Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Thiền để tỉnh thức

21/02/201115:20(Xem: 3788)
13. Thiền để tỉnh thức

SỐNG THIỀN
Nguyên Minh

CHƯƠNG I: CUỘC SỐNG NHIỆM MẦU

Thiền để tỉnh thức

Vâng, đúng vậy. Nếu có ai hỏi tôi mục đích của thiền là gì, tôi sẽ không ngần ngại mà nói ngay đó là sự tỉnh thức. Nếu bạn luôn sống trong sự tỉnh thức, bạn không cần phải học thiền, thực hành thiền, vì bản thân bạn đã có một cuộc sống thiền rồi.

Như vậy, khi ngồi thiền chúng ta phải suy nghĩ những gì để đạt được sự tỉnh thức? Thật ra, chúng ta không suy nghĩ gì cả. Vì nếu bạn có suy nghĩ một điều gì đó khi ngồi thiền, bạn chưa thực sự biết ngồi thiền.

Việc đầu tiên hết khi chúng ta ngồi thiền là thư giãn đầu óc. Chúng ta đã có quá nhiều tư tưởng, ý niệm trong những lúc bình thường, và đến với thiền trước hết là để dừng nghỉ cái “quá nhiều” đó.

Chúng ta không thể vận dụng sự suy nghĩ để đạt đến chỗ “dừng nghỉ”, vì điều đó hoàn toàn vô lý và không thể làm được. Tuy vậy, không ít người đã cố làm. Bằng cách ấy, chúng ta thật ra đang cố thay thế cái “quá nhiều” này bằng một cái “quá nhiều” khác mà thôi...

Khi chúng ta giải một bài toán khó, hoặc suy nghĩ về cách giải quyết một vấn đề khó khăn... chúng ta đôi khi cũng ngồi lặng hàng giờ và không còn biết gì khác ngoài vấn đề đang suy nghĩ. Một số người là cho trạng thái này gần giống với trạng thái nhập định của người ngồi thiền. Tuy nhiên, khác biệt lớn nhất ở đây là sự “suy nghĩ” và “không suy nghĩ”. Khi chúng ta suy nghĩ, đầu óc ta phải hoạt động và vì thế nó tất nhiên là phải mỏi mệt. Khi chúng ta ngồi thiền, không có sự suy nghĩ, vì thế nó có tác dụng khôi phục tinh thần, hàm dưỡng trí óc chứ không làm cho chúng ta mệt mỏi.

Sự khởi đầu của rất nhiều người khi đến với thiền là không phân biệt được điều này. Cho dù là dùng phương pháp đếm hơi thở, theo dõi hơi thở hoặc tham khán thoại đầu... điều tất yếu là không dụng công suy nghĩ, phân tích. Khi chúng ta bắt đầu ngồi thiền, chúng ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm để soi rọi vào dòng sông tư tưởng, để nhận biết tất cả những biến chuyển trong đó. Vì thế, chúng ta thường xuyên biết được mình đang có những ý niệm nào trong tâm tưởng và diễn tiến của chúng như thế nào. Chúng ta cũng làm tương tự như vậy khi các cảm xúc được sinh ra, chẳng hạn như sự buồn phiền, vui mừng, giận dữ hoặc bực tức...

Nhưng thường xuyên nhận biết hoàn toàn không có nghĩa là phân tích, suy diễn. Khi chúng ta phân tích, suy nghĩ về một vấn đề, chúng ta thực sự làm việc đầu óc và tất yếu phải mệt mỏi. Khi chúng ta ngồi yên chỉ để tỉnh thức và nhận biết, đầu óc ta không hề mệt mỏi. Ngược lại, thời gian ngồi thiền còn có tác dụng khôi phục năng lực làm việc của đầu óc một cách kỳ diệu mà bất cứ ai đã trải qua đều có thể cảm nhận được.

Để tỉnh thức và nhận biết, chúng ta phải thường xuyên chú ý quán sát. Nhưng sự chú ý ở đây là một sự chú ý đơn thuần. Chúng ta cần dẹp bỏ mọi nỗ lực theo thói quen chia chẻ, phân tích với bất cứ sự việc nào mà chúng ta tiếp cận. Thiền không đòi hỏi và thậm chí là tối kỵ việc chia chẻ, phân tích. Khi một ý niệm khởi lên trong lúc bạn ngồi thiền, bạn chỉ cần nhận biết nó, quán sát nó trong sự tỉnh thức. Điều đó có nghĩa là bạn không được đánh giá, phân tích, xếp loại... hay thực hiện bất cứ điều gì với ý niệm ấy. Hầu hết các công án thiền đều thuộc dạng “không thể giải quyết bằng suy luận”, bởi vì chúng được đưa ra chỉ như một mục tiêu quán sát cho người ngồi thiền mà không phải là để suy luận và đi tìm đáp án theo cách như thông thường. Nhiều người tìm cách lý giải các công án thiền theo cách này hoặc cách khác, những người ấy chưa hiểu được mục đích của chúng.

Trong trạng thái thông thường của ý thức, chúng ta thường rơi vào sự quên lãng, mê muội. Bởi vì chúng ta suy nghĩ mà không nhận biết là mình đang suy nghĩ; chúng ta buồn, vui, thương, ghét... mà không biết là mình đang buồn, vui, thương, ghét... Chính vì thế, rất thường khi chúng ta làm việc mà không để tâm vào công việc; làm một việc này, suy nghĩ về việc khác; sống trong hiện tại mà buông thả suy nghĩ về quá khứ hoặc tương lai...

Mặc dù cũng có những lúc chúng ta tỉnh thức, nhưng quãng thời gian ấy chẳng là bao nhiêu so với thời gian buông thả tư tưởng. Hơn thế nữa, ngay cả sự tỉnh thức như thế thường cũng không được chúng ta chủ động đạt đến, và vì thế mà chúng không hiện diện thường xuyên. Sống mà không có sự tỉnh thức và nhận biết như thế không phải là sống theo đúng nghĩa. Trong cuốn tiểu thuyết Kẻ xa lạ (l’Étranger), Albert Camus gọi trạng thái này là sống như một người chết.[2]Và trạng thái tinh thần như thế quả là một trạng thái tối tăm, u ám, mê lầm.

Khi chúng ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, chúng ta nhận diện đầy đủ về sự hiện hữu của mình. Mọi tư tưởng, cảm xúc tức thời đều thay đổi, được nhận thức dưới một góc nhìn hoàn toàn khác. Chánh niệm là ánh sáng để chuyển hóa bóng tối, chánh niệm đưa chúng ta từ sự mê lầm chuyển sang sự tỉnh thức. Chính sự tỉnh thức là mục đích của việc ngồi thiền.

Trong thực tế, chúng ta không thể nhất thời – hoặc thậm chí qua một thời gian – đạt đến sự tỉnh thức thường xuyên. Ngọn đèn chánh niệm rất dễ bị thổi tắt đi bởi quán tính mê lầm đã có từ trong quá khứ. Tuy nhiên, như đã nói trước đây, chỉ cần ta nhận biết được sự mất đi đó thì chánh niệm sẽ tức khắc trở về mà không cần có bất cứ một nỗ lực nào khác.

Với thời gian và sự kiên trì thực hành thường xuyên, chúng ta sẽ trở nên thuần thục hơn và có nhiều thời gian tỉnh thức hơn. Người đầu tiên đã dạy cho chúng ta về thiền được tôn xưng là Phật, vốn là một từ phiên âm của Buddha trong tiếng Phạn, có nghĩa là “người tỉnh thức”. Ngài cũng không khác gì chúng ta ngoài việc là luôn luôn tỉnh thức. Nếu chúng ta có được một đôi khi tỉnh thức, ấy là những lúc chúng ta làm Phật.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9652)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7868)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9624)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 7089)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13677)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5379)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6658)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2356)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14278)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14166)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567