Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Tứ Tổ Tổ Đạo Tín

12/10/202110:53(Xem: 9366)
04. Tứ Tổ Tổ Đạo Tín
31_TT Thich Nguyen Tang_To Dao Tin


Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Đạo Tín. Ngài là vị Tổ thứ Tư kể từ Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, và là đệ tử của tam Tổ Tăng Xán.

Tổ xuất gia từ tuổi thơ. Năm 14 tuổi, sa di gặp Tổ Tăng Xán cầu xin dạy pháp môn giải thoát. Tổ Tăng Xán hỏi ai trói buộc. Sa di tìm không có ai trói buộc. Tổ bảo không ai trói buộc thì cần gì giải thoát. Ngài Sa Di thoát đại ngộ.

Sư phụ giải thích, nghiệp vốn không có sẳn, chỉ khi mình tạo tội thì là tạo thành nghiệp để trói buộc mình. Như người nghiện thuốc phiện, tự mình thử rồi bị trói buộc thành nghiện, thành nghiệp  làm chủ mình. Trong kinh Pháp Cú, ác nghiệp này theo mình khắp cùng không sao trốn thoát được dầu bay trên trời, chui dưới biển, vào hang núi...Ác nghiệp được hoá giải nếu tạo thiện nghiệp.

Ngài Đạo Tín ở hầu Tổ được 9 năm, được Tổ truyền pháp ấn chứng là Tổ thứ Tư khi Tam Tổ Tăng Xán viên tịch.

Ngài đi giáo hoá, có nhiều đệ tử nổi tiếng như ngài Pháp Dung, ngài Hoằng Nhẫn .
Ngài Pháp Dung là sơ tổ của phái thiền Ngưu Đầu rất cực thịnh vào đời Đường, và chấm dứt vào đời Tống.

Ngài Pháp Dung năm 19 tuổi đã làu thông tư tưởng Kinh Đại Bát Nhã.
Tổ Đạo Tín đi dạo núi thấy có mây trắng phủ trên cao, Tổ tìm tới và thấy có một người ngồi thiền trên tảng đá. Tổ hỏi ngài Pháp Dung ngồi làm gì. Ngài thưa là Quán Tâm.
Tổ hỏi :”Quán là người nào, Tâm là vật gì ?”
Ngài Pháp Dung im lặng không trả lời được, liền xuống đảnh lễ và xin giải thích dùm con.
Tổ giải thích, Tâm là mình, Quán cũng là mình, vậy thì ai Quán ai?
Ngài Pháp Dung đảnh lễ xin xuất gia và hỏi Tổ ở đâu.
Tổ Đạo Tín nói bần tăng không có chỗ ở nhất định.
Ngài Pháp Dung hỏi có biết Tổ Đạo Tín không?
Tổ hỏi vì sao hỏi?, ngài Pháp Dung thưa là nghe tiếng. Tổ nói là Ta.
Ngài Pháp Dung hỏi Tổ tới đây để làm gì? Tổ nói tới đây để thăm và hỏi có chỗ nghỉ không.
Ngài Pháp Dung chỉ một am nhỏ, có cọp beo chung quanh am.
Tổ đưa hai tay lên có vẻ như sợ. Ngài Pháp Dung nói Ngài vẫn còn cái đó sao. Tổ hỏi cái đó là cái gì?  và Tổ bước tới chỗ phiến đá viết lên chữ Phật chỗ ngài Pháp Dung ngồi.
Ngài Pháp Dung sợ hải, sợ tội không dám ngồi trên chữ Phật. Tổ nói vẫn còn cái đó sao. Ngài Pháp Dung không đáp được, bèn sụp lạy cầu xin Tổ chỉ dạy. Tổ khai thị: "Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tất vuông. Diệu đức như hà-sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới, định, huệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm con". 

Kính mời xem tiếp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/04/2013(Xem: 5611)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
04/04/2013(Xem: 5470)
Từ ngữ A-hàm (Àgama) nói theo nghĩa rộng là chỉ cho những giáo thuyết được truyền thừa, hoặc các Thánh điển do sưu tập các giáo thuyết ấy tạo thành. Do vậy, thông thường nói Kinh A-hàm tức chỉ cho 4 bộ hoặc 5 bộ Thánh điển của Phật giáo Nguyên thủy.
03/04/2013(Xem: 5385)
Kinh Duy Ma Cật xuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch, nay còn chỉ 3 bản: 1. Phật thuyết Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển. 2. Duy Ma Cật Sở Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển. 3. Thuyết Vô Cấu Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
03/04/2013(Xem: 4919)
Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáo truyền thống, còn gọi là Kinh tạng Nguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã ...
03/04/2013(Xem: 5451)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
03/04/2013(Xem: 5037)
Sau khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ, rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, ...
03/04/2013(Xem: 5061)
Sau Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng 118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm, tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
03/04/2013(Xem: 8377)
Sau Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra) có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường, danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết pháp.
03/04/2013(Xem: 5177)
Sau lần kết tập pháp tạng thứ tư đúng 2015 năm thì đến lần kết tập pháp tạng thứ 5. Theo sự ghi chép của Pàli giáo sử chương 6 và sử Miến Điện; thì vào năm 1871, quốc vương Miến Điện là Mẫn Đông (Mindon - tại vị từ 1853 - 1878) đứng ra triệu tập 2400 vị cao tăng, cử hành kết tập Tam tạng giáo điển lần thứ 5, tại thủ đô Man-Đức -Lặc (Mandalay), chính quốc vương làm người hộ pháp.
03/04/2013(Xem: 6135)
Đại Tạng Kinh chữ Hán là một bộ tổng vựng các kinh sách Phật Giáo, nhưng bao gồm rất nhiều lĩnh vực như : triết học, lịch sử, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, lịch toán, y dược, thiên văn... Đây là một kết tinh của văn hóa Trung Quốc và văn hóa nước ngoài có ảnh hưởng sâu xa đối với sự phát triển của văn hóa thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567