Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

LỜI TỰA

04/04/201317:59(Xem: 5469)
LỜI TỰA

LỜI TỰA

Quyển Kinh Tụng Hằng Ngày này là một tuyển tập 48 bài Kinh quen thuộc trong hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông, và bài Thi Kệ về Cuộc Đời Đức Phật. Tuyển tập này giới thiệu các giáo pháp nền tảng cũng như các phương pháp hành trì căn bản trong Phật giáo, nhằm góp phần tạo dựng an lạc và hạnh phúc cho người đọc tụng và thọ trì ngay hiện tại cũng như tương lai. Phần lớn các bài Kinh được chư tôn đức cao tăng Việt Nam phiên dịch như: HT. Thích Trí Tịnh, HT. Thích Hành Trụ, HT. Thích Huệ Hưng, HT. Thích Trí Quang, HT. Thích Nhất Hạnh, HT. Thích Minh Châu, HT. Thích Từ Thông, HT. Thích Duy Lực và HT. Hộ Tông, v.v…

Bộ Kinh được phiên dịch và biên soạn theo một văn phong thuần Việt, nhằm giúp cho người đọc trực tiếp cảm nhận lời vàng của đức Phật bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, để hiểu sâu lời Phật hơn, nhờ đó, dễ dàng áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Trong bộ Kinh này, ngoài thần chú Bát-nhã Tâm Kinhlà thần chú duy nhất còn giữ lại để trì tụng, tất cả các thần chú khác đều được tỉnh lược. Nghi thức này chủ yếu nhấn mạnh đến tinh thần “niệm pháp” và “hành thiền,” đồng thời phát huy tinh thần “tụng niệm, tư duy và thực hành” lời Phật dạy trong các Kinh điển. Các tinh thần này hoàn toàn phù hợp với pháp môn Thiền và Tịnh Độ vốn thịnh hành ở nước ta cùng các nước Phật giáo Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên, v.v…

Trong khi biên soạn, các đoạn văn trùng lập trong các bản dịch mà sự vắng mặt của chúng không làm ảnh hưởng gì đến nội dung Kinh văn, đều được tỉnh lược. Các cụm từ, thuật ngữ và pháp số Phật học còn nặng cấu trúc Hán Việt trong các bản dịch đều được thay thế bằng các cụm từ thuần Việt hơn. Soạn giả cũng đã thận trọng sửa chữa lại các đại từ xưng hô trong các Kinh, cũng như những chỗ cần thiết trong các bản dịch để giúp cho câu văn được nhẹ nhàng, dễ đọc tụng. Các tiêu đề trong nhiều bài Kinh được thêm vào, và phần lớn tựa các bài Kinh cũng được đặt lại theo chủ đề của chúng, hầu giúp cho người đọc tụng nắm bắt được đại ý của Kinh.

Mặc dù tự biết khó có thể làm toàn hảo Phật sự trọng đại này, nhưng với tâm huyết góp phần Việt hoá nghi thức tụng niệm, và được sự cố vấn và chỉ đạo của cố Hoà thượng Bổn sư Thích thượng Thiệnhạ Huệ(1927-1992), vào mùa Phật đản năm 1992, soạn giả đã mạnh dạn bắt tay vào công việc đọc hai nguồn kinh điển Nguyên thủy và Đại thừa, chọn lọc ra các Kinh căn bản, giới thiệu về các pháp tu của người con Phật. Công trình tiến hành mới hơn được ba tháng thì Hoà thượng Bổn sư của soạn giả đã viên tịch. Do bận rộn với nhiều Phật sự, hai năm sau, soạn giả mới có thể hoàn tất được công trình. Ba ngàn quyển đầu tiên được Tăng Ni và Phật tử chùa Giác Ngộ phát tâm ấn tống để cúng dường và tưởng niệm ngày đản sanh của Đức Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni (PL. 2538, DL. 1994). Chỉ trong vòng hai tuần lễ, toàn bộ các Kinh đã được các chùa ở Sài Gòn và các tỉnh miền Tây thỉnh hết.

Nay được sự khích lệ và yêu cầu của một số chư tôn đức Tăng Ni cũng như Phật tử ở Hoa Kỳ và Úc, ấn bản thứ hai này ra đời với vài thay đổi và bổ sung.

Trước nhất tựa của các Kinh được đổi thành thuần Việt và đi sát với chủ đề của các Kinh hơn: Kinh Pháp Cú đổi thành Kinh Danh Ngôn Chánh Pháp; Kinh Đức Tin đổi thành Kinh Nền Tảng Đức Tin; Kinh Thiện Sanh đổi thành Kinh Nền Tảng Đạo Đức Xã Hội; Kinh Vô Thường - Khổ Não - Vô Ngã đổi thành Kinh Nhận Thức Vô Thường và Đau Khổ; Kinh Tệ Túc đổi thành Kinh Nghiệp Báo Tái Sanh;Kinh Tỳ-kheo Na-tiên đổi thành Kinh Na-tiên Đàm Đạo; Kinh Sống Hoà Hợp đổi thành Kinh Sống và Tu trong Hòa Hợp;Kinh Thiền Giáo Bình Đẳng đổi thành Kinh Tôn Trọng các Pháp Môn; Kinh Bốn Mươi Hai Chương đổi thành Kinh Bốn Mươi Hai Bài; Kinh Pháp Ấn đổi thành Kinh Ba Cánh Cửa Giải Thoát;Kinh Trung Đạo Nhân Duyên đổi thành Kinh Chánh Kiến;Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Bậc Đại Nhân đổi thành Kinh Tám Điều Giác Ngộ của Hàng Bồ-tát; Kinh Hạnh Anh Nhi đổi thành Kinh Hạnh Trẻ Thơ; Kinh Lục Độ Tương Nhiếp đổi thành Kinh Lục Độ Dung Thông; Kinh Kim Cang Bát-nhã đổi thành Kinh Trí Tuệ Kim Cương; Kinh Vào Pháp Môn Không Hai đổi thành Kinh Thể Nhập Pháp Môn Không Hai; và Kinh Giáo Huấn Sau Cùng đổi thành Kinh Lời Dạy Sau Cùng.

Kế đến, năm bài Kinh sau đây: Kinh Tiểu Sử Đức Phật, Kinh Tình Thương, Kinh Hôn Phối, Kinh Bốn Thánh Đế, Kinh Bốn Điên Đảođã được thay thế bằng Thi Kệ Cuộc Đời Đức Phật, Kinh Quán Niệm Hơi Thở, Kinh Mười Pháp Đến Bờ Kia, Kinh Dẫn Nhập Đại Thừa Kinh các Pháp Tu Viên Thông. Sự thay đổi các bài Kinh này đã kéo theo sự thay đổi về trật tự của các bài Kinh khác trong toàn bộ nghi thức.

Ngoài ra, bốn phần phụ lục được thêm vào cuối sách: (1) Tóm tắt nội dung 49 bài Kinh, (2) Chú thích một số thuật ngữ và danh từ riêng, (3) Các ngày lễ trong hai truyền thống Phật giáo, và (4) Các ngày ăn chay. Do vì bận rộn với việc phụ trách trang nhà Đạo Phật Ngày Nay(http://www.buddhismtoday.com), soạn giả đã mời Tỳ-kheo Thích Giác Hoàng biên soạn phần phụ lục thứ hai, để giúp cho người đọc tụng và thọ trì Kinh có thể tra khảo ngay tại chỗ các thuật ngữ và danh từ riêng Phật giáo, mà không phải tốn công nghiên cứu đến các bộ từ điển Phật học đồ sộ.

Kinh Tụng Hằng Ngày in lại kỳ này được hoàn thành tốt đẹp là nhờ vào sự giúp đỡ tận tâm của nhiều người. Nhân đây, chúng con chân thành tri ân Thượng toạ Thích Bổn Điền, đồng thời soạn giả cảm ơn và tán thán Đại đức Thích Trí Thể, quý cư sĩ Thanh Tâm, Hải Hạnh, Trần Nguyên Trung, Minh Thông và Chính Trực, v.v… đã góp phần vận động ấn tống; huynh Nhật Hạnh đã phát tâm đánh vi tính, đại đức Thích Thiện Huệ, quý sư cô Thích Nữ Huệ Phúc, Thích Nữ Liên Hiếu và Thích Nữ Liên Hoà đã phát tâm sửa bản in; quý đại đức Thích Thiện Hữu, Thích Lệ Thọ, Manpreet Singh, A. N. Sinha và R.S. Kaushik đã liên hệ nhà in, cùng tất cả quý Tăng Ni và Phật tử trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ cho lần tái bản này.

Soạn giả chân thành tán thán cư sĩ Từ Bi Nguyệt, gia đình Từ Bi Trân Ngọc, Mai Hoàng và tất cả quý vị có tên trong danh sách ấn tống, đã tiết kiệm tối đa phần chi dụng cá nhân và gia đình, phát tâm đóng góp tịnh tài ấn tống, nhằm làm cho Pháp bảo của Phật được lan rộng, mang lại lợi lạc cho những người hữu duyên. Kính chúc quý vị ngày càng tăng trưởng đạo tâm, vững tiến trên con đường phụng sự Phật, Pháp và Tăng.

Xin hồi hướng công đức của lần tái bản này đến tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường.

Kính nguyện hồng ân Tam Bảo gia hộ cho tất cả được an lạc trong chánh pháp và hanh thông trong cuộc sống!

Ấn Độ, ngày 21-1-2002
Kính khể thủ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 8348)
Trong Đạo Phật, lòng từ bi được đưa lên hàng đầu. vì thương tưởng đến loài chúng sanh bị đói khát, đau khổ mà đức Phật và chư Tổ đã dạy phương Pháp bố thí cho loài Ngạ quỷ, súc sanh...
15/09/2010(Xem: 4079)
Đấng Pháp vương vô thượng, Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người, Cha lành chung bốn loài. Quy y tròn một niệm, Dứt sạch nghiệp ba kỳ, Xưng dương cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận.
13/09/2010(Xem: 3902)
Quán đảnh đã được định nghĩa một cách khái quát là “hành động hay nghi thức ban ý nghĩa tôn giáo (thánh phước) cho những đồ vật, nơi chốn, hoặc con người; thường bằng năng lực và sự thánh thiện” (Bowker, tr. 234). Trong Phật giáo, quán đảnh đã được miêu tả như một nghi thức biến đổi một pho tượng hoặc một ngôi tháp từ một vật thể thế tục thành tinh tủy của một đức Phật (Bentor 1997).
09/09/2010(Xem: 17574)
5 bài kệ hô canh ngồi Thiền được áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
08/09/2010(Xem: 5564)
Lễ nghi trong Phật giáo là bày tỏ lòng thành kính đối với các đấng thành kính. Họ là thầy tổ, là ông bà, cha mẹ và tất cả những người thân, kẻ sơ đã qua đời.
07/09/2010(Xem: 6190)
Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
31/08/2010(Xem: 8013)
Trước cửa Phật lập đàn phổ thí, Cho trọn đều quân lợi âm dương, Quang minh tỏ khắp mười phương, Kính dâng một nén tâm hương ngạt ngào. Cơn mưa tuệ dồi dào tưới khắp, Bóng mây từ che rợp mọi nơi, Lọt đâu dưới đất trên trời, Từ bi tế độ muôn đời viên thông. Trên đức Phật rất công rất chính, Dạy cho đời luyện tính tu tâm, Thương người đọa kiếp tối tăm, Giáo Hội chỉ dẫn khỏi lầm khỏi mê.
27/08/2010(Xem: 46460)
Đi thuyết linh nhiều nơi, thấy nhiều trường hợp oan gia trái chủ hiển bày rất rõ nét, cần phải giải trừ để có một đời sống an lạc. Rất nhiều Phật tử, thấy tâm tư không an khi nhìn lại đời sống đã gây nên tội lỗi oan trái muốn giải trừ, mà chưa có nhận thức đúng đắn.
05/08/2010(Xem: 4479)
Thiết dĩ, thể tánh hư hàm, bí thảo điêu tàn du vị tử, Thiền cơ diệu ngộ, đàm hoa lạc khứ hữu dư hương. Xuất một tự như, Khứ lai vô ngại. Cung duy - Tôn sư: Đạo phong trác thế, Giới đức siêu trần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]