Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Ni Diệu Nhân (1041 - 1113), đời 17 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹

28/09/202109:41(Xem: 17010)
Thiền Sư Ni Diệu Nhân (1041 - 1113), đời 17 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹

 



Thiền Sư Ni Diệu Nhân (1041 - 1113)

Đời 17 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi
🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹

Thuyết giảng: Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng

Trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm, Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh
Lồng nhạc và online: Cư Sĩ Quảng Phước, Cư Sĩ Quảng Tịnh


 


Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Ba, 28/09/2021, chúng con được học về Thiền Sư Ni Diệu Nhân, đời thứ 17, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 291 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

 

Bà tên Ngọc Kiều là trưởng nữ của Phụng Càn Vương. Thuở nhỏ bà thiên tư thuần hậu, ngôn hạnh đoan trang, được vua Lý Thánh Tông nuôi trong cung. Lớn lên Vua gả cho người họ Lê, làm quan Châu mục ở Chân Đăng. Chồng mất, bà tự thệ thủ tiết không chịu tái giá.

 

Sư Phụ giải thích:

- Theo tài liệu của Hoà Thượng Thanh Từ quá ngắn gọn, Sư Phụ sưu tầm trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và những tài liệu về lịch sử Việt Nam được ghi rõ:

*Ngài Phụng Càng Vương là Lý Nhật Trung là em ruột của thái tử Lý Nhật Tôn, là con vua Lý Thái Tông. 

*Thái tử Lý Nhật Tôn lên ngôi vua lấy hiệu là Lý Thánh Tông, không có con nên xin con gái của em trai làm nuôi, đó là công chúa Ngọc Kiều.

*Vua Lý Thánh Tông gả công chúa Ngọc Kiều cho quan châu mục, tương đương như tỉnh trưởng, ở vùng xa lo việc dẹp các bộ lạc chống lại triều đình, đem lại hoà bình cho đất nước.

 

Một hôm bà than rằng:  Ta xem tất cả pháp trong thế gian như giấc mộng, huyễn ảo, huống là các thứ phù vinh mà đáng trông cậy sao?

Thế rồi bà đem tất cả tư trang ra bố thí, cạo tóc xuất gia, đến Thiền sư Chân Không ở làng Phù Đổng xin thọ giới Bồ-tát, và học hỏi tâm yếu. Thiền sư Chân Không cho bà pháp danh Diệu Nhân và dạy bà về trụ trì Ni viện Hương Hải ở làng Phù Đổng, Tiên Du. ( Ni Viện Hương Hải cũng gọi là Chùa Linh Ứng, hiện nay nằm bên cạnh chùa Kiến Sơ, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh)

 

Sư Phụ giải thích:

- Phật giáo thời nhà Lý phát triển rất mạnh, có nhiều kinh sách. Lời than của bà, các pháp trong thế gian như giấc mộng, huyễn ảo, theo tinh thần trong kinh Kim Cang và bà đắc pháp rất nhanh trong giai đoạn ngắn được Sư Phụ Chân Không ấn chứng. 

Sư Phụ nhắc lại lời thơ Xuân của thiền sư Chân Không  diển tả thể tánh tịch tỉnh của chân tâm Phật tánh:

Xuân đến Xuân đi ngỡ Xuân hết,

Hoa nở hoa tàn chỉ là Xuân.

 

 

Hằng ngày, bà gìn giữ giới luật và hành thiền được chánh định, là bậc mẫu mực trong Ni chúng thời ấy. Có người đến cầu học, bà thường dạy họ tu tập Đại thừa rằng:

- Chỉ tánh mình trở về nguồn, đốn tiệm liền tùy đó mà vào.

 

Sư Phụ giải thích:

- Theo Tổ Sư Thiền đều khuyên “quán chiếu tâm” để chân tánh thanh tịnh của chính mình trở về nguồn, có thể đạt nhanh tức thì là đốn, hoặc tiệm là tu tập từng  bước một tuỳ theo căn cơ của mỗi người.

 

 

Thường ngày, bà chỉ thích ngồi lặng lẽ, có bệnh kỵ thanh sắc, ngôn ngữ. Có học giả hỏi:

- Tất cả chúng sanh bệnh nên ta bệnh, tại sao lại kỵ sắc thanh?

Sư Bà nương theo kinh Kim Cang Bát Nhã trả lời:

Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người ấy hành đạo tà,
Không thể thấy Như Lai.

Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.)

 

Sư Phụ giải thích:

- Câu hỏi của vị học giả là mượn lời của Bồ tát Duy Ma Cật “Tất cả chúng sanh bệnh nên ta bệnh” để hỏi Sư Bà. Sư Bà không tự ý trả lời mà nương theo 4 câu kệ trong Kinh Kim Cang Bát Nhã để trả lời.

- Nhân dịp này Sư Phụ giới thiệu đôi nét về bản Kinh Duy Ma Cật, cũng là một bản kinh cốt tủy của Thiền Tông. Kinh Duy Ma Cật nói về vị Cư Sĩ Duy Ma Cật vốn là một vị bồ tát hóa thân từ cõi Tịnh Độ Đông Phương Diệu Hỷ (Đức Phật A Xúc Bệ, Bất Động, Bất Phẫn Nộ) xuống cõi Ta Bà để hộ trì công cuộc giáo hóa độ sanh của Đức Phật Thích Ca. Một ngày kia ông thị hiện tướng bệnh để làm phương tiện giáo hóa chúng sanh. Tin ông lâm bệnh, mọi người trong thành Quảng Nghiêm (Tỳ Xá Ly) đến thăm viếng ông, ông nhân đó mà nói cho họ biết về những khuyết điểm của thân tứ đại duyên hợp và nhắc đến sự kỳ đặc pháp thân Phật, khuyên nhắc mọi người tinh tấn tu tập để đạt được Phật thân. Đức Thế Tôn sai bảo 10 vị đại đệ tử của Ngài là Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiều Liên, Ngài Đại Ca Diếp, Ngài Tu Bồ Đề, Ngài Phú Lâu Na, Ngài Ca Chiên Diên, Ngài A Na Luật, Ngài Ưu Ba Ly, Ngài Là Hầu La, Ngài A Nan đến nhà thăm bệnh Cư Sĩ Duy Ma Cật nhưng tất cả đều từ chối, không ai dám nhận lời, vì e sợ vị Cư Sĩ này dùng giáo lý thượng thừa mà bắt bẻ chư vị Thanh Văn đệ tử. Tất nhiên, đây cũng là phương tiện giáo hóa của Kinh để từng bước giới thiệu tư tưởng đại thừa viên đốn cho chúng đệ tử. Cuối cùng Phật sai Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi lên đường để thăm bệnh….Con cảm ơn Sư Phụ đã kể câu chuyện đối đáp của Cư Sĩ Duy Ma Cật và Thập Đại Đệ tử cũng như Bồ tát Văn Thù Sư Lợi. Bản Kinh này quá cao siêu. Con mong trong tương lai Sư phụ giảng bộ Kinh này cho Đạo Tràng Pháp Thoại Online này.

 

- Tại sao ngồi yên?

- Xưa nay không đi.

 

Sư Phụ giải thích:

- xưa nay ngồi yên, không đi, vì Phật tánh là vô tướng.

 

- Thế nào chẳng nói?

- Đạo vốn không lời.

 

Sư Phụ giải thích:

- Đạo là chân tâm Phật tánh, là thể tánh vắng lặng, vốn không lời.

 

 

Năm Hội Tường Đại Khánh thứ tư (1113), ngày mùng 1 tháng 6, bà có bệnh, nói kệ dạy chúng:

Sanh già bệnh chết,
Xưa nay lẽ thường.
Muốn cầu thoát ra,
Mở trói thêm ràng.
Mê đó tìm Phật,
Lầm đó cầu thiền.
Phật, Thiền chẳng cầu,
Uổng miệng không lời.

(Sanh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phược thiêm triền.
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền, Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn.)

 

Sư Phụ giải thích:

- Sanh già bệnh chết

Xưa nay lẽ thường 

* lẽ thường là không có gì phải thắc mắc. Trong bài kệ cúng linh  do Hòa Thượng Huyền Quang soạn có câu:

  

Tử sanh là ải phải đi qua

Đi mãi nhưng ai đã đến nhà ?

Qua lại ba đường cùng sáu cõi

Muốn qua cần phải niệm A Di Đà.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

để được về cõi Tây Phương của Đức Phật A Di Đà là nơi ánh sáng, thọ mang vô lượng, thì cần phải hội đủ 15 điều kiện này:

1/Trực tâm, tâm phải ngay thẳng

2/Thâm tâm, tâm lặng lẽ , sâu sắc

3/Bồ Đề tâm, tâm rộng lớn đi đến giác ngộ 

4/Bố thí, mang niềm vui cho người 

5/Trì giới, phát nguyện bảo vệ cho mình và bảo vệ cho người không khổ đau 

6/Nhẫn nhục, biết lắng nghe, không khởi tâm sân, đem bình an cho người.

7/Tinh tấn, siêng năng chận đứng ác pháp & siêng năng làm lành

8/Thiền định, nhiếp tâm tỉnh lặng, ngoài không động với sắc, thanh trần, trong không khởi vọng niệm

9/Trí tuệ, quán chiếu ngũ uẩn là không 

10/Tứ Vô Lượng Tâm: Từ Bi Hỷ Xả, luôn áp dụng trong đời sống hằng ngày.

11/ Tứ nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, đồng sự lợi hành, mang niềm vui bằng lời nói, ý nghĩ và hành động và đồng sự nhiếp là chia sẻ, giúp đỡ người.

12/Phương tiện: dùng phương cách khéo léo đưa người vào đường thiện lành.

13/ Tu 37 phẩm trợ đạo (Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo phần)

14/Hồi hướng công đức cho mọi chúng sanh được an lành hạnh phúc

15.Nói Pháp trừ tám nạn, tự mình giữ giới hạnh, không chê chỗ kém sút của người khác, thực tập mười điều lành đó là những chất liệu làm cho cõi tịnh độ của mình càng ngày càng thanh tịnh, càng có hạnh phúc.

 

- Muốn cầu thoát ra

Mở trói thêm ràng.

Sư Phụ giải thích, chân tâm Phật tánh chưa bao giờ bị ràng buộc.

 

- Mê đó tìm Phật 

Sư Phụ giải thích: Mê là quên tánh giác (Phật) nên mới đi tìm Phật bên ngoài

 

- Lầm đó cầu thiền, 

Sư Phụ giải thích: lầm nhận khách trần làm chủ nên chạy loanh quanh để tìm pháp tu mà không biết  thể tánh lặng lẽ của bản thân mình. Sơ niệm là chơn tâm, niệm thứ hai trở đi là tà tâm.

 

- Phật thiền chẳng cầu

Uổng miệng không lời

Sư Phụ giải thích: Phật hiện tiền ngay bây giờ và tại đây, ôm ông Phật của mình đi tìm khắp để tìm Phật, không ngờ ông Phật luôn ở với mình 24/7.

 

 Nói kệ xong, bà cạo tóc, tắm rửa thân thể, ngồi kiết-già viên tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.

 

Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Ni Diệu Nhân do Thầy Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:

 

Tâm tư thuần hậu nết đoan trang
Thủ tiết quy tâm hướng giác tràng
Xả bỏ tư trang hành bố thí
Tu trì giới định tập khinh an
Về nguồn đốn-tiệm đèn tâm tỏ
Thấu tánh tịnh-thiền đạo nghiệp toàn
Lặng lẽ ra ngoài danh sắc tướng
Diệu Nhân trải nghiệm rõ nguồn chân

 

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Ni Diệu Nhân. Chúng con hàng nữ Phật tử rất hảnh diện được có một Ni Thiền Sư đắc pháp, và nhất là Ni Thiền Sư  từng là một công chúa lá ngọc cành vàng, có đủ quyền hành, nhưng lụa vật chất mà không dính mắc, Ni Thiền Sư hẳn có túc duyên chứng minh Đạo vốn hằng tỏa sáng trong “thiên thể thanh tịnh” không phân biệt giới tính và nhất là Ni Thiền Sư không dính mắc là người đã có thành gia thất. Chúng con thành kính đảnh lễ Ni Thiền Sư và kính ước nguyện Ni Thiền Sư từ quang giáng đạo tràng để gia hộ chúng con vững tâm, vững bước trên đường vào Đạo.

 

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montréal, Canada).

 



291_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Ni Dieu Nhan

Thiền Sư Ni Diệu Nhân (1041 - 1113),
đời 17 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi ( Thời Vua Lý Nhân Tông)




Kính dâng Thầy bài viết về Thiền Sư Ni Diệu Nhân qua bài pháp thoại quá tuyệt vời vì nội dung bao trùm lên toàn bộ toát yếu của Kinh Duy Ma Cật và yếu chỉ Bát Nhã và Kim Cang . Kính bạch Thầy thật là hỗ thẹn , đến hôm nay nhờ có bài pháp thoại về Tổ Sư Thiền nhất là Thiền Sư Việt Nam con mới biết được một vị Ni sư Anh Tú và hy hữu trong Ni Giới Việt Nam đã trở về được nguồn Tự Tánh và tìm thấy được Thể tánh tịnh minh do chỉ trong sát na đầu tiên " trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe" , nên đã đạt ĐẠO KHÔNG LỜI . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc Thầy pháp thể khinh an . HH


Trong kho tàng lịch sử dân tộc Việt Nam, cách  đây gần một  ngàn năm về trước vào đời Lý, Thái hậu Ỷ Lan là một trong số rất ít phụ nữ làm nên những kỳ tích lịch sử. Ngoài Thái hậu Ỷ Lan, người nữ Phật tử đầu tiên, đồng thời cũng là vị Ni sư đầu tiên, không ai khác hơn là Ni sư Diệu Nhân,  (1041-1113) - một Thiền sư Ni tu hành đắc pháp, là Ni sư đầu tiên ở Việt Nam được tôn vinh là Tổ sư thiền, làm gương mẫu cho Ni Giới VN góp phần phát triển Phật pháp, nối mạch truyền thống ( Đạo của Từ Bi và Trí Tuệ ) để thực hiện chân lý bình đẳng, làm lợi ích  cho nhân sinh 

Được biết nhân  dịp kỷ niệm Ngày Phụ nữ Việt Nam   vào năm  2019 trong hai ngày 26, 27-10, tại Học viện Phật giáo Việt Nam (Sóc Sơn, Hà Nội), Phân ban Ni giới Trung ương (Giáo hội Phật giáo Việt Nam), Viện Nghiên cứu Phật học và Học viện Phật giáo Việt Nam phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học “Nữ Phật tử với Phật giáo Việt Nam” và lễ tưởng niệm 906 năm viên tịch của Ni sư Diệu Nhân - một hiện tượng độc đáo trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và tôn vinh những đóng góp của các nữ phật tử trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc được tiếp nối mãi cho đến nay .....

Thời Trần, có Ni sư Tuệ Thông, tu trên núi Thanh Lương, hành khổ hạnh, trì giới chuyên cần, tuệ giải thông suốt. Thời vua Lê chúa Trịnh có Ni sư Diệu Đăng, Ni sư Diệu Tín xuất thân danh giá quý tộc, giác ngộ lẽ vô thường nên từ bỏ phú quý, tìm về Yên Tử xuất gia tu tập. Ở miền Nam, đến đầu thế kỷ XX, nhiều Ni sư đã có công lao đóng góp cho sự hưng khởi phong trào tu tập của Ni giới như Ni sư Diệu Ngọc (1885-1952), Ni sư Diệu Tịnh (1910-1942). Các bậc trưởng lão của Ni giới Việt Nam do tu hành cẩn trọng, trì giới nghiêm mật, nên xứng đáng là những chư ni gương mẫu của Đức Phật mà điển hình trong số ấy có thể kể đến là Sư Bà Diệu Không ( 1905-1997) cũng như Ni Sư Diệu Nhân Sư bà xuất thân từ gia đình quyền quý, nhưng lại phát tâm hiến dâng cuộc đời cho đạo pháp và dân tộc. Và đặc biệt, Sư bà đã phát tâm Đại thừa, tận tâm tận lực chăm lo cho tứ chúng. Điều vô cùng quý báu này đã thể hiện rõ nét hình ảnh cao đẹp của một người hảo tâm xuất gia.đã để lại bộ Đại Trí Độ luận, và nhiều tác phẩm khác , ngoài ra còn có   Ni Trưởng  Như Thanh một đời phạm hạnh thanh tịnh và công đức viên mãn, . Ni trưởng Trí Hải (1938-2003) người có kiến thức Phật học và thế học uyên thâm đã để lại cho đời nhiều công trình nghiên cứu, trước tác và dịch thuật có giá trị.và gần đây nhất  tại hải ngoại  có Sư Bà Diệu Tâm đệ tử của Sư Bà Diệu Không cũng được tôn vinh về giới Đức và hạnh Đức .

Riêng bài kệ thị tịch của Ni sư nhắn bảo lại cho đồ chúng đã  gây chấn động mãnh liệt nơi nội tâm, thức tỉnh chúng ta trên dòng sinh tử, để lại dấu ấn đậm sâu, thắm đượm mãi trong lòng người đến tận hôm nay và mai sau. Ni Sư Diệu Nhân, và cũng là vị nữ sĩ ban đầu trong nền Văn học Việt Nam.


Sanh già bệnh chết,

Xưa nay lẽ thường.
Muốn cầu thoát ra,
Mở trói thêm ràng.( đứng về mặt bản thể ) cho người. thiện căn thiện trí
Mê đó tìm Phật,
Lầm đó cầu thiền.
Phật, Thiền chẳng cầu, 
Uổng miệng không lời.

(Sanh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phược thiêm triền.
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền, Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn.)

Dù chỉ một bài thi kệ, nhưng với một bài thôi, một lời thôi, những lời nói như nhiên, tự nhiên, những xác quyết rõ ràng về nguyên lý chân thật của kiếp người. Chừng đó, chỉ chừng đó, với chừng đó cũng đủ bặt ngôn trọn ý, phủ trùm lên cõi tử sinh vô tận, đong đầy kín lối nẽo nhân gian, đưa đường dẫn lối chúng ta, từ sông mê bể khổ, tìm về bờ giác.

 Ni sư đã nhắc lại qui luật của sinh tử vô thường của kiếp người của cuộc đời của vạn pháp. Đó là lẽ thường nhiên. Tuy là dạy đệ tử nhưng cũng chính là lại một lần nữa khẳng định Sư đã chứng ngộ Niết bàn tịch tĩnh an nhiên trước sự vô thường.

Qua thi kệ và ngữ lục hiện còn, có thể khẳng định Ni sư Diệu nhân là Thiền Sư Ni đắc đạo, thông tỏ cái lý Tính Không của các pháp và thấu triệt tinh thần Vô Trụ của kinh văn hệ Bát Nhã, với tinh thần phá chấp triệt để. Đây là cốt tủy tinh yếu của Kinh Kim Cương mà Đức Phật đã nêu ra khi giảng thuyết cho Ngài Tu Bồ Đề cùng đại chúng tại Tinh Xá Kỳ Viên với câu hỏi là: Làm sao để thấy tâm, hàng phục tâm. Đây là tư tưởng Đại thừa mà trong quá trình hành trì tu tập, Ni sư thường truyền dạy cho đệ tử. 

Do được truyền trao tư tưởng của Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Ni sư đã cho ta thấy rõ sự Chứng Ngộ của Ngài qua câu trả lời đệ tử là: “Xưa nay vốn không đi”. Và câu hỏi: Ngồi yên là thế nào?... đều toát lên tinh thần Bát Nhã, nhất thừa pháp. Nhà thiền có câu: Vô ngôn thị đạo, bởi pháp môn hành trì tu tập của thiền là chú trọng đến tâm,tâm mà định lặng lẽ, tịch tĩnh là đã thấy được Bản lai diện mục, thấy được tự tính tức Giác ngộ Phật tính. Kiến tính thành Phật ,“tâm tịch nhi thị tri danh chân Phật”. Cái tâm không phải là vật chất mà có thể nhìn, cầm được, mà nó chỉ là sự cảm nhận trực nhận, bằng trực cảm. 

Ni sư Diệu Nhân đã chứng đạt qua tinh thần vô trụ, “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Có đệ tử hỏi: “Tất cả chúng sinh bệnh thì ta cũng bệnh, tại sao lại phải kiêng tránh thanh sắc?” Sư đã dẫn lời trong kinh mà dạy rằng: “Nếu người nào thấy ta bằng hình tướng cầu ta bằng âm thanh, người đó theo tà đạo không bao giờ thấy được Như Lai”. Câu này nói lên sự phá bỏ chấp trước phá bỏ định kiến, bám víu của các đệ tử. 

Chỉ cần qua lời chỉ dạy của Ni sư chúng ta đã thấy được chỗ tâm yếu mà Ngài đang thực hành, đây chính là yếu chỉ của nhà Thiền, luôn luôn sống với tâm tĩnh lặng đó chính là tự tính, đó chính là chỗ sống với Phật tâm của chính mình. 

Sống được với tâm thanh tịnh rồi thì dù đi đứng nằm ngồi, nói năng động tịnh đều là diệu dụng thù thắng. Mặc dù biết vậy, nhưng chúng ta vẫn bị âm thanh sắc tướng làm cho mê hoặc, chỉ cần một vài lời khen, một hai câu chê là chúng ta đã chạy theo buồn vui vạn dặm, nên Ngài nhắc thức phải nên tránh xa âm thanh, sắc tướng. 

(Trích đoạn bài viết của Bảo Châu trong buổi hội thảo về ngày phụ nữ 3/11/2019 đăng trên báo Pháp Luật online ) 




Kính ngưỡng Ni Sư Diệu Nhân ...

Vị Nữ Tổ Sư Thiền đầu tiên trong Phật Giáo Đại Việt ! 

Dòng dõi quý tộc...(1) 

xem nhẹ vinh hoa phù phiếm quyết định xuất gia (2) 

Trụ trì Ni Viện  Hương Hải mười năm...

 ....Được tôn Ni Sư .....Lịnh vua  chính thức ban ra (3) 

Chứng tỏ ... kế thừa tinh yếu truyền thống Phật (4) 


Kính đa tạ Giảng Sư ...giới thiệu cốt lõi kinh Duy Ma Cật (5) 

Dựa vào câu hỏi từ môn đồ học pháp với Ni Sư (6) 

Cuộc đối thoại ....trở về nguồn...rõ được Chân Như 

Kính tri ân ...chất liệu tạo cõi Phật Thanh tịnh (7) 


Bài kệ thị tịch đạt giá trị " Bậc Tôn Túc"  thấy được Tự tính (8) 

Tư tưởng coi sống chết là việc bình thường, 

Tạo đời sống tinh thần đúng yếu chỉ Kinh Kim Cương (9) 

Kính tán dương Vị Nữ Tổ Sư Thiền anh tú và hy  hữu(10) 


Nam Mô Thiền Sư Ni Diệu Nhân tác đại chứng minh 



Huệ Hương

Melbourne 28/9/2021 






Chú thích :

(1) Bà tên Ngọc Kiều là trưởng nữ của Phụng Càn Vương. Thuở nhỏ bà thiên tư thuần hậu, ngôn hạnh đoan trang, được vua Lý Thánh Tông nuôi trong cung. Lớn lên Vua gả cho người họ Lê, làm quan Châu mục ở Chân Đăng.

Theo Đại  Việt  Sử ký  Ngài Phụng Càn Vương (Lý Nhật Trung), thái tử con  vua Lý Thái  Tông,  là em thứ của vua Lý Thánh Tông , do vậy Bà là công chúa, Cháu nội của và Lý Thái Tông 

(2)  Chồng mất, bà tự thệ thủ tiết không chịu tái giá. thường  đọc kinh sách Đại thừa 

Một hôm bà than:

- Ta xem tất cả pháp trong thế gian như giấc mộng, huyễn ảo, huống là các thứ phù vinh mà đáng trông cậy sao?

Thế rồi bà đem tất cả tư trang ra bố thí, cạo tóc xuất gia, đến Thiền sư Chân Không ở làng Phù Đổng xin thọ giới Bồ-tát, và học hỏi tâm yếu. 

(3) 

Thiền sư Chân Không cho bà pháp danh Diệu Nhân và dạy trụ trì Ni viện Hương Hải ở làng Phù Đổng, Tiên Du, .ni viện Hương Hải này có nằm cạnh khuôn viên chùa Bảo Cảm. Của Thiền  Sư Chân Không và Ni sư Diệu Nhân ở tại ni viện này cho đến khi mất

Hằng ngày, bà gìn giữ giới luật và hành thiền được chánh định, là bậc mẫu mực trong Ni chúng thời ấy. 

. Ở góc độ lịch sử Thiền tông, Ni sư Diệu Nhân là nữ thiền sư duy nhất được chép chính thức trong bộ sách lịch sử Thiền tông Việt Nam (Thiền Uyển Tập Anh); Ni sư Tổ Diệu Nhân là một trong 68 vị Thiền sư anh tú trong Vườn thiền của dân tộc

(4) điều công chúa thốt ra mà Thiền Uyển Tập Anh đã chọn ghi lại, đó là trăn trở của một trí thức có trình độ học vấn cao về vấn đề triết lý đời người và kiếp người mà thời đại đang quan tâm: "Ta xem tất cả các pháp trong thế gian đều như mộng ảo, huống gì là những thứ vinh hoa phù phiếm mà có thể trông cậy được sao?6". Như vậy, sự lựa chọn của công chúa Ngọc Kiều khi quyết định xuất gia theo Thiền sư Chân Không thuộc Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã là sự lựa chọn triết lý Thiền trong so sánh với Nho và Đạo đương thời.

(5) 

Nội dung tư tưởng kinh Duy Ma lấy tư tưởng Bát nhã làm nền tảng, tức tư tưởng Tánh không. Tư tưởng Bát nhã mang sắc thái Nhất nguyên luận, chủ trương các pháp vốn thanh tịnh, không sinh không diệt, bình đẳng bất nhị … Trên cơ sở tư tưởng chân không của Bát nhã, kinh Duy Ma vận dụng và triển khai tư tưởng Diệu hữu của kinh Hoa Nghiêm một cách triệt để, có thể thấy được sự giống nhau giữa Duy Ma và Hoa Nghiêm qua tư tưởng diệu hữu này.

Tư tưởng kinh Duy Ma có thể được khái quát như sau:

Tâm tịnh độ tịnh:

Tịnh độ là một trong những chủ đề cốt lõi của kinh và xuyên suốt hệ thống tư tưởng của kinh, Muốn được cõi Phật thanh tịnh, không phải chỉ nguyện suông mà phải hành động và tu tập theo gương hạnh chư Bồ-tát

Xác định tâm tịnh độ tịnh hoặc thế giới thanh tịnh hay ô nhiễm do tâm là lập trường của Đại thừa. Tuy nhiên, tư tưởng Nguyên thủy chủ trương cũng không có gì khác biệt, phải nói rằng chủ trương tâm tịnh độ tịnh chỉ triển khai trên nền tảng giáo lý Nguyên thủy mà thôi. Kinh Trung Bộ bài thứ 7 ví dụ Tấm vải  I, Đức Phật dạy: "Như một tấm vải dơ bẩn dù được nhuộm với màu sắc gì nó vẫn dơ và xấu, còn một tấm vải mới và sạch nhuộm màu gì thì nó cũng đẹp. Cũng vậy, với một tâm cấu uế thì làm việc gì cũng trở thành cấu uế; với một tâm không cấu uế thì làm việc gì cũng thanh tịnh".

Tư tưởng bất tư nghì giải thoát:

Tất cả những gì được biểu hiện trên cõi đời này đều là biểu hiện của thể tánh thanh tịnh, do đó chúng là mầu nhiệm, là không thể nghĩ bàn. Nói cách khác, chúng là biểu hiện duyên khởi, trên nền tảng Tánh không.

Thế giới bản chất là pháp giới (Dhamadattu), khi tâm phân biệt chấp thủ thì thế giới đầy đau khổ và biến động nhưng khi tâm không còn chấp thủ nữa thì thế giới trở nên an bình vô ngại... Tư tưởng Nguyên thủy cũng đã có lập trường tương tự, sự vi diệu của thân thể và thế giới qua lập trường duyên sinh và vô ngã của 5 uẩn, 5 khổ uẩn có mặt khi có chấp thủ, khi chấp thủ đã rơi rụng thì pháp uẩn có mặt, nghĩa là pháp giới thanh tịnh.

Người đạt được bất tư nghì giải thoát không còn bị giới hạn bởi các cặp phạm trù: tịnh uế, thiện bất thiện, lớn nhỏ, trong ngoài, xa gần, quá khứ, hiện tại, vị lai… Do vậy mọi sự mầu nhiệm xảy ra đó là cảnh giới bất tư nghì, khi ấy đạo tràng của Bồ tát hiện diện khắp nơi, dù là dâm phòng, tửu điếm... đều khứ lai tự tại.

Tư tưởng bất nhị:

Kinh Duy Ma được xây dựng trên nền tư tưởng Bát Nhã và Hoa Nghiêm: các pháp không có tự tánh, không sinh không diệt, vô tướng, bất khả thuyết… Bất nhị là đúc kết lý thuyết chân không diệu hữu mà Bát Nhã và Hoa Nghiêm đã triển khai. Duy Ma dạy: “ Sắc và không là hai nhưng sắc là không, không phải sắc diệt mới không mà là sắc tánh tự không; cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức…”. Rõ ràng tư tưởng Bất nhị có sắc thái Nhất nguyên luận. Tuy nhiên Duy Ma không ngừng lại ở triết lý siêu việt mà đưa tư tưởng Bất nhị vào đời sống thực nghiệm tâm linh hiện thực rằng: "Nhãn và sắc là hai nhưng nếu biết nhãn đối với sắc không tham, sân, si thì đó là tịch diệt… cho đến ý với pháp là hai, nhưng ý đối với pháp không tham, sân, si thì đó là tịch diệt, sống trong ấy là nhập vào pháp môn Bất nhị”. Như vậy tư tưởng Bất nhị cũng đã triển khai dựa vào cơ sở tư tưởng Nguyên thủy về tu tập tịch diệt ở nơi các pháp qua 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngay cả quan niệm Bất nhị qua sự im lặng của Duy Ma hay sự siêu việt vấn đáp của Văn Thù cũng chỉ là vô hý luận mà tư tưởng Nguyên thủy đã trình bày.

Phải công nhận điểm đặc biệt và nổi bật của kinh là tạo nên một đường lối mới, một sinh khí mới. Đường lối mới ấy đã làm cân bằng con đường tâm linh và con đường xã hội, mặt khác thực tế hóa, đại chúng hóa con đường giải thoát của đạo Phật tuy rằng đã chỉ trích Mười vị đệ tử lớn nhất trong hàng Thanh văn và bốn vị trong hàng Bồ-tát lần lượt trình bày những lần gặp gỡ với Duy-ma-cật và bị ông “sửa lưng”. Thật ra đó là 14 đề tài nhỏ mà kinh muốn gởi đến chúng ta, qua hình thức trình bày như một kịch bản, có người tung hứng, các nhân vật có người được người thua. Người thắng luôn luôn là Duy-ma-cật, người thua là các đệ tử Phật. Có điều, người thua cuộc kể lại chuyện mình thuần túy chỉ là kể lại, không phàn nàn mà còn thán phục khen ngợi 

Duy-ma-cật chưa xuất hiện, nhưng ông được giới thiệu như một nhân vật cực kỳ ưu việt. Kinh dành riêng một phẩm để nói về những đức tính, công hạnh, cuộc đời của ông, với danh xưng ca ngợi không thua một vị Bồ-tát nào. Như các đại Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền, Quan Âm được xưng tụng, ở đây một cư sĩ tại gia thế tục sống hòa mình trong cộng đồng, có gia quyến của cải thế lực kinh người, khi làm kinh tế hay khi giải trí vui chơi, đều có khả năng thu hút và giáo hóa. Ông sử dụng ảnh hưởng rộng lớn của mình như một phương tiện đi vào đời, gần gũi mọi tầng lớp từ đạo sĩ du tăng đến ca lâu kỹ viện, sống chung mà không nhiễm, tìm cách giáo hóa đưa về đường lành.

Một nhân vật như thế hẳn được nhiều người ái mộ. Để tạo cơ hội gặp gỡ hơn nữa, ông giả vờ bệnh, nhân đó mọi người lại đến thăm. Giữa tầng lớp quyền quý, trí thức, vô số người trong xã hội ấy, ông trình bày một cách quán sát thân thể, nhìn ngắm thân thể như một đối tượng nghiên cứu để thấy rõ thực chất. Còn chúng ta, ít khi có dịp thấy mình, hoặc có thấy cũng dưới lớp áo trang điểm che mất sự thật. Phá được cái vỏ chấp thân, tâm ta dễ hòa đồng với muôn người và phát triển nhiều đức tính tốt làm lợi ích rộng lớn. Con đường Bồ-tát bắt đầu từ chỗ phá ngã. 

Chỉ nghe kể lại mà Duy-ma-cật đã có biện tài và uy lực như thế, huống chi gặp gỡ. Bồ-tát Văn-thù là người hướng dẫn phái đoàn đến nhà Duy-ma-cật. Cuộc gặp gỡ giữa hai cao thủ đã làm bùng vỡ nền triết lý thượng thừa, ngay từ đầu Duy-ma-cật đã chào Bồ-tát:

- Quý hóa thay, ngài Văn-thù-sư-lợi mới đến! Tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy!

(6) 

Có người đến cầu học, bà thường dạy họ tu tập Đại thừa, dạy rằng:

- Chỉ tánh mình trở về nguồn, đốn tiệm liền tùy đó mà vào

Thường ngày, bà chỉ thích ngồi lặng lẽ, có bệnh kỵ thanh sắc, ngôn ngữ. 

Có học giả hỏi:

- Tất cả chúng sanh bệnh nên ta bệnh, tại sao lại kỵ sắc thanh?

Bà nương theo kinh đáp:

Nếu dùng sắc thấy ta,
Dùng âm thanh cầu ta,
Người ấy hành đạo tà,
Không thể thấy Như Lai.

Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.)

- Tại sao ngồi yên?

- Xưa nay không đi.

- Thế nào chẳng nói?

- Đạo vốn không lời.

Phật giáo trên phương diện Thiền học cũng được Thiền Uyển Tập Anh ghi lại. Đó không chỉ là “học hỏi tâm yếu,... giữ giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa”7 mà Ni sư Diệu Nhân còn được đánh giá “là bậc tôn túc trong hàng Ni chúng”. Ni sư không chỉ đạt tới tầm thấu hiểu tư tưởng căn cốt của Phật giáo về triết lý Duyên khởi, Vô thường, Tính không, Vô ngã, và cả vấn đề của Thiền tông Đại thừa như đốn - tiệm, mê - ngộ, tự tính - tha lực... trong những kinh điển Kim Cương, Bát Nhã, mà Ni sư còn được đánh giá cao về sự vận dụng các tư tưởng đó trong giảng pháp “trở về nguồn tự tánh”.

“Trở về nguồn tự tánh” là một trong những định hướng mục tiêu đặc thù của Thiền Phật giáo. Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi nhấn mạnh Tự tính của chúng sinh vốn là tuyệt đối thanh tịnh, không đau khổ; Khi trở về được với Tự tính vốn có thì sẽ đạt giải thoát (tức đạt Giác ngộ, Bồ đề); Song Tự tính đó không phải có cũng không phải không, mà là phải vượt thoát khỏi các thái cực và siêu vượt ngôn ngữ, văn tự. Kinh Tượng Đầu Tinh Xá - bộ kinh căn bản của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã luận rõ Tự tính đó bằng các cặp phủ định của phủ định rất độc đáo:

“không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn, vốn không có chỗ sinh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa lìa và cũng chẳng phải chẳng xa lìa, mà tất cả những thứ có tên gọi, hình thức, bị quy định bởi không gian và thời gian thì đều chỉ là “giả lập tên ấy thôi...”8.

Tư tưởng đó được Ni sư Diệu Nhân nắm vững và tổng kết thành pháp Thiền giác ngộ: “tịch tịch, tránh xa thanh sắc, ngôn ngữ”9. Tức là để đạt tới giác ngộ (Bồ đề) thì phải thoát thanh sắc và cũng không thể dùng hay bị chấp vào lời nói và chữ viết (văn tự). Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi không phủ định kinh điển, song coi đó chỉ là phương tiện tạm thời để đạt tới giác ngộ. Giác ngộ không phải là cái biết của kiến thức hay thuộc làu kinh điển.

Thiền Uyển Tập Anh cho ta thấy Ni sư Diệu Nhân còn nắm vững tư tưởng Kim Cương - Bát Nhãkhi trả lời câu hỏi về có thể dùng thanh sắc để thấy Như Lai: "Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà đạo, không thể thấy Như Lai"10. Cũng như vậy, Ni sư dùng phép phủ định đặc thù của Thiền học để xây dựng tư duy phá chấp (vô chấp) cho người theo học khi tham vấn về Thiền. Chẳng hạn, khi được hỏi “Sao gọi là ngồi yên" và "Sao gọi là không lời", Ni sư đã đặt câu trả lời trong những đối cặp có-không, hữu-vô lớn nhất để người học dễ dàng nhận thấy phân biệt chỉ là tương đối, là ảo giả, còn Tự tính vốn không phân biệt, và trả lời là "Xưa nay không đi" và "Đạo vốn không lời"11.

(7)

kinh Duy Ma Cật này chú trọng về hạnh, như trong phẩm đầu có vị trời hỏi Phật, phải hành thế nào để được cõi Phật thanh tịnh. Muốn được cõi Phật thanh tịnh, không phải chỉ nguyện suông mà phải hành động và tu tập theo gương hạnh chư Bồ-tát. 

Và từ khi vào kinh Phật đã giới thiệu  chất liệu để làm thanh tịnh, để tạo nên cõi Phật chính  là những chất liệu sau đây:

1.Trực tâm là tâm thẳng thắn,

2.Thâm tâm là tâm sâu sắc,

3.Bồ đề tâm là chí nguyện đưa mọi người tới giải thoát cứu cánh.

4.Bố thí là ý nguyện dâng niềm vui cho người,

5.Trì giới là ý nguyện bảo vệ cho mình và cho người,

6.Nhẫn nhục là ý nguyện đem lại sự hòa bình cho mình và cho người,

7.!Tinh tấn  là sự siêng năng,

8.Thiền định là sự nhiếp tâm, sự tĩnh lặng,

9.Trí tuệ là sự hiểu biết,

10.Tứ vô lượng tâm (Brahma vihara) là từ (Maitri), bi (Karuna), hỷ (Mudita), và xả (Upeksa),

11.Tứ nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự

12.Phương tiện là những phương pháp khéo léo để độ người,

13.Ba mươi bảy phẩm trợ đạo trong đó có Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo phần,

14.Hồi hướng tâm là tâm hồi hướng những công đức cho hạnh phúc chung.

15.Nói Pháp trừ tám nạn, tự mình giữ giới hạnh, không chê chỗ kém sút của người khác, thực tập mười điều lành đó là những chất liệu làm cho cõi tịnh độ của mình càng ngày càng thanh tịnh, càng có hạnh phúc.

(8) Năm Hội Tường Đại Khánh thứ tư (1113), ngày mùng 1 tháng 6, bà có bệnh, nói kệ dạy chúng:

Sanh già bệnh chết,
Xưa nay lẽ thường.
Muốn cầu thoát ra,
Mở trói thêm ràng.( đứng về mặt bản thể ) cho người. thiện căn thiện trí
Mê đó tìm Phật,
Lầm đó cầu thiền.
Phật, Thiền chẳng cầu, 
Uổng miệng không lời.

(Sanh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phược thiêm triền.
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền, Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn.)

Nói kệ xong, bà cạo tóc, tắm rửa thân thể, ngồi kiết-già viên tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.

Điều này cho ta thấy được Tư tưởng và phong cách của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi một lần nữa được Ni sư Diệu Nhân thể hiện với tư cách một Ni sư Tổ đã tới giác ngộ sắp viên tịch qua bài kệ Thị tịch. Bài kệ khẳng định thái độ không mù quáng, hoảng sợ trước sinh, lão, bệnh, tử của người đã giác ngộ triết lý Vô thường, Vô ngã của Thiền học Bát Nhã về đời người:

"Sinh, già, bệnh, chết

Từ xưa thường vậy”

Và Ni sư Tổ còn căn dặn điều quan trọng là nếu không hiểu được triết lý Vô thường mà càng “chấp”, càng hoảng sợ hay càng tìm cách thoát khỏi quy luật Vô thường của tự nhiên và đời người, thì sẽ càng đi ngược càng không thoát, càng cởi thì càng bị trói chặt hơn:

“Muốn cầu thoát ly

Cởi trói thêm buộc”

Ni sư Tổ đưa ra cảnh báo trên tinh thần Thiền học rằng một khi đã liễu ngộ được Tự tính, đã siêu vượt cuộc tìm kiếm tha lực, thì sẽ hiểu: 

“Mê mới tìm Phật

Lầm mới cầu thiền”

Và ở câu chốt bài kệ, Ni sư Tổ trở lại nhắc nhở phải trở về tư tưởng cốt yếu của Thiền về Vô chấp, Vô trụ, Tĩnh lặng hướng vào bên trong, trở về với Tự tính vốn có chứ không hướng ra ngoài đi tìm kiếm tha lực, ảo ảnh. Ni sư Tổ đã liễu ngộ tư tưởng “bình thường tâm thị đạo” của Thiền tông, cũng tức là đã siêu vượt mọi đối đãi, đạt tới giác ngộ Phật tính tự tại: 

“Thiền Phật chẳng tìm

Ngậm miệng không nói”12.

Ni sư Tổ Diệu Nhân là một điểm sáng minh chứng cho đánh giá và dự báo về bản chất bình đẳng về khả năng, phẩm chất của giới nữ Phật tử mà đức Phật đã truyền trong kinh Tăng Chi Bộ: “Này A-Nan, sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình trong pháp và luật do Như Lai thuyết giảng, nữ nhân có thể chứng được Dự Lưu quả, Nhất Lai quả, Bất Lai quả hay A-la-hán quả”13

(9) Đọc bài kệ về quan điểm sống chết này của Ni sư Diệu Nhân, ta thấy phảng phất đâu đó một lời phê bìnhnặng nề quan điểm cho sống chết là một việc lớn (sinh tử sự đại).

 Quan điểm sống chết việc lớn ấy lần đầu tiên được nêu lên bằng văn Kinh trong phẩm Hành Do thứ nhất của Pháp Bảo Đàn (Lục Tổ Huệ Năng 638 – 713) và được ghi trong Đại Tạng Kinh do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674) dạy đồ chúng : “

Người đời sống chết là việc lớn. 

Các ngươi cứ suốt ngày chỉ lo tìm ruộng phước mà không tìm thoát ra khỏi biển khổ sống chết. 

Tự tánh nếu mê, thì phước làm sao cứu được. 

Các ngươi mỗi người hãy ra đi, 

tự xem xét trí tuệ, nắm lấy tánh Bát-nhã của bản tâm mình”. (

Thế nhân sanh tử sự đại. 

Nhữ đẳng chung nhật chỉ cầu phước điền

, bất cầu xuất ly sinh tử khổ hải. 

Tự tánh nhược mê, phước hà khả cứu? 

Nhữ đẳng các khứ, tự kháng trí tuệ, thủ tự bản tâm Bát-nhã chi tánh).

( 10) 

Ngày nay  Ni giới đã vinh danh Ni  sư Diệu Nhân là nữ Thiền sư đầu tiên ở thế hệ thứ 17 và hy hữu của dòng Thiền do Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sáng lập và phát triển rất sớm tại Việt Nam. Ni sư là bậc Thiền sư Tổ - vị tiền bối anh tú và là niềm tự hào của Phật giáo Việt Nam nói chung, của Ni giới Việt Nam nói riêng





291_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Ni Dieu Nhan

Vận mệnh đời người 



Kính dâng Thầy bài thơ này trong lúc chiêm nghiệm lại các bản tử vi và tướng số mà trong lúc thiếu thời chưa học Phật Pháp đã sưu tầm trong khoảng thời gian dài , nay không dùng nữa vì đã bắt đầu hiểu ra Lý duyên khởi và cách vượt thoát nguyên nhân gây khổ ( do Vô Minh Ái Dục mà thủ , hữu phát sinh và trôi Lăn trong sinh tử luân hồi . Bài thơ này được viết trước n khi nghe pháp thoại về Ni Sư Diệu Nhân, nhưng cũng phù hợp chút ít . Kính đảnh lễ Thầy, kính chúc sức khỏe Thầy, HH


Ba phần tư đường đời ... xem lại tử vi chiêm nghiệm ! 

Từ ngày tháng sinh, tên họ ... hiển lộ ra sao? 

Thuận, nghịch duyên.. khiến  chướng ngại lao đao 

Phước đức, quý nhân ...năng lượng nào giúp bước tới ?

Ôi, như đốm lửa quay tròn ... đấy hiện tượng thế giới 

Không thể đo lường, nương dựa đặt niềm tin 

Chỉ khi học được Phật pháp ... bớt vô minh 

Nghệ thuật sống hạnh phúc ... BIẾT DỪNG LẠI 



Sân khấu cuộc đời phô diễn phút giây hiện tại 

Tiếp nối quá khứ triển vọng tương lai 

Sức mạnh tinh thần  do ...ta biết mình là AI ! 

Sẽ thích nghi, nhẫn nại vượt mọi rào cản ! 



Tử vi chỉ đúng trong phạm vi hữu hạn 

Định luật nhân quả ...khó đoán  thời gian 

Thiện, bất thiện cần cân bằng tam độc hoành hành 

Biết tuỳ nghi thực hiện sẽ không chủ quan mê muội !

Vận mệnh đời người ...cười, khóc phút cuối?? ? 

Huệ Hương 



youtube

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2023(Xem: 3295)
Hạnh Phúc Trong Từng Hơi Thở (bài giảng của SC TN Giới Bảo)
07/03/2023(Xem: 2160)
Kinh Lương Hoàng Sám- S.C Giới Bảo Dẫn Chúng Trì Tụng Năng Lực Tiêu Trừ Nghiệp Chướng Lớn
23/12/2022(Xem: 12534)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
26/03/2022(Xem: 12180)
❝Trên đường đạo không gì bằng tinh tấn, Không gì bằng trí tuệ của đời ta, Sống điêu linh trong kiếp sống ta bà, Chỉ tinh tấn là vượt qua tất cả.❞ Kính chia sẻ cùng chư Tôn đức, Pháp hữu và qúy Phật Tử Lịch Pháp thoại và khóa tu tại Hoa Kỳ trong tháng 4 và tháng 5-2022 với sự hướng dẫn của Tỳ kheo Như Nhiên. Th Tánh Tuệ CHƯƠNG TRÌNH HAI NGÀY TU HỌC tại Tu viện Đạo Viên tiểu bang Maryland Khóa tu chủ đề: TIẾP XÚC VỚI THỰC TẠI. Với sự hướng dẫn của thầy Thích Tánh Tuệ California, Thầy Viên Ngộ trụ trì Tu Viện Đạo Viên, Maryland và Thầy Tâm Nguyên trụ trì Tu Viện Hạnh Phúc, Florida. Tu học hai ngày thứ Bảy & Chủ nhật (April 09 & 10, 2022) và ngắm Hoa Anh Đào vùng thủ độ Hoa Thịnh Đốn vào ngày thứ hai sau khóa tu.
07/02/2022(Xem: 17111)
Kính đa tạ Thầy đã giới thiệu 14 lời vàng của HT Thích Trí Tịnh (1916-2014 ) một Bồ Tát thị hiện đã mang kho tàng kinh các đến với Phật Tử VN trong và ngoài nước nhưng cuối cùng di chúc để lại cho đời chỉ vỏn vẹn 14 lời vàng này lại là Kim Chỉ Nam cho những ai muốn tu tập giải thoát ( LÀM LÀNH-LÁNH DỮ-THƯƠNG NGƯỜI- THƯƠNG VẬT-ĂN CHAY-NIỆM PHẬT -TỤNG KINH ) và Bộ Toàn tập Kinh Hoa Nghiêm 4 quyển cũng như Ngũ Kinh Tịnh Độ mà Ngài đã thọ trì hằng ngày từ A lại da thức khởi phát.
01/02/2022(Xem: 30370)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
09/12/2021(Xem: 17045)
Cách đây vài ngày đọc trên một tờ báo tại Sydney , khi nói về chủng thể Omicron vừa phát tán và lây lan do xuất phát từ các nước Nam Phi , tôi chợt mỉm cười khi đọc được câu này " Chúng ta đã học từ nạn đại dịch một điều rằng : Đừng nên hy vọng một điều gì , vì chắc chắn điều mình hy vọng ấy sẽ chỉ là THẤT VỌNG " If there’s one thing COVID has taught us , it is to expect nothing, except disappointment . What it comes to that COVID really delivers
30/11/2021(Xem: 24177)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
25/11/2021(Xem: 28471)
315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn Đây là Thời Pháp Thoại thứ 315 của TT Nguyên Tạng từ 6.45am, Thứ Năm, 25/11/2021 (20/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com/channel/UCxfUXUxU65FtOjrehu9zMMw Facebook: https://www.facebook.com/ThichNguyenTang/
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567