Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Thiền quán và tâm từ bi

21/02/201115:20(Xem: 3470)
3. Thiền quán và tâm từ bi

SỐNG THIỀN
Nguyên Minh

CHƯƠNG III: TÂM VÀ CẢNH

Thiền quán và tâm từ bi

Khi chúng ta hiểu biết và cảm thông với một người, ta dễ dàng chia sẻ được những khó khăn cũng như những niềm vui, nỗi buồn của người ấy. Sự cảm thông càng sâu sắc, tình cảm phát sinh càng đậm đà hơn. Các bậc cha mẹ sở dĩ yêu thương con cái một cách vô điều kiện là vì họ hiểu được chúng, cảm thông sâu xa với chúng nhờ vào quan hệ huyết thống. Đối với những người xa lạ, để có được sự cảm thông chúng ta cần phải có được sự hiểu biết về họ, và sự hiểu biết đó có được là nhờ vào một quá trình chú tâm tìm hiểu. Nếu chúng ta sống thờ ơ bên cạnh một con người nào đó, thì dù trải qua thời gian bao lâu đi nữa, ta cũng sẽ biết rất ít về họ, thậm chí đôi khi có thể là không biết gì. Nhưng chỉ cần một thời gian ngắn thật sự quan tâm đến ai, ta có thể nhanh chóng hiểu được những tình cảm, tâm sự của họ... Và càng hiểu nhiều, ta càng dễ cảm thông; càng cảm thông sâu sắc càng dễ nảy sinh tình cảm thương yêu.

Khi chúng ta thực hành thiền quán, chúng ta biết được rất nhiều điều mà trước đây ta không biết. Ta thấy ra được sự tương quan mật thiết giữa vạn vật. Tính chất duyên khởi của sự vật cho ta thấy bất cứ sự vật nào cũng đều có quan hệ đến ta. Mỗi một sự sống đều có mối quan hệ “huyết thống” với ta, bởi vì ta biết rằng trong đó có một phần của ta cũng như chính ta đang mang trong mình một phần của sự sống ấy.

Sự hiểu biết ấy giúp chúng ta cảm thông được với mọi sinh vật. Chúng ta chia sẻ được những niềm vui, nỗi buồn của từng con ong, con kiến cho đến ngọn cỏ, cành hoa... Bởi vì ta thấy được nơi chúng cũng tràn đầy tuệ giác như trong ta. Từ đó ta biết được rằng sự sống nơi một con sâu bé nhỏ cũng quý giá không kém gì sự sống nơi ta.

Bởi vậy, người thực hành thiền quán không thấy hứng khởi khi phải ra tay giết hại bất cứ một sinh mạng nào. Ngược lại, nếu phải làm điều đó, chúng ta luôn cảm nhận được nỗi đau của sinh mạng bị giết, bởi ta biết rằng ta đang tự tay giết hại một phần sự sống của chính mình.

Do đó, khi thực hành thiền quán, việc sát sanh không còn chỉ là một điều răn dạy không nên phạm vào, mà đã trở nên một tình cảm chân thành xuất phát từ tự tâm chúng ta luôn yêu thương và tôn trọng sự sống. Lòng yêu thương đó có được chính là nhờ nơi sự hiểu biết sáng suốt mang lại bởi thiền quán. Một khi bạn đã nhận biết ra mối quan hệ trong bản chất sự vật, bạn tất yếu sẽ phát khởi tình thương. Mức độ quán chiếu càng sâu, sự hiểu biết càng rộng thì tình thương càng lan tỏa mênh mông bao trùm khắp cả muôn loài. Hơn thế nữa, tâm từ bi ấy không chỉ là hoa trái có được nhờ vào tuệ giác, mà nó còn chính là tuệ giác. Nên tuệ giác càng chiếu sáng thì tâm đại bi càng mạnh mẽ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9444)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7697)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9401)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 6932)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13366)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5168)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6517)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2236)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14022)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 13915)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567