Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

28. Thiền sư Quảng Trí, Đời thứ 7, Thiền Phái Vô Ngôn Thông

30/08/202112:06(Xem: 14512)
28. Thiền sư Quảng Trí, Đời thứ 7, Thiền Phái Vô Ngôn Thông


271_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Quang Tri


Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền sư Quảng Trí, ngài thuộc đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông.

Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 271 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

Sư Phụ nhắc, đời thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông có 3 vị thiền sư, thiền sư Bảo Tánh, thiền sư Minh Tâm và thiền sư Quảng Trí.

Thiền sư Quảng Trí là đệ tử của thiền sư Thiện Lão, thiền sư Thiền Lão đồng thời với thiền sư Định Hương.


Tiểu sử của thiền sư Quảng Trí rất ngắn, không có nói nhiều về đời của Ngài. Sư Phụ sẽ nói thêm những đời của thiền sư khác có liên quan với ngài.

Sư họ Nham, người ở kinh đô, là anh của Hoàng phi Chương Phụng, vốn người không ưa cái đẹp xa xỉ bên ngoài, chỉ thích giữ khí tiết thanh cao của mình.

Năm đầu niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059, thời vua Lý Thánh Tông), Sư từ bỏ thế tục đến tham vấn với thiền sư Thiền Lão ở Tiên Du. Ngay một câu nói của Thầy, Sư nhận được yếu chỉ. Từ đó, năm tháng miệt mài, Sư dốc hết chí vào thiền học, chưa bao lâu tiếng tăm vang xa khắp nơi.



Sư Phụ giải thích:
Sử liệu không ghi rõ Sư Quảng Trí nghe một câu gì từ Thiền Sư Thiền Lão mà ngộ đạo, nhưng ngài có một điểm chung với vị tổ khai sáng ra dòng thiền này là ngài Vô Ngôn Thông,  khi đến đạo tràng của ngài Bách Trượng Hoài Hải và ngài Vô Ngôn Thông nghe một câu liền ngộ tánh, đó là câu:

“Tâm địa nhược không, Huệ Nhật tự chiếu” (Mảnh đất tâm không có “cỏ dại” phiền não thì mặt trời trí tuệ sẽ liền chiếu đến).

 

Về sau, Sư trụ trì chùa Quán Đỉnh ở núi Không Lộ, thường mang 1 y nạp, ăn uống rất đạm bạc. Sư cùng tăng Minh Huệ kết bạn đồng tu. Người đời cho là “Hàn Sơn, Thập Đắc tái thế”.


 

Sư Phụ kể lại giai thoại về hai Ngài Hàn Sơn, Thập Đắc là ai?

Hàn là lạnh, Sơn là núi, Ngài từ trong núi Hàn Sơn đi ra, là Bồ Tát hiện thân, nên người đời gọi ngài là Hàn Sơn.

Thập Đắc là do Hoà Thượng Phong Can lượm được ở ngoài chợ đem giao cho đệ tử ở chùa nuôi dạy. Thập Đắc lo việc hương đăng trong trai đường. Thập Đắc hay dở chứng leo lên toà ngồi ăn cơm với Phật và gọi những vị khác là “tiểu Thanh Văn” nên bị cho xuống nhà bếp nấu cơm, lặt rau, rửa chén.

Thập Đắc xuống nhà trù thấy họ làm việc cẩu thả, đổ cơm xuống đất, Thập Đắc lượm cơm thừa, đồ dư mà ăn, ngài cũng để thức ăn này vào ống tre gởi tặng cho bạn ngài là Hàn Sơn ăn. Hai vị chơi thân với nhau.

Hàn Sơn mặt mũi hốc hác, khắc khổ, xấu xí, ăn cơm thừa, ăn xong đi kinh hành, thường hay nói “tam giới luân hồi “.

Có một lần quan thái thú tên là Lư Khâu Dận đi nhậm chức ở Đan Khâu, giữa đường bị ngả bệnh, Hoà Thượng Phong Can ứng hiện, lấy một ly nước, bún vài ngón tay thì hết bệnh liền.

Thái thú hỏi:

- thời này có ai tu đắc đạo?

Hoà Thượng trả lời:

-nếu tìm người đắc đạo thì ở chùa Quốc Thanh có hai vị, ngài Hàn Sơn là hoá thân Bồ Tát Đại Trí Văn Thù, ngài Thập Đắc là hoá thân Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. Nói xong Hoà Thượng đi ngay.

Quan thái thú vui mừng chạy đến chùa Quốc Thanh gặp thầy tri khách hỏi xin đến đảnh lễ hai Ngài Hàn Sơn, Thập Đắc. Thầy tri khách ngạc nhiên vì sao quan thái thú đi đảnh lễ  hai vị cuồng tăng này làm gì nhưng quan thái thú nài nĩ cuối cùng được dẫn xuống nhà bếp chùa để gặp hai ngài.

Quan Thái Thú thấy hai ngài  Hàn Sơn và Thập Đắc đang rửa chén, liền quỳ xuống đất lạy 2 ngài, các quan theo hầu ngạc nhiên.

Quan Thái Thú thưa:

- Bạch hai ngài Bồ Tát, con là quan thái thú đảnh lễ hai ngài và xin hai ngài khai thị.

Ngài Hàn Sơn và ngài Thập Đắc bảo Hoà Thượng Phong Can nhiều chuyện, và cho biết Hoà Thượng Phong Can là hoá thân Đức A Di Đà Phật, sao không đảnh lễ mà đảnh lễ chúng tôi. Sau đó hai ngài liền cỏng nhau chạy vào núi Hàn Sơn mà ẩn mất.


Kính mời xem tiếp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 18175)
Hơn 2542 năm tồn tại và phát triển cùng nhân loại, triết lý Phật giáo được hình dung như một cội cây đang phát triển với đầy đủ cội gốc, thân, cành lá và hoa trái. Như thế khi truyền bá giảng dạy Kinh điển Phật giáo phải thể hiện tính chất thống nhất, dung thông các hệ tư tưởng Phật giáo và hướng đến giác ngộ giải thoát cho mọi người.
08/04/2013(Xem: 18018)
Ở đây nên ghi thêm về 2 điều. Một là kinh này liên hệ Pháp hoa. Hai là kinh này liên hệ Khởi tín. Kinh này không công nhận nhị thừa có niết bàn. Ngay tư tưởng hệ tứ đế, nhị thừa cũng chưa thấu hiểu tận cùng. Nhưng nhị thừa có khả năng xoay về đại thừa, tin mà nhập được đại thừa
08/04/2013(Xem: 18105)
Bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng: Ăn Chay là một Pháp tu An Cư Kiết Đông kỳ 15 (2014) Bồ Tát Chuẩn Đề Bố Thí & Cúng Dường (giảng chung với ĐĐ Viên Tịnh) Cam Lồ (chương trình phát thanh) Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đại Hội Khoáng Đại kỳ 5 (trả lời phỏng vấn đài VOA) Đạo Tràng Liên Trì Bồ Tát Chuẩn Đề Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Chú Lăng Nghiêm (phỏng vấn HT Huyền Tôn) Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đạo Tràng Liên Trì Giới thiệu Lương Hoàng Sám Hành Trạng Bồ Tát Quán Thế Âm Hôn Nhân Dị Giáo (giảng chung với HT Như Điển) Khai mạc khóa tu Kinh Phước Đức Kinh Địa Tạng Kinh Na Tiên Tỳ Kheo (giảng chung với HT Bảo Lạc) Kinh Chân Hạnh Phúc Luân Hồi & Tái Sinh Lục Độ Lục hòa Lục Độ Ba La Mật (giảng chung với TT Phổ Hương) Mắt Thương Nhìn Đời Mười hạnh tu của Bồ Tát Phổ Hiền Mừng Xuân Ất Dậu 2005 Nhân quả và nghiệp
08/04/2013(Xem: 37395)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 18579)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 8594)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 8210)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 11823)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7843)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5901)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]