Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tạp A-hàm quyển 26 (697 - 711)

08/05/201317:44(Xem: 15995)
Tạp A-hàm quyển 26 (697 - 711)

Kinh Tạp A Hàm

Tạp A-hàm quyển 26 (697 - 711)

Tỳ kheo Thích Đức Thắng

Nguồn: Việt dịch: Thích Đức Thắng
Hiệu đính & Chú thích: Tuệ Sỹ

KINH 697. CỬU LỰC[88]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có Chín lực. Những gì là chín? Đó là Tín lực, Tinh tấn lực, Tàm lực, Quý lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực, Số lực, Tu lực.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.



KINH 698. QUẢNG THUYẾT CỬU LỰC[89]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có Chín lực. Những gì là chín? Đó là Tín lực, Tinh tấn lực, Tàm lực, Quý lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực, Số lực, Tu lực.

“Tín lực là thế nào? Như trên đã nói, là khởi lòng tin chân chánh vững chắc sâu xa vào Như Lai.

“Tinh tấn lực là những gì? Như trên đã nói, là chỉ cho bốn Chánh đoạn.

“Tàm lực là thế nào? Như trên đã nói.

“Quý lực là thế nào? Như trên đã nói.

“Niệm lực là thế nào? Như trên đã nói, là sống quán niệm thân trên thân.

“Định lực là thế nào? Là chỉ cho bốn Thiền.

“Tuệ lực là thế nào? Là chỉ cho bốn Thánh đế.

“Số lực là thế nào? Thánh đệ tử, nếu ở nơi phòng vắng hay dưới bóng cây, phải học như vầy: ‘Người thân miệng làm hạnh ác, thì ngay trong hiện tại và đời sau sẽ nhận lãnh quả báo ác.’ Như đã nói đầy đủ ở trên.

“Tu lực là thế nào? Là tu bốn Niệm xứ. Như trước đã nói.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.



KINH 699. THẬP LỰC

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có Mười lực. Những gì là mười? Lực của vương giả là tự tại. Lực của đại thần là đoán sự. Lực của công xảo là máy móc. Lực của giặc cướp là đao kiếm. Lực của người nữ là kết hận. Lực của trẻ con là khóc. Lực của người ngu là sự khen chê. Lực của người hiệt tuệ là sự thẩm sát. Lực của người xuất gia là sự nhẫn nhục. Lực của người học rộng là sự tính toán.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 700. QUẢNG THUYẾT THẬP LỰC[90]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt.

“Lực của vua tự tại, là sự biểu hiện oai lực của vua bằng sự tự tại. Lực của đại thần xử kiện, là sức mạnh của đại thần biểu hiện bằng cách xử kiện. Lực của công xảo máy móc, là người chế tạo ra máy móc biểu hiện sức mạnh bằng công xảo của nó. Lực của giặc cướp đao kiếm, là bọn giặc cướp quyết biểu hiện sức mạnh của nó bằng đao kiếm. Lực của người nữ kết hận là sức mạnh của người nữ biểu hiện bằng kết hận. Lực của trẻ khóc, là sức mạnh của đứa trẻ biểu hiện bằng tiếng khóc. Lực của người ngu khen chê, là sự khen chê khi xúc sự theo pháp của của người ngu. Lực của trí tuệ thẩm sát, là sự thẩm sát thường thể hiện của người trí tuệ. Lực của người xuất gia nhẫn nhục, là sự nhẫn nhục mà người xuất gia luôn luôn thể hiện. Lực của người học rộng tính toán, là sự suy tư tính toán mà người học rộng luôn luôn thể hiện.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 701. NH Ư LAI LỰC (1)

[91]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có mười lực của Như Lai. Nếu thành tựu lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng, rống tiếng rống sư tử. Những gì là mười? Là Như Lai biết như thật về xứ, phi xứ, đó gọi là lực ban đầu,… cho đến hết lậu, đã nói như trên[92].”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 702. NHƯ LAI LỰC (2)



Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt.

“Nếu có người đến hỏi Ta về trí lực xứ, phi xứ của Như Lai, thì Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng Chánh Giác, vì người kia mà nói về trí lực, xứ, phi xứ của Như Lai.”

Như đã nói đầy đủ ở trên[93].

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 703. NH Ư LAI LỰC (3)

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có pháp nào mà được ý giải, thân tác chứng, tất cả đều do trí vô úy của Như Lai phát sanh ra. Nếu Tỳ-kheo nào đến làm đệ tử của Ta, mà không siểm nịnh, không giả ngụy, sanh tâm ngay thẳng, Ta sẽ vì họ nói pháp, giáo giới truyền dạy. Sáng sớm vì họ nói pháp, giáo giới, truyền dạy, thì đến lúc giữa trưa sẽ đạt đến chỗ thắng tiến. Nếu chiều tối vì họ nói pháp, giáo giới truyền dạy thì đến sáng sớm hôm sau sẽ đạt đến chỗ thắng tiến. Khi đã truyền dạy như vậy rồi, thì họ sẽ sanh tâm ngay thẳng; thật thì biết thật, không thật thì biết không thật, trên thì biết là trên, không trên thì biết là không trên. Những điều nên biết, nên thấy, nên được, nên hiểu biết, thì tất cả đều biết rõ. Trường hợp ấy có xảy ra. Đó gọi là năm lực của hữu học và mười lực của Như Lai.

“Những gì là năm lực của hữu học? Đó là Tín lực, Tinh tấn lực, Niệm lực, Định lực, Tuệ lực.

“Mười lực của Như Lai. Những gì là mười? Biết như thật xứø phi xứ[94]. Như đã nói mười lực đầy đủ ở trên. Nếu có người đến hỏi Ta về trí lực xứ, phi xứ của Như Lai, thì Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về trí lực xứ, phi xứ của Như Lai… cho đến trí lực lậu tận, cũng nói như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, trí lực xứ phi xứ đó Ta nói là định chứ chẳng phải không định,… cho đến trí lực lậu tận, ta nói là định, chẳng phải không định. Định là chánh đạo, Phi định là tà đạo.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 704. BẤT CHÁNH T Ư DUY

[95]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu không chánh tư duy[96], tham dục triền cái chưa khởi sẽ khởi; tham dục triền cái đã khởi sẽ tăng trưởng rộng lớn. Sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi triền cái chưa khởi thì sẽ khởi; sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi cái đã khởi sẽ tăng trưởng rộng lớn. Niệm giác chi chưa khởi sẽ không khởi; niệm giác chi đã khởi sẽ thoái thất. Trạch pháp, tinh tấn, khinh an[97], hỷ, định, xả giác chi chưa khởi sẽ không khởi; trạch pháp, tinh tấn, khinh an, hỷ, định, xả giác chi đã khởi sẽ thoái thất.

“Nếu Tỳ-kheo chánh tư duy, tham dục cái chưa khởi sẽ không khởi; tham dục cái đã khởi sẽ khiến diệt. Sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi cái chưa khởi sẽ không khởi; sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi cái đã khởi sẽ đoạn. Niệm giác chi chưa khởi sẽ khởi; đã khởi rồi thì sẽ tái sanh khiến thêm rộng; trạch pháp, tinh tấn, khinh an, hỷ, định, xả giác chi chưa khởi sẽ khởi; đã khởi sẽ tái sanh khiến thêm rộng.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 705. BẤT THOÁI[98]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có năm pháp bất thoái. Những gì là năm? Đó là tham dục, sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi cái. Đó gọi là pháp thoái. Nếu tu tập bảy Giác chi, tu tập nhiều, sẽ khiến tăng rộng. Đó gọi là pháp bất thoái. Những gì là bảy? Đó Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Khinh an[99] giác chi, Hỷ giác chi, Định giác chi, Xả giác chi. Đó gọi là pháp bất thoái.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 706. CÁI[100]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có năm pháp, có thể làm cho đen tối, có thể làm cho không mắt, có thể làm cho không trí, có thể làm cho sút giảm trí tuệ, chẳng phải minh, chẳng phải đẳng giác, chẳng chuyển hướng Niết-bàn. Những gì là năm? Đó là tham dục, sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi. Như vậy, năm pháp này có thể làm cho đen tối, có thể làm cho không mắt, có thể làm cho không trí, chẳng phải minh, chẳng phải chánh giác, chẳng chuyển hướng Niết-bàn.

“Nếu có bảy Giác chi, thì có thể làm ánh sáng lớn, có thể làm con mắt, tăng trưởng trí tuệ, là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết-bàn. Những gì là bảy? Đó là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Khinh an giác chi, Hỷ giác chi, Định giác chi, Xả giác chi, làm ánh sáng lớn, có thể làm con mắt, tăng trưởng trí tuệ, là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết-bàn.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 707. CHƯỚNG CÁI

[101]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có năm chướng, năm cái[102], phiền não nơi tâm[103], có thể làm sút giảm trí tuệ và làm phần chướng ngại, chẳng phải minh, chẳng phải chánh giác, chẳng chuyển hướng Niết-bàn. Những gì là năm? Đó là tham dục cái, sân cái, thùy miên cái, trạo hối cái, nghi cái. Năm cái này là che kín, là bao phủ, phiền não ở tâm, khiến cho trí tuệ bị suy giảm, là phần chướng ngại, chẳng phải minh, chẳng phải đẳng giác, chẳng chuyển hướng Niết-bàn.

“Nếu là bảy Giác chi, thì chẳng che kín, chẳng bao phủ, chẳng phiền não nơi tâm, tăng trưởng trí tuệ, là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết-bàn.

Những gì là bảy? Đó là Niệm giác chi… … cho đến Xả giác chi. Như bảy Giác chi này chẳng che kín, chẳng bao phủ, chẳng phiền não nơi tâm, tăng trưởng trí tuệ, là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết-bàn.”Như đã nói ở trên

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:

Tham dục, sân nhuế cái,
Thùy miên, trạo hối, nghi;
Như năm thứ cái này,
Tăng trưởng các phiền não.
Năm cái che thế gian,
Đắm sâu khó độ được;
Ngăn che đối chúng sanh,
Khiến không thấy chánh đạo.
Nếu đắc Thất giác chi,
Thì có thể chiếu sáng;
Chỉ lời chân thật này,
Đấng Chánh Giác đã nói.
Niệm giác chi là đầu,
Trạch pháp, chánh tư duy;
Tinh tấn, ỷ, hỷ giác,
[104]
Tam-muội, xả giác chi.
Như bảy Giác chi này,
Chánh đạo của Mâu-ni;
Tùy thuận Đấng Đại Tiên,
Thoát sợ hãi sanh tử.

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 708. THỌ[105]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có thiện gia nam tử, xả bỏ công việc đời, xuất gia học đạo; cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, chánh tín sống không nhà, xuất gia học đạo. Trong số xuất gia như vậy, có người ngu si, nương vào nơi xóm làng, thành ấp; sáng đắp y mang bát vào thôn khất thực, nhưng vì không khéo giữ thân, không giữ gìn cửa các căn, không nhiếp thu các niệm mình, nên khi nhìn thấy những thiếu nữ trang điểm xinh đẹp, sanh tâm đắm nhiễm, không chánh tư duy, tâm chạy theo nắm bắt sắc tướng, tưởng đến sắc dục, làm cho tâm dục hừng hẫy, thiêu đốt tâm, thiêu đốt thân, trả lại giới, trở về thế gian, tự thụt lùi chìm đắm. Trong khi đã yểm ly việc đời, xuất gia học đạo rồi mà còn nhiễm đắm trở lại, làm tăng thêm các tội nghiệp để tự phá hoại, che lấp, chìm đắm.

“Có năm loại cây lớn, hạt mầm của nó rất nhỏ, nhưng cây lớn lên thì to lớn, bóng cây có thể che tối các loại cây tạp nhỏ, khiến âm u héo úa, không sanh trưởng được. Những gì là năm? Đó là cây kiền-giá-da[106], cây Ca-tỳ-đa-la[107], cây A-thấp-ba-tha[108], cây Ưu-đàm-bát-la[109], cây Ni-câu-lưu-tha[110]. Như vậy, năm loại cây đại thọ[111] này, tuy mầm của nó rất nhỏ, nhưng từ từ phát triển lớn lên, bóng của nó che khuất các cây nhỏ, có thể khiến cho tất cả bị che khuất rũ xuống. Những gì là năm? Đó là tham dục cái, dần dần tăng trưởng; là sân nhuế[112], thùy miên, trạo hối, nghi cái, dần dần tăng trưởng. Vì tăng trưởng, nên khiến cho thiện tâm bị che khuất rũ xuống. Nếu tu tập bảy Giác chi, tu tập nhiều, sẽ chuyển thành bất thoái. Những gì là bảy? Là Niệm giác chi, Trạch pháp, Tinh tấn, Khinh an, Hỷ, Định, Xả giác chi. Tu tập bảy Giác chi như vậy, tu tập nhiều, sẽ chuyển thành bất thoái chuyển.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 709. THẤT GIÁC CHI[113]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

“Nếu Tỳ-kheo chuyên nhất tâm mình, lắng nghe Chánh pháp, có thể đoạn năm pháp; tu tập bảy pháp khiến cho càng lúc càng thăng tiến mãn túc. Đoạn Năm pháp gì? Là tham dục cái, sân nhuế cái, thùy miên cái, trạo hối cái và nghi cái, đó gọi là đoạn Năm pháp. Tu tập bảy pháp gì? Là Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Khinh an giác chi, Hỷ giác chi, Định giác chi và Xả giác chi. Nếu tu bảy pháp này thì càng lúc càng thăng tiến mãn túc.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 710. THÍNH PHÁP



Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thánh đệ tử có tín tâm thanh tịnh, chuyên tinh nghe pháp, có thể đoạn được năm pháp, tu tập bảy pháp, khiến cho được đầy đủ. Những gì là năm? Là tham dục cái, sân nhuế, thùy miên, trạo hối và nghi cái. Đây là những cái cần đoạn. Những gì là bảy pháp? Là Niệm giác chi, Trạch pháp, Tinh tấn, Khinh an, Hỷ, Định, Xả giác chi. Bảy pháp này được tu tập đầy đủ, với người có tịnh tín; đó gọi là tâm giải thoát; người có trí gọi là tuệ giải thoát. Nếu người nào bị tham dục nhiễm tâm thì sẽ không có đắc, sẽ không có lạc; người nào bị vô minh nhiễm tâm, thì trí tuệ không trong sạch. Cho nên, Tỳ-kheo lìa tham dục, thì tâm giải thoát; lìa vô minh, thì tuệ giải thoát. Nếu Tỳ-kheo đó đã lìa tham dục, thì tự thân tác chứng tâm giải thoát; lìa vô minh, tuệ giải thoát, đó gọi là Tỳ-kheo đoạn ái phược, kết, mạn, chứng đắc hiện quán[114], cứu cánh biên tế khổ.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 711. VÔ ÚY (1)[115]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá. Bấy giờ có vương tử Vô Úy[116] thường ngày đi bộ, thong thả dạo chơi, đi đến chỗ Đức Phật; sau khi diện kiến chào hỏi Thế Tôn xong, ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, có Sa-môn, Bà-la-môn thấy như vầy, nói như vầy: ‘Chúng sanh phiền não, không nhân, không duyên; chúng sanh thanh tịnh, không nhân, không duyên[117].’ Còn Thế Tôn thì thế nào?”

Phật bảo Vô Úy:

“Vì các Sa-môn, Bà-la-môn nói những điều mà họ không suy nghĩ, ngu si, không phân biệt, không khéo léo, chẳng biết suy nghĩ, chẳng biết suy lường nên nói: ‘Chúng sanh phiền não, không nhân, không duyên; chúng sanh thanh tịnh, không nhân, không duyên.’ như vậy. Vì sao? Vì chúng sanh phiền não có nhân, có duyên và chúng sanh thanh tịnh, có nhân, có duyên.

“Chúng sanh phiền não có nhân gì, duyên gì? Chúng sanh thanh tịnh có nhân gì, duyên gì? Vì tham dục chúng sanh tăng thượng nên đối với của cải, đồ vật của người khác khởi lên lòng tham nói rằng: ‘Vật này là sở hữu của tôi thì tốt.’ Nó yêu thích không muốn xa lìa. Đối với chúng sanh khác khởi lên lòng sân hận, hung ác, toan tính, muốn đánh, muốn trói, chèn ép, gia tăng những việc trái đạo, tạo ra các nạn, không từ bỏ sân nhuế. Thân ham ngủ nghỉ, tâm lại lười biếng, tâm luôn dao động; bên trong không tịch tĩnh, tâm thường nghi hoặc, nghi quá khứ, nghi vị lai, nghi hiện tại. Này Vô Úy, vì những nhân như vậy, những duyên như vậy, nên chúng sanh phiền não. Vì những nhân như vậy, những duyên như vậy nên chúng sanh thanh tịnh.”[118]

Vô Úy bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, một phần triền cái đã đủ là phiền não tâm, huống chi là tất cả!”

Vô Úy lại bạch Phật:

“Bạch Cù-đàm, chúng sanh thanh tịnh có nhân gì, có duyên gì?“

Phật bảo Vô Úy:

“Nếu Bà-la-môn nào có một niệm thù thắng, quyết định thành tựu; những việc đã làm từ lâu, những lời nói từ lâu, có thể tùy theo nhớ nghĩ, ngay lúc ấy tu tập Niệm giác chi. Khi Niệm giác chi đã tu tập rồi, thì niệm giác đầy đủ. Khi niệm giác đã đầy đủ rồi, thì có sự lựa chọn, phân biệt, tư duy, lúc bấy giờ tu tập Trạch pháp giác chi. Khi đã tu tập Trạch pháp giác chi rồi, thì trạch pháp giác đầy đủ. Khi đã lựa chọn, phân biệt, suy lường pháp rồi, thì sẽ nỗ lực tinh tấn; ở đây, tu tập Tinh tấn giác chi. Khi đã tu tập Tinh tấn giác chi rồi, thì tinh tấn giác đầy đủ. Khi đã nỗ lực tinh tấn rồi, thì hoan hỷ sẽ sanh, xa lìa các tưởng về thức ăn, tu hỷ giác chi. Khi đã tu Hỷ giác chi rồi, thì hỷ giác đầy đủ. Khi Hỷ giác chi đã đầy đủ rồi, thì thân và tâm khinh an[119]; lúc ấy tu Khinh an giác chi. Khi đã tu Khinh an giác chi rồi, thì khinh an giác sẽ đầy đủ. Khi thân đã khinh an rồi, thì sẽ được an lạc và khi đã an lạc rồi thì tâm sẽ định; khi ấy tu Định giác chi. Khi đã tu Định giác chi rồi, thì định giác sẽ đầy đủ, Khi định giác chi đã đầy đủ rồi, thì tham ái sẽ bị diệt và tâm xả sanh ra; khi ấy tu Xả giác chi. Khi đã tu Xả giác chi rồi, thì xả giác sẽ đầy đủ. Như vậy, này Vô Úy, vì nhân này, duyên này mà chúng sanh thanh tịnh.”

Vô Úy bạch Cù-đàm:

“Nếu một phần () đầy đủ, thì cũng khiến cho chúng sanh thanh tịnh, huống chi là tất cả.”trong bảy Giác chi này

Vô Úy bạch Phật:

“Bạch Cù-đàm, kinh này tên gì và phải phụng trì như thế nào?”

Phật bảo vương tử Vô Úy:

“Nên gọi đây là kinh Giác Chi.”

Vô Úy bạch Phật:

“Bạch Cù-đàm, đây là giác phần tối thắng. Bạch Cù-đàm, con là Vương tử, đã an lạc, mà vẫn thường cầu an lạc, nhưng ít khi ra vào. Nay lên trên núi, tứ chi tuy mỏi mệt, nhưng được nghe Cù-đàm nói kinh Giác Chi nên quên tất cả sự mệt nhọc.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, vương tử Vô Úy nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng lên, cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi lui.




CHÚ THÍCH

[1]. Ấn Thuận Hội Biên, Tụng 4. Đạo phẩm, “10. Tương ưng Căn,” gồm hai mươi bảy kinh, từ số 815-840, (gồm mười chín kinh, Đại Chánh: 642-660) tức Tương ưng thứ 4 trong “Tụng 4. Đạo phẩm”. , để lên Tương ưng thứ 2. Bản Đại Chánh, quyển 24, Tương ưng 1; . quyển 26, từ số 642. , quyển 23, Tương ưng Căn, từ kinh số 1230. , quyển 26, kinh số 654-724. Quốc DịchĐại ChánhQuốc DịchPhật QuangPāli, S.48.23 Ñāya. Cf. A.3.84 Sekka.

[2]. Vị tri đương tri căn, tri căn, vô tri căn 未知當知根, 知根, 無知根. Vô tri căn, Câu-xá: cụ tri căn. Xem Câu-xá 2, phẩm 2 “Phân biệt căn”. Pāli: tīṇ’indriyāni: anaññātāññassāmītindriyaṃ, aññindriyaṃ, aññātāvindriyaṃ, Căn chưa biết sẽ biết, căn đã biết, căn đã biết trọn vẹn.

[3]. Bất động ý giải thoát 不動意解脫, tức bất động tâm giải thoát. Pāli: akuppā cetvimutti.

[4]. Pāli, S.48.1 Siddhika.

[5]. Pāli, S.48.2-3 Sotapanna.

[6]. Đoạn tri 斷知, tức đoạn biến tri, đoạn trừ với nhận thức toàn diện; xem 21 (tr.11218). Pāli: Câu-xápahāṇa-pariññā.

[7]. Pāli, S.48.4-5 Arahaṃ.

[8]. Ly dục giải thoát; bản Pāli: anupādāvimutto, giải thoát không còn chấp thủ.

[9]. Đãi đắc kỷ lợi 逮得己利, đã đạt được mục đích của mình.

[10]. Pāli, S.48.8 Daṭṭhabbaṃ.

[11]. Pāli, S.48.9-10 Vibhaṅga.

[12]. Pāli, S.48.12 Saṅkhitta.

[13]. Xem cht.6, kinh 644.

[14]. Pāli, S.48.20 Āsavānaṃkhayo.

[15]. Pāli, S.48.6-7 Samaṇa-brahmaṇā.

[16]. Xem kinh 650 trên.

[17]. Pāli, S.48.12 Saṅkhitta, 18 Paṭipanna.

[18]. Pāli: paripūraṃ paripūrakārī ārādheti, padesaṃ padesakrī āradheti, người làm cho viên mãn thì hoàn thành sự viên mãn; người chỉ làm một phần thì hoàn tất một phần.

[19]. Pāli, S.48.15-16 Vitthāra.

[20]. Xem kinh 652 trên.

, [21]. Câu phần giải thoát 俱分解脫đối với vị A-la-hán chứng đắc Diệt tận định. Pāli: ubhatobhāgavimutta.

[22]. Thân chứng 身證; đối với A-na-hàm chứng đắc Diệt tận định. Pāli: kāyasakkhin.

[23]. Kiến đáo 見到. Pāli: diṭṭhipatta.

[24]. Tín giải thoát 信解脫. Pāli: saddhāvimutta.

[25]. Nhất chúng 一種. Pāli: ekabījin.

. [26]. Gia gia 家家Pāli: kolaṃkola.

[27]. Thất hữu 七有. Pāli: sattakkhattuparama.

[28]. Pháp hành 法行 tức Tùy pháp hành. Pāli: dhammānusārin.

[29]. Tín hành 信行 tức Tùy tín hành. Pāli: saddhānusārin.

[30]. Căn ba-la-la-mật, quả ba-la-mật 根波羅蜜, 果波羅蜜. Pāli: indriyavemattatā phalavemattatā hoti, do sự sai biệt của căn mà có sự sai biệt của quả. Pāli: vemattatà, chủng loại sai biệt; bản Hán đọc là pāramita: ba-la-mật.

[31]. Nhân ba-la-mật 人波羅蜜. Pāli: puggalavemattatā, sự sai biệt về nhân cách.

[32]. Xem cht.18 kinh 652 trên.

[33]. Pāli, S.48.52 Mallika.

[34]. Pāli, S.48.10 Vibhaṅga; 48.52. Mallika.

[35]. Pāli, S.48.10 Vibhaṅga.

[36]. Pāli: saddahati tathāgatassa bodhiṃ, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai.

[37]. Pāli, S.48 50 Saddha.

[38]. Pāli, S.48.50: tathāgate ekantagato abhippasanno, nhất hướng tín tâm minh tịnh đối với Như Lai.

[39]. Pāli, nt.: saddhassa... ariyasāvakassa evaṃ pāṭikaṃkhaṃ yaṃ āraddhaviriyo viharassati akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya... Thánh đệ tử có tín mong đợi như vầy: an trú với tinh tấn dũng mãnh hướng đến đoạn trừ các pháp bất thiện...

[40]. Ấn Thuận Hội Biên, tụng 4. Đạo phẩm, “11. Tương ưng lực”, gồm sáu mươi kinh, từ số 841-900; gồm mười ba kinh Đại Chánh: 661-703. Tương đương Pāli, Samyutta 50. Balasaṃyutta. Đại Chánh kinh 661, Hai sức mạnh. Pāli, A.2.2.1 Balāni.

[41]. Số lực 數力. Pāli: paṭisaṅkhānabala, sức mạnh của sự giản trạch, tức năng lực quán sát và phân tích của tuệ. Xem 1. tr.1b. Bản Hán hiểu theo ngữ nguyên Câu-xásaṅkhā, con số.

[42]. Tu lực 修力. Pāli, bhāvanābala.

[43]. Tứ đạo 四道, tức bốn hay hay thông hành; xem Tập Dị Môn 7, tr.395b. Cf. Pāli, D.iii. tr.228: catasso paṭipādā.

[44]. Tứ cú 四法句, tức bốn pháp tích; xem Tập Dị Môn 7, tr.395b. Cf. Pāli, D.ii. tr.229, cattāri dhammapadāni. Ấn Thuận tách kinh này thành ba kinh.

[45]. Tóm tắt có chín kinh.

[46]. Ba loại sức mạnh.

[47]. Tham chiếu Pāli, A.4.152 Balāni.

[48]. Tập cận 習近. Pāli: sevitabba.

[49]. Hành lợi 同利, hoặc nói là lợi hành 利行. Pāli: atthacāriyā.

[50]. Đồng lợi 同利, cũng nói là đồng sự 同事. Pāli: samānattatā, đồng ngã, nâng người lên ngang mình. Nhưng Hán dịch theo Skt. Samānārthatā.

[51]. Ý nghĩa, người muốn chứng đắc A-la-hán, thì giúp cho được chứng đắc.

[52]. Pāli, A.4.32 Saṅgaha.

[53]. Hán: cang 釭, ống gang trong bánh xe. Pāli: ete kho saṅgahā loke, rathhassāṇīva yāyato, những nhiếp sự này ở trong đời, như cái chốt trục xe khiến xe lăn.

[54]. Pāli: yasmā ca saṅgaha ete samavekkhanti paṇḍitā, tasmā mahattaṃ papponti pāsaṃsā ca bhavanti, bậc trí do quán sát các nhiếp sự này mà đạt được sự vĩ đại và có danh thơm.

[55]. Pāli, A.4 153 Paññā.

[56]. Bất thiện số 不善數, đồng nghĩa bất thiện tư duy.

[57]. Pāli, S.50.1 Gaṅgāpeyyāla; Cf. A.5.13 Saṅkhīta

[58]. Pāli, S.48.8 Daṭṭhabbaṃ; A.5.14 Vitthata, 5.15 Daṭṭhabba.

[59]. Cf. A.5.1 Saṅkhita.

[60]. Học lực 學力, năng lực của hữu học. Pāli: sekhabala. Xem cht. 63 dưới.

[61]. Năm Lực theo bản Pāli: saddhā, tín, hirī, tàm, ottapa, quý, vīriya, tinh tấn, paññā, tuệ.

[62]. Pāli, xem kinh 677.

[63]. Pāli: saddhābalena samannāgatā bhavissāma sekhabalena, chúng tôi sẽ thành tựu sức mạnh của tín, là sức mạnh của hữu học.

[64]. Pāli, A.5.2 Vitthāta.

[65]. Phiền não số 煩惱數.

[66]. Pāli, A.5.5 Sikhā.

, [67]. Đương 當bản Cao-ly chép là thẩm 審.

[68]. Pāli: saddhāpi nāma te nāhosi kusalesu dhammesu, người không có tín đối với các thiện pháp.

[69]. Pāli: paññāpi nāma te nāhosi kusalesu dhammesu, người không có tuệ nơi các thiện pháp.

[70]. Pāli, A.5.5 Sikkhā.

[71]. Pāli: sikkhaṃ paccakkhāya hinayāvattati, xả học xứ, hoàn tục.

. [72]. Hán: ha trách nhữ 呵責汝

o [73]. Cf. M.12 Mahāsīhanāda-sutta; A.10.21. Sīha. Hán: N125(46.4).

[74]. Xứ phi xứ như thật tri 處非處如實知, tức (thị) xứ phi xứ trí lực. Pāli: ṭhānañca ṭthānato aṭhānañ ca aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti, biết như thật trường hợp nào xảy ra (lý), trường hợp nào không xảy ra (phi lý).

[75]. Tiên Phật tối thắng xứ trí 先佛最勝處智. Pāli: tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, Như Lai tự xác nhận địa vị Ngưu vương.

[76]. Nghiệp pháp thọ nhân sự báo 業法受因事報. Pāli: kammasamādānānaṃ ṭhānaso hetuso vipākaṃ, nhân và duyên báo ứng của sự thọ nghiệp.

[77]. Pāli: (...)-samāpattīnaṃ saṅkilesaṃ vodānaṃ vuṭṭhānaṃ, (biết) sự tạp nhiễm, thanh tịnh và xuất ly của các (...) chánh thọ (hay đẳng trì).

[78]. Nhất thiết chí đạo xứ 一切至處道, tức biến thú hành trí lực. Pāli: sabbatthagāminiṃ paṭipadaṃ, (biết) con đường dẫn đến tất cả mục đích.

[79]. A.6.64 Sīhanāda.

[80]. Xem cht.75 kinh 684.

[81]. (...) tâm lạc pháp thọ 心樂法受, không rõ nghĩa. Hoặc , nghiệp pháp thọ 業報受 (Pāli: kammasamādāna) nhưng chép nhầm là lạc pháp thọ 樂法受. Xem cht.76 kinh 684.

[82]. Pāli, A.6.64 Sīhanāda.

[83]. Tự dĩ lạc thọ 自以樂受, không rõ nghĩa. Ấn Thuận đọc là dĩ nghiệp pháp thọ 以業法受 thay vì tâm nghiệp pháp thọ 心業法受. Xem cht.81 kinh 686 trên.

[84]. A.7.3-4 Bala; 5. Dhana.

o [85]. Tham chiếu, Hán: N125(38.11); Pāli: A.8.27 Bala.

o [86]. Cf. N125(38.11); A.8.27 Bala.

[87]. Pāli, A.8.28 Bala.

[88]. Cf. A.8.28 Bala.

[89]. Xem kinh 697.

[90]. Xem kinh 692, 693.

[91]. Cf. A.10.21 Sīha. Xem kinh 684.

[92]. Như kinh 684.

[93]. Như kinh 687.

[94]. Trong nguyên bản: như thật tri phi xứ 如實知非處 có sự chép nhầm.

[95]. Ấn Thuận Hội Biên, tụng 4, “12. Tương ưng Giác chi,” gồm sáu mươi kinh, từ số 901-967 (Đại Chánh, 704-747). Quốc Dịch, “4. Tương ưng Bồ-đề phần”. Phần lớn tương đương Pāli, S.46 Bojjhaṅga-saṃyutta. –Đại Chánh kinh 704, Pāli, S.46.24Ayonisa.

[96]. Bất chánh tư duy 不正思惟. Pāli: ayoniso manasikaroto, không tác ý như lý.

[97]. Nguyên Hán: ỷ 猗.

[98]. Pāli, S.46.37 Vuḍḍhi.

[99]. Xem cht.97 trên.

[100]. Pāli, S.46.40 Nīvaraṇa.

[101]. Pāli, S.46.38 Āvaraṇa-nīvaraṇa.

[102]. Ngũ chướng ngũ cái 五障五蓋. Pāli: pañca āvaraṇā nīvaraṇnā, năm chướng cái, chướng ngại và ngăn che.

[103]. Phiền não ư tâm 煩惱於心. Pāli: cetaso upakkilesā, là những tùy phiền não của tâm: là những thứ làm ô uế tâm.

[104]. Tức khinh an.

[105]. Gốc cây. Pāli, S.46.39 Rukkha.

[106]. Kiền-giá-da 揵遮耶. Pāli: kacchaka.

[107]. Ca-tỳ-đa-la 迦捭多羅. Pāli: kapithaka.

[108]. A-thấp-ba-tha 阿濕波他. Pāli: assattha.

[109]. Ưu-đàm-bát-la 優曇缽羅. Pāli: udumbara.

[110]. Ni-câu-lưu-tha 尼拘留他. Pāli: nigrodha.

[111]. Nguyên Hán: tâm thọ 心樹, có thể nhầm. Pāli: mahārukkha, cây đại thọ.

[112]. Trong để bản thiếu sân nhuế. Thêm vào cho đủ.

[113]. Pāli, S.46.23 Ṭhāna.

; [114]. Đẳng vô gián 無間等bản Minh: vô minh. Xem cht.8 kinh 259.

[115]. Pāli, S.46.56 Abhaya.

[116]. Vô Úy vương tử 無畏王子. Pāli: Abhaya rājakumāra.

[117]. Bản Pāli: thuyết của Puraṇa kassapa. Trong Trường bộ, đây là thuyết Luân hồi tịnh hóa của Makkhali Gosāla; xem D.ii.Sāmaññaphala-sutta.

[118]. Ấn Thuận, câu này dư, cắt bỏ.

[119]. Nguyên Hán: ỷ tức 猗息.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567