Bởi vì, quan niệm có nghĩa là hiểu, nhận thức về một vấn đề.

Tóm lại, chúng ta không thể dùng từ hiện tượng hay khái niệm mà có thể tạm dùng từ quan niệm, do Phật thi thiết một cách sinh động để tạm hiểu những tác động vật chất cũng như tinh thần diễn biến của các yếu tố này trong đời sống của chúng ta. TB

 

Thay lời lược giải:

 

1. Không duyên thì không trụ.

 

“Khi các Bồ Tát học thì không học về 5 uẩn là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã; cũng không học về 12 xứ 18 giới là thường hay vô thường, là vui hay khổ, là Không hay bất Không, là ngã hay vô ngã. Khi các Bồ Tát học như vậy thì không duyên vào căn trần xứ giới mà hành thuộc quá khứ, hoặc hành thuộc vị lai, hoặc hành thuộc hiện tại.

Nếu các Bồ Tát học như vậy, tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát quá khứ, nhưng không lấy sở hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc quá khứ; tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát vị lai, nhưng không lấy sở hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc vị lai; tuy lấy hành tướng của Không, tịch tĩnh, vô ngã để quán sát hiện tại, nhưng không lấy sở hành về Không, tịch tĩnh, vô ngã thuộc hiện tại.

Nếu các Bồ Tát năng hành như thế, tuy quán quá khứ không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không hằng, không lâu, an trụ pháp chẳng biến đổi, mà chẳng hành nơi quá khứ như thế. Tuy quán vị lai hay hiện tại không, vô ngã, vô ngã sở, vô thường, không hằng, không lâu, an trụ pháp chẳng biến đổi, mà chẳng hành nơi vị lai hay hiện tại như thế. Nếu các Bồ Tát nào hành được như vậy thì không duyên vào 5 uẩn; cũng không duyên vào 12 xứ, 18 giới; không duyên vào danh sắc; không duyên vào tạp nhiễm; không duyên vào điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành; không duyên vào tham, sân, si; không duyên vào ngã, hữu tình v.v…; không duyên vào đoạn, thường; không duyên vào biên vô biên; không duyên vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc; không duyên vào duyên khởi v.v...

Vì tất cả pháp chẳng có năng duyên, vì tất cả các pháp chẳng có sở duyên, chẳng phải tất cả pháp có chấp thủ mà cho rằng nó có sở duyên. Nếu có sở duyên tức là có tác động chấp trước; nếu có chấp trước thì sẽ có sầu, than, khổ, ưu, não. Nếu có sở duyên tức là bị trói buộc, không giải thoát mà xa lìa đạo. Do đó, làm cho tất cả khổ não tăng trưởng. Nếu có sở duyên tức là có nương chấp, động chuyển và hý luận. Nếu có sở duyên tức là có những đấu tranh, kiện tụng. Nếu có sở duyên tức là có vô minh, si ám. Nếu có sở duyên tức là có sợ hãi. Nếu có sở duyên tức là có khổ bức bách và tìm cầu an lạc.

Bồ Tát nào quán sát thấy có những tai hại như vậy thì không duyên vào tất cả pháp. Vì không duyên vào tất cả pháp nên không có chấp thủ, không chấp thủ nên không trước không trụ vào tất cả pháp. Bồ Tát không có sở duyên như vậy thì đối với cảnh giới nhất định được tự tại. Mặc dù đối với cảnh giới nhất định được tự tại nhưng không có nương chấp, cũng không chỗ trụ.

Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy, thì không bị phan duyên, không chấp trước các pháp nên có thể an trụ tất cả pháp mà không bị nhiễm. Nếu đối với khắp cảnh giới và pháp sở duyên mà các Bồ Tát ấy đều không bị trói buộc thì coi như tu hành Bát Nhã chóng được viên mãn rồi”.

Đừng vin cũng đừng trụ vào sở duyên thì không phân biệt, không chấp. Không chấp thì không bị trói. Không bị trói nên không cần tháo gỡ. Vậy, không hành sai khác thì không bị nhiễm. Đó là các pháp dễ hiểu dễ nhớ, ai cũng có thể đọc tụng thọ trì. Nhưng không phải dễ tu, dễ hành.

 

2. Không phân biệt, không phân biệt khác.

 

“... đối với ngũ uẩn không trụ phân biệt, không phân biệt khác. Đối với 12 xứ 18 giới không trụ phân biệt, không phân biệt khác. Do nhân duyên này mà các Bồ Tát đối với danh sắc không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với nhiễm tịnh không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với duyên khởi không khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối với điên đảo, tà kiến, các triền cái, ái hành không khởi phân biệt, không phân biệt khác v.v..” (Q. 599, phần “Bát Nhã Ba La Mật”)

Phân biệt là một thứ ý thức bất cứ lúc nào và ở đâu cũng xảy ra trong tâm thức của con người thế tục. Có phân biệt là có chia chẻ phân hóa, có năng sở chủ khách, có anh tôi, có buông bỏ nắm bắt mất còn, v.v... Cái hố thẳm đó khó hàn gắn vì tác ý đại Bi không còn ở đó nữa.

Nhưng phân biệt không đến nổi quá tệ. Phật là người phân biệt giỏi nhất thế gian này. Nếu không có Phật ai là người có thể chỉ cho chúng sanh biết thế nào là tục, thế nào là chân, thế nào là mê ngộ, đoạn thường, khứ lai v.v... để chúng sanh tu tập mà được giải thoát. Phật sống trong phân biệt mà không thấy sai biệt, vì không chấp danh sắc, Phật đã biến thức thành trí. Đó là vô phân biệt trí. Còn chúng sanh từ phân biệt khởi sanh chấp trước, nên tâm hành sai khác hoặc buông bỏ, nắm bắt, hoặc trọng khinh, hoặc thương ghét... Trọng thì thương yêu nên tìm cách gần gũi; khinh thì ghét bỏ, đuổi xô, xa lánh. Đó là thói thường của cuộc sống này, gây khổ mình khổ người.

Vậy, phân biệt không đáng trách, cái đáng trách chính là chấp trước, nó theo liền với phân biệt. Nhưng dù sao phân biệt cũng là cánh cửa hé ra để cho chấp trước lẻn vào.

Rốt cuộc, đối với tất cả pháp Phật đều đưa đến kết luận: Chấm dứt sự sanh diệt của các cảm quan và thức vọng phân biệt hay nói khác là lìa phân biệt thì chứng được cái thấy biết bình đẳng. Đạt được cái thấy biết bình đẳng thì tâm thanh tịnh. Đó là chỗ rốt ráo của tu hành. Muốn được như vậy thì không nên phân biệt, không phân biệt khác.

 

3. Chẳng khởi phân biệt, thì không phân biệt khác.

 

“Nếu có phân biệt thời phân biệt khác. Nếu đối chỗ này không có phân biệt, thời đối chỗ ấy không có phân biệt khác. Ngu phu dị sanh tất cả đều là phân biệt tạo ra và tư tưởng của họ cũng đều do phân biệt khác phát sanh. Vậy nên, Bồ Tát chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. 

Nói phân biệt ấy là bên thứ nhất, phân biệt khác ấy là bên thứ hai. Nếu đối chỗ này chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác, thời đối chỗ ấy xa lìa hai bên, cũng không có giữa.

Nếu bảo có giữa cũng là phân biệt, phân biệt giữa ấy cũng gọi có bên. Nếu đối chỗ này có phân biệt ấy, thời đối chỗ đây có phân biệt khác. Do nhân duyên đây có nghĩa không dứt phân biệt, phân biệt khác. Nếu đối chỗ này không phân biệt ấy, thời đối chỗ đấy không phân biệt khác. Do nhân duyên đây có nghĩa dứt phân biệt, phân biệt khác.

Đoạn trừ phân biệt nghĩa là trong đó hoàn toàn không có gì để đoạn trừ cả. Vì sao? Vì phân biệt, phân biệt khác là vô sở hữu, hư vọng nên phát sanh điên đảo; vì nó tịch tĩnh nên điên đảo cũng không; vì điên đảo cũng không nên hoàn toàn không có chỗ đoạn trừ. Vì không có đoạn trừ nên mới hiển bày ý niệm về khổ đoạn. Nghĩa là trong đó không có một chút khổ nào để đoạn trừ nên gọi là khổ đoạn. Nếu khổ tự tánh có chút chơn thật thì mới có thể đoạn trừ, nhưng tự tánh khổ không chút chơn thật nên không có chỗ để đoạn trừ, chỉ thấy khổ không có nữa nên gọi khổ đoạn. Nghĩa là biết khắp khổ trọn không tự tánh chút phần khá được nên gọi khổ đoạn.

Nếu mọi người đối với khổ mà hoàn toàn không phân biệt và phân biệt khác thì gọi là khổ tịch tĩnh, tức là làm cho khổ không còn có ý nghĩa phát sanh nữa.

Nếu Bồ Tát thấy như vậy thì đối với các pháp không khởi phân biệt và không phân biệt khác. Đó gọi là Bồ Tát biết rõ tánh phân biệt và phân biệt khác mà tu hành Bát nhã Ba la mật”.

Chỉ cần biết phân biệt, phân biệt khác là vô sở hữu, hư vọng nên phát sanh điên đảo; vì nó tịch tĩnh nên điên đảo cũng không; vì điên đảo không nên hoàn toàn không có chỗ đoạn trừ. Nếu biết như vậy thì không còn chấp nữa, tâm mới được an nhiên tự tại!

 

4. Thành quả của không phân biệt.

 

“Các Bồ Tát nào hành như vậy và trụ như vậy để tu hành Bát nhã Ba la mật thì mau được viên mãn. Cho nên tất cả ác ma không thể gây chướng ngại cho họ được. Đối với tất cả pháp được mắt thanh tịnh, đem lại ánh sáng lớn cho các loài hữu tình, nối dõi hạt giống Phật không để đoạn mất. Chứng đắc tánh bình đẳng của chơn đạo, đầy đủ tinh tấn, xa lìa giải đãi, đạt được tâm an nhẫn và xa lìa sân hận, nhập các tĩnh lự không còn chỗ nương, đắc được chân trí tuệ, thành tựu trí tuệ thông đạt, trừ bỏ các việc ác, viễn ly các triền cái, thoát khỏi bẫy rập của ác ma, chặt đứt lưới ái, an trụ trong chánh niệm, được giới thanh tịnh đến bờ tịnh giới, an trụ vào các công đức, xa lìa tội lỗi, an định tuệ không thể lay động.

Nếu các Bồ Tát dõng mãnh tinh tấn tu hành Bát nhã Ba la mật và tùy thuận mà an trụ, thì lúc ấy Bồ Tát không nương tựa vào 5 uẩn; cũng không nương tựa vào 12 xứ 18 giới; không nương tựa vào danh sắc; không nương tựa vào điên đảo, tà kiến, các triền cái và các ái hành; không nương tựa vào duyên khởi; không nương tựa vào cõi Dục, Sắc, Vô sắc; không nương tựa ngã, hữu tình, mạng giả v.v...; không nương tựa vào đoạn kiến, thường kiến; không nương tựa vào hữu tánh vô tánh; không nương tựa vào bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ; không nương tựa vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác; không nương tựa vào trí vô trước; không nương tựa vào minh và giải thoát; không nương tựa vào giải thoát tri kiến; không nương tựa vào địa vị của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật; không nương tựa vào tất cả pháp kể cả Niết bàn v.v...

Do không nương tựa nên khiển trừ tất cả, cũng chẳng chấp trước đạo. Đối không nương tựa cũng chẳng ỷ chấp. Cũng lại chẳng đắc đây là nương tựa, cũng lại chẳng đắc nương tựa ở đây, cũng lại chẳng đắc nương tựa thuộc đây, cũng lại chẳng đắc nương tựa cái nương đây. Đối chỗ nương cũng không ỷ chấp. Như vậy, Bồ Tát đối chỗ nương cũng không ỷ lại, không đắc, không chấp, không lấy, không nói, không mừng, không đắm mà trụ. Chẳng bị tất cả chỗ nương làm nhiễm, đối chỗ nương cũng không trệ ngại, chứng được tịnh pháp tránh được tất cả sự nương chấp”.

Thành quả của không phân biệt chấp nhất vi diệu như thế, nên nhớ nên tu thì đối với tất cả pháp được mắt thanh tịnh, đem lại ánh sáng lớn cho các loài hữu tình, nối dõi hạt giống Phật không để đoạn mất. Chứng đắc tánh bình đẳng chơn đạo, đầy đủ tinh tấn, xa lìa giải đãi, đạt được tâm an nhẫn và xa lìa sân hận, đắc được chân trí tuệ, thành tựu trí tuệ thông đạt, trừ bỏ các việc ác, viễn ly các triền cái, thoát khỏi bẫy rập của ác ma, chặt đứt lưới ái, an trụ trong chánh niệm, được giới thanh tịnh đến bờ tịnh giới, an trụ vào các công đức, xa lìa tội lỗi, an định tuệ không thể lay động, không có gì sánh bằng!”

 

5. Tất cả pháp không hợp không lìa.

 

“Các Bồ Tát này y vào tất cả pháp, nương tựa vào trí kiến vi diệu thanh tịnh để tu hành Bát nhã Ba la mật. Nhờ vậy các Bồ Tát này sẽ không hành uẩn xứ giới là tướng hợp, không hành uẩn xứ giới là tướng lìa; không hành uẩn xứ giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành duyên với uẩn xứ giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh; không hành sự phát sanh của uẩn xứ giới là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa; không hành uẩn xứ giới của quá khứ, vị lai, hiện tại là tướng thanh tịnh hay không thanh tịnh, hợp hay lìa. Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì không cùng uẩn xứ giới hoặc hợp, hoặc lìa; không cùng danh sắc hoặc hợp hoặc lìa; không cùng điên đảo, tà kiến, các triền cái, và các ái hành hoặc hợp hoặc lìa; không cùng cõi Dục, Sắc, Vô sắc hoặc hợp hoặc lìa; không cùng tham, sân, si hoặc hợp hoặc lìa; không cùng đoạn kiến, thường kiến hoặc hợp hoặc lìa; không cùng năm diệu dục hoặc hợp hoặc lìa; không cùng tạp nhiễm, thanh tịnh hoặc hợp hoặc lìa; không cùng bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, nhẫn nhục, sân hận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ hoặc hợp hoặc lìa; không cùng trí tận, vô sanh trí, vô tạo tác trí, vô trước trí hoặc hợp hoặc lìa; không cùng sanh tử Niết bàn hoặc hợp hoặc lìa v.v... Vì sao?

Vì tất cả các pháp không hợp, không lìa. Chẳng phải tất cả pháp vì hợp hay lìa mà hiện tiền. Hợp nghĩa là thường, mà lìa nghĩa là đoạn. Bản tánh của các pháp không do quán sát giác biết mà có hợp, có lìa.

Nếu tánh các pháp vì hợp vì lìa mà hiện tiền, thời các pháp ấy có thể đắc, có kẻ tác kẻ khiến tác, kẻ khởi kẻ khiến khởi, kẻ thọ kẻ khiến thọ, kẻ biết kẻ khiến biết, kẻ thấy kẻ khiến thấy, kẻ hợp kẻ khiến hợp, kẻ lìa kẻ khiến lìa. Như Lai cũng lẽ thi thiết các pháp: Đây là kẻ tác kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa kẻ khiến lìa. Nếu như vậy thì Như Lai cũng có thể thiết lập ra các pháp, đây là kẻ tác kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa, kẻ khiến lìa.

Do tánh các pháp không vì hợp, lìa mà hiện tiền, nên các pháp không có kẻ tác kẻ khiến tác, cho đến kẻ lìa kẻ khiến lìa, chút phần khá được. Vì chẳng thể được nên Phật chẳng thi thiết.

Vả lại, nếu chỗ có hợp, chỗ ấy có lìa. Nếu ở trong hợp mà không đắc, không nương tựa và không khởi chấp trước thì không thấy lìa. Nếu ở trong lìa mà có đắc, có nương tựa và khởi chấp trước thì đó là có hợp, nên khổ đau sanh tử chưa thể giải thoát. Các Bồ Tát ấy quán sát thật nghĩa này, nên đối với pháp tánh chẳng hợp, chẳng lìa; cũng không vì pháp hoặc hợp hoặc lìa mà có sở tác hoặc có tu học. Nhờ biết rõ về hợp, lìa mà các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật mau viên mãn”.

Hợp là thường mà lìa là đoạn. Tất cả là do chính mình, do thấy biết phân biệt chấp trước mà ra. Kinh nhiều lần khuyên là đừng thấy biết thì không còn động chuyển. Nhưng sống mà làm sao bịt tai, bịt mắt, bịt miệng được. Thấy biết thì vẫn thấy biết nhưng đừng cảm thọ dính mắc, thì pháp nào pháp nào cũng Như. Như đó là không hợp không lìa, tự nhậm mà xa lìa.

Nên Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ nhất, “Bát Nhã Ba La Mật”, tập 1, quyển 18, giảng về hợp và lìa như sau:

“Pháp Phật chẳng chấp Thường, nên chẳng bị rơi vào Thường Kiến.

Vì sao? Vì nếu chấp Thường, thì chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng cần phải lánh nạn, cũng chẳng cẩn phải tìm phước.

Phật pháp cũng chẳng chấp Đoạn, nên chẳng rơi vào Đoạn Kiến. Vì sao? Vì nếu chấp Đoạn, thì cũng chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng có đời sau, nên cũng chẳng cần tu hành, chẳng cần giữ giới; ví như da trâu, sau khi đã bị mưa gió hủy hoại, chẳng còn gì nữa cả”.

 

6. Không năng hành, sở hành là hành Bát Nhã.

 

“Các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng hành uẩn xứ giới đắm không đắm; cũng chẳng hành uẩn xứ giới thanh tịnh không thanh tịnh; chẳng hành sở duyên hợp hay lìa. Vì tất cả đều có dời chuyển, nương chấp, dao động, hoặc hành hoặc quán, Bồ Tát biết rõ tất cả như vậy, nên ở trong đó không hành, không quán nữa.

Các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng hành uẩn xứ giới quá khứ vị lai hiện tại đắm không đắm; chẳng hành uẩn xứ giới quá khứ vị lai hiện tại thanh tịnh không thanh tịnh; chẳng hành uẩn xứ giới quá khứ vị lai hiện tại sở duyên hợp hay lìa. Vì sao chẳng hành? Vì các Bồ Tát này hành Bát nhã Ba la mật đều chẳng thấy pháp hành, chẳng hành. Các Bồ Tát ấy đều không có sở hành nên có thể ngộ nhập biết rõ các hành mà tu hành Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát năng hành như thế, mau được viên mãn pháp Nhất thiết trí”.

 

Đó là một phần quan điểm trong toàn bộ giáo lý Bát Nhã đối với uẩn xứ giới và tất cả pháp hay nói là một phần trong toàn bộ quan điểm về nhân sinh và vũ trụ quan Bát Nhã được tóm tắt trong quyển 599 này. Ý chính ở đây là tất cả pháp không thể phân biệt, không biệt khác. Có phân biệt là có chấp, có chấp là có trói buộc, có động chuyển, có hợp có lìa. Có hợp có lìa là có được có mất. Có được có mất là có sầu, than, khổ, ưu, não.

Tóm lại, các pháp chẳng thật, không năng duyên, không sở duyên, thì cũng không hành, không chấp, không trụ. Nếu ai hành Bát nhã Ba la mật mà chẳng thấy pháp hành, chẳng hành, thời kẻ ấy không có sở hành nên có thể ngộ nhập biết rõ các hành mà tu hành Bát nhã Ba la mật. Nếu kẻ nào có khả năng hành như thế, sớm viên mãn Nhất thiết trí trí, mau chứng Vô Thượng Bồ đề.

Thật không có phẩm hay phần nào trong Đại Bát Nhã vi diệu thậm thâm bằng phần “Bát Nhã Ba La Mật” này. Chỉ cần hiểu, học và hành được như vậy thì coi như một đời tu học đến đây đã xong, cũng đủ an thân lập mệnh không cần công phu nào khác.

 

Chúng ta đọc Q.600 cuối cùng, phần “Bát Nhã Ba La Mật”.

 

Quyển thứ 600                         

                                               

(Không hành, không chấp, không trụ)

 

1- Không hành: 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát Nhã thì không hành uẩn, xứ, giới hiển bày hay không hiển bày. Không hành uẩn, xứ, giới tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành uẩn, xứ, giới thanh tịnh hay không thanh tịnh. Không hành bản tánh của uẩn, xứ, giới hiển bày hay không hiển bày. Không hành bản tánh của uẩn, xứ, giới tịch tĩnh hay không tịch tĩnh. Không hành bản tánh của uẩn, xứ, giới viễn ly hay không viễn ly. Không hành bản tánh của uẩn, xứ, giới thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là thanh tịnh hay không thanh tịnh, hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, viễn ly hay không viễn ly.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát hành được như vậy, mau viên mãn Nhất thiết trí trí.

 

2- Không chấp:

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã không chấp trước uẩn, xứ, giới; không chấp trước uẩn, xứ, giới thanh tịnh; không chấp trước uẩn, xứ, giới sở duyên thanh tịnh.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy, mau viên mãn Nhất thiết trí trí.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành được như vậy thì gần được Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành được như thế, thời gần kề ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo, sắc thân chơn kim sáng rực vô biên, xem như rồng voi không ai thấy đỉnh.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành được như vậy thì gần gũi được trí kiến vô trước, vô ngại ở quá khứ, vị lai và hiện tại; cũng gần gũi Như Lai chỉ dạy, truyền trao hướng dẫn; cũng gần gũi được trí kiến vô trước, vô ngại ở quá khứ, vị lai và hiện tại. Các vị ấy chắc chắn sẽ được thọ ký.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng hành được như thế, mau chứng tất cả thanh tịnh Phật Pháp, chóng chứng được cõi Phật thanh tịnh, năng nhiếp thọ được chúng Thanh văn viên mãn, năng nhiếp thọ được chúng Bồ Tát viên mãn.

 

3- Không trụ:

Này Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ Tát hành như vậy, thì không trụ vào uẩn, xứ, giới; không trụ vào danh sắc; không trụ vào điên đảo, tà kiến, triền cái, ái hành; không trụ cõi Dục, Sắc và Vô sắc; không trụ vào hữu tình giới, pháp giới; không trụ vào địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới; không trụ vào ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả và các tưởng kia; không trụ vào đoạn thường; không trụ vào tạp nhiễm thanh tịnh; không trụ vào duyên khởi; không trụ vào bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, an nhẫn, sân giận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, diệu tuệ, ác tuệ.

Không trụ vào niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi; không trụ đoạn điên đảo v.v…; không trụ vào tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí; không trụ vào minh và giải thoát, giải thoát trí kiến; không trụ vào trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác và trí vô trước; không trụ vào thiền chỉ, thiền quán; không trụ vào vô lượng thần thông; không trụ vào khổ, tập, diệt, đạo; không trụ vào địa vị của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật; không trụ vào pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật; không trụ vào sanh tử, Niết bàn; không trụ vào trí lực, vô úy v.v… của Phật; không trụ vào trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại; không trụ vào sự viên mãn của cõi Phật; không trụ vào sự viên mãn của các Thanh văn; không trụ vào sự viên mãn của các Bồ Tát. Vì sao? Vì tất cả pháp không thể trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chẳng phải tất cả các pháp có nghĩa khá trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không nắm giữ. Bởi không nắm giữ nên không thể trụ được. Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu tất cả pháp có thể trụ, thì có thể thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như Lai cũng có thể an trụ vào các pháp, thị hiện các pháp, đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập(1).

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp không thể an trụ, không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà Như Lai không an trụ vào pháp nào, cũng không thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ hay đây là pháp có thể tích tập.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không có chút pháp là thật khá sanh. Vì không chút pháp thật khá sanh, nên đều không sở trụ, nên nói các pháp chẳng khá trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì đem không sở trụ và không chẳng trụ làm phương tiện, nên nói tất cả pháp đều vô sở trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không có chút pháp có thể nói trụ được. Như bốn sông lớn phát nguyên từ hồ Vô nhiệt, chưa vào biển cả quyết không nghĩa trụ. Như vậy, các pháp không tạo các hành trọn vẹn, quyết không nghĩa trụ. Này Thiện Dũng Mãnh! Không tạo hành ấy, nghĩa là đối trong đây không trụ chẳng trụ. Không lưu nạn ấy, tất cả đều nương tục số mà nói, thật không có trụ. Không lưu nạn ấy, không rốt ráo ấy, cũng không chẳng trụ. Thiện Dũng Mãnh! Không tạo hành ấy, nương tục số nói, như các hữu tình thế tục đã thấy, chẳng thật có trụ. Hoặc lưu nạn ấy, hoặc rốt ráo ấy, cũng không chẳng trụ, chẳng không tạo hành có thật trụ ấy. Vậy nên có thể nương tục số nói, nên tất cả pháp đều nghĩa không trụ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Các đại Bồ Tát như vậy chỉ dựa vào tất cả pháp Vô trụ làm phương tiện, để tu hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì mau viên mãn Nhất thiết trí, gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mau an tọa tòa Bồ đề vi diệu, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, mau viên mãn trí kiến của ba đời, mau viên mãn diệu trí biết rõ tâm hành sai khác của tất cả hữu tình.

 

(Học và an trụ Bát Nhã mau viên mãn

sở cầu Vô Thượng Bồ đề)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các đại Bồ Tát muốn làm lợi ích cho các tất cả hữu tình, muốn lấy tài của để bố thí cho tất cả hữu tình được đầy đủ, muốn dùng pháp bố thí cho tất cả hữu tình để họ mãn nguyện, muốn phá vỡ vô minh cho tất cả hữu tình, muốn trao đại trí, Phật trí cho tất cả hữu tình, muốn thương xót khắp tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích an lạc cho khắp tất cả hữu tình, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ tài thí và pháp thí, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ giới thanh tịnh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ an nhẫn hòa nhã, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ sự tinh tấn dõng mãnh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ tĩnh lự trong sáng, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ trí tuệ vi diệu, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ giải thoát cứu cánh, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ trí kiến giải thoát, muốn giúp cho tất cả hữu tình đều sanh vào các cõi lành, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ minh và giải thoát, muốn giúp cho tất cả hữu tình đầy đủ Niết bàn rốt ráo, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ diệu pháp của chư Phật, muốn giúp tất cả hữu tình đầy đủ sự viên mãn các công đức, muốn chuyển pháp luân Vô thượng vi diệu mà tất cả thế gian, Sa môn, Phạm chí, trời, ma, ngoại đạo đều không thể chuyển, muốn giảng nói diệu pháp ở thế gian, muốn như thật thọ ký địa vị chư Phật, muốn như thật thọ ký địa vị Bồ Tát, muốn như thật thọ ký địa vị Độc giác, muốn như thật thọ ký địa vị Thanh văn và muốn biết bản nguyện căn lành của các loài hữu tình, thì nên học Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy; hãy dõng mãnh tinh tấn đừng bao giờ để gián đoạn và hãy nương vào Bát nhã Ba la mật sâu xa mà tinh tấn siêng năng tu học để không bị tham luyến.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta hoàn toàn không thấy các pháp nào có thể làm cho Bồ Tát mau viên mãn sở cầu diệu pháp Vô thượng của chư Phật, giống như Bát nhã Ba la mật sâu xa đã nói ở đây. Nếu các Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy và tinh tấn siêng năng tu học không bao giờ tạm bỏ, thì sẽ mau viên mãn Nhất thiết trí.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật đến rốt ráo, thì các Bồ Tát ấy gần đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chắc chắn không nghi ngờ gì nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu thiện nam, tín nữ v.v… nghe Bát nhã Ba la mật này mà hoan hỉ tín thọ, thật tâm chí thành thì Ta nói những người này có thể đạt đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, vì thiện căn của họ rất thù thắng, mau đạt đến cứu cánh. Và nhờ giữ gìn căn lành mà các thiện nam, tín nữ ấy nhất định tích tập được tư lương đại tuệ.                                                 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát nắm giữ phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật như vậy, tương ưng với giáo pháp ấy, thì các Bồ Tát này dù hiện tại không được Phật thọ ký, nhưng phải biết vị này cũng gần được Phật thọ ký, hoặc không bao lâu nữa sẽ được Phật thọ ký.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người tinh tấn thọ học mười thiện nghiệp đạo đã đạt đến cứu cánh, nên biết căn lành của người đó đã được thành thục, gần được sanh về Bắc Câu lô châu. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát Nhã này, thì nên biết vị ấy đã gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như sở cầu, chắc chắn không nghi ngờ gì nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người thích làm việc bố thí, đối với của báu họ không hề tham tiếc; cũng thường lấy bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự để giáo hoá hữu tình, giúp đỡ hữu tình giữ giới tu hạnh nhẫn nhục và đánh đổ tâm kiêu mạn. Khi tu các hạnh đạt đến cứu cánh như vậy thì họ được nhiều của cải và sanh vào dòng tộc cao quí. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát Nhã sâu xa này, thì nên biết vị ấy đã gần đến địa vị Bất thối chuyển.   

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người thích tu đầy đủ bố thí, trì giới, an nhẫn, từ bi thương xót hữu tình và khuyên họ trì tịnh giới, để có thể tạo tác chiêu cảm nghiệp tăng thượng, thì nên biết người ấy mau đạt được địa vị Chuyển luân vương. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát nhã Ba la mật này, thì nên biết vị ấy sẽ mau ngồi tòa Bồ đề vi diệu.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như Chuyển luân vương sắp lên ngôi cao, vào ngày mười lăm nửa tháng có trăng, tắm rửa thọ trai rồi lên đại điện, ngồi tòa sư tử và mặt hướng về phương Đông. Từ trên không có đại luân báu (xe báu) đến thì nên biết vị ấy đã nhận ngôi vị Chuyển luân và không bao lâu vị ấy sẽ được đầy đủ bảy báu. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát Nhã sâu xa này, thì nên biết vị ấy sẽ mau đạt được Nhất thiết trí trí.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như loài hữu tình thành tựu căn lành thù thắng, thích tu hành hạnh thanh bạch, tin hiểu sâu sắc, nhàm chán thân người, đầy đủ giới thanh tịnh, thích phục dịch việc của chúng Tăng, tâm vị ấy luôn luôn nghĩ đến sanh thiên và che chở bảo hộ mọi người trong bốn châu, thì nên biết những người đó không bao lâu sẽ làm Tứ đại thiên vương bảo hệ bốn châu. Cũng vậy, Bồ Tát nào đem giáo pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật sâu xa, bố thí cho các loài hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết các vị ấy không bao lâu nữa sẽ đắc ngôi vị Pháp vương và được tự tại đối với tất cả các pháp.  

Này Thiện Dũng Mãnh! Như loài hữu tình thành tựu căn lành thù thắng thanh tịnh, hơn sự thành tựu nói ở trước là: Về tài bảo mà đã đạt được, trước tiên đem bố thí cho người khác, sau đó mình mới xử dụng. Làm việc gì cũng dành cho hữu tình trước, sau đó mới tới mình. Thường tự thủ hộ, không bị sự ô nhiễm của tham mà làm điều phi pháp, bất bình đẳng. Tâm vị ấy luôn luôn nguyện làm Thiên chủ. Đối với sự tu thiện tâm vị ấy rất bền chắc, nên biết những người đó không bao lâu chắc chắn sẽ sanh lên cõi trời thứ Ba mươi ba và làm trời Đế Thích. Cũng vậy, Bồ Tát nào dùng pháp yếu tương ưng với Bát nhã Ba la mật, bố thí cho các hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết vị ấy không bao lâu nhất định sẽ làm vị Pháp vương và được đại tự tại đối với tất cả các pháp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người đắc bốn phạm trú nên biết vị này không bao lâu nữa sẽ sanh lên Phạm thiên. Cũng vậy, Bồ Tát nào dùng pháp yếu tương ưng với Bát nhã Ba la mật sâu xa, bố thí cho các hữu tình mà tâm không hề tham tiếc, thì nên biết vị ấy không bao lâu sẽ chuyển diệu pháp luân và bố thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như cơn mưa khi thấy các giọt nước sắp rơi xuống mặt đất, thì ta thấy trên hư không mây kéo dầy đặc, bầu trời tối sầm dần và tuôn xuống cơn mưa lớn, làm cho nước ao hồ, sông đầm lênh láng. Đất cao thấp đều thấm nhuần, mây dầy tuôn mưa ngọt xuống thấm mọi nơi, làm cho dược thảo, thực vật, cỏ cây, cành lá, hoa quả, rừng rậm đều sum suê xanh tốt. Nước trong đất, núi, sông thoảng hương thơm phức. Ở suối, ao nơi nào cũng có hoa quả.

Bấy giờ, mặt đất rất khả ái, loài người chẳng phải người nhìn thấy đều thích thú, hái hoa quả để ngửi hương và nếm vị. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ Bát nhã Ba la mật sâu xa, tinh tấn siêng năng tu học, thì nên biết vị ấy không bao lâu sẽ được thấm nhuần Nhất thiết trí trí, khéo thể nhập Nhất thiết trí trí và mở bày được Nhất thiết trí trí; do đó, làm thấm nhuần tất cả loài hữu tình, khai thị rõ ràng pháp bảo Vô thượng.   

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như nước trong cung của Long vương Vô Nhiệt chảy ra bốn sông lớn và cùng một hướng chảy về đầy biển cả. Cũng vậy, Bồ Tát nào nắm giữ được Bát Nhã sâu xa này mà ở trong đó siêng năng tinh tấn tu học, thì vị ấy có thể phát ra những dòng đại pháp và đem đại pháp ấy bố thí đầy đủ cho các hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như bầy chim ở trên núi Diệu Cao, mặc dù hình dạng của mỗi loài khác nhau, nhưng chúng cùng một màu. Cũng vậy, nếu Bồ Tát nắm giữ được Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà tin thọ tu hành thì đồng đến một hướng. Đó là cùng đi về hướng Nhất thiết trí trí của Như Lai.

 

(Lợi ích công đức của việc thọ trì Bát Nhã)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như biển lớn là nơi dung chứa nhiều dòng nước và thường làm chỗ quay về cho các nhánh sông. Cũng vậy, nếu Bồ Tát nắm giữ được Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà tinh tấn siêng năng tu học thì vô cùng thông đạt và lợi ích. Phải biết không bao lâu vị này sẽ là biển lớn chứa tất cả pháp, mau thành tựu tất cả pháp khí, thường làm chỗ quay về cho các pháp, nên các pháp thế gian không thể nào bị quấy nhiễu được.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như mặt trời mọc lên thì làm tan các ánh sáng khác. Cũng vậy, Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà xuất hiện ở thế gian thì tất cả ngoại đạo đều ẩn mất.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu sở học Bát Nhã của các Bồ Tát mà xuất hiện ở thế gian, thì sẽ làm pháp chiếu sáng cho các loài hữu tình.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát xuất hiện ở thế gian, làm cho căn lành của các hữu tình được chiếu sáng, làm ruộng phước chơn tịnh cho các loài hữu tình, thì tất cả hữu tình đều nên cúng dường, tất cả hữu tình đều phải quay về và đều phải khen ngợi vị ấy. 

Lại nữa, này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật là sự học tối thắng trong các việc học. Cũng vậy, người học Bát nhã Ba la mật là làm con đường Niết bàn thanh tịnh cho khắp các hữu tình. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì trong các việc học, học Bát nhã Ba la mật là tối thắng đệ nhất, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, là đẳng, là vô đẳng đẳng.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật thì làm cho tất cả sự học đều đạt đến cứu cánh, có thể thọ trì tất cả những gì đã học, và đối với tất cả sự học đều có thể khai thị, cũng có thể bẻ gãy được tất cả sở học của các tà luận khác.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát năng học Bát Nhã như vậy, thì có thể tu hành Bồ Tát hạnh của chư Phật trong ba đời.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đối với sở học Bát nhã Ba la mật thâm sâu này, chư Phật Thế Tôn đã, đang, sẽ an trụ rất hoàn hảo và vì các hữu tình cũng đã, đang và sẽ phải thuyết pháp Vô thượng thanh tịnh như vậy.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì sở học của Bát nhã Ba la mật thâm sâu như vậy sẽ vượt qua sở học tối thắng, tối tôn của thế gian.

Này Thiện Dũng Mãnh! Sở học Bát Nhã sâu thẳm như thế là học tự nhiên, tất cả thế gian không có cái học nào sánh kịp được.

 

(Không dính, không buộc thì không cần tháo gỡ)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu học Bát nhã Ba la mật thì đối trong các pháp trọn không sở học, nghĩa là dù thế gian, hay xuất thế gian, hữu vi hay vô vi, hữu lậu hay vô lậu, có tội hay không tội. Đối với các pháp môn như thế đều không chấp trước. Đối với tất cả pháp vô trước mà trụ, vì các hữu tình khai thị chỉ bày sở pháp Vô thượng thanh tịnh không trái ngược. Vì sao? Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả các pháp không dính không buộc, không có chút pháp dính mắc hay trói buộc mà hiện tiền. Do đây cũng không có nghĩa là tháo mở.  

Này Thiện Dũng Mãnh! Uẩn, xứ, giới không dính, không buộc, cũng không mở.

Danh sắc không dính, không buộc, cũng không mở; điên đảo, tà kiến, triền cái, ái hành không dính, không buộc, cũng không mở. Tham, sân, si không dính, không buộc, cũng không mở. Dục giới, sắc giới và Vô sắc giới không dính, không buộc, cũng không mở. Hữu tình giới, pháp giới không dính, không buộc, cũng không mở. Ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả và các tưởng kia không dính, không buộc, cũng không mở. Địa, thủy, hỏa, phong, không và thức giới không dính, không buộc, cũng không mở. Duyên khởi, nhiễm tịnh không dính, không buộc, cũng không mở. Bố thí, tham lam, giữ giới, phạm giới, an nhẫn, sân giận, tinh tấn, giải đãi, tĩnh lự, tán loạn, trí tuệ, ác tuệ không dính, không buộc, cũng không mở. Khổ, tập, diệt, đạo không dính, không buộc, cũng không mở. Niêm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi không dính, không buộc, cũng không mở. Đoạn điên đảo... không dính, không buộc, cũng không mở. Tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không dính, không buộc, cũng không mở. Vô lượng thần thông không dính, không buộc, cũng không mở. Trí tận, trí vô sanh, trí vô tạo tác và trí vô trước không dính, không buộc, cũng không mở. Minh và giải thoát, giải thoát trí kiến không dính, không buộc, cũng không mở. Địa vị phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không dính, không buộc, cũng không mở. Pháp của phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật không dính, không buộc, cũng không mở. Sanh tử và Niết bàn không dính, không buộc, cũng không mở. Trí lực, vô sở úy... của Phật không dính, không buộc, cũng không mở. Trí kiến của quá khứ, vị lai, hiện tại không dính, không buộc, cũng không mở. Vì sao?

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả các pháp dính chẳng thể được, buộc cũng chẳng thể được. Dính buộc đã không có, từ đó tháo gỡ cũng chẳng thể được.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói dính mắc và trói buộc nghĩa là dính mắc và trói buộc vào pháp tánh. Nhưng pháp tánh đã không có nên không thể nói có dính có buộc. Nói tháo gỡ nghĩa là tháo gỡ khỏi sự dính mắc và trói buộc; dính buộc đã không nên tháo gỡ làm gì có.

Này Thiện Dũng Mãnh! Không mở ấy, là đối các pháp đều không có tánh năng được năng mở. Nếu có thể thấy các pháp như vậy thì được gọi là tri kiến vô trước.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói vô trước ấy là đối trong ấy trước chẳng thể được. Vì tánh trước vô trước, tánh trước không thật nên gọi vô trước. Vì đối trong ấy năng trước, sở trước, do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây đều chẳng thể được, nên gọi vô trước.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói không buộc ấy, nghĩa là đối trong ấy buộc chẳng thể được. Vì tánh buộc không buộc, tánh buộc không thật, nên gọi không buộc. Vì đối trong ấy năng buộc, sở buộc, do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây đều chẳng thể được nên gọi không buộc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu không dính, không buộc vào các pháp, vậy tại sao nói đối với pháp phải có mở?

Này Thiện Dũng Mãnh! Không dính, không buộc cũng không mở, lìa tất cả thì được thoải mái(2) gọi là chơn giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu kẻ đối các pháp không dính mắc thời không bị trói buộc. Nếu đối các pháp không bị trói buộc thì không cần tháo gở. Xa lìa ba việc (không dính mắc, không trói buộc, không tháo gở), được an nhiên mới gọi là chơn giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy Bồ Tát nào ngộ nhập được các pháp mà không dính không buộc cũng không mở, thì vị ấy sẽ đắc chơn trí tu hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát hành được như vậy là gần quả vị Vô Thượng Bồ đề và mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Thiện Dũng Mãnh! Ta lấy pháp ấn vi diệu của Bát nhã Ba la mật thâm sâu này ấn chứng cho các đại Bồ Tát, giúp họ đoạn trừ lưới nghi rồi tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật để mau đến cứu cánh.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nay Ta sẽ giữ pháp ấn này tồn tại lâu dài ở thế gian, để đem lợi ích an lạc cho các hữu tình. Vì sao? Vì chúng Thanh văn của Ta không có sức thần thông thù thắng để giữ gìn pháp ấn vi diệu của Bát nhã Ba la mật này, cho đến thời gian khi Ta diệt độ khoảng sau năm trăm năm, để làm lợi ích cho các hữu tình.

Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy năm trăm Bồ Tát đứng đầu như, Bồ Tát Hiền Thủ, Bồ Tát Đạo Sư v.v... và đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

- Này thiện nam tử! Các ông nên học Bát nhã Ba la mật thâm sâu mà từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp chính Như Lai đã từng tu tập như vậy để làm đầu. Vì Pháp tạng vô thượng của chư Như Lai lưu xuất cũng như kiến lập từ Bát nhã Ba la mật thâm sâu. Cho nên các ông nên giữ gìn Pháp tạng ấy. Vậy khi Ta nhập Niết bàn khoảng sau năm trăm năm, Chánh pháp vô thượng ấy khi sắp hoại diệt thì vào thời gian chuyển tiếp, các ông hãy vì các hữu tình mà giảng nói, khai thị rộng rãi để họ nghe đạt lợi ích lớn.

Khi nghe Phật dạy như vậy thì các Bồ Tát đều đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và chấp tay cung kính thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con sẽ học Bát Nhã thâm sâu mà Như Lai đã từng tu học từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp như vậy để làm đầu. Vì Pháp tạng vô thượng lưu xuất từ Bát nhã Ba la mật và được kiến lập cũng từ Bát nhã Ba la mật thâm sâu. Vậy chúng con sẽ giữ gìn Pháp tạng này cho đến khi Thế Tôn nhập Niết bàn khoảng sau năm trăm năm, lúc Chánh pháp vô thượng sắp hoại diệt, cho đến thời gian chuyển tiếp thì chúng con sẽ giảng nói và khai thị rộng rãi cho các loài hữu tình, để họ nghe rồi sẽ đạt được lợi ích lớn.

Bạch Thế Tôn! Vào thời gian đó, có rất nhiều sự sợ hãi, rất nhiều hiểm nạn, rất nhiều sự bạo ác và trong thời gian ấy các loại hữu tình phần nhiều trọn nên nghiệp cảm thiếu Chánh pháp, nhiều tham dục, tâm bất bình đẳng, nên bị tội lỗi làm ô nhiễm, bỏn sẻn, ganh ghét, trói buộc. Những loại đó nhiều sân hận, thích nói lời hung ác, dua nịnh dối gạt, thích làm điều phi pháp, nhiều khinh mạn, đấu tranh kiện tụng, chống đối nhau. Sống không có oai nghi giới luật, bị tham đắm che mờ, giải đãi càng tăng trưởng, tinh tấn yếu kém. Những loại đó quên mất chánh niệm, miệng mồm khoác lác, cống cao ngã mạn, thích làm nghiệp ác, che giấu tội lỗi, tham, sân, si càng ngày càng tăng, căn lành lại mỏng, bị màn vô minh che lấp nên những tư tưởng và hành động của họ đều thuận với bè đảng của ma. Đó là oán tặc hại pháp luật, là giặc lớn của kho pháp báu. Vì bẩm tánh xấu ác nên khó có người gần gũi được.

Bạch Thế Tôn! Từ nay chúng con quyết định giữ gìn Pháp tạng vô thượng mà đức Như Lai đã tu tập như vậy từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp, để làm lợi ích lớn cho các loài hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Thời gian đó sẽ có rất ít hữu tình thích tìm đọc Pháp tạng này. Nhưng nếu bản tánh của các hữu tình ấy chân thật, không dua nịnh, dối trá, họ thà bỏ thân mạng chứ không phá pháp, cũng không phỉ báng và nhàm chán hay chống đối pháp, chúng con sẽ làm lợi ích cho họ, bằng cách siêng năng chỉ dạy pháp thâm sâu ấy và khen ngợi, khuyến khích, vui mừng giúp họ siêng năng tu học.

Bấy giờ, Thế Tôn dùng thần lực nhiếp trì Pháp tạng Bát nhã Ba la mật thâm sâu vô thượng vi diệu, khiến cho bọn ác ma không thể nào hoại diệt được. Lại dùng oai lực hộ trì người có thể giữ gìn và tinh tấn tu hành Pháp tạng này, giúp họ cắt đứt lưới ma, được giải thoát, để sự tu hành của họ mau đạt đến cứu cánh.

Khi ấy, đức Phật Thế Tôn mỉm cười phóng ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, các hữu tình ở cõi người, trên trời, nhờ ánh sáng của Phật đều thấy mặt nhau.

Trong hội này có trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già và chúng thần khác đều đem những loại hương hoa đẹp cõi trời, dâng rải cúng dường Thế Tôn, rồi lớn tiếng ca ngâm:

- Sức oai thần lớn của Như Lai thật hy hữu, đã hộ trì Pháp tạng và người tu hành, khiến cho quân ác ma không thể phá hoại được, phá lưới ác ma được đại tự tại, việc tu hành mau đạt đến cứu cánh. Nếu có thiện nam, tín nữ v.v… nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này, giảng thuyết quảng bá cho người khác thì không sợ các quân ma. Hoặc Bồ Tát nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này và rộng nói cho người, thì vị ấy có thể chiến thắng các quân ma và tất cả ác ma không thể nào làm trở ngại được.

Phật bảo Thiện Dũng Mãnh:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như chư Thiên nói. Này Thiện Dũng Mãnh! Như Lai đối với pháp môn Vô thượng này đã kết cương giới, khiến tất cả võng lưới của các ác ma không gây chướng ngại được. Hôm nay Như Lai nương vào pháp môn này mà đánh bại tất cả thế lực của các ác ma. Hôm nay Như Lai sẽ bảo hộ pháp môn này, ngăn chặn các ác ma không cho xâm hại.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các thiện nam, tín nữ v.v… tịnh tín thọ trì, đọc tụng pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác, thì tất cả ác ma không thể quấy nhiễu họ được, ngược lại họ có thể chiến thắng các ma oán. Hoặc các Bồ Tát nào thọ trì, đọc tụng pháp môn này và giảng nói rộng rãi cho người khác, thì vị ấy có thể chinh phục tất cả quân ma và bố thí cho các hữu tình được lợi ích an lạc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Pháp môn như vậy các loài hữu tình tạp nhiễm không thể đắc được. Pháp môn như vậy chẳng phải cảnh giới tu hành của những người bị lưới ma trói buộc. Pháp môn như vậy là cảnh giới tu hành của những người có trí tuệ, tánh toàn thiện.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như con ngựa rất khôn ngoan, hiền từ, chẳng phải dành cho những vua nhỏ cưỡi, cũng không xuất hiện vào thời tệ ác mà chỉ có Luân vương nuôi dùng. Do đó, nó chỉ xuất hiện vào thời có Luân vương. Cũng vậy, chỉ có người hiền hoà, trí tuệ thông minh mới có thể thọ dụng pháp môn thâm sâu này và pháp này chỉ đến tay của người đó.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ví như Long vương Trai Giới, Long vương Thiện Trụ, Long vương Ai la phiệt noa, chúng không vì người sử dụng, hay muốn thấy mà xuất hiện; cũng không vì chúng trời khác sử dụng mà xuất hiện. Chỉ có chúng trời thông minh trí tuệ tài giỏi sử dụng mới xuất hiện. Như trời Đế Thích nghĩ, muốn chỗ chúng trời dạo chơi thêm phần đẹp đẽ, thì các rồng ấy hiện rõ tướng trạng trước mặt Đế Thích, cho trời Đế Thích v.v… xử dụng.

Cũng vậy, chỉ có Thiện sĩ chơn đế mới có thể xử dụng pháp môn thâm sâu này, nghĩa là vị ấy lắng nghe, thọ trì, đọc tụng và giảng nói, phân biệt cho hữu tình; đối với pháp này, vị ấy là đại trang nghiêm, rất thông suốt, làm đại pháp chiếu sáng, thành tựu đại pháp hỷ và thọ nhận đại pháp lạc.

 

(Thọ trì Kinh này thì đạt được vô lượng vô biên công đức)

 

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu ai đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà thọ trì, dù chỉ một câu cũng đạt được vô lượng vô biên công đức; huống gì họ được Kinh Đại Bát Nhã này mà thọ trì, chuyển đọc, ghi chép đầy đủ và cúng dường lưu truyền rộng rãi khắp vì người khác, thì phước đức của người này đạt được không thể nghĩ bàn.

Này Thiện Dũng Mãnh! Chỉ có người trí tuệ thông minh và hòa nhã mới có thể hộ trì pháp môn này. Còn người không có trí tuệ thông minh và hòa nhã thì pháp môn này chẳng phải là cảnh giới của họ.

Này Thiện Dũng Mãnh! Vì muốn đoạn mối nghi cho các hữu tình mà Ta nói Kinh Đại Bát Nhã như vậy.

Khi Phật nói pháp này thì có vô lượng, vô số đại Bồ Tát đắc được Vô sanh pháp nhẫn và có vô biên các loài hữu tình đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu ngay lúc ấy, Như Lai thọ ký cho họ thì nhất định họ sẽ chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ đề.

Khi Bạt già phạm nói Kinh này xong, thì các đại Bồ Tát, Thiện Dũng Mãnh v.v… và bốn chúng như Trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, người chẳng phải người nghe Phật thuyết đều rất hoan hỷ, tín thọ và phụng hành.

 

Thích nghĩa:

(1). Tích tập: Tập hợp, tụ tập lại, chuẩn bị, tích lũy, thu thập.

(2). Dịch giả dùng từ “mát mẻ” hay “tự tại”. Ở đây chúng tôi dùng từ thoải mái.

 

Thay lời lược giải:

 

1. Không hành, không chấp, không trụ:

 

Phần này Phật thuyết nhiều lần, gần nhất là cuối quyển thứ 598 và đầu quyển thứ 600,  nên không cần lặp lại. Chỉ cần nhớ:

 

1- Thế nào là không hành?

 

“Các Bồ Tát tu hành Bát Nhã thì không nên hành uẩn, xứ, giới hiển bày hay không hiển bày; không nên hành uẩn xứ giới tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, thanh tịnh hay không thanh tịnh, viễn ly hay không viễn ly. Không nên hành bản tánh của uẩn, xứ, giới thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại là hiển bày hay không hiển bày, tịch tĩnh hay không tịch tĩnh, thanh tịnh hay không thanh tịnh, viễn ly hay không viễn ly. Nếu các Bồ Tát hành được như vậy thì mau viên mãn Nhất thiết trí”.

Đó là không hành hai tướng và không theo sở duyên!

 

2- Thế nào là không chấp?

 

“Các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật không chấp trước uẩn, xứ, giới; không chấp trước uẩn, xứ, giới thanh tịnh; không chấp trước uẩn, xứ, giới sở duyên thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát hành như vậy thì mau viên mãn Nhất thiết trí”.

Chấp trước lúc nào cũng sanh điên đảo, không thấy được thật tướng các pháp, nên xa lìa Bát Nhã, viễn ly Nhất thiết trí trí.

 

3- Thế nào là không trụ?

 

“Phật bảo: Chẳng phải tất cả các pháp có nghĩa khá trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không thể nắm giữ. Bởi không thể nắm giữ nên không thể trụ được. Nếu tất cả pháp có thể trụ, thì có thể thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp thường trụ. Như Lai cũng có thể an trụ vào các pháp, thị hiện các pháp, đây là pháp có thể nắm giữ, đây là pháp có thể tích tập.

Vì tất cả pháp không thể an trụ, không thể nắm giữ, cũng không thể tích tập, cho nên không có pháp nào là thường trụ. Do đó mà Như Lai không an trụ vào pháp nào, cũng không thị hiện đây là pháp có thể nắm giữ hay đây là pháp có thể tích tập”.

Giáo lý này được thuyết rất nhiều lần, nên chúng ta hiểu có trụ là có quái ngại nhất là trụ vào nhị pháp thường-đoạn, được-mất, có-không v.v... Nhưng Kinh nhiều lần nói: Chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Nếu không trụ vào chơn như pháp giới, chẳng trụ vào Bát nhã Ba la mật thì làm sao tu hành, làm sao đắc quả? Trụ cứ trụ nhưng đừng dính ngã-ngã sở vào đó. Nếu cho Ta có khả năng an trụ chơn như pháp giới hay bất cứ pháp nào được xem là mang lại nhiều công đức nhất... Do chấp ngã và ngã sở làm nhiễu loạn sự an trụ này, liền khởi tâm tự cao, nên chẳng có khả năng hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Vì vậy, Thiền sư D.T. Suzuki mới nói rằng: “Khi có trụ điểm cố định, ở đâu đó, dù ở trong Bát Nhã, đấy là một kết quả nó trói buộc chúng ta, và chúng ta không còn độc lập trong tri thức, đạo đức hay tâm linh. Bát nhã Ba la mật như thế dạy chúng ta quét sạch mọi trụ điểm cố định có thể có, hay quét sạch mọi vọng tưởng. Khi đạt được thế giới không còn những vọng tưởng, đấy là vô trụ xứ hay trụ trong Tánh Không. Phật hay Bồ Tát nói ra giáo pháp của mình từ chỗ vô trụ xứ đó; cho nên, trong đó, không có người thuyết, không có pháp được thuyết cũng không có người nghe thuyết”.

 

2. Không dính mắc, không trói buộc, thì không cần tháo gỡ.

 

Đây chỉ là hệ quả tất nhiên của không dính mắc hay trói buộc.

“Vì tất cả các pháp dính chẳng thể được, buộc cũng chẳng thể được. Dính buộc đã không có, từ đó tháo gỡ cũng không.

Nói dính mắc và trói buộc nghĩa là dính mắc và trói buộc vào pháp tánh. Nhưng pháp tánh đã không có nên không thể nói có dính có buộc. Nói tháo gỡ nghĩa là tháo gỡ khỏi sự dính mắc và trói buộc; dính buộc đã không nên tháo gỡ làm gì có.

Không tháo gỡ ấy, là đối các pháp đều không có tánh năng tháo gỡ. Nếu có thể thấy các pháp như vậy thì được gọi là tri kiến vô trước. Nói vô trước ấy là đối trong ấy trước chẳng thể được. Vì trước vô trước, tánh không thật nên gọi vô trước. Vì đối trong ấy năng trước, sở trước, do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây đều chẳng thể được, nên gọi vô trước.

Nói không buộc ấy, nghĩa là đối trong ấy buộc chẳng thể được. Vì buộc không buộc, tánh không thật, nên gọi không buộc. Vì đối trong ấy năng buộc, sở buộc, do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây đều chẳng thể được nên gọi không buộc.

Nếu không dính, không buộc vào các pháp, vậy tại sao nói đối với pháp phải có mở?

Không dính, không buộc cũng không mở, lìa tất cả được tự tại gọi là chơn giải thoát.

Nếu kẻ đối các pháp không dính mắc thời không bị trói buộc. Nếu đối các pháp không bị trói buộc thì không cần tháo gỡ. Xa lìa ba việc (không dính mắc, không trói buộc, không tháo gỡ), được tự tại mới gọi là chơn giải thoát.

Như vậy Bồ Tát nào ngộ nhập được các pháp mà không dính không buộc cũng không mở, thì vị ấy sẽ đắc chơn trí kiến tu hành Bát nhã Ba la mật.

Nếu Bồ Tát hành được như vậy là gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và mau chứng đắc Nhất thiết trí trí”.

Kinh giải thích quá rõ nên không cần phải thêm thắt nữa. Vả lại giáo pháp không dính không buộc của  tất cả pháp đã xiển dương quá nhiều lần, ai cũng có thể hiểu. Ở đây Phật nhắc lại để lưu ý tính cách quan trọng của giáo lý này trong đời sống thường tục, để chúng sanh đừng vướng phải mà gặp nhiều phiền não, khổ lụy thân tâm.

 

3. Thọ trì Kinh ĐBN đạt được vô lượng vô biên công đức:

 

Trước khi chấm dứt cuộc thuyết giảng Đại tùng thư trường kỳ ròng rã 22 năm này, đức Thế Tôn dạy năm trăm Bồ Tát đứng đầu như Bồ Tát Hiền Thủ, Bồ Tát Đạo Sư v.v... và đại Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh:

- “Này thiện nam tử! Các ông nên học Bát nhã Ba la mật thâm sâu mà từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp chính Như Lai đã từng tu tập như vậy để làm đầu. Vì Pháp tạng vô thượng của chư Như Lai lưu xuất cũng như kiến lập từ Bát nhã Ba la mật thâm sâu. Cho nên các ông nên giữ gìn Pháp tạng ấy. Vậy khi Ta nhập Niết bàn khoảng sau năm trăm năm, Chánh pháp vô thượng ấy khi sắp hoại diệt thì vào thời gian chuyển tiếp, các ông hãy vì các hữu tình mà giảng nói, khai thị rộng rãi để họ nghe đạt lợi ích lớn”.

Rồi để khuyến khích những người con Phật thọ trì đọc tụng, tu học Đại Bát Nhã  Ba La Mật, Phật bảo tiếp:

“(...)Nếu ai đối với Bát nhã Ba la mật thâm sâu này mà thọ trì, dù chỉ một câu cũng đạt được vô lượng vô biên công đức; huống gì được Kinh Đại Bát Nhã này mà thọ trì, chuyển đọc, ghi chép đầy đủ và cúng dường lưu truyền rộng rãi khắp vì người khác, thì phước đức của người này đạt được không thể nghĩ bàn.

(...)Chỉ có người trí tuệ thông minh và hòa nhã mới có thể hộ trì pháp môn này. Còn người không có trí tuệ thông minh và hòa nhã thì pháp môn này chẳng phải là cảnh giới của họ.

(...) Vì muốn đoạn mối nghi cho các hữu tình mà Ta nói Kinh Đại Bát Nhã như vậy”.

Đoạn kinh này được Phật nói không biết bao nhiêu lần. Nhưng đây là lần chót trước khi Phật chấm dứt thuyết giảng bộ Đại Bát Nhã này. Hãy tin tưởng đây là lời chân thật phát ra từ kim khẩu của Thế Tôn. Vậy, hãy cố gắng thọ trì đọc tụng cũng như truyền bá rộng rãi kinh này chớ có bỏ qua.

 

Kết luận:

(Cho lục Ba la mật)

 

Mục đích cao cả nhất của việc tu lục Ba la mật là đạt ba tâm: Bồ đề tâm, Vô đẳng đẳng tâm và Đại tâm. Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ tám, “Khuyến Học”, tập 3, quyển 41. Nói rằng:

“Bồ Tát sơ phát tâm, duyên Vô Thượng đạo, mà phát nguyện rằng: “Tôi nguyện sẽ làm Phật”. Như vậy là phát Bồ Đề tâm. Khi được vô Đẳng Đẳng tâm, thì được gọi là Phật. Lúc bấy giờ, Bồ Đề tâm và Vô Đẳng Đẳng tâm tướng đồng với nhau. Vì sao? Vì quả đã tương ưng với nhân vậy. Lại dùng đại trí, quán hết thảy pháp, hết thảy chúng sanh đều bình đẳng, chẳng có phân biệt; dùng đại từ, đại bi rộng độ hết chúng sanh. Như vậy là đại tâm”.

Muốn thế phải tu sáu pháp Ba la mật:

- Đàn Ba La Mật(bố thí) và Thi La Ba La Mật(trì giới) nhiếp về Bồ Đề tâm. Vì sao? Vì Đàn Ba La Mật là nhân duyên dẫn đến đại phước đức; Thi La Ba La Mật là nhân duyên dẫn ra khỏi ba đường ác. Đây là hai pháp rất tôn quý trong các hàng Trời và Người. Trú được trong hai pháp này, thì có được lực quả báo an lập chúng sanh, và thành tựu đại sự.

- Sằn Đề Ba La Mật(an nhẫn) và Tỳ Lê Gia Ba La Mật(tinh tấn) nhiếp về Vô Đẳng Đẳng tâm. Vì sao? Vì hai Ba La Mật này là nhân duyên thành tựu được các việc hy hữu, rất khó làm. Nhờ nhẫn nhục, mà Bồ Tát có thể, vì chúng sanh chịu cắt thịt, chẻ xương,..., mà tâm chẳng lay động, chẳng hề oán hận. Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều là rốt ráo không là đồng thể đại bi, nên mới làm được những việc hy hữu như vậy. Lại nhờ tinh tấn mà Bồ Tát thành tựu được vô lượng công đức, có được những lực quả báo, chẳng gì bằng được. Khi thật hành hai Ba La Mật này, thì tâm Bồ Tát tương tự như tâm Phật. Như vậy là Vô Đẳng Đẳng tâm.

- Thiền Na Ba La Mật và Bát Nhã Ba La Mật nhiếp về Đại tâm. Vì sao? Vì ở nơi thâm thiền định, Bồ Tát dùng bốn vô lượng tâm, duyên khắp hết thảy chúng sanh, đang trầm luân trong biển khổ sanh tử, nhằm cứu độ hết thảy chúng sanh thoát khổ. Lại nhờ trí huệ Bát Nhã mà Bồ Tát vào được nơi thật tướng pháp, diệt hết các quán, đoạn dứt ngôn ngữ, mà chẳng có lạc về đoạn diệt. Như vậy là đại tâm.

Tóm lại, tu tập sáu pháp Ba la mật: Đàn Ba la mật, Thi la Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tỳ lê gia Ba la mật, Thiền na Ba la mật Bát Nhã Ba la mật thành tựu thì có ba tâm này. Nhờ ba tâm này mà thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ được Giác ngộ, trở thành Chánh giác và đắc Nhất thiết trí trí.

 

Nói như vậy là còn thấy có phát Bồ đề tâm, thấy có Vô đẳng đẳng tâm, có Đại tâm, có chứng có đắc. Nếu còn thấy, còn so đo hơn kém ba thứ tâm này tức còn dấy niệm, thủ tâm, chấp trước. Mục đích cuối cùng của việc tu học lục Ba la mật hay các pháp mầu Phật đạo là phủi sạch tất cả để tịnh đạo Bồ đề. Nên, phẩm “Xá Lợi Phất”, quyển 481, ĐBN, Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Bồ Tát Ma ha tát tịnh đạo Bồ đề?

Phật bảo: Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu Bồ Tát hạnh, chẳng đắc thân nghiệp, chẳng đắc ngữ nghiệp, chẳng đắc ý nghiệp. Chẳng đắc bố thí, chẳng đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, thiền định, Bát nhã. Chẳng đắc Thanh Văn, chẳng đắc Duyên giác, chẳng đắc Bồ Tát, chẳng đắc Như Lai, chẳng đắc tất cả pháp. Xá Lợi Phất! Đấy là Bồ Tát Ma ha tát tịnh đạo Bồ đề”.

Lạ lùng thay! Bồ Tát tu Bát Nhã mà chẳng đắc gì cả thì đấy là Bồ Tát Ma ha tát tịnh đạo Bồ đề. Tu Bát Nhã biết tất cả pháp đều không, thì chẳng còn mong cầu nắm bắt cất giữ nữa, tâm mới được như như. Như đó là bình đẳng. Do bình đẳng mà được thanh tịnh. Nên nói là tịnh đạo Bồ đề. Đó là “đường lối” của Bát Nhã, đường lối của Đại thừa. Tu như vậy, mới mong tháo gỡ mọi hệ lụy thế gian rồi thong thả xuống đò mà sang sông.

Nói “đường lối” là nói theo thế tục, nói theo Bát Nhã là có phương tiện thiện xảo. Muốn thế thì đừng mong cầu nắm bắt, đừng thủ tâm chấp tướng dù là Bồ đề tâm, dù vô đẳng đẳng tâm hay đại bi tâm. Tất cả tâm đó là đưa đến tịnh đạo Bồ đề chỗ gọi là vô thức vô niệm vô tâm. Được như vậy là thành tựu Thánh trí tự giác mà Kinh Đại Bát Nhã gọi là Nhất thiết trí trí hay Bát Nhã Trí. Phần “Bát Nhã Ba La Mật” là nói về trí này.

 

Cũng như 5 Ba la mật trước, chúng tôi trích dẫn phẩm thứ nhất, “Bát Nhã Ba La Mật”, tập 1, quyển 18, Đại Trí Độ Luận để xem Luận giải thích Trí Bát Nhã, cách thức tu tập và thành tựu trí này như thế nào? Hy vọng chúng ta gặt hái nhiều kết quả tốt khi học cả Kinh lẫn Luận:

 

Bát Nhã Ba La Mật
(Trí Huệ Ba la Mật)

 

Hỏi: Thế nào gọi là Bát Nhã Ba La Mật?

Đáp: BÁT NHÃ gốc chữ Phạn, thường được dịch là Trí Huệ. Đây chẳng phải là trí huệ thế gian, mà là trí huệ của bậc thoát trần, rõ biết Thật Tướng của hết thảy các pháp.

Vì danh từ “Trí Huệ” không thể diễn tả hết thâm nghĩa của Bát Nhã, nên trong kinh thường dùng các danh từ “Bát Nhã”, hoặc “Trí Huệ Bát Nhã”.

Chư Bồ Tát từ khi sơ phát tâm đã tu “Trí Huệ Bát Nhã”.

BA LA MẬT là đáo bỉ ngạn, có nghĩa là qua đến bờ bên kia, bờ của giải thoát, giác ngộ (đã giải nghĩa trước đây rồi).

Hỏi: Vì sao chư Bồ Tát sơ phát tâm chưa có được trí huệ hoàn toàn, mà cũng gọi trí huệ của các Bồ Tát ấy là “Bát Nhã Ba La Mật?”

Đáp: Phật có thật Trí Huệ Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát cũng tu nhân đó, nên cũng gọi trí huệ của Bồ Tát là Bát Nhã Ba La Mật. Tuy chưa hoàn toàn, nhưng về sau sẽ được hoàn toàn.

Phật là đấng Nhất Thiết Chủng Trí. Bồ Tát tu hành Trí Huệ Bát Nhã Ba La Mật, để được Nhất Thiết Chủng Trí.

Hỏi: Phật đã như thật biết về Thật Tướng của các pháp. Còn Bồ Tát chỉ mới được các pháp vô lậu, lại chưa được huệ nhãn hoàn toàn thanh tịnh. Như vậy, vì sao nói “Bồ Tát cũng vào được Thật Tướng các pháp?”

Đáp: Phật ví như người vào biển lặn đến tận đáy biển rồi. Còn Bồ Tát ví như người tuy chưa lặn sâu đến tận đáy biển, mà đã thấy suốt đến đáy biển rồi vậy.

Bồ Tát có đại trí huệ soi sáng, nên tuy còn cộng trú với phiền não, mà đã thấy rõ Phật tánh nơi phiền não; tuy còn lưu tồn phiền não, mà đã thấy được Thật Tướng các pháp vậy.

Hỏi: Thế nào gọi là “Bồ Tát đã thấy được Thật Tướng các pháp?”

Đáp: Như lời Phật dạy ngài Tu Bồ Đề “Nếu Bồ Tát quán hết thảy các pháp là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải khổ, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải có, chẳng phải không, thì gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, thấy rõ Thật Tướng các pháp. Lại nữa, Bồ Tát quán hết thảy ngôn ngữ đều đoạn, hết thảy tâm hành đều diệt, thấy rõ tâm chẳng sanh, cũng chẳng diệt, như như tịch tịch như tướng Niết Bàn”.

 (…)Hỏi: Vì sao gọi Bát Nhã Ba La Mật là đại Ba La Mật?

Đáp: Vì Bát Nhã Ba La Mật là đại trí huệ, là trí huệ đáo bỉ ngạn, đưa qua bờ bên kia, bờ giải thoát giác ngộ.

Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật, của chư Bồ Tát, của chư Thánh Hiền. Bát Nhã Ba La Mật là pháp tối thượng đưa chúng sanh đến đại quả báo Niết Bàn.

Tất cả 5 Ba La Mật kia chẳng được như vậy, nên gọi Bát Nhã Ba La Mật là Đại Ba La Mật.

Hỏi: Vì sao gọi Bát Nhã Ba La Mật là đại trí huệ?

Đáp: Bát Nhã Ba La Mật nhiếp thu hết thảy các trí huệ.

Bồ Tát phải học hết thảy pháp mới được hết thảy trí huệ, gọi là Nhất Thiết Trí Huệ. Hết thảy các bậc Vô Học, Tận Trí, Vô Sanh Trí, Bích Chi Phật đều được Nhất Thiết Trí Huệ.

Hỏi: Giữa Bích Chi Phật và Thanh Văn có gì sai khác nhau?

Đáp: Đạo tuy là một, nhưng pháp dụng trí có sai khác nhau. Bích Chi Phật chẳng theo người khác nghe pháp, chẳng y theo pháp của người khác, chỉ tự dùng trí của mình, tư duy mà được Đạo. Bích Chi Phật có hai tên gọi đó là: Độc Giác và Duyên Giác.

- Độc Giác ra đời vào thời không có Phật. Chư vị ấy, do thấy thế gian là vô thường (Như do nhìn hoa rơi, lá rụng...) mà khởi sanh tâm vô lậu, tự đoạn sạch các kiết sử, vào được Đạo.

- Duyên Giác ra đời, hoặc vào thời không có Phật, hoặc vào thời có Phật. Chư vị này, do quán lý Duyên Khởi, mà sanh tâm vô lậu, tự đoạn sạch các kiết sử, vào được Đạo.

 

--o0o--

Lại nữa, có hai hạng người được Bích Chi Phật Đạo. Đó là:

- Hạng người sanh vào thời không có Phật, nhưng trong quá khứ vốn đã có học Phật, đã chứng quả Tu Đà Hoàn, và sau đó đã trải qua 7 phen sanh tử, nay được thành Đạo. Chư vị này được gọi là Tiểu Bích Chi Phật.

- Hạng người đã tích tập công đức trong suốt cả 100 kiếp, chẳng ngừng tăng trưởng trí huệ, thường tu tập Thiền Định, thắng hơn A La Hán. Chư vị này được gọi là Đại Bích Chi Phật.

Chư vị Bích Chi Phật chỉ ở một mình, tự tu học, tự giác ngộ, rồi liền nhập Niết Bàn, không ra hoằng pháp độ sanh.

Trái lại, Bồ Tát nguyện phát tâm thành Phật để độ thoát chúng sanh, nên thường tinh tấn tu 6 pháp Ba La Mật, phá các phiền não, mà được Nhất Thiết Trí.

Hỏi: Khi nói Nhất Thiết Trí Huệ là đã nói bao gồm cả các trí huệ thế gian và xuất thế gian rồi. Như vậy vì sao nói “phải tu 3 Thừa Trí Huệ, mới được viên mãn Đạo thể?”

Đáp: Ví như sữa trâu và sữa lừa, tuy đồng mà cũng khác. Sữa trâu có thể biến chế ra chất tô lạc (chất bơ), còn sữa lừa thì chẳng được như vậy.

Pháp Phật và pháp Ngoại Đạo đều dạy chúng sanh “Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm”, đều dạy nhiếp tâm tu Quán và tu Định, nhưng Đạo Quả thì rất sai khác. Vì sao? Vì pháp Phật dạy chúng sanh dùng trí huệ Bát Nhã quán chiếu. Còn hàng Ngoại Đạo, do bị tà kiến chấp ngã trói buộc, nên chẳng sao tự giải thoát được.

Pháp Ngoại Đạo là hoại tướng, ví như da trâu để lâu ngoài trời, dầm mưa, giãi gió, ắt phải bị hủy hoại. Còn pháp Phật là bất hoại tướng, giống như hư không, chẳng có gì có thể phá được vậy.

Pháp Phật chẳng chấp Thường, nên chẳng bị rơi vào Thường Kiến.

Vì sao? Vì nếu chấp Thường, thì chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng cần phải lánh nạn, cũng chẳng cẩn phải tìm phước.

Phật pháp cũng chẳng chấp Đoạn, nên chẳng rơi vào Đoạn Kiến. Vì sao? Vì nếu chấp Đoạn, thì cũng chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng có đời sau, nên cũng chẳng cần tu hành, chẳng cần giữ giới; ví như da trâu, sau khi đã bị mưa gió hủy hoại, chẳng còn gì nữa cả.

Hỏi: Thiền định, trí huệ của hàng Ngoại Đạo như thế nào?

Đáp: Ngoại Đạo dùng tâm chấp ngã mà vào Thiền Định; nên khởi sanh nhiều ái mạn. Do đắm trước thiền vị, nên chẳng có Thật Trí Huệ, Thật Thiền Định.

Hỏi: Ngoại Đạo cũng quán Không. Như vậy tại sao họ chẳng có được Thật Trí Huệ?

Đáp: Ngoại Đạo, tuy có quán Không, mà tâm họ còn chấp tướng Không, nên chẳng có được “Ngã Không” và “Pháp Không”. Bởi nhân duyên vậy, nên họ chẳng có được Thật Trí Huệ.

Hỏi: Khi vào Vô Tưởng Định, Ngoại Đạo cũng diệt hết các tâm. Như vậy vì sao nói họ còn chấp trước, họ không có được Thật Trí Huệ?

Đáp: Vô Tưởng Định có định lực rất mạnh, khiến các tâm đều diệt.

Thế nhưng đây chẳng phải là trí huệ lực. Vì sao? Vì ở trong định ấy lại sinh ra Tưởng Niết Bàn. Như vậy là đọa vào điên đảo. Các tâm chỉ bị tạm diệt, để rồi sẽ sanh khởi trở lại.

Ví như người chẳng có mộng, thì khi ngủ tâm chẳng có hành, nhưng khi vừa tỉnh dậy, thì lại có các tâm hành như trước.

Hỏi: Vô Tưởng Định có các lỗi như vậy. Còn Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Định thì như thế nào?

Đáp: Ở trong định ấy vẫn còn tưởng vi tế mà thiền giả không biết đó thôi.

Theo Phật pháp thì Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Định do tâm thức y vào 4 chúng trú nhân, mà các chúng nhân đó đều thuộc về nhân duyên nên chẳng có thật sự an định. Vì sao? Vì đã có nhân, có duyên thì là vô thường, mà đã vô thường thì có khổ, có không, có vô ngã, là còn phải được xả vậy.

Ngoại Đạo vì ái trước Trí Huệ nên chẳng có được Niết Bàn Giải Thoát. Họ chỉ y chỉ vào Sơ Thiền để xả “dục” ở Hạ Địa. Như vậy là còn chỗ sở y, còn có chỗ xả. Đến khi vào Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tướng Xứ thì họ chẳng còn có chỗ sở y nữa, khiến họ sợ mất cái “ngã”. Do vậy họ chẳng được Vô Sở Đắc mà bị đọa.

Lại nữa, Ngoại Đạo trì giới không đến chỗ rốt ráo, ví như chấp sát sanh khi tế Trời là chẳng phải tội. Phật pháp chẳng phải như vậy nên hơn xa pháp Ngoại Đạo.

Phật dạy “phải nhiếp tâm tu tập các pháp thiện”. Bởi vậy nên người Trí ở trong Phật Đạo, tu được rốt ráo các pháp thiện, khiến dễ thấy được Thật Pháp.

Biển Phật pháp mênh mông vô lượng, vô biên. Phật tùy theo căn trí của chúng sanh, mà thuyết ra các pháp có sai khác: Hoặc nói CÓ, hoặc nói KHÔNG, hoặc nói THƯỜNG, hoặc nói VÔ THƯỜNG, hoặc nói KHỔ, hoặc nói LẠC, hoặc nói NGÃ, hoặc nói VÔ NGÃ, hoặc nói “Tu hành 3 nghiệp là nhiếp hết thảy các pháp thiện”, hoặc nói “Hết thảy các pháp là Không, là Vô Tướng, là Vô Tác v.v…”

Như vậy pháp Phật thuyết ra có nhiều pháp môn khác nhau. Người vô trí khi nghe, chẳng sao có thể phân biệt được. Còn người trí vào được “3 Pháp Môn” nên biết rõ “Hết thảy lời Phật dạy đều là Thật Pháp, chẳng có trái nhau”.

Hỏi: “3 pháp môn” gồm những pháp môn gì?

Đáp: Đó là: - Côn Lạc Môn, - A Tỳ Đàm Môn và - Không Môn.

Hỏi: Thế nào gọi là “Côn Lạc Môn?”

Đáp: Khi Phật còn tại thế, ngài Ma Ha Ca Chiên Diên đã ghi lại lời Phật dạy, gồm 320 vạn lời. Sau khi Phật diệt độ rồi, vì người đời trí huệ sút kém, nên các bậc Tăng Sĩ soạn lại còn 38 vạn 4 ngàn lời, lập thành một pháp môn gọi là Côn Lạc Môn.

Những người nào vào được Côn Lạc Môn mà luận nghị, thì sẽ được biện tài vô ngại, luận thuyết vô cùng tận.

Trong Côn Lạc Môn có 2 phần chính. Đó là: - Tùy Tướng Môn và - Đối Trị Môn.

Ngoài ra còn rất nhiều môn khác nữa.

Ví như bài kệ Phật thuyết sau đây, nhiếp về Tùy Tướng Môn:

 

“Chớ làm việc ác,

Nên làm việc lành,

Tự tịnh ý mình

Đó là Phật pháp.

 

Lời nói xúc tích trong bài kệ ấy bao gồm cả 4 Niệm Xứ, mà cũng chẳng ly 4 Chánh Cần, 4 Như Ý Túc, 5 Căn, 5 Lực.

Lại nữa, bài kệ do ngài Tỳ Kheo Mã Tịnh thuyết cho ngài Xá Lợi Phất nghe, nhiếp về Đối Trị Môn:

 

Các pháp theo duyên sanh,

Lại cũng theo duyên diệt.

Phật, vị đại sa môn,

Bổn sư tôi thuyết vậy.

 

Chỉ trong một bài kệ ngắn như vậy mà có đủ cả 3 Đế (Chân Đế, Tục Đế, Đạo Đế). Cả 3 Đế chẳng rời nhau. Đây là Tùy Tướng Môn vậy.

Cũng nên nhắc lại rằng “Đối Trị Môn” là pháp môn phá chấp trước, phá tà kiến của chúng sanh, nhằm đem lại sự hiểu biết chân thật. Như Phật thuyết Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã là nhằm đối trị 4 tà chấp điên đảo của Ngoại Đạo và phàm phu về Thưởng, Lạc, Ngã, Tịnh vậy.

Tuy chẳng nói về 4 Niệm Xứ, mà đã hàm chứa đầy đủ ẩn nghĩa của 4 Niệm Xứ ở bên trong.

Khi nói đến 4 Điên Đảo là nói đến Tà Kiến, tức là gián tiếp nói về các kiết sử, phiền não. Còn khi nói đến các Căn Bản Phiền Não là nói bao gồm chung tất cả các phiền não chính và các tùy phiền não ngọn ngành. Ví như khi nói “3 độc” là nói bao gồm cả 15 thứ ái trước thuộc về Tham, 5 thứ sân nhuế thuộc về Sân và 15 thứ vô minh thuộc về Si. Sau khi đã cho chúng sanh biết rõ ràng “tất cả các kiết sử và phiền não đều do “3 Độc Tham; Sân, Si”, Phật mới dạy chúng sanh tu 8 Thánh Đạo, rộng hơn nữa, tu 37 phẩm Trợ Đạo, nhằm giúp họ đối trị 3 độc và đưa họ vào Phật Đạo.

Hỏi: Thế nào gọi là “A Tỳ Đàm Môn?”

Đáp: Pháp Phật dạy thậm thâm vi diệu. Khi Phật còn tại thế, các bậc lợi căn, thượng trí, vừa nghe xong lời Phật dạy là liền chứng được đạo quả. Thế nhưng đa số người học Phật, do độn căn, thiểu trí, nên chẳng sao thâm nhập được vào biển Phật pháp mênh mông. Bởi nhân duyên vậy, các đệ tử của Phật mới soạn ra các bộ luận, để giải rộng rộng về nghĩa lý thâm sâu, siêu việt của Phật pháp, nhằm giúp người học Phật được mở mang trí huệ dễ dàng trong việc tu học vậy.

Trong Phật pháp có rất nhiều bộ luận giải lời Phật dạy, được gọi chung là A Tỳ Đàm. Ví như chỉ một lời ngắn gọn của Phật: “Hết thảy các pháp hữu vi đều là vô thường”, nếu chẳng được khai triển, giảng giải rõ ràng, thì rất khó có thể hiểu được.

Thật vậy, nếu không có Chánh Ức Niệm thì chẳng sao nhập được vào Chánh Vị. Phải ở nơi Đệ Nhất Pháp mới nhập được vào Chánh Vị, mới chứng được 4 quả Thanh Văn. Bởi vậy nên về sau, các đệ tử của Phật mới giải rõ về các tướng của Đệ Nhất Pháp. Các luận giải như vậy nhiếp về “A Tỳ Đàm Môn”.

Hỏi: Thế nào gọi là “Không Môn?”

Đáp: Như nói về “Sanh Không”, và “Pháp Không”... là nói về “Không Môn”.

Trong một buổi pháp thoại với vua Tần Bà Sa La. Phật dạy: Này Đại Vương! Sắc, khi sanh, là không sanh Sắc, khi diệt, là không diệt. Cũng như vậy, các hành khi sanh là không sanh, khi diệt là không diệt. Bởi vậy, ở trong đó chẳng có Ngã, chẳng có Thần, chẳng có Nhân, cho nên nói “Các pháp là Vô Ngã, Vô Thần, Vô Nhân”. Từ vô thỉ đến nay, các pháp đều do duyên hòa hợp sanh mà giả danh là có. Người vô trí, y theo danh từ để cầu Thật pháp nên bị lầm lạc, chẳng sao được như nguyện.

Lại nữa, trong kinh Đại Không Phật có dạy: “Do vô minh duyên khởi, mới có Sanh, có Già, có Chết, hay nói rộng hơn, có đủ cả 12 Nhân Duyên”.

Nói như vậy là nói về “Sanh Không” và “Pháp Không”. Đặt câu hỏi ai sanh, ai già, ai chết đều rơi về tà kiến cả. Sở dĩ có Sanh, có Già, có Chết là vì có Hữu, có Thủ, dẫn đến có Ái, có Thọ, có Xúc, có Lục Nhập, có Danh Sắc, có Thức, có Hành. Tất cả đều do Vô Minh. Như vậy, nếu có người nói thân tức là thần, thần khác với thân v.v. đều là tà kiến cả.

Lại nữa, trong kinh Phật dạy: “Sanh đã KHÔNG thì Già, Chết cũng KHÔNG, vì đều là hư vọng cả. Dẫn đến Vô Minh cũng là như vậy. Cho nên các pháp đều là hư vọng, đều chẳng thật có, đều là vô tướng cả. Như vậy là nói về “Pháp Không”.        

Lại nữa, trong kinh Phạm Võng Phật dạy : “62 kiến chấp của hàng Ngoại Đạo đều là tà kiến chấp cả”.

Ví như nói “thần là thường”, “thế gian là thường” là tà kiến, mà nói “thần là vô thường”, “thế gian là vô thường” cũng là tà kiến. Vì sao ? Vì tự tánh của hết thảy các pháp đều là KHÔNG. Biết rõ như vậy mới vào được nơi Thật Pháp vậy.

Hỏi: Nói “thần là thường” là tà kiến còn hợp lý, vì thần là tánh KHÔNG. Nhưng vì sao nói “Thế gian là thường” cũng là tà kiến?

Đáp: Thế gian vốn chẳng phải thường mà phàm phu điên đảo cho là thường. Thế nhưng nói “Thần là vô thường”, nói “thế gian là vô thường” cũng vẫn là tà kiến. Vì sao? Vì thần cũng như thế gian đều là tự tánh KHÔNG, nên chẳng phải thường, cũng chẳng phải vô thường.

Hỏi: Có lúc Phật dạy “Quán pháp hữu vi là Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã. Người tu được như vậy là được Đạo”. Nay vì sao lại nói “Quán vô thường cũng rơi vào tà kiến?”

Đáp: Phật tùy duyên hóa độ chúng sanh. Có khi Phật nói về Vô Thường, có, khi Phật nói về Bất Sanh Diệt v.v…

Trong kinh có chép mẫu chuyện sau đây:

Có một hôm ông Ma Na Nam đến trước Phật, bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con cũng như nhiều người ở thành Ca Tỳ La Vệ, vì quá khốn khổ, nên tâm dao động, tự hỏi khi chết rồi sẽ về đâu?”

Phật dạy: “Này Ma Na Nam! Ngươi chẳng nên sợ. Ngươi chắc chắn sẽ không sanh về chốn ác thú, mà sẽ sanh đến chỗ thiện. Ví như cây đã nghiêng về hướng Đông rồi thì khi có người chặt nó, nó sẽ ngã về hướng Đông. Bởi vậy nên, người làm điều thiện, do có Tín, có Giới, có Văn, có Huệ, lại có phát tâm hành Bố Thí, thì khi chết chắc chắn sẽ được lợi ích, được sanh lên cõi trời. Cho nên biết Tướng là vô thường, mà Tánh chẳng phải vô thường vậy”.

Hỏi: Nếu Vô Thường là chẳng có thật, thì vì sao Phật lại thuyết về Vô Thường?

Đáp: Như trên đã nói, Phật tùy duyên mà nói pháp. Do muốn phá chấp Thường, mà Phật thuyết về Vô Thường. Còn đối với những người không tin có đời sau, Phật lại thuyết về các nhân duyên tội phước, dù trải qua trăm ngàn kiếp, cũng chẳng mất.

Như vậy là Đối Trị Tất Đàn, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.

Nên biết rằng hết thảy các pháp ở nơi Thật Tướng đều chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường.

Lại nữa, có nhiều lúc Phật thuyết về “Pháp KHÔNG”. Thật Tướng của hết thảy pháp đã là KHÔNG, thì chấp Thường, chấp Vô Thường cũng đều là tà kiến cả vậy.

Trong kinh có chép mẫu chuyện về một ông Phạm Chí ở thành Ca Tỳ La Vệ đến vấn nạn Phật như sau: Ông Phạm Chí hỏi Phật “Có một thứ Đạo cứu cánh hay có nhiều thứ Đạo cứu cánh?”

Phật dạy: “Chỉ có một thứ Đạo cứu cánh. Chẳng phải có nhiều”.

Ông Phạm Chí lại nói: “Phải có nhiều Đạo cứu cánh, chẳng phải chỉ có một thôi đâu!”

Phật nói: “Nếu có nhiều thứ Đạo cứu cánh, thì chẳng phải là Đạo Chân Thật. Vì sao? Vì hết thảy Tà Đạo chẳng thể gọi là Đạo Cứu Cánh được”.

Rồi Phật hỏi tiếp: “Ông đã được Đạo rồi chăng?”

Ông Phạm Chí đáp: “Trong hết thảy các pháp để được Đạo, thì pháp của Đạo tôi là bậc nhất”.

Lúc bấy giờ Phật quay về phía một vị Tỳ Kheo, nguyên là một vị trưởng lão Phạm Chí, đang đứng hầu quạt sau lưng Phật, và hỏi ông Phạm Chí rằng: “Ông có biết Tỳ Kheo này là ai chăng?”, ông Phạm Chí cúi đầu, hổ thẹn.

 

--o0o--

 

Trong kinh Thanh Văn cũng có nhiều chỗ nói về “Pháp KHÔNG”, nhưng chẳng phải như trong Kinh Đại Thừa Ma Ha Diễn.

Trong Kinh Đại Thừa, khi nói về Pháp KHÔNG đã nói lên rằng “Tự Tướng của hết thảy các pháp đều là KHÔNG; tức là Pháp Tánh vốn thường tự KHÔNG vậy”.

Như lời Phật dạy ngài Tu Bồ Đề: “Sắc tự KHÔNG; Thọ, Tưởng, Hành, Thức tự KHÔNG; 12 Nhân Duyên, 37 Phẩm Trợ Đạo, 10 Phật Lực, 4 Vô sở úy, 18 Bất Cộng Pháp, Đại Từ, Đại Bi, Tát Bà Nhã dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng đều tự KHÔNG cả.

Hỏi: Nói “Các pháp tánh thường tự KHÔNG” như vậy, sao chẳng bị đọa về tà kiến?

Đáp: Người vô trí chấp chẳng có tội, chẳng có phước, chẳng có đời sau, lại chấp người tự sanh rồi tự diệt như cây cỏ, đất đá. Vậy là tà kiến.

Vì sao? Vì họ chẳng quán được “nội thân, ngoại thân cũng đều là tự tướng KHÔNG cả”.

Người theo tà kiến thường làm các việc ác, đoạn các thiện căn.

Trái lại, người tu quán KHÔNG chẳng khởi tâm chấp; đến việc thiện còn chẳng chấp, huống nữa là khởi tâm làm việc ác.

Người theo tà kiến phá “Không Môn” về cả 2 mặt: Nhân và Quả. Có người chỉ phá quả mà không phá nhân, có người phá cả nhân lẫn quả. Ví như người nói “Không nhân, không duyên, không tội, không phước, tất cả đều là không cả”, là người phá cả nhân lẫn quả vậy.

Hỏi: Người quán KHÔNG cũng nói tất cả đều là KHÔNG. Như vậy, giữa người tà kiến và người quán KHÔNG đâu có khác gì?

Đáp: Người theo tà kiến cho rằng “Các pháp đoạn diệt rồi là thành KHÔNG”. Trái lại, người tu theo Đại Thừa thì biết rõ “Các pháp đều ở nơi thể Chân Không, chẳng thể phá; chẳng thể hoại. Như vậy 2 bên hoàn toàn khác nhau, như lửa và nước, như Cam Lồ và độc được vậy.

Lại nữa, thể Chân Không chẳng phải có, mà cũng chẳng phải KHÔNG. Đây là “KHÔNG Tam Muội”; còn người theo tà kiến tuy cũng nói KHÔNG, mà chẳng phải thật KHÔNG vậy.

Người tu quán KHÔNG, do trước đã có tu bố thí, trì giới, thiền định, nên tâm được nhu nhuyến; lại do các kiết sử đã mỏng, nên mới vào được Chân Không.

Trái lại, người vô trí chấp KHÔNG là do tà kiến, chẳng phải là do trí huệ mà biết được Tánh KHÔNG của các pháp vậy. Chỉ ví như người nghe nói “muối làm tăng thêm mùi vị của thức ăn, có muối các thức ăn mới trở nên thơm ngon hơn”,  rồi bốc cả nắm muối bỏ vào nồi canh khiến chẳng sao ăn được vậy.

Người vô trí, khi nghe nói “KHÔNG môn” là Giải Thoát Môn” liền sanh tâm giải đãi, chẳng chịu tu các công đức, mà lại muốn được “Pháp KHÔNG", khiến phải đoạn mất thiện căn.

Người vào được 3 Giải Thoát Môn rồi, do biết được rõ nghĩa của Phật pháp, nên chẳng rơi vào đối đãi, ở nơi mọi sự việc đều được vô ngại, tức là đã được Bát Nhã Ba La Mật rồi vậy.

Những người nào không rõ nghĩa Bát Nhã Ba La Mật mà vào trong pháp môn A Tỳ Đàm, thì luôn rơi ngay vào chấp CÓ, chấp KHÔNG; dẫn đến vào trong pháp môn Côn Lạc cũng là như vậy.

Trái lại Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, rõ biết hết thảy các pháp là vô Tướng, mà cũng biết rõ hết thảy tướng của các pháp, biết rõ hết thảy tướng đều là một, không khác. Nói rõ hơn, Vô Tướng, cũng tức là Nhất Tướng vậy.

Hỏi: Làm sao Bồ Tát biết được “Hết thảy các tướng đều chỉ là một?”

Đáp: Bồ Tát quán hết thảy các pháp chỉ là một tướng, không khác (Nhất Tướng). Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều do duyên sanh, đều là như huyễn, như hóa, chỉ là giả danh, chẳng có thật.

Do từ nơi một tâm (Nhất Tâm) mà duyên sanh ra các pháp, nên tướng của hết thảy các pháp đều chỉ là một tướng (Nhất Tướng)

Hỏi: Vì sao ở nơi không có pháp (nơi vô pháp) mà lại có sanh tâm?

Đáp: Nói KHÔNG (vô) cũng tức là đã nói có (hữu) rồi vậy. Vì sao? Vì KHÔNG là do đối đãi với CÓ mà thành, Bồ Tát quán các pháp là Vô Tướng, là Nhất Tướng, quán nơi các pháp chẳng có Tự Tướng, cũng chẳng có Tha Tướng. Do nói có pháp, mới có sanh tâm. Ví như nếu nói trâu là pháp, thì dê cũng là pháp, lại nếu nói pháp là KHÔNG, thì trâu, dê đều là KHÔNG cả.

Bồ Tát quán hết thảy các pháp đều do một nhân sanh, nên đều là một. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều do một tâm sanh ra, nên hết thảy các pháp tướng đều chỉ là một tựớng (Nhất Tướng).

Ví như nói 1 hợp với 1 thành 2, 1 hợp với 2 thành 3… như vậy nếu khẳng định 1 là có thật thì 2, 3 đều là hư dối. Mà 2,3… đã là hư dối thì 1 cũng chẳng có thật vậy…

Bồ Tốt lại quán các pháp là Vô Sở Nhân, tức là chẳng có nhân sanh ra, nên quán thân người là sanh diệt là vô thường. Vì sao? Vì nếu quán có nhân sanh thì là vô cùng vô tận. Nhân sanh ấy phải do nhiều nhân trước tiếp nối nhau trong quá khứ, rồi nhân ấy lại dẫn sanh ra nhiều nhân sau tiếp nối nhau trong tương lai. Cứ như vậy mãi nên là vô cùng vô tận.

Nếu nhân đã sanh diệt, là vô thường thì nhân ấy chẳng phải là nhân, tức là vô nhân vậy. Tướng có mà lại là KHÔNG, tức là Vô Tướng, pháp có mà lại là KHÔNG tức là Vô Pháp, Nhân có mà lại là KHÔNG tức là Vô Nhân.

Bồ Tát lại quán hết thảy các pháp đều có tướng. Ví như đất có tướng cứng, tướng nặng, nước có tướng ướt, tướng lạnh, lửa có tướng nóng, gió có tướng động, hư không có tướng dung chứa các vật. Các tướng còn được phân biệt, giải thích rõ ràng. Như nói “cỏ đây, có kia”, “trái, phải”, “trên dưới”, “Đông Tây” v.v… là nói về phương Tướng, nói “có tâm độc ác, làm hại chúng sanh” là nói về Tội Tướng; nói “có tâm từ bi, thương xót chúng sanh” là nói về Phước Tướng, nói “có tâm không chấp trước các pháp” là nói về Giải Thoát Tướng, nói “có tâm chấp trước các pháp” là nói về Phước Tướng, nói “ở nơi hiện tiền rõ biết hết thảy pháp vô ngại” là nói về Phật Tướng v.v...

Quán hết thảy các pháp đều có tướng như vậy rồi, Bồ Tát lại quán hết thảy các pháp đều là vô tướng. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp sanh nên đều là tự tướng KHÔNG, là tự tánh KHÔNG.

Ví như do các duyên “sắc, hương, vị, xúc” hòa hợp với nhau mà “đất” được tạo thành, được gọi tên là “đất”. Chẳng phải chỉ riêng sắc làm ra. Vì nếu chỉ có riêng sắc làm ra đất, thì đất chẳng có hương, chẳng có vị, chẳng có thể xúc chạm được hay sao? Thế nhưng “đất” là một pháp mà “sắc, hương, vị, xúc” là 4 pháp. Làm sao 4 pháp có thể thành 1 pháp, và 1 pháp có thể là 4 pháp được? Bởi vậy nên đất chẳng phải là sắc, chẳng phải là hương, chẳng phải là vị, chẳng phải là xúc, mà ngược lại nếu rời 4 pháp này ra thì cũng chẳng sao có được đất vậy.

Hỏi: Trên đây nói “Đất chẳng phải là sắc, hương, vị, xúc”, nhưng lại nói “Đất do duyên hòa hợp của 4 pháp ấy mà được tạo thành”. Như vậy đất có an trú nơi 4 pháp ấy không?

Đáp: Khi nói “Đất do duyên hòa hợp của 4 pháp ấy sanh”, thì đất chẳng phải là 4 pháp ấy, chẳng an trú nơi 4 pháp ấy, mà cũng chẳng ly 4 pháp ấy. Ví như cha mẹ sanh con thì con chẳng phải là cha mẹ, chẳng ở nơi cha mẹ, nhưng cũng chẳng ly cha mẹ mà tự có được vậy.

Ngoài ra, phải lấy mắt nhìn sắc của đất, lấy mũi ngửi hương của đất, lấy lưỡi nếm vị của đất, lấy thân xúc chạm với đất, và dùng nhãn thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức phối hợp với ý thức để phân biệt thì mới có thể biết được đất. Trái lại nếu không dùng đến căn và thức để nhận biết đất thì chẳng có pháp mang tên “đất” vậy. Cho nên danh và tướng của đất đều giả lập, chẳng thật có.

Hỏi: Đất có tướng cứng. Nói như vậy cũng có lỗi chăng?

Nếu nói như vậy là có lỗi, thì vì sao trong A Tỳ Đàm cũng nói đến danh tướng, và nói đất là sắc pháp do 4 đại tạo hành?

Đáp: Đây là tùy thuận thế gian mà nói có danh, có tướng, lại vì thế gian chấp sắc tướng, nên nói đất là sắc pháp do 4 Đại tạo thành. Thế nhưng, danh và tướng đều là giả lập, chẳng phải thật có.

Trước đây nói “đất là sắc” là có lỗi lầm, nay nói “đất có tướng cứng” cũng lỗi lầm nữa.

Dùng mắt có thể thấy được sắc tướng của đất, nhưng chẳng có thể thấy được tướng cứng vậy. Lại nữa, nếu mắt thấy được tưởng cứng của đất, thì cũng phải thấy được tướng ướt của nước, tướng nóng của lửa, tướng di dộng của gió.

Các tướng cứng, ướt, nóng, di động nếu trên đây là biệt tướng của từng chất chính (Đại) trong 4 chất chính cấu tạo ra vạn vật (4 Đại), xét theo từng chủng loại riêng (Đại chủng). Thế nhưng ở nơi mỗi chất đều có sự hiện diện của 3 chất kia, cho nên nói “đất do 4 Đại tạo thành”.

Hỏi: 4 Đại chẳng rời nhau, trong đất cũng có nước, gió, lửa, trong lửa cũng có đất, nước, gió v.v... như vậy thì làm sao còn có thể là đất, là lửa... được nữa?

Đáp: Chẳng có thế nói như vậy được. Hãy lấy thí dụ về lửa. Nếu trong lửa có mặt cả 4 Đại, thì tất cả 4 Đại đều nóng cả. Vì nếu 3 Đại kia mà không nóng, thì lửa chẳng được gọi là lửa. Còn tất cả đều nóng, thì 3 Đại kia phải bỏ tánh riêng và đều gọi chung là lửa.

Lại nữa, nếu nói trong đất thành phần lửa ít, thì dù ít lửa cũng vẫn là lửa, không khác. Nếu thành phần lửa nhiều mà biết được thì thành phần lửa ít cũng phải biết được. Nếu chẳng có biết được thì tướng của các nhân tác thành đất, thành lửa đều bất khả đắc, dẫn đến tướng của hết thảy pháp cũng đều bất khả đắc cả.

Hỏi: Có người nghĩ rằng “pháp vô tướng là pháp có tướng “vô tướng”. Nghĩ như vậy có đúng chăng? Có phải vì pháp là KHÔNG mà nói là vô tướng chăng?

Đáp: Dùng Vô Tướng là để phá Pháp Tướng. Nếu lại còn chấp có tướng Vô Tướng, thì cũng vẫn là chấp Pháp Tướng vậy.

Phải vào được Thật Tướng các pháp mới hiểu rõ được thâm nghĩa.

Nên biết Vô Tướng cũng tức là Tự Diệt Tướng vậy. Ví như lửa và củi. Khi lửa đã đốt cháy hết củi rồi thì lửa tự tắt.

Các bậc Thánh Hiền hành Vô Tướng Tam Muội là hành Vô Tướng Pháp vậy. Bồ Tát quán hết thảy các pháp chẳng có hợp, chẳng có tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, chẳng có thuyết được... và rõ biết hết thảy các pháp đều là Nhất Tướng, nghĩa là chỉ một tướng, đều là Vô Tướng, nghĩa là tự tướng KHÔNG vậy.

Hỏi: Thế nào gọi là “Quán các pháp là vô tướng?”

Đáp: Đó là quán hết thảy pháp đều nhiếp trong “2 pháp”. Ví như Danh và Sắc - Sắc và Vô Sắc - Hữu Đối và Vô Đối - Hữu Vi và Vô Vi - Hữu Lậu và Vô Lậu. v.v.

Dẫn đến có 200 thứ “2 pháp” như trong kinh Thiên Vấn có nói rõ.

- Lại có các thứ “2 pháp” khác.

Ví như: Nhẫn nhục và nhu hòa - Cung kính và cúng dường - Tài thí và pháp thí - huệ phân biệt và huệ tu đạo - Giới Cụ Túc và Chánh kiến Cụ Túc - Tướng chánh trực và tướng nhu hòa - Định và Huệ - Niệm huệ và xảo huệ - Minh liễu và giải thoát - Thế Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế - Đợi thời giải thoát và bất hoại tâm giải thoát - Hữu Dư Niết Bàn và Vô Dư Niết Bàn - Sự cứu cánh và nguyện cứu cánh - Nghĩa cụ túc và ngữ cụ túc - Thiểu dục và tri túc - Pháp tùy và pháp hành - Tận trí và vô sanh trí v.v…

Như vậy có vô lượng thứ “2 pháp”.

- Lại có các thứ “3 pháp”.

Ví như: 3 đạo “kiến đạo, tu đạo và vô học đạo” - 3 tánh “đoạn tánh, ly tánh và diệt tánh” - 3 cách tu “tu giới tu định và tu huệ” - 3 thứ Bồ Đề “Bồ Đề Phật, Bồ Đề Bích Chi Phật và Bồ Đề Thanh Văn” - 3 thừa “Phật thừa, Bích Chi Phật thừa và Thanh Văn thừa” - 3 pháp quy y “Quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng” - 3 pháp tăng thượng “Tự tăng thượng, tha tăng thượng và pháp tăng thượng” - 3 nghiệp “thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp” - 3 phước xứ “bố thí, trì giới và thiện tâm” - 3 khí tượng “Văn khí tượng, huệ khí tượng và ly dục khí tượng” - 3 luân “biến hóa luân, khai tha tâm luân và giáo hóa luân” - 3 giải thoát môn “Không, vô tướng và vô tác” v.v...

Như vậy có vô lượng thứ “3 pháp”

- Lại có các thứ “4 pháp”.

Ví như: 4 niệm xứ - 4 chánh cần - 4 như ý túc - 4 Thánh Đế - 4 Thánh chúng - 4 quả Sa Môn – 4 trí - 4 đạo - 4 nhiếp pháp - 4 y - 4 thông đạo thiện căn - 4 Thiên Nhân luân - 4 kiến pháp - 4 vô sở úy - 4 vô ngại pháp - 4 vô lượng tâm v.v...

Như vậy có vô lượng thứ “4 pháp”.

- Lại có các thứ “5 pháp”

Ví như: 5 chúng vô học - 5 xuất tánh - 5 xứ giải thoát - 5 căn - 5 lực - 5 trí - 5 A Na Hàm - 5 Tịnh Cư Thiên - 5 trí đạo - 5 trí Tam Muội - 5 thánh phân chi tam muội - 5 như pháp ngữ đạo v.v...

Như vậy có vô lượng thứ “5 pháp”.

- Lại có các thứ “6 pháp”.

Ví như: 6 pháp xả - 6 pháp ái kính - 6 thần thông - 6 bậc A La Hán - 6 Địa kiến đế đạo - 6 niệm tùy thuận - 6 định - 6 Ba La Mật v.v...

Như vậy có vô lượng thứ “6 pháp”.

-Lại có các thứ “7 pháp”.

Ví như: 7 giác chi - 7 Thánh tài - 7 y chỉ - 7 tưởng định - 7 diệu pháp - 7 tịnh - 7 tài phước - 7 phi tài phước -7 pháp trợ định v.v...

Như vậy có vô lượng thứ “7 pháp”.

-Lại có các thứ “8 pháp”.

Ví như: 8 Thánh Đạo - 8 Bối xả - 8 thắng xứ - 8 đại nhân giác - 8 Tinh Tấn - 8 trượng phu - 8 bậc A La Hán v.v…

Như vậy có vô lượng thứ “8 pháp”.

- Lại có các thứ “9 Pháp”.

Ví như: 9 thứ đệ định - 9 danh sắc đẳng diệt - 9 vô lậu trí - 9 vô lậu địa - 9 địa tư duy đạo v.v...

Như vậy có vô lượng thứ “9 pháp”.

- Lại có các thứ “10 pháp”.

Ví như: 10 vô học pháp - 10 tưởng - 10 trí - 10 nhất thế nhập - 10 thiện đại địa - 10 Phật lực v.v...

Như vậy có vô lượng thứ “10 pháp”.

- Lại có các thứ “11 pháp”, “12 pháp”, “13 pháp” v.v...

Ví như: 11 pháp trợ Thánh Đạo - 12 pháp nhân duyên - 13 pháp xuất thế - 14 tâm biến hóa - 15 tâm kiến đế đạo - 16 hạnh A Na Ba Na - 17 Thánh hạnh - 18 bất cộng pháp - 19 ly địa... 89 quả hữu vi - 89 quả vô vi -162 tư duy đạo có công năng phá giặc phiền não v.v…

Như vậy có vô lượng tướng pháp khác nhau, có sanh, có diệt, có tăng, có giảm, có đắc, có thất, có cấu, có tịnh v.v… hết thảy đều biết cả.

Bồ Tát biết hết thảy các pháp rồi, lại đưa các pháp vào tánh KHÔNG. Ở nơi các pháp KHÔNG cũng chẳng chấp đắm quả Thanh Văn, quả Bích Chi Phật, Vị Bồ Tát. Vì sao? Vì Bồ Tát phát tâm đại bi thương xót chúng sanh, nên dùng các phương tiện dẫn chúng sanh vào 3 Thừa Đạo.

Ví như nhà Hóa Học dùng tác dụng của các hóa chất để biến chất này thành chất khác vậy.

Hỏi: Nếu đã nói “pháp tánh là KHÔNG” thì vì sao còn phân biệt các pháp tướng để làm gì nữa?

Đáp: Vì các pháp vốn là tự tánh KHỔNG, nên Bồ Tát không nói tánh KHỔNG là có thể được, có thể chấp, lại cũng không nói các pháp tướng sai khác nhau là không có được vậy.

KHÔNG, nói ở đây chính là tự tánh KHÔNG. Là vô quái ngại. Đây là “Bất Khả Đắc Không”. Bồ Tát rõ biết “Bất Khả Đắc Không”, nên dùng trí huệ Bát Nhã dạy cho chúng sanh biết rằng “Thật Tướng của các pháp là Bát Nhã Ba La Mật”.

Hỏi: Hết thảy 96 bộ kinh thơ của thế gian đều có nói đến Thật Tướng các pháp. Kinh Thanh Văn, kinh Ngoại Đạo cũng có nói đến Thật Tướng các pháp. Vì sao các kinh thơ này không được gọi là Bát Nhã Ba La Mật?

Vì sao chỉ riêng kinh Đại Thừa Ma Ha Diễn mới nói “Thật Tướng các pháp chính là Bát Nhã Ba La Mật?”

Đáp: Chẳng phải như vậy.

Các kinh thơ của thế gian chỉ nêu lên những pháp về thuật an dân, trị nước, giáo dục gia đình. Các kinh thơ này không nói về Thật Tướng Pháp.

Hàng Ngoại Đạo do tâm đắm trước tà kiến chấp nên chẳng có thể thấy được Thật Tướng Pháp.

Hàng Thanh Văn tu 4 Thánh Đế, tuy có quán về Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, lại cũng có quán về Thật Tướng Pháp, nhưng vì không có đầy đủ trí huệ, không hay vì chúng sanh nói pháp, nên dù đã có Thật Trí Huệ, mà trí huệ đó vẫn chưa được gọi là Bát Nhã Ba La Mật.

Ví như khi Phật nhập vào Tam Muội, thì hàng Thanh Văn dẫn đến ngài Xá Lợi Phất cũng không thấu rõ được. Vì sao? Vì A La Hán từ khi sơ phát tâm không phát đại nguyện độ thoát hết thảy chúng sanh, không đầy đủ tâm đại bi, không cầu hết thảy công đức, không cúng dường hết thảy chư Phật khắp 10 phương, không cầu Thật Tướng của hết thảy các pháp, mà chỉ cầu thoát sanh tử. Trái lại, Bồ Tát từ sơ phát tâm, đã phát đại nguyện, có tâm đại bi, cầu hết thảy các công đức, lại cũng thường tu quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, lại cũng thường quán ngoại duyên ở nơi Thật Tướng là chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải khổ, chẳng phải lạc, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã... Bồ Tát tu quán như vậy mà chẳng có chấp, chẳng có đắc, không bỏ pháp thế gian, mà cũng không trú Đệ Nhất Pháp. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật biến khắp, thanh tịnh nên không phá, không hoại Tục Đế vậy.

Hỏi: Nếu nói “Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật là vô tướng, pháp Bát Nhã Ba La Mật là pháp vô sở đắc”, thì làm sao người tu hành có thể thấy, có thể tu được pháp Bát Nhã Ba La Mật?

Đáp: Phật tùy căn tánh chúng sanh mà phương tiện thuyết pháp. Nếu y theo pháp Phật mà hành trì thì sẽ được Đạo. Ví như leo lên chỗ cao phải dùng thang, muốn vượt sông vượt biển phải dùng thuyền bè vậy.

Bồ Tát từ khi sơ phát tâm, đã nghe Phật cùng chư Đệ Tử của Phật thuyết về pháp KHÔNG, đã rõ biết hết thảy pháp là rốt ráo KHÔNG, nên tâm chẳng còn chấp trước, đã diệt hết các hý luận, đã thấy rõ Đệ Nhất Pháp Thật Tướng là tướng Niết Bàn an lạc, tịch tịnh.

Thế nhưng, vì muốn độ thoát chúng sanh nên Bồ Tát không thủ tướng Niết Bàn, mà nghĩ rằng “TA nay chưa đầy đủ phước đức, trí huệ nên chưa thường dẫn đạo chúng sanh. Bởi vậy nên ta phải tu 6 pháp Ba La Mật, hành đại pháp thí, tu trí huệ, để có đầy đủ phương tiện dẫn đạo chúng sanh, đưa họ vào 3 Thừa Đạo”.

Bồ Tát dạy cho chúng sanh biết rõ:

- Do nhân duyên trì giới mà được sanh làm Trời, làm Người tôn quý, được thoát khỏi 3 đường ác.

- Do nhân duyên nhẫn nhục mà tiêu trừ được tâm sân nhuế, mà được thân đoan chánh.

- Do nhân duyên tinh tấn mà phá được tâm giải đãi trong nhiều đời, được thân Kim Cang, lại dùng tâm tinh tấn ấy để phá sạch kiêu mạn, đưa đến Niết Bàn thiền định.

- Bồ Tát thành tựu các công đức ấy rồi, lại vì chúng sanh thuyết pháp ly dục và thuyết Bát Nhã Ba La Mật.

Trong kinh nói “Tỳ Kheo nhất tâm quán Thật Tướng Pháp, tu hành Đàn Ba La Mật , tu 10 thiện Đạo, tu Thi La Ba La Mật... nhưng nếu chưa đầy đủ thiền định, trí huệ thì vẫn chưa được ly dục, nên lại phải tu nhẫn nhục mới ly được các dục”.

Với 3 Độ (Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn) nêu trên đây, Bồ Tát chỉ mới khai thị được một “biệt môn”, đó là “phước môn” mà thôi.

Bồ Tát lại dạy chúng sanh rằng: “Các quả phước báo cũng vô thường, khi hưởng hết phước lạc rồi thì cũng sẽ bị đọa. Do vậy mà phải sanh tâm nhàm chán sự thọ phước báo hữu lậu, cầu Thật Tướng Pháp, nhất tâm tu quán, tu thiền định, trừ 5 dục, 5 cái, tinh tấn hành Bát Nhã Ba La Mật.

Trước đây nói về 3 Độ trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục. Đối với 3 Độ này, người tu, dù ít tinh tấn cũng còn có thể tu được. Nay nói về tu Bát Nhã Ba La Mật, là pháp tu Thật Tướng Pháp, nên người tu phải nhất tâm cầu thiền định, mới mong có được Trí Huệ Bát Nhã.

Thiền định và trí huệ khó tu, khó được, nên người tu phải nhất tâm tinh tấn mới được vậy.

Hỏi: Phải hành cả 5 Độ kia mới được Bát Nhã Ba La Mật hay sao?

Đáp: Có 2 trường hợp hành Bát Nhã Ba La Mật. Đó là :

- Hành Bát Nhã Ba La Mật chung với 5 Ba La Mật kia.

- Hành riêng Bát Nhã Ba La Mật.

Ví như 4 Đại hòa hợp chẳng rời nhau. Khi tu Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng rời 5 Ba La Mật kia, thì gọi là tương ưng trí hành, được đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật.

Có người chỉ tu 1 hoặc 2, hoặc 3, hoặc 4 Ba La Mật mà cũng được Bát Nhã Ba La Mật.

Ví như:

- Người tu Bố Thí mà biết rõ, giải rõ Thật Tướng Pháp, là được Đàn Ba La Mật, là vào được Bát Nhã Ba La Mật.

- Người tu Trì Giới, không não hại chúng sanh mà tâm không hối, lại nữa, ở nơi các tướng chẳng sanh tâm phân biệt, thương ghét, ở nơi hết thảy chúng sanh, hành các pháp bình đẳng là được Thi La Ba La Mật, vào được Bát Nhã Ba La Mật. Nếu còn ghét người làm tội, thương người không tội... là còn làm não hại chúng sanh.

Bồ Tát thường hành bố thí, trì giới với tâm bình đẳng. Như vậy mới được Đàn Ba La Mật, được Thi La Ba La Mật, mới vào được Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, Bồ Tát nếu không tu pháp Nhẫn, thì không thường nhẫn hết thảy chúng sanh. Bồ Tát thường hành pháp nhẫn nên chẳng thấy có người đến đánh mắng mình, cũng chẳng thấy có mình thọ sự đánh mắng của người khác, mà chỉ tự nghĩ rằng: “Do nghiệp nhân duyên đời trước, mà nay phải thọ quả báo vậy thôi”.

Bồ Tát quán như vậy rồi, chẳng còn thấy có mình nhẫn, chẳng thấy có người để nhẫn, chẳng thấy có pháp nhẫn, nên vào được chỗ rốt ráo tịch tịnh. Được pháp ấy rồi thì chẳng còn làm não loạn chúng sanh, vì lúc bấy giờ, pháp Nhẫn đã tương ưng với Trí Huệ Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, ở nơi hết thảy pháp, Bồ Tát thường tinh tấn nên phân biệt, biết được hết thảy các pháp, rõ biết Thật Tướng của hết thảy các pháp.

Như vậy là Tinh Tấn trở thành Trí Huệ. Bồ Tát lại biết rõ Thật Tướng của Tinh Tấn là ly “sanh tâm”, là như thật tướng bất động. Tinh Tấn như vậy dẫn sanh Bát Nhã Ba La Mật . Bồ Tát lại biết rõ Tinh Tấn cũng là như huyễn, như mộng, chẳng phải thật có, nên chẳng sanh tâm, chẳng nhiếp niệm, được tâm thường như như bất động, nên vào được Thật Tướng các pháp.

Bồ Tát chẳng dùng thấy, nghe, hay, biết, mà vẫn vào được Thật Tướng các pháp. Vì Sao? Vì biết rõ 6 căn, 6 trần đều là hư dối. Chỉ do nhân duyên quả báo mà có chỗ thấy, chỗ nghe, chỗ hay, chỗ biết vậy thôi. Tất cả đều do nghiệp lực cả. Đã là do nghiệp lực thì đều là hư vọng, chẳng thể tin được.

Lại nữa, Bồ Tát rõ biết chỉ có chư Phật mới có Thật Tướng Trí Huệ, muốn được Thật Tướng Trí Huệ phải y nơi thiền định, nhất tâm quán Thật Tướng các pháp. Như vậy mới được Thiền Ba La Mật, mới vào được nơi Bát Nhã Ba La Mật.

 

--o0o--

 

Có người không tu 5 Ba La Mật kia, mà chỉ nghe đọc kinh rồi tư duy mà thông đạt được Thật Tướng các pháp. Như vậy là dùng phương tiện trí mà được Thật Tướng Pháp vậy.

Cũng có người chỉ nghe thuyết về Khổ Đế, mà được cả 4 Thánh Đế. Cũng có người phải nghe đủ cả 4 Thánh Đế mới được Đạo.

 

--o0o--

 

Phật dạy các Tỳ Kheo : “Các ngươi đoạn được tham dục, là vào được Đạo A Na Hàm”.

Vì sao? Vì đoạn được tham dục thì sân, si... đều dứt cả.

Tu 6 pháp Ba La Mật cũng như vậy. Tất cả 6 pháp Ba La Mật đều phá các hạnh ác, như bố thí phá xan tham... Bởi vậy nên Bồ Tát tu 6 pháp Ba La Mật mà chẳng trú hết thảy các hạnh pháp, vào được Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì các hạnh đều hư dối, chẳng thật có. Các hạnh dù là thiện, dù là ác cũng chẳng nên chấp.

Hỏi: Đã nói “Trí Huệ Bát Nhã”, thì vì sao còn phân biệt 3 hạnh là Phạm Hạnh, Thiện Hạnh, Thánh Hạnh?

Đáp: Hành mà “vô sở hành” mới gọi là Thánh Hạnh. Vì sao? Vì Thánh Hạnh chẳng rời 3 Giải Thoát Môn. Còn Thiện Hạnh và Phạm Hạnh vẫn còn là chúng sanh hạnh, còn chúng sanh tướng. Các bậc Thánh Hiền dùng “vô trước tâm hành” mới chẳng có lỗi lầm. Vì sao? Vì hành mà vô sở hành mới thật sự là pháp vô sở đắc. Do vô sở đắc nên chẳng sanh hư vọng, mà thường thanh tịnh, vào được Thật Tướng Pháp. Câu “SẮC tức thị KHÔNG, KHÔNG tức thị SẮC” trong Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật nêu lên ý nghĩa vô sở đắc vậy.

KHÔNG ở đây có nghĩa là từ xưa đến nay vốn thường tự KHÔNG.

Bởi nhân duyên vậy, nên chẳng nên hỏi “phải hành bao nhiêu pháp Ba La Mật mới được Bát Nhã Ba La Mật”.

Phật, vì thương xót chúng sanh nên đã phân biệt nói có 3 hạnh, mà chưa vội nói về Đệ Nhất Nghĩa.

Hỏi: Nếu nói “Hành vô sở hành mới là pháp vô sở đắc”, thì người tu hành y vào đâu để cầu Đạo?

Đáp: Vô sở đắc có 2 nghĩa:

1)- Người thế gian mong cầu việc gì mà chẳng được như ý muốn, thì gọi là vô sở đắc.

2)- Người có Trí Huệ Bát Nhã, biết rõ Thật Tướng của các pháp là tướng vô sở đắc.

Vô sở đắc nêu trên đây, chẳng phải là không có phước đức trí huệ để tăng ích thiện căn. “Đắc”  mà chẳng chấp mới thật là “vô sở đắc”. Phàm phu khi hành các thiện công đức, thường chấp có chỗ đắc của mình. Như vậy là “Hữu sở đắc”.

Trái lại Phật và chư vị Bồ Tát thường vô sở đắc.

 

--o0o--

Đến đây chỉ mới lược nói về nghĩa của Bát Nhã Ba La Mật. Ở các chương sau sẽ giải rộng thêm nhiều.

 

Đúng! Luận chỉ mới lược nói về nghĩa Bát nhã Ba la mật và các pháp tu nhất là thiền. Luận không nói sự thành tựu Bát nhã Ba la mật là như thế nào? Phần thứ III, Tổng luận chúng tôi sẽ chi sâu vào chi tiết.

 

---o0o---

 

 

Đến đây chấm dứt phần mười sáu,

(Hội thứ XVI)

 

Thay lời lược giải trong phần “Bát Nhã Ba La Mật”, chúng tôi tóm tắt các “phương tiện biểu thị Bát Nhã”, vì Bát Nhã không thị hiện, không thể giảng thuyết (bất khả thuyết), không thể chỉ bày. Bát Nhã nói “nếu dùng phương tiện biểu thị được như vậy tức là trình bày giảng nói Bát Nhã”. Tất cả những gì cần trình bày chúng tôi đã trình bày trong phần “thay lời lược giải” rồi. Ở đây chúng tôi không giảng luận, vì những phát biểu của chúng tôi sẽ trở thành vụng về, thô thiển đối với trí năng của Bát nhã Ba la mật, nhất là đối với 5 quyển đầu từ quyển 593 đến hết quyển 597 của phần “Bát Nhã Ba La Mật”.

Vả lại, kinh đã giải thích quá rõ rồi, chỉ cần thọ trì là được. Tu Bồ Đề một đệ tử “giải không” vào bậc nhất thời bấy giờ, nhiều lần còn thú nhận: Không phải Tu Bồ đề có khả năng thuyết giảng Bát Nhã mà Bát Nhã tự biểu lộ diệu dụng của chính nó. Không những Tu Bồ Đề mà các vị khác như Xá Lợi Phất, Mãn Từ Tử hay Thiên Đế Thích... hoặc bất cứ nhân vật nào khác trong pháp hội phát biểu bất cứ vấn đề nào thuộc về tri kiến Bát Nhã, kinh thường bảo không phải là do khả năng của các vị ấy mà là do Phật lực hay là do trí năng diệu dụng phát sinh từ Bát Nhã.

Pháp hội thứ XVI cuối cùng của Đại Bát Nhã đưa chúng ta đến một chân trời mới, tràn đầy ánh sáng với những tư tưởng ảo diệu của Phật đạo. Cái gì mà chúng ta thâu thập bấy lâu giữa Đạo và Đời bị lật úp với những tư tưởng siêu việt ở đây. Phải nói chúng ta có phúc duyên trong nhiều đời kiếp mới gặp được thậm thâm pháp bảo, còn gọi là pháp ấn, pháp tạng ba đời của chư Phật. Phật bảo Thiện Dũng Mãnh Bồ Tát Chỉ có người trí tuệ thông minh và hòa nhã mới có thể hộ trì pháp môn này. Còn người không có trí tuệ thông minh và hòa nhã thì pháp môn này chẳng phải là cảnh giới của họ”. Ở đây, chúng ta không tự nhận là người có trí tuệ thông minh và hòa nhã mà ở đây chúng ta có thể nói: Có lẽ trong nhiều đời kiếp chúng ta đã tích tụ không biết bao thiện căn công đức, phụng sự không biết bao nhiêu thượng tri thức, cúng dường không biết bao đời Phật, mới có được phúc duyên này. Chắc mọi người còn nhớ trong phần “Kim Cương Năng Đoạn”, quyển 577, Hội thứ IX, ĐBN. Tu Bồ Đề bùi ngùi rơi lệ khi nghe Phật thuyết giáo lý Bát Nhã thậm thâm này. Kẻ tu hành thành đạt đạo nghiệp và hạnh nguyện như Tu Bồ Đề, nghe Bát nhã Ba la mật còn không kiềm chế nổi xúc động huống chi kẻ sơ cơ như chúng ta.

Đối với phần “Bát Nhã Ba La Mật” này, người nào bén nhạy hiểu liền hiểu. Nếu không, thì phải trì tụng nhiều lần mới có thể thẩm thấu được. Một lần nữa chúng tôi xin nhấn mạnh: Đây là thậm thâm pháp bảo mà Phật nói là pháp ấn trí ấn, pháp tạng trí tạng bí mật của tất cả chư Phật ba đời, phải cố gắng trì tụng và truyền bá chớ có bỏ qua!

 

Kết luận:

(Cho toàn bộ Đại Bát Nhã)

 

Đến đây chấm dứt toàn bộ Đại Bát Nhã, 600 quyển, 16 Hội được đúc kết lại như sau:

 

 

- Phần thứ I Tổng luận:

 

Với tất cả các pháp mầu Phật đạo, còn gọi là các pháp hi hữu, tư lương Bồ đề Bồ Tát, Bồ Tát đạo hay 81 khoa danh tướng Bát Nhã. Không có các pháp này thì không có Phật, không có Bồ Tát, không có Bát Nhã, không có Phật đạo, không có Đại thừa. Đó là điều chắc chắn!

 

 

- Phần thứ II Tổng luận:

 

Cũng trình bày xong tất cả giáo lý Bát nhã Ba la mật được diễn giảng trong 16 pháp hội mà chúng ta đã tụng qua. Chúng ta thừa biết rằng không có giáo lý Bát Nhã cũng không có Phật, không có Bồ Tát, cũng không có Giác ngộ, Chánh giác hay Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật sanh ra chư Phật, là mẹ sanh mẹ dưỡng của chư Phật, chư Bồ Tát cùng tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Đó là điều chắc chắn thứ hai.

Để kết thúc hai phần trên chúng tôi xin dẫn một “pháp thoại” hết sức giản dị nhưng rất thậm thâm giữa Phật và Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi trong phẩm “Hiển Thánh”, đầu quyển 572, hội thứ VI, ĐBN để Quý vị có dịp suy nghĩ:

“Mạn Thù Thất Lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chánh tín đưa đến pháp nào?

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Chính tín sinh ra sự khéo hiểu biết.

- Bạch Thế Tôn! Đa văn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Đa văn dẫn đến trí tuệ vi diệu.

- Bạch Thế Tôn! Bố thí đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Bố thí dẫn đến phước lớn.

- Bạch Thế Tôn! Tịnh giới đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tịnh giới dẫn đến cảnh giới lành.

- Bạch Thế Tôn! An nhẫn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- An nhẫn dẫn đến sự dung nạp tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Tinh tấn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tinh tấn dẫn đến sự thành tựu tất cả Phật pháp.

- Bạch Thế Tôn! Tịnh lự đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tịnh lự dẫn đến sự xa lìa tất cả tán loạn dao động.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Bát Nhã dẫn đến sự xa lìa tất cả phiền não.

- Bạch Thế Tôn! Nghe pháp đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Nghe pháp dẫn đến sự xa lìa tất cả lưới nghi.

- Bạch Thế Tôn! Hỏi đúng đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Hỏi đúng dẫn đến trí tuệ vi diệu quyết định đối với các pháp.

- Bạch Thế Tôn! Trú tịch tĩnh sinh ra pháp gì?

Phật dạy:

- Sinh ra thiền định và các thần thông.

- Bạch Thế Tôn! Tu đúng sinh ra pháp gì?

Phật dạy:

- Tu đúng dẫn đến chánh đạo.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô thường đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng vô thường dẫn đến sự không nắm bắt đối với cảnh.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng khổ đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng khổ dẫn đến sự vô sanh.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô ngã đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng vô ngã dẫn đến sự diệt trừ chấp ngã và ngã sở.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng Không đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng Không dẫn đến sự tịch tĩnh.

- Bạch Thế Tôn! Chánh niệm đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Chánh niệm dẫn đến Thánh kiến.

- Bạch Thế Tôn! Thân tâm xa lìa đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thân tâm xa lìa dẫn đến tất cả thần thông diệu tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Thánh đạo đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thánh đạo dẫn đến Thánh quả.

- Bạch Thế Tôn! Thắng giải đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thắng giải dẫn đến sự thành tựu tất cả giải thoát.

- Bạch Thế Tôn! Đức Phật ra đời đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Phật ra đời dẫn đến tất cả Bồ đề phần pháp.

Bấy giờ, Tối Thắng ở trước Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật ra đời?

Phật dạy:

- Tối Thắng! Như phát tâm quả vị Vô Thượng Bồ đề.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Như phát sanh đại bi.

- Bạch Thế Tôn! Sanh đại bi là thế nào?

Phật dạy:

- Chẳng bỏ tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Chẳng bỏ tất cả hữu tình là sao?

Phật dạy:

- Phải giống như chẳng bỏ Tam bảo.

- Bạch Thế Tôn! Ai có thể không bỏ Tam bảo?

Phật dạy:

- Tất cả những người không có phiền não”.

Pháp thoại này của Phật thật giản dị, mộc mạc, nhưng hiệu năng rất sâu rộng. Nếu thọ trì đúng đắn thì có thể tháo gỡ những trói buộc của những phiền não, những hệ lụy thế gian mà được giải thoát.

Vì vậy, trong phẩm “Thật Ngữ”, quyển 458, Hội thứ III, ĐBN Phật phó chúc kinh Bát nhã Ba la mật một cách thống thiết cho ông A Nan, người đệ tử thân thương như sau:

“Khánh Hỷ! Nếu ngươi cung kính, tôn trọng và tin tưởng ở Ta thì phải chí thành tha thiết cung kính, tôn trọng, tin tưởng Bát nhã Ba la mật cho đến một câu cũng đừng để quên mất.

Khánh Hỷ! Việc giao phó Bát Nhã thẳm sâu này cho ngươi, tuy có vô lượng lý do nhưng Ta chỉ nói tóm gọn. Như Ta đã là đại Sư của các ngươi thì phải biết Bát Nhã thẳm sâu cũng là đại sư của các ngươi. Nếu các ngươi cùng trời, người cung kính, tôn trọng Ta thì cũng phải cung kính, tôn trọng Bát Nhã thẳm sâu.

Vì vậy, này Khánh Hỷ! Ta dùng vô số phương tiện thiện xảo giao phó kinh điển Bát Nhã thẳm sâu cho ngươi, ngươi phải thọ trì đừng để quên mất. Nay ở trước trời, người, A tu la và vô số đại chúng, Ta đem Bát Nhã thẳm sâu này giao phó cho ngươi.

Khánh Hỷ! Nay Ta nói thật với ngươi: Các hữu tình có lòng tin trong sạch muốn không xả bỏ Phật, không xả bỏ Pháp, không xả bỏ Tăng, lại muốn không xả bỏ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã chứng đắc thì không nên xả bỏ Bát Nhã thẳm sâu. Đó chính là pháp mà chư Phật chúng ta dạy dỗ truyền trao cho các đệ tử”. Vì sao?

Vì trong các môn học, môn học này là hơn hết, là thù thắng, là tôn quí, là cao cả, là diệu, là vi diệu, là tối thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng, làm lợi ích an lạc tất cả hữu tình, làm nơi trông cậy cho tất cả hữu tình không nơi trông cậy, là nơi quay về nương tựa cho tất cả hữu tình không nơi quay về, là nơi hướng đến cho những người không chỗ hướng đến, là nhà cửa cho người không nhà cửa, là nơi cứu giúp cho những người không ai cứu giúp; chư Phật Thế Tôn khai mở, ca ngợi việc tu học Bát nhã Ba la mật”.

Rồi, trước khi chấm dứt pháp hội thứ XVI, Phật bảo 500 Bồ Tát tham dự trong pháp hội như sau:

Này thiện nam tử! Các ông nên học Bát nhã Ba la mật thâm sâu mà từ vô lượng, vô số trăm ngàn triệu ức kiếp chính Như Lai đã từng tu tập như vậy để làm đầu. Vì Pháp tạng vô thượng của chư Như Lai lưu xuất cũng như kiến lập từ Bát nhã Ba la mật thâm sâu. Cho nên các ông nên giữ gìn Pháp tạng ấy. Vậy khi Ta nhập Niết bàn khoảng sau năm trăm năm, Chánh pháp vô thượng ấy khi sắp hoại diệt thì vào thời gian chuyển tiếp, các ông hãy vì các hữu tình mà giảng nói, khai thị rộng rãi để họ nghe đạt lợi ích lớn”.

 

Phẩm thứ 61, “Mộng Trung Bất Chứng”, tập 4, quyển 76, Đại Trí Độ Luận, lặp lại lời Phật dạy như sau:

“… Sáu pháp Ba la mật là Thế Tôn, là đạo, là đại minh, là đại trí, là đại huệ; cũng là pháp cứu cách, là chỗ quy y, là cồn đảo, là cha, là mẹ của Bồ Tát …”

 Bao nhiêu dẫn chứng trên đủ xác tín cho những người thọ trì Kinh này. Vậy, phải tín thọ phụng hành thôi. 

 

 

- Phần thứ III Tổng luận:

 

Tiếp theo, sẽ trình bày Tánh Không Bát Nhã với những nguyên lý chỉ đạo của nó. Trong phần này chúng tôi cố gắng nêu lên các biểu thị cũng như pháp nghĩa hiển hiện của Bát Nhã. Qua những biểu thị và các pháp nghĩa đó chúng ta có thể hiểu Bát Nhã hay Giác ngộ như thế nào? Thành tựu hay thông đạt Bát Nhã hay không quyết định ở phần quan trọng này. Hai phần trước của Tổng luận viết theo lối thích luận, nghĩa là thích nghĩa và giảng luận theo chánh văn, nên rất gò bó. Phần thứ III Tổng luận viết theo tôn luận tức viết theo chủ đề. Chủ đề ở đây là Bát Nhã Tánh Không với những nguyên lý chỉ đạo của nó. Nên chúng tôi có chút tự do, khai phóng hơn.

Khám phá những biểu thị hay những pháp nghĩa hiển hiện của Tánh không Bát Nhã đã là khó hiến chi nói đến việc thông đạt giải luận cho người! Chúng tôi chỉ biết dùng lời Phật, lời Tổ hay lời của các Đạo sư... để giải thích lời Phật. Chúng tôi không muốn nói là giảng luận, mà ở đây, chúng tôi cố gắng nhặt lá Bồ đề kết đuốc soi đường giúp kẻ khác tìm lẽ đạo.

Đây cũng có thể nói là thử thách to lớn nhất đối với hành giả Bát Nhã. “Không Giác ngộ, không phải là Bát Nhã”. Đó là câu nói trên đầu môi chót lưỡi của những người đã từng hành trì Bát Nhã. Chúng tôi ước mong câu nói này trở thành sự thật cho những ai đã từng tích lũy thiện căn công đức trong nhiều đời kiếp, phụng sự không biết bao nhiêu thiện tri thức, cúng dường tôn trọng không biết bao nhiêu đời Phật, lại có phúc duyên đọc tụng thọ trì Kinh này!

Chúng tôi sẽ trình bày phần thứ III Tổng luận theo các chi tiết ghi trong phần mục lục đính kèm sau đây. Để có ý niệm tổng quát về phần thứ III này cũng như toàn bộ Đại Bát Nhã, xin Quý vị thường xuyên theo dõi mục lục để khỏi lạc mất dấu vết. Đó là bản đồ cần thiết trong việc tìm kiếm kho tàng Bát Nhã.

Chúng tôi không kỳ vọng xa xôi, chỉ mong rằng sau khi thọ trì xong phần này, Quý vị có thể thay đổi quan niệm sống, cách sống: Sống cuộc đời đáng sống, thánh thiện hơn. Còn thay đổi vị trí sống hay đổi đời là tùy thiện căn công đức tu luyện của chính mình đó.

 

 

Đến đây chấm dứt 16 pháp hội, 600 quyển, ĐBN.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567