Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

48. Thiền Sư Ni Diệu Nhân, Đời thứ 17, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

30/09/202113:47(Xem: 11242)
48. Thiền Sư Ni Diệu Nhân, Đời thứ 17, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

 291_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Ni Dieu Nhan






Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Ba, 28/09/2021, chúng con được học về Thiền Sư Ni Diệu Nhân, đời thứ 17, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 291 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

 

Bà tên Ngọc Kiều là trưởng nữ của Phụng Càn Vương. Thuở nhỏ bà thiên tư thuần hậu, ngôn hạnh đoan trang, được vua Lý Thánh Tông nuôi trong cung. Lớn lên Vua gả cho người họ Lê, làm quan Châu mục ở Chân Đăng. Chồng mất, bà tự thệ thủ tiết không chịu tái giá.

 

Sư Phụ giải thích:

- Theo tài liệu của Hoà Thượng Thanh Từ quá ngắn gọn, Sư Phụ sưu tầm trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và những tài liệu về lịch sử Việt Nam được ghi rõ:

*Ngài Phụng Càng Vương là Lý Nhật Trung là em ruột của thái tử Lý Nhật Tôn, là con vua Lý Thái Tông. 

*Thái tử Lý Nhật Tôn lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Thánh Tông, không có con nên xin con gái của em trai làm nuôi, đó là công chúa Ngọc Kiều.

*Vua Lý Thánh Tông gả công chúa Ngọc Kiều cho quan châu mục, tương đương như tỉnh trưởng, ở vùng xa lo việc dẹp các bộ lạc chống lại triều đình, đem lại hoà bình cho đất nước.

 

Một hôm bà than rằng:  Ta xem tất cả pháp trong thế gian như giấc mộng, huyễn ảo, huống là các thứ phù vinh mà đáng trông cậy sao?

Thế rồi bà đem tất cả tư trang ra bố thí, cạo tóc xuất gia, đến Thiền sư Chân Không ở làng Phù Đổng xin thọ giới Bồ-tát, và học hỏi tâm yếu. Thiền sư Chân Không cho bà pháp danh Diệu Nhân và dạy bà về trụ trì Ni viện Hương Hải ở làng Phù Đổng, Tiên Du. ( Ni Viện Hương Hải cũng gọi là Chùa Linh Ứng, hiện nay nằm bên cạnh chùa Kiến Sơ, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh)

 

Sư Phụ giải thích:

- Phật giáo thời nhà Lý phát triển rất mạnh, có nhiều kinh sách. Lời than của bà, các pháp trong thế gian như giấc mộng, huyễn ảo, theo tinh thần trong kinh Kim Cang và bà đắc pháp rất nhanh trong giai đoạn ngắn được Sư Phụ Chân Không ấn chứng. 

Sư Phụ nhắc lại lời thơ Xuân của thiền sư Chân Không  diển tả thể tánh tịch tỉnh của chân tâm Phật tánh:

Xuân đến Xuân đi ngỡ Xuân hết,

Hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân.

 

 

Hằng ngày, bà gìn giữ giới luật và hành thiền được chánh định, là bậc mẫu mực trong Ni chúng thời ấy. Có người đến cầu học, bà thường dạy họ tu tập Đại thừa rằng:

- Chỉ tánh mình trở về nguồn, đốn tiệm liền tùy đó mà vào.

 

Sư Phụ giải thích:

- Theo Tổ Sư Thiền đều khuyên “quán chiếu tâm” để chân tánh thanh tịnh của chính mình trở về nguồn, có thể đạt nhanh tức thì là đốn, hoặc tiệm là tu tập từng  bước một tuỳ theo căn cơ của mỗi người.

 

 

Thường ngày, bà chỉ thích ngồi lặng lẽ, có bệnh kỵ thanh sắc, ngôn ngữ. Có học giả hỏi:

- Tất cả chúng sanh bệnh nên ta bệnh, tại sao lại kỵ sắc thanh?

Sư Bà nương theo kinh Kim Cang Bát Nhã trả lời:

Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người ấy hành đạo tà,
Không thể thấy Như Lai.

Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.)

 

Sư Phụ giải thích:

- Câu hỏi của vị học giả là mượn lời của Bồ tát Duy Ma Cật “Tất cả chúng sanh bệnh nên ta bệnh” để hỏi Sư Bà. Sư Bà không tự ý trả lời mà nương theo 4 câu kệ trong Kinh Kim Cang Bát Nhã để trả lời.

- Nhân dịp này Sư Phụ giới thiệu đôi nét về bản Kinh Duy Ma Cật, cũng là một bản kinh cốt tủy của Thiền Tông. Kinh Duy Ma Cật nói về vị Cư Sĩ Duy Ma Cật vốn là một vị bồ tát hóa thân từ cõi Tịnh Độ Đông Phương Diệu Hỷ (Đức Phật A Xúc Bệ, Bất Động, Bất Phẫn Nộ) xuống cõi Ta Bà để hộ trì công cuộc giáo hóa độ sanh của Đức Phật Thích Ca. Một ngày kia ông thị hiện tướng bệnh để làm phương tiện giáo hóa chúng sanh. Tin ông lâm bệnh, mọi người trong thành Quảng Nghiêm (Tỳ Xá Ly) đến thăm viếng ông, ông nhân đó mà nói cho họ biết về những khuyết điểm của thân tứ đại duyên hợp và nhắc đến sự kỳ đặc pháp thân Phật, khuyên nhắc mọi người tinh tấn tu tập để đạt được Phật thân. Đức Thế Tôn sai bảo 10 vị đại đệ tử của Ngài là Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiều Liên, Ngài Đại Ca Diếp, Ngài Tu Bồ Đề, Ngài Phú Lâu Na, Ngài Ca Chiên Diên, Ngài A Na Luật, Ngài Ưu Ba Ly, Ngài Là Hầu La, Ngài A Nan đến nhà thăm bệnh Cư Sĩ Duy Ma Cật nhưng tất cả đều từ chối, không ai dám nhận lời, vì e sợ vị Cư Sĩ này dùng giáo lý thượng thừa mà bắt bẻ chư vị Thanh Văn đệ tử. Tất nhiên, đây cũng là phương tiện giáo hóa của Kinh để từng bước giới thiệu tư tưởng đại thừa viên đốn cho chúng đệ tử. Cuối cùng Phật sai Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi lên đường để thăm bệnh….Con cảm ơn Sư Phụ đã kể câu chuyện đối đáp của Cư Sĩ Duy Ma Cật và Thập Đại Đệ tử cũng như Bồ tát Văn Thù Sư Lợi. Bản Kinh này quá cao siêu. Con mong trong tương lai Sư phụ giảng bộ Kinh này cho Đạo Tràng Pháp Thoại Online này.


Kính mời xem tiếp




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 33971)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 16613)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7323)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7365)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10930)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7106)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5268)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 5986)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5493)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6054)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567