Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Sống và Tu trong Hòa Hợp

04/04/201319:37(Xem: 4475)
Kinh Sống và Tu trong Hòa Hợp

KINH TỤNG HẰNG NGÀY

TỔNG HỢP 49 KINH CĂN BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NAM TÔNG VÀ BẮC TÔNG

Tỳ-kheo Thích Nhật Từ
biên soạn

---o0o---

KINH SỐNG VÀ TU TRONG HÒA HỢP

Thứ hai mươi hai

Tôi từng nghe như vầy:

Một thời Đức Thế Tôn

Ở tại Na-di-la,

Đi đến thăm khu rừng,

Trồng nhiều cây Ta-la,

Tên gọi Go-sin-ga.

Ở đó có ba thầy:

Thầy A-na-ru-đa,

Với thầy Nan-di-ya,

Và thầy Kim-bi-la,

Đang cùng sống chung nhau,

Tu tập trong an lành.O

Thấy Thế Tôn từ xa,

Ba thầy lo tiếp đón,

Người đỡ lấy y bát,

Người sửasoạn chỗ ngồi,

Người đem nước rửa chân,

Rồi đảnh lễ cung kính,

Xong, ngồi xuống một bên.O

Thế Tôn mở lời hỏi:

Này các thầy Tỳ-kheo,

Cuộc sống ở nơi đây,

An lành yên vui chăng,

Hằng ngày đi khất thực,

Có mệt nhọc lắm chăng.

Các thầy đã sống chung,

Có thật sự hòa hợp,

Như thể nước với sữa,

Lòng hoan hỷ tràn đầy,

Không hề tranh cãi chăng ?

Khi nghe hỏi như vậy,

Ba thầy đã thưa rằng:O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Thật sự là như vậy,

Chúng con sống an lành,

Cảm thấy rất yên vui,

Đi khất thực dễ dàng,

Chúng con rất hòa hợp,

Nói lời thuận thảo nhau,

Tràn đầy niềm hoan hỷ.

Thế Tôn khen hỏi tiếp:

Các thầy bằng cách nào,

Thực hiện đời sống ấy ? O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Chúng con hiểu được rằng,

“Thật vô cùng hữu ích,

Khi chúng con sống chung,

Với bạn cùng thanh tịnh”

Nên xử sự với nhau,

Dù trước mặt, sau lưng,

Vẫn một mựctốtđẹp,

Vẫn một niềm quý trọng,

Ở trong từng việc làm,

Ở trong từng lời nói,

Ngay cả trong suy nghĩ. O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Chúng con đã thật sự,

Từ bỏ tâm ý mình,

Để sống tuỳ thuận theo,

Tâm của bạn đồng tu,

Vì thực hiện như thế,

Chúng con tuy khác thân,

Mà tâm vẫn tương đồng.

Do “khác thân giống tâm”

Nên chúng con nhìn nhau,

Trong ánh mắt thiện cảm,

Vui sống ở bên nhau,

Không một lời tranh cãi,

Như nước sữa hòa hợp. O

Này các thầy Tỳ-kheo,

Đời sống của các thầy,

Có nhiệt tâm tinh cần,

Không hề phóng dật chăng ?

Kính bạch Đức Thế Tôn

Chúng con sống như nhau

Ai khất thực về trước,

Lo soạn sẵn nước uống,

Soạn cả nước rửa chân,

Bớt phần ăn của mình,

Dành cho người về muộn.

Ai khất thực về sau,

Có thể dùng nếu cần,

Sau đó sẽ xếp dọn,

Mọi thứ cho gọn gàng.

Khi cần được giúp đỡ,

Chúng con chỉ đưa tay,

Ra hiệu chứ không nói,

Lời nói chỉ được dùng,

Đàm luận chuyện đạo pháp,

Vào những lúc thích hợp,

Nhằm chia sẻ cho nhau,

Điều chúng con tu tập.O

Thế Tôn hết lời khen,

Tiếp tục hỏi các thầy.

Này các thầy Tỳ-kheo,

Các thầy có thể nào,

Chứng được pháp cao thượng,

Được tri kiến thánh nhân,

Được thoải mái an lạc,

Với cuộc sống như thế ?O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Chúng con sẽ nhiếp tâm,

Lìa xa các ham muốn,

Lìa xa các vọng tưởng,

Không khởi tham sân si,

Để trú thiền thứ nhất,

Đó là tâm an ổn,

Với hỷ được phát sinh,

Dùng chút ý nhỏ nhiệm,

Thường hằng kiểm soát tâm,O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Lúc chúng con nhiếp tâm,

Ý thức của chúng con,

Sẽ đạt đến bất động,

Để trú thiền thứ hai,

Đó là tâm an định.

Với hỷ lạc phát sinh,

Dù không còn kiểm soát,

Tâm ấy chẳng lung lay.O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Chúng con sẽ nhiếp tâm,

Để trú thiền thứ ba,

Đó là tâm thanh tịnh,

Với an lạc vi diệu,

Và tỉnh giác hoàn toàn,

Sâu vào trong chánh định,

Tâm sở đắc tan biến O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Chúng con sẽ nhiếp tâm,

Vượt các lớp tâm thức,

Để trú thiền thứ tư.

Đó là một trạng thái

Đã bất động hoàn toàn,

Không cảm thọ khổ vui,

Và vô cùng sáng suốt.O

***

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Chúng con hướng tâm về,

Hư không rộng vô biên,

Với tâm rộng vô lượng,

Không chi phối bởi tưởng,

Để trú định thứ nhất,

Là không vô biên xứ.O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Chúng con trải cái biết,

Phủ trùm không bến bờ,

Để trú định thứ hai,

Là Thức vô biên xứ.O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Tâm lượng càng rộng mở,

Vượt thoát mọi đối tượng,

Sai biệt trong pháp giới,

Thấy rõ "không có gì"

Để trú định thứ ba,

Là vô sở hữu xứ. O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Chúng con vượt qua khỏi,

Vô sở hữu xứ định,

Dùng tâm vô lượng ấy,

Thấy biết cả pháp giới,

Để trú định thứ tư,

Phi tưởng phi phi tưởng.O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Nếu như chúng con muốn,

Chúng con sẽ tiếp tục,

An trú diệt tận định,

Thể tính lặng tuyệt đối.

Từ đó với trí tuệ,

Thấy biết đúng như thật,

Mà đoạn trừ vô minh.O

Kính bạch Đức Thế Tôn,

Đó là hạnh phúc lớn,

Là an trú tối thượng,

Chúng con cùng thành tựu,

Không thấy hạnh phúc nào,

Bằng hạnh phúc ấy cả.O

***

Này các thầy Tỳ-kheo,

Các thầy đã thật sự,

Có hạnh phúc tuyệt vời,

Đã biết sống hòa hợp,

Giữa huynh đệ với nhau.

Sau khi đã ngợi khen,

Đức Thế Tôn ra về,

Các thầy ngồi quanhnhau,

Thầy A-nu-rud-dha

Lên tiếng rằng: Chẳng ai

Nói về điều sở đắc

Về quả vị chứng đạt,

Nhưng tâm tôi vẫn biết,

Tâm huynh đệ như thế,

Mà bạch cùng Thế Tôn,

Mọi chuyện rất rõ ràng.O

Lúc đócó Dạ-xoa

Tên Pa-ra-ja-na,

Đến chỗ Thế Tôn ở,

Đảnh lễ và tán thán,

Sự có mặt của người,

Cùng với các thầy đây,

Đem hạnh phúc lợi ích,

Cho dân chúng Va-di,

Đồng thời các cõi Trời,

Cũng chung nhau ca ngợi,

Thế Tôn và các thầy.O

Thế Tôn bảo Dạ-xoa

Này Di-gha hãy nhớ,

Nếu ai trong loài trời,

Cũng như trong loài người,

Nhớ đến ba thầy đây,

Với tâm niệm hoan hỷ,

Với tâm niệm cung kính,

Là tạo công đức lớn,

Người đó sẽ an lạc,

Sẽ hạnh phúc lâu dài.O

Hãy nhìn xem ba thầy,

Đã sống như thế nào,

Để thể hiện trọn vẹn,

"Lòng thương tưởng chúng sanh,

Vì an lạc hạnh phúc,

Loài Trời và loài Người.”O

Được Thế Tôn chỉ dạy,

Dạ-xoa rất vui mừng,

Tin nhận và làm theo,

Cuộc sống khéo hòa hợp,

Gương mẫu nhất trên đời!O

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (3 lần, xá 3 xá) OOO


--- o0o ---
Chân thành cảm ơn Thầy Nhật Từ đã gởi tặng bản Kinh điện tử này
( Quang Duc Website 04/2002)
--- o0o ---
Trình bày : Nguyên Hân- Nguyên Phúc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 8499)
Trong Đạo Phật, lòng từ bi được đưa lên hàng đầu. vì thương tưởng đến loài chúng sanh bị đói khát, đau khổ mà đức Phật và chư Tổ đã dạy phương Pháp bố thí cho loài Ngạ quỷ, súc sanh...
15/09/2010(Xem: 4115)
Đấng Pháp vương vô thượng, Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người, Cha lành chung bốn loài. Quy y tròn một niệm, Dứt sạch nghiệp ba kỳ, Xưng dương cùng tán thán, Ức kiếp không cùng tận.
13/09/2010(Xem: 3960)
Quán đảnh đã được định nghĩa một cách khái quát là “hành động hay nghi thức ban ý nghĩa tôn giáo (thánh phước) cho những đồ vật, nơi chốn, hoặc con người; thường bằng năng lực và sự thánh thiện” (Bowker, tr. 234). Trong Phật giáo, quán đảnh đã được miêu tả như một nghi thức biến đổi một pho tượng hoặc một ngôi tháp từ một vật thể thế tục thành tinh tủy của một đức Phật (Bentor 1997).
09/09/2010(Xem: 17671)
5 bài kệ hô canh ngồi Thiền được áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
08/09/2010(Xem: 5633)
Lễ nghi trong Phật giáo là bày tỏ lòng thành kính đối với các đấng thành kính. Họ là thầy tổ, là ông bà, cha mẹ và tất cả những người thân, kẻ sơ đã qua đời.
07/09/2010(Xem: 6304)
Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
31/08/2010(Xem: 8098)
Trước cửa Phật lập đàn phổ thí, Cho trọn đều quân lợi âm dương, Quang minh tỏ khắp mười phương, Kính dâng một nén tâm hương ngạt ngào. Cơn mưa tuệ dồi dào tưới khắp, Bóng mây từ che rợp mọi nơi, Lọt đâu dưới đất trên trời, Từ bi tế độ muôn đời viên thông. Trên đức Phật rất công rất chính, Dạy cho đời luyện tính tu tâm, Thương người đọa kiếp tối tăm, Giáo Hội chỉ dẫn khỏi lầm khỏi mê.
27/08/2010(Xem: 46626)
Đi thuyết linh nhiều nơi, thấy nhiều trường hợp oan gia trái chủ hiển bày rất rõ nét, cần phải giải trừ để có một đời sống an lạc. Rất nhiều Phật tử, thấy tâm tư không an khi nhìn lại đời sống đã gây nên tội lỗi oan trái muốn giải trừ, mà chưa có nhận thức đúng đắn.
05/08/2010(Xem: 4512)
Thiết dĩ, thể tánh hư hàm, bí thảo điêu tàn du vị tử, Thiền cơ diệu ngộ, đàm hoa lạc khứ hữu dư hương. Xuất một tự như, Khứ lai vô ngại. Cung duy - Tôn sư: Đạo phong trác thế, Giới đức siêu trần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]