Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02.Thiền Sư Thích Đạo Thiền (Vị thiền sư thứ 2 (vào thế kỷ thứ 6) của Việt Nam )

22/04/201319:04(Xem: 10379)
02.Thiền Sư Thích Đạo Thiền (Vị thiền sư thứ 2 (vào thế kỷ thứ 6) của Việt Nam )



244_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Thich Dao Thien



Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Thích Đạo Thiền, là vị thiền sư thứ hai của Việt Nam, vào thế kỷ thứ sáu. Ngài là người Giao Chỉ, thuộc nước Việt Nam cổ xưa.


Thời pháp thoại hôm nay là thứ 244 trong loạt bài giảng của Sư Phụ trong thời gian cách ly đại dịch Covid-19 từ 2020 đến nay.

Sư phụ có nhắc là Sư phụ nương theo bộ sách “Thiền Sư Việt Nam” của Hòa Thượng Thích Thanh Từ (soạn và ấn hành năm 1972) làm giáo trình cho loạt bài giảng online này.

 

Sư phụ giải thích:  Giao Chỉ là tên gọi địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Giao Chỉ là tên gọi của một bộ trong số 15 bộ của nước Văn Lang thời xưa như Việt Thường , Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Văn Lang, Quế Lâm ….

Thích Đạo Thiền là người Giao Chỉ, ngài xuất gia từ thuở thiếu thời, giới luật trong sạch và có đời sống đức hạnh khắc kỷ. Chùa núi Tiên Châu xưa kia bị nhiều cọp quấy nhiễu, Ngài đến đó lưu trú một thời gian thì nạn ấy không còn nữa.

Tiếp đó Ngài rời Giao Chỉ sang nước Tề (Trung Hoa) để du phương hành khước, tu học ở các tùng lâm, cuối cùng ngài đến Kim Lăng (Nam Kinh ngày nay) để hoằng pháp.

Vào năm Vĩnh Minh thứ nhất (483), Sư đến kinh đô ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn. Sư vâng lệnh nhà vua dạy tăng chúng bộ Luật Thập Tụng.


Thiền Sư Đạo Thiền thích tu tập phép chỉ và quán, luôn ở ẩn trong núi xa, nếu thấy nghe cảnh ồn náo, ngài liền tìm  cách lui bước. Sư thích ăn những thức ăn hoang dã, mặc đồ rách rưới, miệng không bao giờ nói chuyện phù phiếm; nếu có ai cho thức ngon đồ đẹp đều đem cấp phát cho người nghèo ốm. 


Sư Phụ giải thích: Thiền Sư Đạo Thiền tu theo pháp Chỉ-Quán là Như Lai Thiền.


Tu Chỉ, còn gọi tu định, là dừng lại mọi vọng niệm, cột tâm lại một chỗ, nhìn vào chóp mũi. Tu Chỉ có 3:

1/Hệ duyên thủ cảnh chỉ: cột tâm vào một chỗ như: chóp mũi để tâm không tán loạn.

2/ Chế tâm chỉ: tâm khởi lên theo dõi mà chế phục (biết vọng không theo)

3/Thể chơn chỉ: thể của tâm là bất sanh bất diệt, nên tâm không chấp thủ, chấp pháp,  thì vọng niệm không phát sanh.

 

Tu Quán, còn gọi tu tuệ, là quán chiếu tất cả pháp không có thật tướng, từ đó không sanh tâm bám víu, chấp đắm. Tu Quán có 2:

1/Đối trị Quán: quán để đối trị vọng tâm như Quán thân bất tịnh là để đối trị tham dục. Quán giới phân biệt là để đối trị cái tâm ngu si chấp ngã.

2/ Chánh quán: quán các pháp không có tướng chân thật, tất cả đều do nhân duyên sanh. Tâm không đắm nhiễm, phiền não, khổ đau….


Sư Phụ giải thích Thiền Sư Đạo Thiền sống khắc kỷ kiệm phước, thiểu dục tri tục và học hạnh xả tài, bố thí, cúng dường của Tôn giả Sīvali - bậc Thánh Thanh Văn đại Đệ tử có tài lộc bậc nhất từ thời Đức Thích Ca.


Trong kiếp quá khứ xa xưa, Ngài Sivali tạo phước cúng dường Đức Phật Tỳ Bà Thi 1 bình sửa tươi và 1 hủ mật ong, đó là tài sản ngài có được của 1 người nông dân nghèo khổ; rồi một kiếp khác ngài là 1 Tỳ kheo thà để bụng đói để bố thí 1 bửa ăn cho 1 con chó đói; rồi 1 kiếp khác ngài là vua nước Varasani cùng với Hoàng Thái Hậu bao vây 1 doanh trại của quân giặc trong 7 ngày. Nên trong kiếp này, kiếp cuối, ngài bị quả báo phải ở trong bào thai của mẹ (Công chúa Suppavasa)  đến 7 năm 7 tháng và 7 ngày mới ra đời. Bảy ngày trước khi chào đời Mẹ ngài đau đớn vì sanh ngài quá khó khăn, Cha ngài đến Kỳ Viên Tinh Xá cầu thỉnh Đức Thế Tôn ban phước để giúp cho Mẹ tròn con vuông. Khi Đức Thế Tôn khởi niệm tâm từ, công chúa Suppavasa liền sinh em bé tức khắc, vừa ra đời là ngài lớn nhanh như thổi, vì đã ở trong thai mẹ suốt 7 năm trời. Gia đình liền đến thỉnh Phật và chúng tăng về cung đình cúng dường trai tăng. Trong buổi cúng trai tăng, Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi thăm chú bé Sivali “7 năm ở trong bào thai cảm thấy thế nào ? chú bé Sivali thưa trình rằng “con quá sợ hãi, con bây giờ chỉ muốn xuất gia để giải thoát”. Sau đó, ngài được xuất gia tu học, năm 20 tuổi thọ giới tỳ kheo, từ đó mỗi khi đi khất thực, ngài luôn  được cúng dường, phước báu là do ngài tạo phước từ thời Đức Phật Tỳ Bà Thi. Nơi nào có ngài Sivali, nơi đó có đầy đủ tài vật, không những cho bản thân ngài và những tỳ kheo chung quanh cũng được hưởng phước. Một ngày kia đức Thế Tôn đã tán thán ngài rằng “ Trong các đệ tử của ta, Đệ nhất tài lộc là Sīvali. Trong những hoàn cảnh đệ nhất ngặt nghèo, ai cũng buông xuôi niềm tin, hễ có đại đức Sīvali đến là mọi việc suôn sẻ, đặc biệt là về vật chất là không có gì phải lo. Dù sa mạc, hoang đảo, rừng sâu núi cao, ở đâu có Sīvali thì ở đó có tài lộc”. Ngài Sivali không tin là bản thân có nhiều phước báu như thế, ngài thử đưa 500  tỳ kheo lên núi cao, rừng thiêng, nước độc, không một bóng người, xem thử ai đến cúng dường. Lập tức sau đó có chư thiên xuống cúng dường ngài và chúng tăng.


Kính mời xem tiếp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 33594)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 16417)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7151)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7291)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10861)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7057)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5212)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 5924)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5447)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 5993)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567