SỐNG THIỀN
Nguyên Minh
Như vậy, khi ngồi thiền chúng ta phải suy nghĩ những gì để đạt được sự tỉnh thức? Thật ra, chúng ta không suy nghĩ gì cả. Vì nếu bạn có suy nghĩ một điều gì đó khi ngồi thiền, bạn chưa thực sự biết ngồi thiền.
Việc đầu tiên hết khi chúng ta ngồi thiền là thư giãn đầu óc. Chúng ta đã có quá nhiều tư tưởng, ý niệm trong những lúc bình thường, và đến với thiền trước hết là để dừng nghỉ cái “quá nhiều” đó.
Chúng ta không thể vận dụng sự suy nghĩ để đạt đến chỗ “dừng nghỉ”, vì điều đó hoàn toàn vô lý và không thể làm được. Tuy vậy, không ít người đã cố làm. Bằng cách ấy, chúng ta thật ra đang cố thay thế cái “quá nhiều” này bằng một cái “quá nhiều” khác mà thôi...
Khi chúng ta giải một bài toán khó, hoặc suy nghĩ về cách giải quyết một vấn đề khó khăn... chúng ta đôi khi cũng ngồi lặng hàng giờ và không còn biết gì khác ngoài vấn đề đang suy nghĩ. Một số người là cho trạng thái này gần giống với trạng thái nhập định của người ngồi thiền. Tuy nhiên, khác biệt lớn nhất ở đây là sự “suy nghĩ” và “không suy nghĩ”. Khi chúng ta suy nghĩ, đầu óc ta phải hoạt động và vì thế nó tất nhiên là phải mỏi mệt. Khi chúng ta ngồi thiền, không có sự suy nghĩ, vì thế nó có tác dụng khôi phục tinh thần, hàm dưỡng trí óc chứ không làm cho chúng ta mệt mỏi.
Sự khởi đầu của rất nhiều người khi đến với thiền là không phân biệt được điều này. Cho dù là dùng phương pháp đếm hơi thở, theo dõi hơi thở hoặc tham khán thoại đầu... điều tất yếu là không dụng công suy nghĩ, phân tích. Khi chúng ta bắt đầu ngồi thiền, chúng ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm để soi rọi vào dòng sông tư tưởng, để nhận biết tất cả những biến chuyển trong đó. Vì thế, chúng ta thường xuyên biết được mình đang có những ý niệm nào trong tâm tưởng và diễn tiến của chúng như thế nào. Chúng ta cũng làm tương tự như vậy khi các cảm xúc được sinh ra, chẳng hạn như sự buồn phiền, vui mừng, giận dữ hoặc bực tức...
Nhưng thường xuyên nhận biết hoàn toàn không có nghĩa là phân tích, suy diễn. Khi chúng ta phân tích, suy nghĩ về một vấn đề, chúng ta thực sự làm việc đầu óc và tất yếu phải mệt mỏi. Khi chúng ta ngồi yên chỉ để tỉnh thức và nhận biết, đầu óc ta không hề mệt mỏi. Ngược lại, thời gian ngồi thiền còn có tác dụng khôi phục năng lực làm việc của đầu óc một cách kỳ diệu mà bất cứ ai đã trải qua đều có thể cảm nhận được.
Để tỉnh thức và nhận biết, chúng ta phải thường xuyên chú ý quán sát. Nhưng sự chú ý ở đây là một sự chú ý đơn thuần. Chúng ta cần dẹp bỏ mọi nỗ lực theo thói quen chia chẻ, phân tích với bất cứ sự việc nào mà chúng ta tiếp cận. Thiền không đòi hỏi và thậm chí là tối kỵ việc chia chẻ, phân tích. Khi một ý niệm khởi lên trong lúc bạn ngồi thiền, bạn chỉ cần nhận biết nó, quán sát nó trong sự tỉnh thức. Điều đó có nghĩa là bạn không được đánh giá, phân tích, xếp loại... hay thực hiện bất cứ điều gì với ý niệm ấy. Hầu hết các công án thiền đều thuộc dạng “không thể giải quyết bằng suy luận”, bởi vì chúng được đưa ra chỉ như một mục tiêu quán sát cho người ngồi thiền mà không phải là để suy luận và đi tìm đáp án theo cách như thông thường. Nhiều người tìm cách lý giải các công án thiền theo cách này hoặc cách khác, những người ấy chưa hiểu được mục đích của chúng.
Trong trạng thái thông thường của ý thức, chúng ta thường rơi vào sự quên lãng, mê muội. Bởi vì chúng ta suy nghĩ mà không nhận biết là mình đang suy nghĩ; chúng ta buồn, vui, thương, ghét... mà không biết là mình đang buồn, vui, thương, ghét... Chính vì thế, rất thường khi chúng ta làm việc mà không để tâm vào công việc; làm một việc này, suy nghĩ về việc khác; sống trong hiện tại mà buông thả suy nghĩ về quá khứ hoặc tương lai...
Mặc dù cũng có những lúc chúng ta tỉnh thức, nhưng quãng thời gian ấy chẳng là bao nhiêu so với thời gian buông thả tư tưởng. Hơn thế nữa, ngay cả sự tỉnh thức như thế thường cũng không được chúng ta chủ động đạt đến, và vì thế mà chúng không hiện diện thường xuyên. Sống mà không có sự tỉnh thức và nhận biết như thế không phải là sống theo đúng nghĩa. Trong cuốn tiểu thuyết Kẻ xa lạ (l’Étranger), Albert Camus gọi trạng thái này là sống như một người chết.[2]Và trạng thái tinh thần như thế quả là một trạng thái tối tăm, u ám, mê lầm.
Khi chúng ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, chúng ta nhận diện đầy đủ về sự hiện hữu của mình. Mọi tư tưởng, cảm xúc tức thời đều thay đổi, được nhận thức dưới một góc nhìn hoàn toàn khác. Chánh niệm là ánh sáng để chuyển hóa bóng tối, chánh niệm đưa chúng ta từ sự mê lầm chuyển sang sự tỉnh thức. Chính sự tỉnh thức là mục đích của việc ngồi thiền.
Trong thực tế, chúng ta không thể nhất thời – hoặc thậm chí qua một thời gian – đạt đến sự tỉnh thức thường xuyên. Ngọn đèn chánh niệm rất dễ bị thổi tắt đi bởi quán tính mê lầm đã có từ trong quá khứ. Tuy nhiên, như đã nói trước đây, chỉ cần ta nhận biết được sự mất đi đó thì chánh niệm sẽ tức khắc trở về mà không cần có bất cứ một nỗ lực nào khác.
Với thời gian và sự kiên trì thực hành thường xuyên, chúng ta sẽ trở nên thuần thục hơn và có nhiều thời gian tỉnh thức hơn. Người đầu tiên đã dạy cho chúng ta về thiền được tôn xưng là Phật, vốn là một từ phiên âm của Buddha trong tiếng Phạn, có nghĩa là “người tỉnh thức”. Ngài cũng không khác gì chúng ta ngoài việc là luôn luôn tỉnh thức. Nếu chúng ta có được một đôi khi tỉnh thức, ấy là những lúc chúng ta làm Phật.
Nguyên Minh
CHƯƠNG I: CUỘC SỐNG NHIỆM MẦU
Thiền để tỉnh thức
Vâng, đúng vậy. Nếu có ai hỏi tôi mục đích của thiền là gì, tôi sẽ không ngần ngại mà nói ngay đó là sự tỉnh thức. Nếu bạn luôn sống trong sự tỉnh thức, bạn không cần phải học thiền, thực hành thiền, vì bản thân bạn đã có một cuộc sống thiền rồi.Như vậy, khi ngồi thiền chúng ta phải suy nghĩ những gì để đạt được sự tỉnh thức? Thật ra, chúng ta không suy nghĩ gì cả. Vì nếu bạn có suy nghĩ một điều gì đó khi ngồi thiền, bạn chưa thực sự biết ngồi thiền.
Việc đầu tiên hết khi chúng ta ngồi thiền là thư giãn đầu óc. Chúng ta đã có quá nhiều tư tưởng, ý niệm trong những lúc bình thường, và đến với thiền trước hết là để dừng nghỉ cái “quá nhiều” đó.
Chúng ta không thể vận dụng sự suy nghĩ để đạt đến chỗ “dừng nghỉ”, vì điều đó hoàn toàn vô lý và không thể làm được. Tuy vậy, không ít người đã cố làm. Bằng cách ấy, chúng ta thật ra đang cố thay thế cái “quá nhiều” này bằng một cái “quá nhiều” khác mà thôi...
Khi chúng ta giải một bài toán khó, hoặc suy nghĩ về cách giải quyết một vấn đề khó khăn... chúng ta đôi khi cũng ngồi lặng hàng giờ và không còn biết gì khác ngoài vấn đề đang suy nghĩ. Một số người là cho trạng thái này gần giống với trạng thái nhập định của người ngồi thiền. Tuy nhiên, khác biệt lớn nhất ở đây là sự “suy nghĩ” và “không suy nghĩ”. Khi chúng ta suy nghĩ, đầu óc ta phải hoạt động và vì thế nó tất nhiên là phải mỏi mệt. Khi chúng ta ngồi thiền, không có sự suy nghĩ, vì thế nó có tác dụng khôi phục tinh thần, hàm dưỡng trí óc chứ không làm cho chúng ta mệt mỏi.
Sự khởi đầu của rất nhiều người khi đến với thiền là không phân biệt được điều này. Cho dù là dùng phương pháp đếm hơi thở, theo dõi hơi thở hoặc tham khán thoại đầu... điều tất yếu là không dụng công suy nghĩ, phân tích. Khi chúng ta bắt đầu ngồi thiền, chúng ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm để soi rọi vào dòng sông tư tưởng, để nhận biết tất cả những biến chuyển trong đó. Vì thế, chúng ta thường xuyên biết được mình đang có những ý niệm nào trong tâm tưởng và diễn tiến của chúng như thế nào. Chúng ta cũng làm tương tự như vậy khi các cảm xúc được sinh ra, chẳng hạn như sự buồn phiền, vui mừng, giận dữ hoặc bực tức...
Nhưng thường xuyên nhận biết hoàn toàn không có nghĩa là phân tích, suy diễn. Khi chúng ta phân tích, suy nghĩ về một vấn đề, chúng ta thực sự làm việc đầu óc và tất yếu phải mệt mỏi. Khi chúng ta ngồi yên chỉ để tỉnh thức và nhận biết, đầu óc ta không hề mệt mỏi. Ngược lại, thời gian ngồi thiền còn có tác dụng khôi phục năng lực làm việc của đầu óc một cách kỳ diệu mà bất cứ ai đã trải qua đều có thể cảm nhận được.
Để tỉnh thức và nhận biết, chúng ta phải thường xuyên chú ý quán sát. Nhưng sự chú ý ở đây là một sự chú ý đơn thuần. Chúng ta cần dẹp bỏ mọi nỗ lực theo thói quen chia chẻ, phân tích với bất cứ sự việc nào mà chúng ta tiếp cận. Thiền không đòi hỏi và thậm chí là tối kỵ việc chia chẻ, phân tích. Khi một ý niệm khởi lên trong lúc bạn ngồi thiền, bạn chỉ cần nhận biết nó, quán sát nó trong sự tỉnh thức. Điều đó có nghĩa là bạn không được đánh giá, phân tích, xếp loại... hay thực hiện bất cứ điều gì với ý niệm ấy. Hầu hết các công án thiền đều thuộc dạng “không thể giải quyết bằng suy luận”, bởi vì chúng được đưa ra chỉ như một mục tiêu quán sát cho người ngồi thiền mà không phải là để suy luận và đi tìm đáp án theo cách như thông thường. Nhiều người tìm cách lý giải các công án thiền theo cách này hoặc cách khác, những người ấy chưa hiểu được mục đích của chúng.
Trong trạng thái thông thường của ý thức, chúng ta thường rơi vào sự quên lãng, mê muội. Bởi vì chúng ta suy nghĩ mà không nhận biết là mình đang suy nghĩ; chúng ta buồn, vui, thương, ghét... mà không biết là mình đang buồn, vui, thương, ghét... Chính vì thế, rất thường khi chúng ta làm việc mà không để tâm vào công việc; làm một việc này, suy nghĩ về việc khác; sống trong hiện tại mà buông thả suy nghĩ về quá khứ hoặc tương lai...
Mặc dù cũng có những lúc chúng ta tỉnh thức, nhưng quãng thời gian ấy chẳng là bao nhiêu so với thời gian buông thả tư tưởng. Hơn thế nữa, ngay cả sự tỉnh thức như thế thường cũng không được chúng ta chủ động đạt đến, và vì thế mà chúng không hiện diện thường xuyên. Sống mà không có sự tỉnh thức và nhận biết như thế không phải là sống theo đúng nghĩa. Trong cuốn tiểu thuyết Kẻ xa lạ (l’Étranger), Albert Camus gọi trạng thái này là sống như một người chết.[2]Và trạng thái tinh thần như thế quả là một trạng thái tối tăm, u ám, mê lầm.
Khi chúng ta thắp lên ngọn đèn chánh niệm, chúng ta nhận diện đầy đủ về sự hiện hữu của mình. Mọi tư tưởng, cảm xúc tức thời đều thay đổi, được nhận thức dưới một góc nhìn hoàn toàn khác. Chánh niệm là ánh sáng để chuyển hóa bóng tối, chánh niệm đưa chúng ta từ sự mê lầm chuyển sang sự tỉnh thức. Chính sự tỉnh thức là mục đích của việc ngồi thiền.
Trong thực tế, chúng ta không thể nhất thời – hoặc thậm chí qua một thời gian – đạt đến sự tỉnh thức thường xuyên. Ngọn đèn chánh niệm rất dễ bị thổi tắt đi bởi quán tính mê lầm đã có từ trong quá khứ. Tuy nhiên, như đã nói trước đây, chỉ cần ta nhận biết được sự mất đi đó thì chánh niệm sẽ tức khắc trở về mà không cần có bất cứ một nỗ lực nào khác.
Với thời gian và sự kiên trì thực hành thường xuyên, chúng ta sẽ trở nên thuần thục hơn và có nhiều thời gian tỉnh thức hơn. Người đầu tiên đã dạy cho chúng ta về thiền được tôn xưng là Phật, vốn là một từ phiên âm của Buddha trong tiếng Phạn, có nghĩa là “người tỉnh thức”. Ngài cũng không khác gì chúng ta ngoài việc là luôn luôn tỉnh thức. Nếu chúng ta có được một đôi khi tỉnh thức, ấy là những lúc chúng ta làm Phật.
Gửi ý kiến của bạn