Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 09

03/05/201316:12(Xem: 3907)
Phần 09


CÁC BẬC ÐẠO SƯ CỦA ÐẠI THỦ ẤN
Những bài đạo ca và lịch sử hành trạng của
tám mươi tư vị Thánh Tăng Phật Giáo
Masters of mahamudra Of the Eighty-Four Buddhist Siddhas

Nguyên tác : KEITH DOWMAN
Minh họa :
Hugh B.Downs
Chuyển ngữ: Nguyên Thạnh Lê Trung Hưng

---o0o---

PHẦN 9

ÐẠI SƯ THỨ 41

BHUSUKU

(Thầy tu giải đãi)

Ta nếm mùi tân khổ

Cho đến khi nhận ra sự thật này

Trong luân hồi,ta cách xa Phật vô vàn

Nay tỏ ngộ biết niết bàn cùng nơi ấy

Từ đấy ta trở thành viên ngọc quí

Toả sáng trong lòng đại dương mênh mông.

Dưới thời kỳ trị vì của vua Devapala,bảy trăm đồ chúng của đại tu viện Nalanda được nhà vua cung cấp đầy đủ các vật thực, y cụ và những thứ cần thiết khác.Trong số tăng chúng này có một ông hoàng cũng theo tu học.Ngài tu viện trưởng thường lấy làm hài lòmg về sự tiến bộ trong việc tu học của tăng chúng.Tuy nhiên,trong khi các bạn đồng môn tu tập nghiêm túc thì vị tu sĩ vốn dòng hoàng tộc chỉ lo ăn,ngủ và đi dạo loanh quanh để cho tiêu cơm. 

Theo nội qui của tu viện,mỗi tu sĩ đều phải luân phiên tụng niệm những bài kinh mà họ đã học thuộc từ trước.Nhưng Bhusuku không hề nhớ một đoạn kinh nào,lại còn trễ nãi trong việc công phu.Tu viện trưởng bèn cảnh cáo Bhusuku và bảo rằng nếu ông còn phạm Thiền qui sẽ bị trục xuất.Bhusuku không nhận lỗi lầm lại còn chống chế:

-Bạch thầy ! Tôi nào có phạm lỗi gì.Nếu tôi bị duổi thì thật là điều bất công. Lý do đơn giãn tôi không phải là người nhai lại như con vẹt. 

Tuy nhiên,ngài tu viện trưởng vẫn kiên quyết rằng nếu Bhusuku còn tái phạm sẽ bị trục xuât ngay.Sự giãi đãi của Bhusuku từ lâu đã bị các tăng chúng phê phán nên lần này họ rất mong đợi cái giây phút mà Bhusuku nhận lảnh hình phạt. 

Một đêm trước khi đến thời công phu của Bhusuku thì ngài tu viện trưởng đến chổ của Bhusuku,khuyên bảo:

-Lâu nay,ngươi ăn ngủ quá nhiều,mà lẽ ra ngươi phải tinh tấn tu tập mới là chí phải.Nếu ngươi không thể học thuộc kinh để cầu nguyện thì ắt phải bị trục xuất ra khỏi thiền môn.Ta giúp ngươi lần cuối.Ðêm nay ngươi nên trì tụng Văn Thù Chơn Ngôn,thần chú của vị Ðại Trí Bồ Tát,không được ngũ nghỉ.

Nói xong,ngài truyên mật pháp Văn Thù thiền định cho Bhusuku.Sau khi ngài viện trưởng lui về,Bhusuku cột cổ áo lên trên trần nhà để khỏi bị ngã và để khỏi ngủ quyên.Bhusuku khởi công trì chú Văn Thù suốt đêm,đến gần sáng thì liêu phòng của ông tràn ngập ánh hào quang rực rỡ và Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hiện ra.

-Mục đích cầu nguyện của ngươi là gì?

-Ngày mai đến lượt công phu của tôi nhưng tôi không thuộc dòng kinh nào.Vì vậy tôi trì chú này để triệu thỉnh Bồ Tát giúp tôi.

-Ngươi không nhận ra ta sao?

-Thưa,thật tình tôi không nhận biết ngài là ai.

-Ta chính là Văn Thù Bồ Tát.

-Cuối xin Bồ Tát ban cho tôi trí huệ thiện xão của ngài.

-Ta chấp nhận.Vậy,ngày mai ngươi thực hiện nhiệm vụ của mình. 

Nói xong,Văn Thù Bồ Tát biến mất.

Sáng ngày hôm sau đến lượt Bhusuku hành lễ.Theo lệ thường đức vua Devapala cùng quần thần và dân chúng mang hương hoa đến để dâng cúng trong buổi lễ.Mọi người đều thấp thỏm chờ xem sự thất thố của ông tăng thường ngày vốn tỏ ra giãi đãi.Khi Bushuku đến nơi,sư yêu cầu mọi người mang đến cho sư một cái lọng cái để che đầu rồi bước lên pháp toà một cách tự tin.Ngay khi sư vừa dớm chân bước,toàn thân tự nhiên bay bổng và thân phát ra ánh sáng;đồng thời cửa chánh điện tự động khép lại khiến mọi người rúng động tinh thần.Sư xoay người hỏi đức vua:

-Các ngươi muốn ta đọc kinh nhật tụng hay muốn nghe ta thuyết pháp?

Các nhà thông thái,đức vua cùng quần thần nghe sư hỏi như thế liền bật cười.Vua phán:

-Thói quen ăn uống,ngủ nghỉ của đại sư thật lạ thường.Quả nhân cho rằng ngài nên đọc bài kinh riêng của ngài. 

Bhusuku liền ắng giọng đọc tụng một hơi gồm mười phẩm trong bộ kinh Con Ðường Ði Tới Sự Giác Ngộ ( Boddhicanjavatra).Ðọc xong,toàn thân sư bay bổng giữa không trung.Mọi người tung hoa tán thán công đức của sư.Họ bảo nhau:

-Ðây không phải là một Bhusuku giãi đãi,lười biếng,ham ăn,mê ngủ.Ðây là một vị thánh tăng.Chúng ta nên tôn vinh ngài làm tu viện trưởng. 

Nhưng Bhusuku từ chối lời đề nghị.Sư cúng dường những thứ mình có cho tu viện,rồi bỏ đi đến một thành phố khác.Ðến Dhokiri,một thành phố có hai trăm năm chục hàng hộ dân cư,sư tự làm cho mình một thanh gươm bằng gỗ,bên ngoài mạ vàng trông giống như một bảo kiếm thực sự.Sư dến hoàng thành xin được làm lính canh,nhà vua đồng ý và trả cho ngài tám đồng tiền vàng mỗi ngày.Vào thời ấy,số tiền lương này rất có giá trị,và ngài lưu lại cung điện này suốt mừơi hai năm.Mặc dù ở địa vị lính canh nhưng Bhusuku vẫn luôn luôn tu tập.

Bấy gời trời đã vào thu,là lúc dân chúng trong vùng đón mừng lễ hội Ðại Mẫu Umadevi nên Bhusuku thường cùng các đồng liêu đi tuần canh để giữ gìn trật tự.Một hôm đám lính canh đang lau chùi vũ khí,một người trong bọn họ phát hiện ra vũ khí của Bhusuku,nay có tên là Shantideva,dường như được làm bằng gỗ.Họ trình tấu mối nghi ngờ của họ lên nhà vua.Nhà vua cho vời Shantideva đến và ra lệnh :

-Tên lính canh kia! Hãy đưa gươm của ngươi cho ta xem.

-Tâu bệ hạ! Ðiều này rất nguy hiểm.

-Hãy làm theo lệnh của ta.Ta sẽ chịu trách nhiệm nếu có sự cố gì xãy ra.

Cuối cùng Santideva đành phải tuân lệnh,ngài nài nỉ:

-Vậy thì xin bệ hạ và tất cả mọi người dùng tay che một con mắt.

Mọi người làm lạ nghe theo,Santideva đưa tay tuốt gươm.Tức thời một ánh sáng rực rỡ chói loà phát ra từ thanh kiếm làm cả bọn người ở đấy mù đi một con mắt.Bọn họ kinh hải khóc lóc quì sụp xuống trước Santideva cầu xin ngài thứ tội.Santideva dùng tay xoa nhẹ lên mắt của họ,lập tức họ trông thấy như cũ.Nhà vua lấy làm cảm kích thỉnh cầu ngài ở lại hoàng cung làm quốc sư.Nhưng một lần nữa nhà sư chối từ địa vị cao quí ấy và giả từ xứ Dhokiri để đi đến trú ngụ tại một hang động xa xôi hẽo lánh trên một dãy núi cao.Một hôm những người đốn cũi bắt gặp ngài đang giết những con nai để ăn thịt bèn về tâu lại với nhà vua.Lấy làm ngạc nhiên,vua cùng một số quân hầu đến nơi Santideva trú ngụ để tìm hiểu sự tình.

-Ngài là bậc đạo hạnh,cớ sao lại còn ra tay sát hại chúng sinh.

-Ta không phải là kẻ hàng thịt.Ta chỉ chửa bệnh cho chúng mà thôi.

Nói xong,sư mở cửa hang,bầy thú chạy ùa ra ngoài nắng ấm,trông chúng to lớn gấp bội lần những con nai bình thường.Chúng chạy nhảy tung tăng khắp nơi rồi biến mất sau dãy đồi.Sư quay lại bảo:

-Các ngươi nên hiểu rằng tất cả những gì mà các ngươi thấy biết cảm thọ cũng chỉ là mộng huyển và ảo tưởng.Các pháp không có tự thể.Nếu các ngươi thông đạt lý ấy thời đặng giãi thoát.

Ðoạn Santideva cất tiếng hát:

Con thú mà ta giết lấy thịt

Không hề hiện hữu trên thế gian này

Không hề đến,không hề đi

Cũng như các hiện tượng khác

Thực tướng của kẻ đi săn và con mồi là gì ?

Than ôi!Các ngươi thật tội nghiệp

Ðã gọi ta là ông sư giãi đãi

Santideva làm lễ quy y cho nhà vua và đoàn tuỳ tùng,dạy phép thiền định và truyền Văn Thù Chơn Ngôn.^

ÐẠI SƯ THỨ 42

INDRABHUTI

(Ông hoàng giác ngộ)

Ngay lúc thuận duyên nhất

Y cũng không thể giác ngộ

Nếu như không có sự cứu độ

Của một bậc đạo sư

Không có một vật gì ở trong hay ở ngoài

Có thể làm cho một nhà du-già tỉnh thức

Không có sự phân biệt giữa niết-bàn và Phật

Hãy cắt đứt những hệ phược

Thời nhận ra bản chất của niết bàn.

Vùng Oddiyana thời ấy chia làm đôi gồm hai vương quốc :Sambhola và Lankapuri. Ðức vua Indrabhuti đứng đầu xứ Sambhola,còn xứ Lankapuri do đức vua Jalendra cai trị.Vua Indrabhuti có người em gái lên bảy tuổi,tên gọi là Laksminkara,tuy còn bé nhưng dung nhan mỹ miều nên ông vua xứ láng giềng Jalendra muốn xin cưới nàng

cho con trai của mình.Jalendra gỡi sứ điệp sang vương quốc Sambhola nói rõ ý định của mình.

Sau khi tiếp nhận điệp văn của vua xứ Lankapuri,cả triều đình luận bàn rằng trở ngại duy nhất của cuộc hôn nhân là sự khác biệt về tín ngưỡng;một bên thờ Phật còn bên kia thì thờ Phạm Thiên,cho nên cách tốt nhất là để đôi bên trai gái có cơ hội tìm hiểu và cần có thời gian để san bằng các dị biệt.Tuy nhiên,Indrabhuti vẫn cho phép họ đính hôn với nhau.

Năm năm sau,hoàng tử xứ Sambhola đến viếng thăm hôn thê của mình,Laksminkara. Trước khi vị hoàng tử trở lại cố quốc,vua Indrabhuti ban cho chàng rất nhiều vàng,bạc,ngựa,voi.Vua Jalendra lấy làm ngạc nhiên khi không thấy cô dâu theo về cùng nhưng ngài cũng tỏ ra hài lòng khi hoàng tử giải thích rằng cô dâu còn quá nhỏ để có thể rời bỏ gia đình.

Vua Indrabhuti có rất nhiều thê thiếp và tất cả các bà phi này đều là tín đồ đạo Phật. Nhân một hôm chân sư Kambala du hành đến xứ Sambhola,các bà phi cùng quận chúa Laksminkara ra đón tiếp ngài để được thụ pháp.Sau khi được điểm đạo, quận chúa tu tập rất miên mật cho tới tuổi mười sáu thì vua Janlendra sai người sang đón về nhà chồng.Nhưng khi đến xứ Lankapuri,quận chúa đã tìm cách thoát thân và trốn vào một hang động để tu tập cho tới lúc hoàn toàn chứng đắc.

Vua Indrabhuti nghe tin em gái bỏ trốn,ngài tự nhủ thầm:

-Em gái ta non dại mà còn giác ngộ Phật pháp một cách sâu đậm như vậy.Ta nghĩ thật là hổ thẹn cho bản thân.

Suy nghĩ như thế,vua bèn thoái ngôi,giao lại ngai vàng và công việc triều chính cho ngừơi con cả,còn bản thân ngài đi đến một lâu đài nhỏ để tu tập trong mười hai năm thì đắc thần thông Ðại Thủ ấn,nhưng không một ai biết được sự thành tựu này.

Một ngày nọ hoàng tử cùng đoàn tuỳ tùng đến vấn an vua cha,khi họ định mở cửa thì một giọng nói từ trên cao vọng xuống:

-Không cần vào ! Ta ở trên này.

Mọi người nhìn lên,thấy đức vua ngự trên ngai vàng ở giữa hư không.Họ sung sướng rạp mình đãnh lễ.Ngài Indrabhuti ngự giữa không trung suốt bảy ngày để thuyết giảng diệu pháp cho con trai và đoàng tuỳ tùng.^

ÐẠI SƯ THỨ 43

MEKOPA

(Kẻ có tia nhìn dữ dội)

Chân sư truyền:

“Hãy nhận ra bản chất của tâm ngươi”

Ðoạn ngài nói:

“Chớ phân biệt các pháp”

Hãy kết bạn với “kẻ không hai”

Hãy sống nơi mộ địa

Ngươi sẽ nhận ra nguyên lý “nhất như’”

Hãy đi vào cuộc đới

Khật khùng như bậc thánh

Mekopa làm nghề bán cơm,nhưng ông tốt bụng và thường ngày ông hay bố thí cho một nhà sư du-già.Một ngày nọ nhà sư du-già hỏi lý do vì sao Mekopa đối xử như vậy:

-“Tôi đang tích luỹ công đức để mong đời sau được khá hơn.” Mekopa đáp.

-Nếu muốn thế nhà ngươi nên tu tập thiền định.

Sư làm phép hoán nghiệp và điểm đạo cho Mekopa,rồi truyền tâm pháp:

Tâm ngươi là ngọc như ý

Niết bàn địa ngục là đây

Biết và không biết là hai

Cả hai vốn từ đâu tới?

Kìa ! Vũ trụ trong tâm ngươi

không tăng giảm

Vì các pháp là do ảo ảnh

Mê muội cho là thật

Nên bị trói buộc mãi

Mekopa nhận ra rằng tất cả các hiện tượng chỉ là những mảnh vụn trong tâm mà tâm của ngài là không bao la vô tận,không một vật đến và không một vật đi.Ngài trụ trong trạng thái định tưởng như thế suốt sáu tháng.Sau khi xuất định,Mekopa đi lang thang khắp nơi,khi ở mộ địa,khi ở trong nội thành,hành vi bí hiểm,đôi mắt lúc nào cũng lấp lánh ánh sáng dữ dội.Ngài hoằng pháp khắp nơi và độ vô số đệ tử.^

ÐẠI SƯ 44

KOTALIPA

(Ngừơi bán rong)

Tất cả niềm vui và đau khổ phát xuất từ tâm

Hãy vâng lời chân sư đào xới mảnh đất tâm

Ngay cả một bậc trí còn khổ nhọc

Lao động quên mình trên núi đá

Nhưng chẳng hề nhận ra niết bàn nơi tâm mình

Giác thức nằm một góc trong tâm

Sáu trần cảnh là một dòng lạc thú

Các ảnh tượng mơ hồ là vô ích

Chúng chỉ là nguyên nhân của âu lo

Vì vậy,hãy xã thiền

Và nghĩ ngơi trong gió mát của thiên nhiên

Kolipa gặp được chân sư Santipa trong khi ông đang khai hoang vở đất ở một vùng núi cao.Lúc ấy đại sư Santipa đang trên đường từ Sri Lanka về lại quê nhà ở Ma-kiệt-đà. Rời khỏi vùng Ramesvaram bốn ngày đường thì Santipa gặp Kotalipa,Kotalipa dừng tay làm việc ngắm nhìn đại sư đi qua.Santipa gọi Kotalipa đến gần và hỏi thăm. Kotalipa chắp tay vái chào và đáp:

-Tôi là tiện dân,vì chiến tranh nên trôi dạt đến vùng này.Ngày ngày khai hoang vở đất để trồng trọt sống qua ngày.

-Ta có một câu thần chú dùng để đào núi,lấp sông.Ngươi có khứng nhận để tu tập không?

Kotalipa nhận lời.Sư ngữa mặt lên trời nói:

-Bởi vì tất cả khổ lạc từ tâm ngươi sinh ra,nên phải luôn giữ cho tâm được thanh tịnh.Bản chất thanh tịnh trong tâm ngươi cũng không hề thay đổi như ngọn núi kia vậy.Niềm vui và nỗi buồn chỉ là những chức năng của tâm.Ngươi có thể xẻ núi, lấp sông nhưng có thể không bao giờ ngươi nhận ra bản chất thanh tịnh an lạc của tâm.Kotalipa thiền định theo lời dạy của sư sau mười hai năm thì chứng đắc.^

ÐẠI SƯ 45

KAMPARIPA

(Thợ rèn)

Thân ta là bể rèn

Ðốt hòn than vọng tưởng

Bơmhơi vào hai ống

Nhâm mạch và đốc mạch

Nhóm lửa thanh tịnh thức

Ðốt chảy sắt ba độc

Ta rèn được pháp giới

Chân lý là đây rồi.

Nghề rèn vốn là công việc cha truyền con nối nên Kamparipa khi lớn lên cũng kiếm sống bằng nghề gia truyền ấy.Nhân một hôm có nhà sư du-già đến viếng thăm,Kamparapa tâm sự:

-Tôi đang làm cái công việc mà từ đời tổ phụ đến đời cha tôi đã làm.

-Ngươi có cảm thấy sung sướng và hài lòng với công việc thường ngày không?

-Làm thế nào mà sung sướng được !Suốt ngày sức nóng của than hồng làm rát bỏng cả mặt mũi tay chân.Tôi bất đắc dĩ phải làm nghề để kiếm ăn qua ngày.

-Vậy ngươi có thể cho ta một ít thức ăn được chăng?

Hai vợ chồng người thợ rèn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy sư xin thức ăn từ những người ở giai cấp hạ tiện như họ,nhưng họ cũng vui vẻ cúng dường cho sư.Aên xong,sư hỏi họ có muốn thọ lảnh Phật pháp hay không.Họ cung kính thưa:

-Không ai hạ mình truyền trao giáo pháp cho những người dân nghèo khổ bần cùng như chúng tôi,thưa đại sư :

-Nếu các ngươi phát nguyện tu tập,ta sẽ truyền cho pháp đại thừa.

Nghe nói,hai vợ chồng vui mừng đảnh lễ vị đạo sư của họ.Sư làm phép khai tâm điểm đạo,truyền cho họ phương pháp thiền định và kỹ thuật khai mở các luân xa.

-Các ngươi có thể sử dụng các vật thường ngày làm đối tượng thiền định.Hai ống thụt là hai luồng hoả hầu.Tim là trung tâm lực,ý thức là thợ rèn,giác thức thanh tịnh là lửa,sắc ý là than.Ðập sắt ba độc cho đến khi chúng trở nên niềm vui thanh tịnh.

Hãy lấy việc làm thường ngày

làm thiền định

Hai ống thụt là hai luồng hoả hầu

Lalana nằm bên phải

Rasana nằm bên trái

Ðốt sắc ý cho tan chảy

Rót vào huyệt đạo Avadbhuti

Lửa giác ngộ làm tan chảy ba thanh sẵt độc

Tan vào pháp giới vô tận

^

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/07/2015(Xem: 20054)
Là Đà La Ni ( thần chú ) mậu nhiệm linh diệu do Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Diễn nói trong Bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm . Hơn 60 năm về trước chư tôn túc Trưởng Lão ở Thừa Thiên đã kính Tín lời dạy của Phật và cũng vì đem sự an lành cho hàng đệ tử Phật, nên các ngài đã in trọn đủ 5 đệ chú Lăng Nghiêm thu nhỏ để cho Phật tử đeo trên thân thể mình, việc phổ lợi nầy bao năm qua đã đem lại diệu lực an lạc cho những ai tin và kính thọ.
06/07/2015(Xem: 18719)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ.
10/06/2015(Xem: 8489)
Trong Phật giáo Mật tông Tây tạng có nhiều pháp môn tu tập để đưa hành giả đến Tự chứng ngộ Phật tánh của mình. Được xếp hàng cao nhất trong tất cả các pháp môn đó là Đại Thủ Ấn (Mahāmudrā) của phái Khẩu Truyền (Kargyu) và Đại Hoàn Thiện (Dzogchen hay Ati-yoga) của phái Cổ Mật (Nyingma). Theo các học giả và hành giả Tây tạng thuộc phái Kargyu – tiêu biểu là Khenchen Thrangu Rinpoche, một trong những đại sư xuất sắc thời hiện đại thuộc dòng Karma Kargyu – thì Mādhyamika (Trung đạo hay Trung quán) là giáo lý dạy về nguyên lý Tánh Không (Shūnyatā) trong hình thức tổng quát và Mahāmudrā (Đại Ấn hay Đại Thủ Ấn) là giáo lý dạy về tu tập và chứng ngộ Tánh Không.
18/05/2015(Xem: 22048)
Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (bản Việt dịch của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn) HT Thích Huyền Tôn dịch Hạ tải bản Kinh này: Du Già Diệm Khẩu Thí Thực Khoa Nghi (PDF Liên lạc để thỉnh tập sách này tại: Nhà sách Văn Thành Địa chỉ: 235/53 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P7, Q3. TP.HCM ĐT: 848 82028 – 0909 093 106 – 0908 585 560
05/02/2015(Xem: 7473)
Sách Cúng Dường Mây Cam Lồ (Choden Rinpoche) posted Nov 13, 2014, 10:08 PM by Tam Bao Dan [ updated Nov 20, 2014, 10:56 PM by Pema Zangmo ] Một sưu tầm giáo huấn về pháp luyện tâm và các đề tài khác do Choden Rinpoche luận giảng. Gyalten Deying chuyển Việt ngữ. Thanh Liên và Mai Tuyết Ánh hiệu đính. Viet Nalanda Foundation phát hành lầu đầu vào tháng 12 năm 2014. Sách ấn tống không bán. [Đọc sách] Tại Hoa Kỳ và Canada, xin liên lạc vnfbookrequest@gmail.com để nhận sách. Tại Úc Châu, Tân Tây Lan và Đông Nam Á (không kể Việt Nam), xin liên lạc xitrum70@yahoo.com. Tại Việt Nam, xin liên lạc huyen2307@yahoo.com. Quý vị cũng có thể tìm thấy bản điện tử của sách này ở trang "Giáo Pháp" trong phần "Kinh Sách"
24/01/2015(Xem: 7141)
Nghi Thức Cúng Tsog, Chùa Đại Nhật Như Lai - Maha Vairocana Temple 1631 South White Rd, San Jose, CA 95127 Tel: (408)926-1998 -- Email: ThongDat72@yahoo.com
22/12/2014(Xem: 24038)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
28/11/2014(Xem: 8404)
Thrangu Rinpoche sinh ở Tây tạng. Sau khi thoát khỏi Tây tạng sang Ấn độ, sư đã giúp thành lập chương trình giáo dục cho dòng truyền Karma Kagyu của đức Karmapa thứ 16. Sư là thầy dạy các Tulku chính của dòng truyền như Shamar Rinphoche, Situ Rinphoche, Jamgon Kongtrul Rinpoche, và Gyaltsab Rinpoche. Sư cũng thành lập nhiều tự viện ở Nepal và Ấn độ, và dựng các trung tâm Phật giáo ở Viễn đông, Đức, Anh, Hoa Kỳ, và Ca-na-đa. Sư được biết đến nhiều vì tài nhận lấy những đề tài khó và làm cho chúng trở thành có thể tiếp cận được cho người tu tập. Sư là tác giả một số sách bằng Tạng ngữ và Hoa ngữ gồm hơn 30 quyển bằng Anh ngữ. Hiện tại sư cũng là một trong những vị thầy chính của Karmapa thứ 17.
27/11/2014(Xem: 7057)
Dù một số học giả cho rằng Mật điển của Phật giáo phát xuất từ Ấn giáo (Hinduism), điều này không đúng. Lý thuyết này thịnh hành trong số những người theo học thuyết Tiểu thừa, dựa trên sự tương đồng bề ngoài của các yếu tố trong hai hệ thống, chẳng hạn như sắc tướng của các Hộ Phật, pháp thiền quán về kinh mạch và khí, nghi lễ lửa, v.v... Tuy một số hành trì như trì tụng mật chú đều phổ biến trong cả hai truyền thống Mật điển Ấn giáo và Phật giáo, sự diễn dịch của chúng, ý nghĩa nội tại, có một sự khác biệt lớn. Hơn nữa, Mật điển Phật giáo cao cấp hơn, bởi vì không như Ấn giáo, nó chứa đựng ba điểm tinh yếu của đường tu giác ngộ: tâm xả ly, bồ đề tâm và chánh kiến về tánh Không.
24/11/2014(Xem: 16730)
Tập sách nhỏ “Du-già Tây Tạng, Giáo Lý và Tu Tập” này được dịch từ bản văn tiếng Anh có nhan đề là “Teachings of Tibetan Yoga” do Giáo sư Garma C. C. Chang – giảng sư của Tu viện Kong Ka ở miền Đông Tây Tạng khoảng trước năm 1950 – biên dịch từ Hoa ngữ, do nhà xuất bản Carol Publishing Group ấn hành năm 1993 tại New York, Hoa Kỳ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567