Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác

12/10/202111:31(Xem: 9997)
09. Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác


108_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Huyen Giac


Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài giảng về Tổ Vĩnh Gia Huyền Giác.

Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, quê ở huyện Vĩnh Gia, tỉnh Chiết Giang. Ngài xuất gia từ nhỏ và ngộ tánh khi đọc kinh Duy Ma Cật. Người phát hiện ngà ngộ tánh là người bạn đồng tu là thiền sư Huyền Sách. Ngài Huyền sách nói với ngài Huyền Giác rằng “Từ đức Phật Oai Âm Vương về trước, không có thầy chứng minh thì được. Từ đức Phật Oai Âm Vương về sau, không thầy tự ngộ đều là ngoại đạo", sau đó TS Huyền Sách giới thiệu ngài Huyền Giác đến gặp Lục Tổ Năng để được ấn chứng


Ngài đến Tào Khê, cầm tích trượng đi vòng quanh Lục Tổ ba lần rồi nhìn Tổ, nên bị Lục Tổ quở "Phàm làm Sa môn phải đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Đại đức từ đâu đến mà lớn lối ngạo mạn vậy ?"

Con cảm ơn Sư Phụ đã giải thích chi tiết cụm từ này của Tổ: "ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh" (Tam Thiên Oai, Bát Vạn Tế Hạnh) là: 1 vị Tỳ kheo giữ 250 giới x 4 oai nghi (đi, đứng, ngồi, nằm) = 1000 x 3 thời (quá khứ , hiện tại, vị lai) = 3000 oai nghi. Lấy 3000 oai nghi này x 7 nghiệp (thân 3, khẩu 4) = 21,000 x 4 nhiếp pháp = 80,000 vạn tế hạnh. 

Tiếp đó là màn đối đáp giữa ngài Vĩnh Gia Huyền Giác và Lục Tổ Huệ Năng mà Sư phụ diễn tả như một trận đấu kiếm giữa 2 địch thủ, rất hay và hào hứng:

Ngài Huyền Giác: Sanh tử sự đại, Vô thường tấn tốc ( Sư phụ giải thích: ý nói vô thường sống chết đến nhanh, phải lo tu, không có thời giờ để chào hỏi)


Lục Tổ: Hà bất thể thủ vô sanh, Liễu vô tốc hồ (Sư phụ giải thích: Tổ vặn lại "tại sao không nhận cái lý “Vô sanh” và thấu rõ cái nghĩa “không chóng” đó, nhận được cái đó thì không cần phải lo lắng vô thường sanh tử nữa)

Ngài Huyền Giác: Thể tức vô sanh, liễu bổn vô tốc. ( Thể tức vô sinh, thấu vốn không chóng ).

Lục Tổ: Như thị! Như thị! ( Đúng thế! Đúng thế! )

Ngài Huyền Giác:  sup lạy tạ ơn Tổ sư và xin ra về.

Lục Tổ: Phản thái tốc hồ? ( Về chóng thế sao? )

Ngài Huyền Giác:  Bổn tự phi động, khởi hữu tốc đa? (Sư phụ giải thích: ngài HG đở nhát kiêm này tài tình: Vốn mình không động, làm gì có mau chóng)
Lục Tổ: Thuỳ tri phi động? (Sư phụ giải thích: Lục Tổ tấn công quyết liệt: "Ai biết chẳng phải động" )

Ngài Huyền Giác: Nhân giả tự sinh tâm phân biệt. (Ấy là tại vị Tổ sự sinh tâm phân biệt đó thôi)

Lục Tổ: Nhữ thậm đắc vô sinh chi ý (Sư phụ giải thích: Lục Tổ ngợi khen nhưng gài bẫy ngài HG "Con thực đã thấu được cái ý vô sinh")


Kính mời xem tiếp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5622)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
04/04/2013(Xem: 5471)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5388)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4926)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5466)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5049)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5071)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8385)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5185)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6142)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567