Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 11

03/05/201316:16(Xem: 3840)
Phần 11


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

Phần 11

ÐẠI SƯ THỨ 51

PANKAJAPA

(Bà-la-môn thác sanh từ hoa sen)

Bơ vơ giữa cuộc đời

Không một chút kiến thức

Làm sao phân biệt được

Ðá quí với thuỷ tinh

Nhưng với sự nhận thức

Và được sự hướng dẫn của một chân sư

Chúng cũng chẳng khác gì nhau

Vì ánh sáng của mặt trăng,mặt trời

Cũng chỉ là tia chớp của loài đom đóm

Mặc dù Pankajapa thuộc giai cấp Bà-la-môn nhưng sinh ra từ một đoá sen trong một cái hồ lớn ở vùng xa xôi hẻo lánh.Cách hồ ấy không xa có một bức tượng của đức Quán Thế Âm Bồ Tát.Nhưng những người Bà-la-môn lại lầm tưởng là tượng của Ðại Phạm Thiên Vương nên họ thường lui tới để lễ bái cúng dường.Theo phong tục bản xứ,mỗi tín đò đều mang ba nhánh hoa đến cúng dường trước tượng,sau đó lấy một nhánh đặt lên đầu để được ban phúc.

Một ngày nọ,đại sư Long Thọ đí ngang qua đền,ngài ghé lại và cúng dường lễ bái thánh tượng của Bồ Tát.Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện thâu nhận lễ vật và lấy một cành hoa đặt lên đầu đại sư Long Thọ.Pankajapa chứng kiến việc lạ ấy lấy làm ngạc nhiên và ganh tị.Oâng bảo với ngài Long Thọ:

-Ta lễ bái cúng dường bức tượng này suốt 12 năm nhưng chưa hề được ân huệ như thế.Lẽ nào ngươi chỉ lễ bái có một lần duy nhất mà đã được ban phúc.

-Ý nghĩ của ngươi thật bất tịnh.Ðiều này không phải lỗi ở ta.

Pankajapa động tâm hiểu rằng mình đã sai trái,bèn dập đầu xuống đất cầu ngài Long Thọ thu nhận làm đệ tử.Ðại sư nhận lời và điểm đạo cho ông:

Từ bi là niềm vui sướng vô biên

Vì vậy,bậc thánh nhân không phân biệt

Kẻ thân hay người sơ

Như cơn mưa lớn tưới khắp muôn nơi

Ðó là trí tuệ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát

^

ÐẠI SƯ THỨ 52

GHANTAPA

(Người rung chuông)

Tự ban phép lành cho chính mình

Bằng cách buộc tâm ở ba nơi

Kinh lalana ở bên phải

Kiânh rasana ở bên trái

Avadhuti ở ruột cùng

Ðể nắm bắt được chân lý

Kẻ trí giả cần quan tâm đến ba điều:

Chân sư – Tâm – và Hiện tượng

Ghantana vốn là tu sĩ của một đại tu viện thuộc vùng Sri Nalanda.Ngài nổi tiếng là người giữ gìn giới luật tinh nghiêm và thông thạo về Ngũ Minh Môn.Chẳng bao lâu ngài lại rời Nalanda đi vân du đây đó để hoằng dương chánh pháp làm lợi lạc quần sanh và thực hành hạnh vô ngã,cũng là để mở rộng tầm hiểu biết về mọi mặt.

Vào thời đó,hoàng đế Devapala,do công đức thời trước nên cai trị một vương quốc giàu có và thịnh vượng gồm một triệu tám trăm ngàn hộ dân và hai nước chư hầu khác là Kamapura và Bengal.Xứ Kamapura có chín ngàn hộ,xứ Bengal có bốn trăm ngàn hộ,vị chi ngài cai trị cả thảy ba triệu một trăm ngàn hộ dân.

Thủ phủ Pataliputra là nơi mà đạo sư Ghantapa đến để truyền bá đạo pháp.Thường ngày ngài đi khất thực và về nghỉ ngơi dưới một bóng cây đại thọ.Một hôm vị hoàng đế bàn với hoàng hậu rằng:

-Tất cả các pháp đều vô thường.Tất cả chúng sinh đều chịu khổ đau.Tất cả những thấy biết,cảm thọ trong cuộc sống,thật là vô nghĩa.Ðối với công việc triều chính,ta đã chu toàn trách nhiệm,ta đã trải rộng biên cương,lo cho dân lành một cuộc sống bình yên,no đủ.Vậy,chúng ta có nên cúng dường những thứ vật thực cần thiết cho tăng chúng để tích luỹ thêm công đức cho đời sau chăng?

Hoàng hậu nghe qua,bèn tâu;

-Trong nhiều đời thuộc quá khứ,bệ hạ đã từng cúng dường cho các thánh tăng, nên đời này mới được hưởng phước báo.Cớ sao chúng ta lại không tiếp tục tạo dựng công đức cho đời nay lẫn đời sau ? Thần thiếp nghe nói rằng hôm nay có một du tăng từ phương xa đến.Có lời đồn rằng ngài là một bậc đạo hạnh,trí huệ thông suốt như một bậc thánh.Ngài chẳng có gì quí giá ngoài những vật dụng cần thiết và một tấm tọa cụ. Thường ngày ngài đi khất thực loanh quanh.Vậy,ta nên thỉnh ngài đến hoàn cung để dự đại tiệc.Chúng ta sẽ thết đãi ngài tám mươi tư món ăn chính,mười bốn loại thịt ngon,rượu bồ đào và năm loại thức uống khác.Chúng ta sẽ thay chiếc đèn cũ kỹ tù mù của ngài bằng ánh sáng lấp lánh của những viên kim cương.Và rồi,chúng ta sẽ dâng ngài tất cả những thứ giải trí mà vương quốc của chúng ta có thể mang lại.

Nhà vua nghe qua những lời tấu trình của hoàng hậu liền hoan hỷ chuẩn y.Sáng ngày hôm sau vua sai quân hầu đến thỉnh sư nhưng người từ chối,sứ giả đành phải quay về báo lại với đức vua.Ngày hôm sau nữa,đức vua đích thân đi thỉnh sư.Khi nhà vua đến nơi,ngài cúi mình đảnh lễ sư và muốn biết lý do vì sao sư từ chối lời mời đến hoàng cung.Sư đáp:

-Bệ hạ bất tất phải phiền luỵ đến thế.

-Quả nhân vì kính tín đại sư nên mới thân hành đến đây.Mong đại sư quá bước đến hoàng cung.

-Vương quốc của bệ hạ đầy rẫy những điều tác tệ.Ta không đến đâu.

-Cúi mong đại sư hoan hỹ lưu lại với chúng tôi một năm thôi.

Mặc cho đức vua nài nỉ,Ghantapa vẫn một mực từ chối không chịu đến viếng hoàng cung dù chỉ một ngày.Sư bảo:

-Nhà vua đi,đứng,nằm,ngồi đều cũng không tránh được tội lỗi.Thật bất tịnh, nên ta dứt khoát không nhận lời mời.

Thế là,nhà vua đành phải quay về,nhưng ngày nào ngài cũng đến vấn an sư với hy vọng sư sẽ đổi ý,và cứ như thế trong suốt bốn mươi ngày nhưng không đem lại kết quả gì.Cuối cùng nhà vua và hoàng hậu cảm thấy bị xúc phạm quá đáng.Ngọn lửa sân hận bùng cháy trong tâm thức họ.Vua hạ chiếu rao truyền khắp nơi nơi,rằng người nào có thể phá được phạm hạnh của sư Ghantapa sẽ được trao cho nửa vương quốc và được thưởng một trăm cân vàng.

Lúc bấy giờ ở kinh thành Hoa Thị (Pataliputra) có một mụ điếm già tên là Darina luôn luôn mong mỏi có một cuộc sống giàu sang.Khi hay tin ấy bèn tìm đến hoàng cung để hiến kế.Mụ khẳng định với nhà vua rằng mụ có thể thoả mãn yêu cầu của nhà vua và làm cho nhà sư kiêu mạn kia phải thân bại danh liệt.Thế là vua chấp thuận kế sách của mụ.

Darina vốn có một thời oanh liệt ở chốn lầu xanh,mụ biết đủ trăm phương nghìn kế để quyến rủ đanø ông,lại có một cô con gái vô cùng xinh đẹp ở tuổi vừa mới cập kê.Nàng hãy còn rất trong trắng chưa hề bị nhiểm ô bởi cuộc đời.Nàng có một khuôn mặt tựa trăng rằm,dáng đi uyển chuyển,lời nói dịu dàng,ngôn ngoan,một thân hình khiêu gợi và một khuôn ngực tròn đầy.Mụ quyết định:

-Ta sẽ khiến con gái ta đem ông tăng này trở lại với thế giới của dục vọng và ta sẽ phá huỷ đạo hạnh của y.

Trong mười ngày liên tục,mụ già đi đến chổ ở của Ghantapa để cúng dường.Mỗi lần đến như thế,mụ đều tỏ ra rất cung kính đảnh lễ trước ngài.Ðến ngày thứ mười,mụ tiến lại gần bên sư thưa:

-Bạch thầy! Xin thầy cho phép tôi được phục vụ trong suốt mùa Kiết Hạ này.

Ghantapa không hề quan tâm đến mụ.Nhưng từ ngày này sang ngày khác,mụ cứ theo nài nỉ xin được phục vụ ngài và cuối cùng mụ cũng được sự đồng ý của sư.Darina lấy làm vui mừng liền bày ra một cuộc tiệc để ăn mừng cái gọi là sự thành công bước đầu của mình.Mụ ngâm nga luôn miệng:

Mánh khoé của một cô gái giúp nàng thực hiện ước mơ.

Sức quyến rũ của nàng là vũ khí vô cùng lợi hại.

“Bằng mưu mẹo,ta có thể lừa phỉnh cả thế gian này”,mụ tự nhủ thầm,”Sá chi một nhà sư”.Thế là mụ điếm già liếng thoáng phô trương năng lực của mình.

Khi mùa Kiết Hạ bắt đầu,Ghantapa bảo với mụ rằng chỉ nên sai các người nam mang vật thực đến cúng dường.Tuy nhiên,sư không đề cập với mụ việc không cho người nữ đến phục vụ trong kỳ lễ này.Darina bèn ưng thuận.Trong hai tuần lễ đầu,mụ sai toàn những thanh niên mang vật thực gồm gạo và nước suối đến cúng dường.Nhưng đến ngày thứ mười lăm,mụ chuẩn bị một bửa tiệc.Mụ sửa sang,trang điểm cho cô con gái ăn vận lộng lẩy như một nàng công chúa,đoạn sai nàng cùng năm mươi thanh niên mang vật thực đến cúng dường sư.

Mụ căn dặn con gái khi đến nơi phải đứng từ xa quan sát vị trí túp lều của sư.Cô gái vâng theo lời mẹ và cố gắng ghi nhớ những lời mẹ dặn.Sau khi đám thanh niên ra về, cô gái tìm cách lén vào bên trong căn lều của Ghantapa.Khi nhà sư từ trong rừng trở về,ngài thấy vắng đi những người hầu nam và ngài lấy làm ngạc nhiên khi thấy một thiếu nữ ăn vận sang trọng như một công nương đang ở trong chổ ở của ngài.Sư thắc mắc hỏi cô gái:

-Chuyện gì đã xãy ra với các chàng trai vậy?

-Thưa thầy,họ không có thời gian lưu lại nên tiện thiếp phải ở lại để phục vụ ngài.

Sư ăn xong bửa nhưng cô gái vẫn cứ nán lại không chịu ra về.Mãi đến khi sư nghiêm khắc xua nàng về,cô gái đáp:

-Trên trời có những đám mây ngũ sắc,thiếp e rằng trời sắp đổ mưa,vì vậy thiếp nán lại xem thử.

Cô gái lưu lại cho đến khi mặt trời lặn khuất chân trời.Cuối cùng cô nói:

-Mặt trời đã tắt nắng mà tôi không có người đi cùng để hộ vệ.E rằng đi một mình giữa đêm tăm tối sẽ bị cướp mất tư trang và thiệt hại đến tính mạng.

Ðến lúc này không thể từ chối được nên sư đồng ý cho cô ngủ lại ở bên ngoài căn lều.Nhưng khi đêm đến,cô gái hoảng sợ kêu khóc ầm ĩ.Và không biết làm sao hơn,sư đành để cho cô vào bên trong để ngủ.Túp lều lại quá nhỏ dành cho hai người nên tất nhiên thân thể hai người phải chạm vào nhau.Cho đến nữa đêm thân thể hai người quyện vào nhau làm một và họ cùng nhau trải qua bốn từng lạc thú.Sáng ngày hôm sau,Ghantapa yêu cầu cô gái ở lại và họ trở thành một đôi vợ chồng.Một năm sau,đứa con của họ cất tiếng chào đời.

Trong thời gian ấy,nhà vua càng trở nên mất kiên nhẫn hơn.Ngài cứ luôn hỏi thăm mụ Darina về việc thực hiện quỹ kế của mụ đã thành công đến đâu nhưng mụ cứ né tránh mãi.Cho tới ba năm sau,mụ mới đến báo cho nhà vua kết quả của âm mưu hại nhà sư Ghantapa.Ðược tin,nhà vua lấy làm hài lòng phán:

-Bảo với con gái nhà ngươi,trong ba ngày nữa ta sẽ đến viếng thăm nàng và nhà sư.

Ðúng ngày hẹn,vua tập trung dân chúng khởi hành đi đến chổ sư Ghantapa.Vị thầy bèn bàn với người vợ:

-Chúng ta nên ở đây hay đi sang một xứ khác ?

Cô gái muốn ra đi vì cô sợ mọi người sẽ quở mắng và sĩ nhục cô.Vì vậy,Ghantapa dấu đứa bé trong tấm áo choàng,kẹp theo một bình rượu ở nách rồi dẫn vợ ra đi.Rũi ro thay,trên đường đi họ gặp nhà vua ngay ở giữa đường.Nhà vua ngồi trên mình voi cất giọng dè bỉu:

-Cái gì dưới lớp áo của thầy vậy? Và cô gái xinh đẹp này là ai?

-“Ta mang theo bình rượu và đứa bé trong tấm áo choàng là con của ta.” Ghantapa đáp,mắt vẫn nhìn thẳng vào đức vua.

-Khi ta mời thầy đến hoàng cung,thầy từ chối,lại còn chê ta là kẻ tội lỗi.Bây giờ thầy hãy nhìn lại xem! Một thầy tu lại có vợ,có con.Rõ ràng như năm với năm là mười.Thầy là một con người đầy tội lỗi.

-Ta vô tội.Ngươi chớ xỉ nhục ta.

Khi nhà vua lập lại lời cáo buộc một lần nữa,Ghantapa hất tung đứa bé và bình rượu xuống dưới đất.Nữ thần đất lúc bấy giờ cả kinh vội dùng thần thông phụt một dòng nước cực mạnh lên cao hứng lấy đứa bé và bình rượu lơ lững giữa khối nước.Ðứa bé trở thành sấm sét và bình rượu biến thành một cái chuông (Ghanta)

Nhà sư du-già và vợ cùng biến thành hai vị thần Samvara và Varahi trong tư thế âm dương giao hoà.Cả hai bay lên trên không trung,còn nhà vua và đoàn tuỳ tùng bị ngập trong làn nước.Ðám người sắp bị chết đuối sợ hãi nhìn đau đáu lên trời,gào khóc,van xin mong cứu giúp:

-Chúng tôi quy y thầy.

Nhưng lúc ấy,Ghantapa đang ở trong Phẫn Nộ Bất Ðộng Ðại Ðịnh (Samadhi of immutable wrath) nên ngài vẫn giữ im lặng.Khi mọi người sắp nguy khốn thì Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra,dùng một bàn chân chèn nơi chổ đất nứt và làm cho nước trở về chổ cũ,thế là mọi người được cứu sống.Họ mừng rỡ cúi lạy cầu xin sư tha tội.Bấy giờ một tượng Quán Thế Âm bằng đá hiện ra ngay chổ ấy,và cho đến ngày nay ở vị trí nơi chân của bức tượng này vẫn còn phun ra một tia nước nhỏ cao đến sáu thước.Sư xuất định,dạy như sau:

Mặc dù dược thảo và thuốc độc

tạo ra kết quả trái ngược nhau.

Nhưng trong bản chất rốt ráo của chúng,

cả hai đều như nhau

Giống như những thuận duyên và nghịch duyên

trên con đường tu tập

Chúng hữu ích như nhau,

vì vậy chớ nên phân biệt

Bậc trí giả chẳng chối bỏ điều chi

Cớ sao đứa con tinh thần lại không thừa nhận?

Nếu ngươi bị đánh độc đến năm lần,

thời cũng bị lạc lối trong luân hồi vậy.

Qua lời giải thích của sư,nhà vua cùng mọi người từ bỏ các kiến chấp và lối tư duy cũ,họ thấy được niềm tin và đồng lòng quy y pháp.Từ đó,Ghantapa được mệnh danh là “Người giữ chuông”,danh tiếng của ngài vang dội khắp nơi.Trong sáu kiếp thuộc đời quá khứ,cô gái luôn luôn là người khiến cho sư phải từ bỏ phạm hạnh nhưng trong đời này,vì tâm phân biệt của sư không còn nữa;cấu trúc nhị phân trong tâm của ngài đã tan biến trong cảnh giới vô tận của Tánh Không,nên dòng tâm thức của ngài đã phát triển đến mức cùng tột.Ghantapa đặt tên cho con trai của ngài là Vajrapani tức Kim Cương Thủ.Còn cô gái,vợ của ngài,do công đức phục vụ ngài trong nhiều đời nên nay cô cũng thoát khỏi vô minh.Ghantapa có quyền năng và phẩm tính của một vị Phật.

CHÚ GIẢI: Một bản dịch khác liên quan đến đạo sư Ghantapa càng làm sáng tỏ những chổ còn mơ hồ trong truyền thuyết.Theo bản dịch này,Ghantapa vốn là con trai của đức vua Nalanda.Ngài không chịu nối ngôi cha lại đi xuất gia thọ cụ túc giới với hoà thượng Jayadeva Subhadra.Sau đó ngài trở thành quốc sư của vua Nalanda.Ngài gặp Darikapa và được vị này điểm đạo và truyền cho mạn-đà-la Samvara,rồi bảo ngài vào rừng tu tập.Cho đến một hôm ngài nghe một giọng nói vọng xuống từ trên không trung bảo ngài phải đi đến Oddiyana.Vị nữ chân sư của ngài vốn làm nghề chăn lợn.Ban đầu ngài tỏ ý từ chối vì bà này dung mạo cực kỳ xấu xí,nhưng sau đó ngài nhận ra bà chính là một Dakini.Và một lần nữa,vị nữ chân sư này truyền cho ngài Samvara mạn-đà-la.Tại cánh rừng già ở Oddiyana,ngài đã xúc phạm đến đức vua khi ngài từ chối đi cùng với nhà vua vào kinh thành.Cô gái được sai đến để quyến rũ ngài chính là yếu tố còn thiếu trong thiền định của ngài.Ghantapa đã điểm đạo cho cô và nhận cô như là một Dakini của ngài.Mặc dù nhà vua tìm cách nhạo báng nhưng chính thực là Ghantapa vốn vào thành để hoá độ dân chúng.

Tương truyền ngài dùng thần thông hoá hiện ra hai đứa bé,một trai và một gái.Ðoạn dùng một cái muỗng lớn chiết rượu ra,rồi sai chúng đi đổ đầy các bình rượu của mọi nhà trong kinh thành.Sau đó ngài vất cái muỗng xuống đất,khiến nước phụt lên từ một khe nứt.Hai đứa bé biến thành sấm chớp và một cái chuông.Ngài cùng vợ biến thành hai vị thần Samvara.Ðiều này giải thích lý do vì sao Orrisa là nơi mà Kim Cương Thừa được truyền bá rộng rãi.

Truyền thuyết đưa ra một chủ đề lớn đề cập đến sự mông muội của một hạng người tự cho rằng cách tư duy của mình là đúng.Họ chấp chặc vào những nguyên tắc luân lý hữu hạn để kết tội người khác dám có một lối sống vượt thoát khỏi cái thường tình của những quy ước xã hội.Cô gái Dakini trong tiền kiếp đã từng quyến rũ,cám dỗ Ghantapa.Và trong những kiếp ấy,ngài đều bị trói buộc bởi những mệnh lệnh của luân lý.Trong đời này,tâm ngài đã thuần thục nên ngài chấp nhận giáo pháp của một Dakini,đồng thời đạt tới giãi thoát sau khi trãi qua bốn trạng thái an lạc.Tâm thanh tịnh của ngài đã được ấn chứng bởi Ðại Thủ Ấn nên nhà vua đâu thể hiểu rằng “Tâm hoan hỹ không bao giờ ô nhiễm”.Nhà vua tự cho mình có lý khi kết tội “một người đàn ông và một người đàn bà sống trong tội lỗi” vì nhà vua không chấp nhận các thanh tịnh khả hữu nơi người khác.Nếu truyền thuyết nêu rõ rằng thiền định Ðại Thủ Ấn ngăn không cho Ghantapa chấp nhận lời mời của nhà vua thì ở đây thiếu vấn đề trả nghiệp khi nhà vua tìm mọi cách để làm nhục ngài.Trong giáo pháp sư dạy cho nhà vua và mọi người, ngài đã truyền lại cái mà ngài đã chứng nghiệm :”Chớ ưa điều tốt,chớ ghét điều xấu. Hãy chấp nhận mọi thứ như tự thân của chúng.Hãy thâm nhập vào thực thể để nếm được vị chung của các pháp.”Nhưng chính điều này Ghantapa đã không nhận ra trong sáu kiếp quá khứ.Ở đây có hai cặp phạm trù đạo đức.Cuộc sống ban đầu của ngài là một bậc tu hành đầy đủ giới đức và sống phạm hạnh,và về sau là cuộc sống của một nhà du-già phóng khoáng.Hai phương tiện khác nhau nhưng cùng một đích đến.Ðiều này hơi nguy hiểm khi các bậc thầy rao giảng truyền thuyết này cho một người đang bám víu vào các tiêu chuẩn đạo đức nhị phân để tu tập tìm sự thanh tịnh và tỉnh giác,vì y sẽ nhanh chóng cảm thấy hụt hẩng và rơi vào hố thẳm của nghi ngờ và lầm lẫn.Tuy nhiên,không có một sự trùng lắp nào cho thấy những con người bị xã hội ruồng rẫy vì phi đạo đức lại có thể được khai tâm trong môn Tantra này.Những ý niệm luân lý đôi khi cũng là những trở ngại khó vượt qua để thành tựu Bồ Tát nguyện,vì đôi khi những nguyên tắc này có tính quyết đoán và không thoả hiệp với hành động từ bi.

Về mặt lịch sử,Ghantapa là người đồng thời với đệ nhị hoàng đế Devapala (810-830 sau Công Nguyên)Nhưng hình như đây không phải là vị vua mà Ghantapa đã xúc phạm.Devapala là một đại thí chủ rất hào phóng của tu viện Nalanda.Vào thời ấy,xứ Bengal được gọi là Bengala.Nó gồm cả đông và tây xứ Bengal hiện nay,không kể những phần đất của Bihar.Kamapara chính là thành phố tiếp giáp với thung lũng Brahmaputra mà thủ phủ là Pataliputra,gồm cả đông và nam Bihar.


Ghantapa rất nổi tiếng ở Tây Tạng vì sự nghiệp khai sáng dòng tu Samvara Pancakrama.Pancakrama bao gồm các kỹ thuật luyện tập thân thể được Ghantapa đề cập trong mười tám tác phẩm nỗi tiếng của ngài và hầu hết những tác phẩm này điều liên quan đến Samvara Tantra.Ngài nhận được sự khải huyền về Samvara mạn-đà-la từ Kim Cương Thánh Nữ,mà có lẽ bà này chính là người phụ nữ chăn lợn ở Oddiyana, nhưng cũng có thể là nữ du-già Vilasyavajra,đệ tử của sư Dombipa Heruka.Trong dòng Mật Phái Tây Tạng,đôi khi người ta gác bỏ tên của Dengipa qua một bên,nhưng lại đề cập đến Darikapa như là một chân sư của Samvara.Dòng Kalacakra cũng gồm Ghantapa.Ðiều này khiến ngài trở nên là một trong những người Ấn Ðộ đầu tiên được truyền môn Tantra này.Do đó,có thể kết luận rằng môn Tantra này xuất hiện tại Ðông-Ấn vào khoảng thế kỷ thứ 9.

^

ÐẠI SƯ THỨ 53

JOGIPA

(Kẻ hành hương)

Hãy kiên trì chú mục vào ánh sáng trong tâm

Toả sáng rực rở như đầu một ngọn lửa

Tất cả các hiện tượng tĩnh và động

Tan chảy và chìm vào hư vô

Jogipa là một người có năng lực và có cơ duyên với môn Tantra nhưng lại là một người thiểu trí.Mặc dù được chân sư Savanpa truyền cho pháp thuật và kỹ thuật thiền định, ông vẫn không hề có một chút tiến bộ trong việc tu tập.Jogipa đem thắc mắc của mình trình với tôn sư.Sư bảo ông phải đi hành hương đến hai mươi bốn thánh địa và trong lúc đi hành hương phải trì tụng thần chú Kim Cương Tát Ðoã.Jogipa y pháp tu tập trong mười hai năm thì đắc thần thông Ðại Thủ Ấn.

Sau khi đắc pháp,ngài vân du khắp nơi để hành đạo,độ vô số đệ tử.và thọ được năm trăm năm.

^

ÐẠI SƯ THỨ 54

CELULAPA

(Kẻ biếng nhác)

Sau nhiều năm thực hành lời dạy của chân sư

Ta bỗng thấy ...

Ðất,nước,lửa,gió không tồn tại

Tất cả hiện tượng đều là Ðại Ấn.

Celukapa sinh ra trong một gia đình hạ tiện ở vùng Mangalapur.Vốn là một kẻ lười nhác,lúc nào cũng tỏ ra uể oải vì chứng ngủ gật,nhưng Celukapa rất sợ sinh tử luân hồi và nghiệp báo.Một hôm ông đang ngồi dưới một gốc cây thì một nhà sư du-già đi ngang qua,cất tiếng hỏi:

-Chẳng hay hiền hữu lo âu chuyện gì?

-Thưa thầy,tôi đang suy nghĩ làm cách nào để thoát khỏi nghiệp báo.Tôi mong gặp được chân sư truyền thụ pháp thuật nhưng vì quá lười nên không đi tìm.Nay cơ duyên đã đến,mong thầy từ bi nhiếp thọ.

Ðại sư Maitripa bảo:

-Nếu ngươi được khai tâm,điểm đạo thời dứt được bệnh hay ngủ,lại còn có khả năng thoát khỏi luân hồi,nhưng phải nổ lực tu tập.

-Ðệ tử xin vâng mệnh.

Sư Maitripa truyền cho pháp thuật của Samara,dạy cho cách thiền định để khai thông các trung tâm lực.Ngài dặn:

-Hãy tập trung các pháp hiện tượng vào ba nghiệp,thân,khẩu và ý,dẫn hai luồng hoả hầu (Lalana và Rasana)đi vào trung tâm lực (Avadhuti).Quán tưởng thành một cái hồ lớn mà cảm thọ là một con thiên nga trong cái hồ ấy.Dồn tất cả năng lực vào Avadhuti thời người có thể vượt qua sự mệt mõi,hôn trầm và như thế sẽ trụ trong một trạng thái vô niệm và tịch tĩnh.

Celukapa tu tập như vậy trong chín năm thì dứt các vô minh và đạt thần thông Ðại Thủ Ấn.

^

ÐẠI SƯ THỨ 55

GODHURIPA

(Người bẫy chim)

Các hiện tượng bên trong hay bên ngoài

đều từ tâm mà ra

Khi nhận ra bản chất của tâm là ánh sáng

thời ngủ nghỉ,đi lại,mơ mộng và thiền định

đều hiển hiện trong pháp giới

Hiểu được trọn vẹn như vậy

nên ta nhận ra Phật tính

Godhuripa ở xứ Disunagar sống bằng nghề bẫy chim.Một hôm ông đang dùng tấm lưới lớn để bẫy một đàn chim thì gặp một nhà sư du-già.Sư hỏi thăm sự việc.Godhuripa bảo rằng:

-Do nghiệp bất thiện đời trước nên kiếp này tôi phải làm nghề bẫy chim để sống.Dẫu biết rằng đây không phải là một nghề tốt,nhưng không có cách nào khác hơn,thưa đại sư.

-Nếu vậy,đời sau của ngươi lại càng tệ hại hơn nữa.Sao ngươi không tu tập phép Phật để tìm thấy sự an lạc?

-Xin thầy xót thương mà dạy cho pháp giãi thoát.

Sư làm phép khai tâm,điểm đạo cho Godhuripa,rồi dạy rằng:

-Ngươi hãy quán sát tất cả âm thanh trong thế gian này đều là tiếng chim hót.Hai thứ ấy là một,thời chứng vào pháp giới.

Godhuripa tu được chín năm thì dứt vô minh,đắc Ðại Thủ Ấn.Ngài thọ được một trăm năm và độ trên ba trăm đệ tử.

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/07/2015(Xem: 20054)
Là Đà La Ni ( thần chú ) mậu nhiệm linh diệu do Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Diễn nói trong Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm . Hơn 60 năm về trước chư tôn túc Trưởng Lão ở Thừa Thiên đã kính Tín lời dạy của Phật và cũng vì đem sự an lành cho hàng đệ tử Phật, nên các ngài đã in trọn đủ 5 đệ chú Lăng Nghiêm thu nhỏ để cho Phật tử đeo trên thân thể mình, việc phổ lợi nầy bao năm qua đã đem lại diệu lực an lạc cho những ai tin và kính thọ.
06/07/2015(Xem: 18721)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
10/06/2015(Xem: 8489)
Trong Phật giáo Mật tông Tây tạng có nhiều pháp môn tu tập để đưa hành giả đến Tự chứng ngộ Phật tánh của mình. Được xếp hàng cao nhất trong tất cả các pháp môn đó là Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā) của phái Khẩu Truyền (Kargyu) và Đại Hoàn Thiện (Dzogchen hay Ati-yoga) của phái Cổ Mật (Nyingma). Theo các học giả và hành giả Tây tạng thuộc phái Kargyu – tiêu biểu là Khenchen Thrangu Rinpoche, một trong những đại sư xuất sắc thời hiện đại thuộc dòng Karma Kargyu – thì Mādhyamika (Trung đạo hay Trung quán) là giáo lý dạy về nguyên lý Tánh Không (Shūnyatā) trong hình thức tổng quát và Mahāmudrā (Đại Ấn hay Đại Thủ Ấn) là giáo lý dạy về tu tập và chứng ngộ Tánh Không.
18/05/2015(Xem: 22048)
Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (bản Việt dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn) HT Thích Huyền Tôn dịch Hạ tải bản Kinh này: Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (PDF Liên lạc để thỉnh tập sách này tại: Nhà sách Văn Thành Địa chỉ: 235/53 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P7, Q3. TP.HCM ĐT: 848 82028 – 0909 093 106 – 0908 585 560
05/02/2015(Xem: 7473)
Sách Cúng Dường Mây Cam Lồ (Choden Rinpoche) posted Nov 13, 2014, 10:08 PM by Tam Bao Dan [ updated Nov 20, 2014, 10:56 PM by Pema Zangmo ] Một sưu tầm giáo huấn về pháp luyện tâm và các đề tài khác do Choden Rinpoche luận giảng. Gyalten Deying chuyển Việt ngữ. Thanh Liên và Mai Tuyết Ánh hiệu đính. Viet Nalanda Foundation phát hành lầu đầu vào tháng 12 năm 2014. Sách ấn tống không bán. [Đọc sách] Tại Hoa Kỳ và Canada, xin liên lạc vnfbookrequest@gmail.com để nhận sách. Tại Úc Châu, Tân Tây Lan và Đông Nam Á (không kể Việt Nam), xin liên lạc xitrum70@yahoo.com. Tại Việt Nam, xin liên lạc huyen2307@yahoo.com. Quý vị cũng có thể tìm thấy bản điện tử của sách này ở trang "Giáo Pháp" trong phần "Kinh Sách"
24/01/2015(Xem: 7143)
Nghi Thức Cúng Tsog, Chùa Đại Nhật Như Lai - Maha Vairocana Temple 1631 South White Rd, San Jose, CA 95127 Tel: (408)926-1998 -- Email: ThongDat72@yahoo.com
22/12/2014(Xem: 24041)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
28/11/2014(Xem: 8405)
Thrangu Rinpoche sinh ở Tây tạng. Sau khi thoát khỏi Tây tạng sang Ấn độ, sư đã giúp thành lập chương trình giáo dục cho dòng truyền Karma Kagyu của đức Karmapa thứ 16. Sư là thầy dạy các Tulku chính của dòng truyền như Shamar Rinphoche, Situ Rinphoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche, và Gyaltsab Rinpoche. Sư cũng thành lập nhiều tự viện ở Nepal và Ấn độ, và dựng các trung tâm Phật giáo ở Viễn đông, Đức, Anh, Hoa Kỳ, và Ca-na-đa. Sư được biết đến nhiều vì tài nhận lấy những đề tài khó và làm cho chúng trở thành có thể tiếp cận được cho người tu tập. Sư là tác giả một số sách bằng Tạng ngữ và Hoa ngữ gồm hơn 30 quyển bằng Anh ngữ. Hiện tại sư cũng là một trong những vị thầy chính của Karmapa thứ 17.
27/11/2014(Xem: 7057)
Dù một số học giả cho rằng Mật điển của Phật giáo phát xuất từ Ấn giáo (Hinduism), điều này không đúng. Lý thuyết này thịnh hành trong số những người theo học thuyết Tiểu thừa, dựa trên sự tương đồng bề ngoài của các yếu tố trong hai hệ thống, chẳng hạn như sắc tướng của các Hộ Phật, pháp thiền quán về kinh mạch và khí, nghi lễ lửa, v.v... Tuy một số hành trì như trì tụng mật chú đều phổ biến trong cả hai truyền thống Mật điển Ấn giáo và Phật giáo, sự diễn dịch của chúng, ý nghĩa nội tại, có một sự khác biệt lớn. Hơn nữa, Mật điển Phật giáo cao cấp hơn, bởi vì không như Ấn giáo, nó chứa đựng ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ: tâm xả ly, bồ đề tâm và chánh kiến về tánh Không.
24/11/2014(Xem: 16730)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567