Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm thứ sáu: Niết bàn

03/05/201320:23(Xem: 10179)
Phẩm thứ sáu: Niết bàn

Kinh Nhập Lăng Già (10 quyển - Quyển 1-6)

Phẩm thứ sáu: Niết bàn

Cư sĩ Tuệ Khai Việt dịch

Nguồn: Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo
Thích Đỗng Minh

Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ tát bạch đức Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói về Niết Bàn thì Niết Bàn là do những pháp gì gọi là Niết Bàn mà các ngoại đạo mỗi mỗi đều hư vọng phân biệt Niết Bàn?

Đức Phật bảo Bồ tát Đại Tuệ rằng:

- Hay thay! Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói! Các ngoại đạo.v.v... hư vọng phân biệt tướng của Niết Bàn. Như sự phân biệt của ngoại đạo đó thì không phải là Niết Bàn.

Ngài Đại Tuệ bạch đức Phật rằng:

- Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Con xin vâng thọ giáo!

Đức Phật dạy rằng:

- Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo chán các cảnh giới, thấy ấm, giới, nhập diệt, các pháp vô thường, tâm, tâm số pháp chẳng sinh, hiện tiền do chẳng nghĩ nhớ cảnh giới vui quá khứ, vị lai và hiện tại, chỗ các ấm hết như lửa đèn tắt, đủ thứ gió dừng (?), chẳng thủ lấy các tướng hư vọng phân biệt... gọi là Niết Bàn.

Này Đại Tuệ! Mà ngoại đạo kia thấy những pháp như vậy sinh ra tâm Niết Bàn, chẳng phải thấy diệt nên gọi là Niết Bàn. Này Đại Tuệ! Hoặc có ngoại đạo, từ phương này đến phương kia thì gọi là Niết Bàn.

Lại có ngoại đạo phân biệt các cảnh như gió, vậy nên phân biệt gọi là Niết Bàn. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo nói lời như vầy: “Chẳng thấy cảnh giới năng kiến, sở kiến chẳng diệt thì gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Lại có, ngoại đạo nói lời như vầy: “Phân biệt thấy đủ thứ những dị tướng có thể sinh ra các khổ”. Do tự tâm thấy, hư vọng phân biệt tất cả các tướng, kinh sợ các tướng, thấy được vô tướng mà thâm tâm ưa thích sinh ra Niết Bàn tưởng.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Lại có, ngoại đạo thấy tự tướng đồng tướng của tất cả pháp chẳng sinh ra diệt tưởng phân biệt các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại là có thì gọi là Niết Bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo thấy, ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, thọ giả... là các pháp chẳng diệt rồi hư vọng phân biệt thì gọi là Niết Bàn.

Lại nữa, có ngoại đạo khác, không trí tuệ nên phân biệt tự tính sở kiến, nhân mạng chuyển biến, phân biệt chuyển thì gọi là Niết Bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói lời như vầy: “Tội hết nên phước đức cũng hết. Đó gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói rằng: “Phiền não hết, nương vào trí nên gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói lời như vầy: “Thấy trời Tự Tại tạo tác ra chúng sinh mà hư vọng phân biệt gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói rằng: “Các chúng sinh chung nhân đắp đổi mà sinh ra, chẳng phải do nhân khác tạo tác”. Như những ngoại đạo kia chấp trước vào nhân chẳng tri, chẳng giác, ngu si, ám độn hư vọng phân biệt gọi là Niết Bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói chứng Đạo đế, hư vọng phân biệt gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói lời như vầy: “Có tác và sở tác mà chung hòa hợp thấy một - khác, đều - chẳng đều, hư vọng phân biệt gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói rằng: “Tất cả pháp tự nhiên mà sinh ra, giống như nhà huyễn thuật làm ra đủ thứ hình tượng, thấy đủ thứ những vật quí báu, gai nhọn.v.v... tự nhiên mà sinh ra, hư vọng phân biệt gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói rằng: “Những muôn vật đều chính là thời gian tạo tác, giác tri chỉ là thời gian mà hư vọng phân biệt gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói rằng: “Thấy có vật, thấy không vật, thấy vật có không. Như vậy phân biệt gọi là Niết Bàn”.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Còn bậc trí giả kiến lập pháp khác nói rằng: “Thấy như thật thì chỉ là tự tâm mà chẳng thủ trước các cảnh giới bên ngoài, lìa khỏi bốn thứ pháp, thấy tất cả pháp đúng như pháp đó trụ, chẳng thấy tướng tự tâm phân biệt, chẳng rơi vào nhị biên, chẳng thấy cảnh giới năng thủ khả thủ, thấy thế gian kiến lập tất cả chẳng thật mà mê như thật pháp. Do chẳng thủ lấy các pháp nên gọi đó là thật, do pháp tự nội thân chứng Thánh trí mà như thật biết hai thứ vô ngã, lìa khỏi hai thứ những cấu bẩn phiền não, thanh tịnh hai chướng, có khả năng biết như thật tướng thượng thượng địa, vào Như Lai địa, được Như Huyễn tam muội, xa lìa tâm ý, ý thức, phân biệt những kiến như vậy.v.v... thì gọi là Niết Bàn.

Này Đại Tuệ! Lại có các ngoại đạo.v.v... tà kiến giác quán mà nói các luận chẳng cùng tương ứng với chánh pháp như thật mà những bậc trí giả xa lìa, quở trách. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo như vậy.v.v... đều rơi vào nhị biên hư vọng phân biệt, không thật là Niết Bàn.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo hư vọng phân biệt Niết Bàn như vậy, không có người trụ thế gian, không có người vào Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì tất cả ngoại đạo y vào tự tâm luận mà hư vọng phân biệt, không có trí như thật. Như những ngoại đạo kia tự tâm phân biệt, không có pháp như vậy thì đi lại, lay động không có Niết Bàn của ngoại đạo như vậy.

Này Đại Tuệ! Ông và tất cả các Bồ tát.v.v... nên phải xa lìa Niết Bàn hư vọng của tất cả ngoại đạo.

Bấy giờ, đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ rằng:

Ngoại đạo thấy Niết Bàn
Mỗi mỗi khởi phân biệt
Đều từ tướng tâm sinh
Không phương tiện giải thoát

Chẳng lìa phược, sở phược (trói và cái bị trói) Lìa xa phương tiện xong

Tự sinh giải thoát tưởng
Mà giải thoát thật không (có).
Ngoại đạo kiến lập pháp
Đều khác mọi trí thông
Chúng đều không giải thoát
Vọng phân biệt ngu đần.
Tất cả si ngoại đạo
Tác, sở tác dối nhìn
Vậy nên không giải thoát
Do nói pháp có, không.
Phàm phu ưa hí luận
Chẳng nghe tuệ thật chân
Gốc ba cõi ngôn ngữ
Trí như thật diệt khổ.
Ví như dáng trong gương
Tuy thấy mà chẳng có
Huân tập thấy (trong) lòng gương
Phàm phu nói có cặp (hai)
Chẳng biết thấy do lòng
Vậy nên, hai phân biệt
Biết như thật chỉ lòng
Phân biệt thì chẳng sinh.
Tâm gọi là đủ thứ
Năng, khả kiến lìa xong
Thấy tướng không thể thấy
Phàm phu vọng biệt phân.
Ba cõi chỉ vọng tưởng
Ngoại cảnh giới thật không (có)
Vọng tưởng thấy đủ thứ
Phàm phu chẳng biết thông.
Kinh, kinh nói phân biệt
Đủ thứ khác tự danh
Lìa khỏi ngôn ngữ pháp
Chẳng thể được nói lên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567