Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Thiền sư Không Lộ, Đời thứ 9, Thiền Phái Vô Ngôn Thông

04/09/202112:19(Xem: 10748)
41. Thiền sư Không Lộ, Đời thứ 9, Thiền Phái Vô Ngôn Thông
284_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Khong Lo



Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay cuối tuần thứ bảy, 11/9/2021, chúng con được học về Thiền Sư Không Lộ, đời thứ 9, Thiền Phái Vô Ngôn Thông, Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 284 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

Sư họ Dương, không rõ tên thật là gì, quê ở làng Hải Thanh. Ông cha chuyên nghề chài lưới, đến đời Sư mới bỏ nghề ấy đi tu đạo Phật. Khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Sư theo Thiền sư Lôi Hà Trạch xuất gia, cùng làm bạn với Thiền sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh.

 

Sư phụ giải thích:

Sư Phụ nhắc lại sự khác biệt của tiểu sử của thiền sư Minh Không và thiền sư Không Lộ:

 -Thiền sư Minh Không họ Nguyễn ở Nam Định, thiền sư Không Lộ họ Dương ở Thái Bình.

- Thiền sư Không Lộ xuất thân trong gia đình làm nghề chài lưới, nhưng đến đời ngài, ngài quyết định từ bỏ vì do túc duyên nhiều đời nên bản thân ngài giúp khuyến hóa gia đình chấm dứt nghiệp sát sanh này.

 

Sư Phụ kể trường hợp của thiền sư Tư Nghiệp cũng giống hoàn cảnh của thiền sư Không Lộ. Ngài Tư nghiệp làm nghề đồ tể, khi ngài vừa cầm dao chuẩn bị thọc huyết con heo, ngài thoạt nhiên dừng lại và đọc 4 câu:

" Tạc nhật Dạ-xoa tâm
 Kim triêu Bồ-tát diện
 Bồ-tát dữ Dạ-xoa
 Bất cách nhất điều tuyến”.

 

Nghĩa là:


“Hôm qua tâm Dạ-xoa,
Ngày nay mặt Bồ Tát
Bồ-tát cùng Dạ-xoa
Không cách một sợi chỉ."

 

Ngài Tư Nghiệp vứt đao và chạy lên Chùa Văn Thù để xin xuất gia. Thiền Sư Đạo ở Chùa Văn Thù hỏi đệ tử “Trong lúc giết heo, ông thấy cái gì mà đòi đi xuất gia?” Ngài Tư Nghiệp im lặng không đáp nhưng đưa tay lên với tư thế như đang mài dao. Thiền Sư Đạo đã nhận làm đệ tử.

Sư Phụ giải thích, trường hợp Ngài Tu Nghiệp là “phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật” có nghĩa là “buông dao xuống đất, ngay tại đó liền thành Phật”, thành Phật là vì ngài đã “hồi đầu thị ngạn”, quay đầu lại là bờ giác. Hôm qua ngài mài dao để sát sanh, hôm nay “lấy thể mài dao” là giết giặc phiền não.

Câu chuyện “hồi đầu thị ngạn” của Ngài Tu Nghiệp đã cho một tiếng vang lớn trong chốn thiền môn.

Sư Phụ cũng nhắc lại giai thoại “khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn” của thiền sư Thạch Củng Huệ Tạng (là đệ tử đắc pháp của thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất). Lúc còn tại gia, ngài Thạch Cũng làm nghề săn bắn, không thích gặp các nhà tu. Một hôm, đi săn đuổi bầy nai chạy qua trước am của Mã Tổ, gặp Mã Tổ đứng trước am. Sư hỏi ngài Mã Tổ  
“ Hòa thượng thấy bầy nai chạy qua đây chăng? “

Ngài Mã Tổ hỏi lại:- Chú là người gì?
- Con là thợ săn.
- Chú bắn giỏi không?
- Con bắn giỏi.
- Một mũi tên chú bắn được mấy con?
- Một mũi bắn được một con.
- Chú bắn không giỏi.
- Hòa thượng bắn giỏi không?
- Ta bắn giỏi.
- Một mũi tên Hòa thượng bắn được mấy con?
- Một mũi tên ta bắn được một bầy.
- Sanh mạng chúng nó, đâu thể nào bắn một bầy.
- Chú biết như thế, tại sao không tự bắn?
- Nếu dạy con bắn như thế, không có chỗ hạ thủ.
- Chú này phiền não vô minh nhiều kiếp, ngày nay chóng dứt.

Ngay câu nói này của Mã Tổ, ngài Thạch Củng ném cung bẻ tên, tự lấy dao cạo tóc, theo Mã Tổ xuất gia.

 


Kính mời xem tiếp:





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 34016)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 16623)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7344)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7374)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10939)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7107)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5272)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 5986)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5497)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6060)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567