Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 16

03/05/201316:26(Xem: 3979)
Phần 16


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

Phần 16

ÐẠI SƯ THỨ 76:

NAGABODHI

(Kẻ trộm)

Ðó là một gia tài lớn dành cho chúng ta

Và cho những ai sống trên trái đất

Ðể chúng ta tự giải thoát khỏi đói nghèo

Khi ta nắm lưỡi gươm trí tuệ

Với niềm tin sẽ chiến thắng ma quân

Sau cuộc chiến ta vui vầy cùng bạn.

Trong thời gian Ðại sư Arya Nagarjuna (Long Thọ) còn lưu trú tại vùng Suvarna Vihara, có một kẻ trộm đứng rình rập bên ngoài căn nhà. Ðứng nơi ngưỡng cửa, tên trộm thấy Ðại sư đang dùng bữa bằng những bát vàng. Y móng tâm định vào đánh cắp. Ðại sư đọc được ý nghĩ trong đầu kẻ cắp, bèn ra cho hắn một cái cốc bằng vàng.

Thấy hành vi lạ kỳ của Sư, tên trộm phân vân tự hỏi:

- Lão trọc này làm gì thế nhỉ ? Chả nhẽ y có Tha tâm thông.

Ðoạn gã trộm kêu lên:

- Tại sao ngài làm như vậy! Tôi không cần đánh cắp nó đâu.

- Ta là Arya Nagarjuna. Tài sản của ta cũng là của ngươi. Cứ ăn uống thoải mái và ở lại đây bao lâu cũng được. Khi nào chán, muốn ra đi, mi có thể mang theo những gì mà mi thích.

Cung cách lạ thường của nhà Sư chẳng khác nào một nhát gươm chém mạnh vào tâm thức của kẻ kia. Y rạp mình cung kính đảnh lễ và cầu xin Ðại sư thu làm đệ tử.

Ðại sư Nagarjuna truyền cho y phép thuyền định Guhyasamaja:

Giữ tâm không khởi niệm

Quán tưởng một cành gai

An trụ nơi đỉnh đầu

Aùnh sáng màu hồng nhạt

Soi rọi khắp chân thân.

Ðọc bài kệ xong, Ðại sư vận thần thông hoá ra vô số của cải ngọc ngà châu báu khiến kẻ cắp kia vui thích không còn muốn ra đi. Y tu tập thiền định theo lời Sư dạy.

Sau 12 năm khổ luyện, một gai lớn đột nhiên nhổ ra khỏi xương sọ của Nagabodhi làm cho đau đớn đến tột cùng. Ngài thưa với Chân sư Nagarjuna. Sư cười lớn:

Gai kia là sắc ý

Gây thương tích chúng sinh

Ðiên đảo cho là thật

Phiền não không hề vơi.

Các pháp vốn không thật,

Tan, tụ như mây trời

Mây không đem lợi lạc

Mây chẳng não hại ai.

Qua lời dạy của Ðại sư, Nagabodhi liễu tri được tính duyên hợp của các pháp. Ngài tiếp tục tu tập trong 6 tháng thời đắc pháp, gai nhọn kia tự biến mất. Sau đó, Sư truỳên cho Nagabodhi tám đại thần thông và chỉ định ngài là người kế hậu dòng thiền của Nagarjuna.

Tương truyền rằng ngài Nagabodhi lưu lại Sri Darvata hai mươi ngàn năm để đón đức Phật Di-lặc ra đời. ^

ÐẠI SƯ THỨ 77:

DARIKAPA

(Ôâng vua nô lệ)

Cảnh giới thanh tịnh sẵn có trong mỗi chúng ta

Nhưng vô minh che phủ khiến ta không nhìn thấy

Hãy tích luỹ công đức và quán chiếu

Cho dù chúng ta nỗ lực trong nhiều kiếp

Nhưng không có Chân sư chúng ta cũng khó nhìn ra.

Sau một cuộc săn bắn, Ðức vua Indrapala trên đường quay về hoàng cung, ngài đi ngang qua một khu chợ lúc giữa trưa. Ðức vua nhận ra Ðạo sư Luipa trong đám đông đang vái chào ngài. Vua bảo với sư Luipa:

- Ngài là một trang nam tử tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Ðừng ăn những thứ ươn thối nữa. Ta sẽ cung phụng đầy đủ cho ngài tất cả những thứ cần thiết, thậm chí cả Vương quốc của ta, nếu ngài muốn.

- Nếu bệ hạ có thể cúng dường sự trường sinh bất lão, bần tăng sẽ vui lòng đón nhận.

- Ta không có những thứ ấy, nhưng ta có thể tặng ngài Vương quốc lẫn Công chúa, con của ta.

- Tâu Bệ hạ! Ðiều đó chẳng mang lợi lộc gì cho bần tăng.

Ðức vua cảm thấy phân vân, ngài xoay người lại bảo với vị đại thần Bà-la-môn của ngài:

- Qủa thật đúng như lời nhà sư kia nói. Ngai vàng, điện ngọc chỉ mang lại cho ta những phiền toái. Trên đời này, ta chưa hề thiếu thốn một thứ gì, kể cả món ngon, vật lạ, y phục sang trọng, phụ nữ mỹ miều. Ôi! Mọi thứ làm ta chán ngắt.

Sau cuộc kỳ ngộ ấy, vua Indrapala thoái vị, nhường ngôi lại cho vị đệ nhất thái tử. Ngài cùng quan đại thần tìm đến nơi sư Luipa ẩn cư, để học đạo. Sư ân cần tiếp đón và theo ước nguyện của hai người, Luipa truyền cho Samara Ðàn pháp. Cả hai không có vật cúng dường cho Sư nên họ đi đến quyết định cúng dường chính bản thân họ như những người nô lệ.

Kế đó, Sư dẫn hai tân môn đệ đến vùng đất Orissa, băng qua xứ Bhiraputi để tới Jantipur. Ðây là một thành phố lớn gồm ba trăm ngàn hộ gia đình. Trong thành phố này có một ngôi đền lớn. Sống trong ngôi đền là bảy trăm nữ vũ công chuyên trách về nghi thức cúng tế. Sư Luipa tìm đến gặp bà chủ ngôi đền, tên là Darima, hỏi xem bà ta có cần mua nô lệ hay không. Darima nhìn thấy tướng mạo nhà vua, bèn bằng lòng ngay và trao cho sư Luipa một trăm đồng tiền vàng, sau khi thoả thuận hai điều kiện: Một là nhà vua được phép ngủ riêng, hai là nhà vua sẽ được trả tự do sau khi phục vụ đủ thời gian tương xứng với số tiền đã bán. Nhận tiền xong, sư Luipa cùng vị đại thần ra đi.

Nhà vua phục vụ bà chủ ngôi đền trong12 năm. Hằng ngày, ông rửa chân, tẩm quất cho bà cũng như các công việc vặt vãnh khác. Tuy vậy, nhà vua không hề xao lãng lời dạy của Chân sư. Nhà vua luôn luôn tỏ ra tử tế làm thay công việc cho những nô lệ khác, nên rất được mọi người thương mến.

Một hôm nọ, có một nhà vua tên là Kunci mang theo 500 đồng tiền vàng đến ngôi đền để giải trí. Mỗi lần được phục vụ, vua Kunci thưởng cho nhà vua trong lốt nô lệ bảy đồng tiền vàng.

Vào một đêm trời nóng, vua Kunci cảm thấy khó ở trong người, ông đi ra bên ngoài để dạo chơi. Nghe mùi hương thơm kỳ diệu và ánh sáng phát ra từ một lùm cây, nhà vua tò mò đến nhìn. Và thật ngạc nhiên nhà vua thấy kẻ nô lệ kia đang ngồi trên một ngai vàng, chung quanh là 15 thiếu nữ vẻ đẹp như tiên nga đứng hầu, Vua lập tức báo cho bà chủ Darima. Bà này chạy vội đến nơi, quì gọi thưa:

- Chúng con người phàm mắt thịt nên không nhận biết ngài là bậc Thánh tăng. Xin ngài xá cho chúng con tội bất kính đã khiến ngài phục vụ như kẻ tôi tớ.

Sư chỉ mỉm cười, lặng lẽ bay vào không trung.^


ÐẠI SƯ THỨ 78

PUTALIPA

(Kẻ mang ảnh tượng)

Phật tính nằm trong mỗi chúng sinh

Ðừng theo con đường chấp thủ

mà trí giác đã từ bỏ

Cố gắng quay về nẻo Phật tâm

Hiển nhiên ngươi sẽ chứng được đạo

Ai được Chân sư ban pháp lực

Người ấy thâm nhập vào pháp giới

Nếm được vị chung của Tuyệt đối

Dấu ấn Kim cang ấn lên người

Putalipa sinh trưởng ở vùng Bangala, do cơ duyên đời trước nên được một nhà sư Du-già truyền cho phép thiền định Hevajra. Vị Chân sư trao cho Putalipa một bức hoạ Mạn-đà-la, trong đó có tượng của Thủ thần Hevajra và căn dặn:

- Ngươi hãy đeo bức hoạ này ở trước ngực trên đường đi hành đạo.

Putalipa vâng lời thầy tu tập trong 12 năm thời chứng đắc, nhưng không một ai có thể nhận biết điều kỳ diệu này.

Một hôm, Putalipa đến khất thực tại hoàng cung, Ðức vua nước sở tại để y thấy vị Thủ thần Hevajra trong bức hoạ đứng trên vị thần mà nhà vua lâu nay thờ phụng. Hình ảnh này khiến nhà vua cảm thấy bị xúc phạm, ngài quát lớn:

- Có đúng là vị thần của ngươi ngồi lên trên vị thần của ta như ngồi lên trên một chiếc ngai không ?

- Bức hoạ này không do tôi vẽ. Nó là kiệt tác của một nghệ siõ đích thực. Có lẽ nó có vẻ phạm thượng, nhưng sự thật là đúng như vậy.

Nhà vua có vẻ nguôi giận:

- Bức hoạ rất đẹp và đường nét tinh xảo, nhưng cớ sao vị thần của ngươi sử dụng vị thần của ta như một cái ngai ?

- Tâu Bệ hạ! Vị thần của tôi cũng là vị thần của Bệ hạ.

- Ngươi có thể chứng minh cụ thể pháp lực vô biên nơi vị thần của ngươi chăng ?

- Tâu Bệ hạ! Ðiều này không khó! Chỉ cần Bệ hạ sai ngưới vẽ một bức hoạ, mà trong đó vị thần của Bệ hạ ngồi bên trên vị Thủ thần của bần tăng, rồi trải qua một đêm, vị trí của hai Thủ thần sẽ đảo ngược. 

- Nếu sự việc đúng như lời, trẩm thề sẽ qui y Phật pháp.

Ðoạn vua cho vời một hoạ sĩ đến vẽ một bức hoạ theo lời đề nghị của Sư. Qủa nhiên, sáng hôm sau vị trí của các Thủ thần đảo ngược. Qúa cảm phục pháp lực của nhà sư, Vua cùng triều thần xin quy y Tam Bảo. ^

ÐẠI SƯ THỨ 79

UPANAHA

(Thợ đóng giày)

Những mẫu khuôn của một trái tim thanh tịnh

Không phải được tạo bởi vọng tưởng, mà nó tự hiển hiện

Nên thực thể luôn luôn sinh động

Ðể đáp ứng những nhu cầu và khát vọng của ta.

Tại Sendhonagar có một người thợ giày tên gọi là Upanaha. Một ngày nọ tình cờ gặp một nhà sư Du-già đi khất thực trong thành, Upanaha sinh tâm ngưỡng mộ nên đi theo nhà sư ra tận nơi mộ địa. Sư nhận thấy người thợ giày có đầy đủ tín căn nên giảng về Tứ diệu đế và những lợi ích của sự giải thoát. Kế đó, Sư khai tâm cho y:

Những cái chuông do người tạo ra

Ðể gắn lên đôi giày đem bán

Âm thanh reo vui trên đôi chân của kẻ khác

Tiếng chuông rung trên bước chân

Khác nào tiếng âm vang cuộc đời.

Hãy quán niệm rằng

Không có sự phân ly giữa âm thanh ấy.

Upanaha tu tập 9 năm thời dứt vô minh và đạt thần thông Ðại Thủ Ấn.^

ÐẠI SƯ THỨ 80

KOKILIPA

(Kẻ sành điệu)

Vô tác tướng là giáo pháp bí mật

Không ràng buộc là nhận ra nghĩa lớn

Niềm vui không chủ đích là thiền định

Không đạt cái gì là mục đích tối thượng.

Vào những tháng mùa hè nóng nực, Ðức vua Kokilipa thường rời hoàng cung để đến một khu rừng nhỏ gần đấy hầu có thể thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên. Ngài thường ngồi trên những tấm đệm được bọc bằng vải lụa, trong khi các cung nữ vây quanh. Họ ca hát, nhảy múa để cho nhà vua giải trí.

Một lần, trong khi nhà vua đang vui đua với bầy cung nữ, một nhà sư Du-già đến gần để khất thực, nhưng lính canh xua ngài đi. Ðức vua nghe thấy bèn quở mắng đám lính rồi cho vời Sư đến bên cạnh. Vua ân cần tiếp đãi và cúng dường vật thực cho Sư, đoạn hỏi một cách tự mãn:

- Cách sống của Sư và lối sống của ta, cái nào mang lại niềm vui thú nhất ?

- Một đứa trẻ con sẽ trả lời: “Vâng, lối sống của ngài là tuyệt thú nhất”, nhưng một bậc trí sẽ cho rằng cách sống của ngài là một loại độc dược đối với tâm hồn.

- Ý Ðại sư muốn nói gì?

- Nếu Bệ hạ pha trộn quyền lực thế tục với ba độc (tham, sân, si) thời cuộc đời của Bệ hạ sẽ kết thúc một cách thảm hại ; chẳng khác nào uống rượu độc với thức ăn ngon.

Ðức vua Kokilipa vốn thông minh nên nhanh chóng lãnh hội lời dạy của Sư. Ngài quy y với Sư và được truyền cho phép thiền định Samvara. Ngài nhường ngôi lại cho con dể có điều kiện tu tập. Ðức vua thường đến khu rừng để thiền định nhưng tâm ngài hay xao động bởi tiếng hót của loài chim Kohila. Biết trở ngại của đệ tử, Sư nói:

Như những đám mây đen, vần vũ trên bầu trời imvắng.

Tạo cơn mưa thấm nhuần cây cỏ

Sấm nổ trong tai ngươi

Và mưa vọng tưởng rưới lên niềm cảm xúc

Cây ba độc nở hoa

Những đoá hoa phiền não

Kẻ độn hằng yêu thích.

Trong vô tận bản tâm

Bầu trời thường tịch tính

Không sấm sét

Không âm thanh cuồng nộ

Chỉ có mây an lạc

Mang lại những giọt nước ngọt ngào

Nuôi dưỡng cây ngũ thức

Ðấy chính là phép lạ

Của một bậc Trí giả.

Ðức vua nghe theo lời dạy của Chân sư thực hành thiền định sau thời gian 6 tháng thời đắc pháp.

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/07/2015(Xem: 20054)
Là Đà La Ni ( thần chú ) mậu nhiệm linh diệu do Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Diễn nói trong Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm . Hơn 60 năm về trước chư tôn túc Trưởng Lão ở Thừa Thiên đã kính Tín lời dạy của Phật và cũng vì đem sự an lành cho hàng đệ tử Phật, nên các ngài đã in trọn đủ 5 đệ chú Lăng Nghiêm thu nhỏ để cho Phật tử đeo trên thân thể mình, việc phổ lợi nầy bao năm qua đã đem lại diệu lực an lạc cho những ai tin và kính thọ.
06/07/2015(Xem: 18722)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
10/06/2015(Xem: 8489)
Trong Phật giáo Mật tông Tây tạng có nhiều pháp môn tu tập để đưa hành giả đến Tự chứng ngộ Phật tánh của mình. Được xếp hàng cao nhất trong tất cả các pháp môn đó là Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā) của phái Khẩu Truyền (Kargyu) và Đại Hoàn Thiện (Dzogchen hay Ati-yoga) của phái Cổ Mật (Nyingma). Theo các học giả và hành giả Tây tạng thuộc phái Kargyu – tiêu biểu là Khenchen Thrangu Rinpoche, một trong những đại sư xuất sắc thời hiện đại thuộc dòng Karma Kargyu – thì Mādhyamika (Trung đạo hay Trung quán) là giáo lý dạy về nguyên lý Tánh Không (Shūnyatā) trong hình thức tổng quát và Mahāmudrā (Đại Ấn hay Đại Thủ Ấn) là giáo lý dạy về tu tập và chứng ngộ Tánh Không.
18/05/2015(Xem: 22048)
Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (bản Việt dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn) HT Thích Huyền Tôn dịch Hạ tải bản Kinh này: Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (PDF Liên lạc để thỉnh tập sách này tại: Nhà sách Văn Thành Địa chỉ: 235/53 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P7, Q3. TP.HCM ĐT: 848 82028 – 0909 093 106 – 0908 585 560
05/02/2015(Xem: 7473)
Sách Cúng Dường Mây Cam Lồ (Choden Rinpoche) posted Nov 13, 2014, 10:08 PM by Tam Bao Dan [ updated Nov 20, 2014, 10:56 PM by Pema Zangmo ] Một sưu tầm giáo huấn về pháp luyện tâm và các đề tài khác do Choden Rinpoche luận giảng. Gyalten Deying chuyển Việt ngữ. Thanh Liên và Mai Tuyết Ánh hiệu đính. Viet Nalanda Foundation phát hành lầu đầu vào tháng 12 năm 2014. Sách ấn tống không bán. [Đọc sách] Tại Hoa Kỳ và Canada, xin liên lạc vnfbookrequest@gmail.com để nhận sách. Tại Úc Châu, Tân Tây Lan và Đông Nam Á (không kể Việt Nam), xin liên lạc xitrum70@yahoo.com. Tại Việt Nam, xin liên lạc huyen2307@yahoo.com. Quý vị cũng có thể tìm thấy bản điện tử của sách này ở trang "Giáo Pháp" trong phần "Kinh Sách"
24/01/2015(Xem: 7143)
Nghi Thức Cúng Tsog, Chùa Đại Nhật Như Lai - Maha Vairocana Temple 1631 South White Rd, San Jose, CA 95127 Tel: (408)926-1998 -- Email: ThongDat72@yahoo.com
22/12/2014(Xem: 24043)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
28/11/2014(Xem: 8405)
Thrangu Rinpoche sinh ở Tây tạng. Sau khi thoát khỏi Tây tạng sang Ấn độ, sư đã giúp thành lập chương trình giáo dục cho dòng truyền Karma Kagyu của đức Karmapa thứ 16. Sư là thầy dạy các Tulku chính của dòng truyền như Shamar Rinphoche, Situ Rinphoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche, và Gyaltsab Rinpoche. Sư cũng thành lập nhiều tự viện ở Nepal và Ấn độ, và dựng các trung tâm Phật giáo ở Viễn đông, Đức, Anh, Hoa Kỳ, và Ca-na-đa. Sư được biết đến nhiều vì tài nhận lấy những đề tài khó và làm cho chúng trở thành có thể tiếp cận được cho người tu tập. Sư là tác giả một số sách bằng Tạng ngữ và Hoa ngữ gồm hơn 30 quyển bằng Anh ngữ. Hiện tại sư cũng là một trong những vị thầy chính của Karmapa thứ 17.
27/11/2014(Xem: 7057)
Dù một số học giả cho rằng Mật điển của Phật giáo phát xuất từ Ấn giáo (Hinduism), điều này không đúng. Lý thuyết này thịnh hành trong số những người theo học thuyết Tiểu thừa, dựa trên sự tương đồng bề ngoài của các yếu tố trong hai hệ thống, chẳng hạn như sắc tướng của các Hộ Phật, pháp thiền quán về kinh mạch và khí, nghi lễ lửa, v.v... Tuy một số hành trì như trì tụng mật chú đều phổ biến trong cả hai truyền thống Mật điển Ấn giáo và Phật giáo, sự diễn dịch của chúng, ý nghĩa nội tại, có một sự khác biệt lớn. Hơn nữa, Mật điển Phật giáo cao cấp hơn, bởi vì không như Ấn giáo, nó chứa đựng ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ: tâm xả ly, bồ đề tâm và chánh kiến về tánh Không.
24/11/2014(Xem: 16731)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567