Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Chỉ quán và định tuệ

21/02/201115:20(Xem: 3432)
14. Chỉ quán và định tuệ

SỐNG THIỀN
Nguyên Minh

CHƯƠNG I: CUỘC SỐNG NHIỆM MẦU

Chỉ quán và định tuệ

Chúng ta đã nhắc đến việc đếm hơi thở hoặc theo dõi hơi thở như những phương pháp thiền tập đầu tiên thường được dùng cho người mới học thiền. Ở đây sẽ nhắc lại và nói thêm chi tiết hơn.

Đếm hơi thở còn được gọi tên theo danh từ Hán Việt là “sổ tức”. Sổ là đếm, tức là hơi thở. Chỉ giản dị là như thế. Người mới đến với thiền, tâm ý còn vọng động rất nhiều, nên nhờ đến phép đếm hơi thở để ngăn dần các vọng niệm. Khi thực hành, người ngồi thiền tập trung chú ý vào hơi thở ra vào và bắt đầu đếm từ một đến mười, rồi trở lại đếm từ một... cứ nối tiếp như vậy mà tập trung sự chú ý vào hơi thở. Khi đang đếm mà bị xao lãng mất cũng đừng bối rối, chỉ cần khởi sự đếm lại từ một, rồi lại cứ thế mà tiếp tục.

Vấn đề then chốt ở đây là dùng một ý niệm để thay cho nhiều ý niệm khác. Nhưng ý niệm về việc đếm số là cụ thể hơn, dễ tập trung sự chú ý theo dõi hơn, và vì thế dễ thực hành hơn. Khi luyện tập thuần thục, người ngồi thiền đạt được sự tỉnh thức thường xuyên và bất cứ lúc nào cũng biết rõ hơi thở đang ra vào.

Phép theo dõi hơi thở khó thực hiện hơn, nhưng nếu thực hiện được có thể giúp người ngồi thiền đạt đến sự thuần thục nhanh chóng hơn. Theo phương thức này, người ngồi thiền tập trung sự chú ý vào hơi thở của mình. Khi thở ra, biết mình đang thở ra. Khi thở vào, biết mình đang thở vào. Vào ra nối tiếp nhau, không lúc nào là thất niệm, luôn tỉnh thức biết được mình đang thở ra hay thở vào... Cứ như vậy mà duy trì chánh niệm, không cần phải đếm số. Một khi biết mình bị thất niệm, lại quay trở về với hơi thở và tiếp tục như cũ...

Đó là những phương thức để giúp người mới học có thể dễ dàng khởi sự việc thực hành thiền. Mục tiêu của chúng cũng không ngoài việc giúp người ngồi thiền đạt đến chỗ tập trung sự chú ý và tỉnh thức nhận biết. Những người ngồi thiền đã thuần thục lâu ngày không nhất thiết phải dùng đến những phương pháp này. Có thể chọn một đối tượng nào đó để tập trung chú ý, như một công án thiền chẳng hạn. Cũng có thể không cần một đối tượng nào cả mà chỉ duy trì sự tỉnh thức quán sát tư tưởng và cảm xúc của mình...

Khi chúng ta tập trung được sự chú ý, những ý niệm lăng xăng về nhiều đối tượng khác nhau không còn có điều kiện để sinh khởi. Hơn thế nữa, những ý niệm ấy khi sinh khởi trong điều kiện thông thường sẽ lôi kéo theo nhiều ý niệm khác, và đồng thời gây tác động tạo thành những cảm xúc khác nhau, nhưng khi chúng ta ngồi thiền, hoặc là chúng không sinh khởi lên vì ta đã tập trung chú ý vào đối tượng (chẳng hạn như hơi thở...), hoặc là chúng sinh khởi lên nhưng không lôi kéo được ý niệm nào khác, vì chúng ta đang tỉnh thức nhận biết, nên không để cho tâm ý chạy theo chúng.

Tuy nhiên, việc dừng lại sự tán loạn của tâm ý, sự sinh khởi các tư tưởng... hoàn toàn không có tính cách trấn áp, dứt bỏ. Đây chỉ là một quá trình tự nhiên được diễn ra dưới tác dụng của ánh sáng chánh niệm. Như đã nói trước đây, nếu người ngồi thiền có bất cứ một nỗ lực nào để cố ngăn chặn các tư tưởng không cho sinh khởi, điều đó sẽ chỉ dẫn đến một tác dụng ngược lại. Như những nhát dao mạnh mẽ chém xuống nước, mặt nước không ngăn cản gì cả mà lực chém tự nhiên không có tác dụng. Chỉ khi có bất cứ một sức ngăn cản nào thì lưỡi dao mới có thể phát huy tác dụng phá hoại của nó.

Vì thế, việc ngồi thiền không nên được hiểu như một cuộc chiến đấu chống lại sự sinh khởi của các vọng niệm. Người ngồi thiền không dụng công ngăn cản sự sinh khởi của các vọng niệm, nhưng chỉ tỉnh thức nhận biết chúng, quán sát chúng mà thôi. Chính sự nhận biết, quán sát đó đã vô hiệu hóa tác động của vọng niệm, như mặt nước vô hiệu hóa tác động của lưỡi dao, và theo một tiến trình hoàn toàn tự nhiên, những vọng niệm không còn động lực để sinh khởi nữa sẽ mất dần đi. Như người muốn dập tắt một bếp lửa, chỉ dần dần rút hết củi trong lò ra, ngọn lửa không còn gì để cháy sẽ phải tắt đi. Ngược lại, nếu muốn dùng sức gió mà thổi tắt, càng thổi nó lại càng bùng lên dữ dội hơn.

Quá trình ngồi thiền là một quá trình chuyển hóa, từ trạng thái mê muội sang trạng thái tỉnh thức; từ trạng thái buông thả sang trạng thái có ý thức, tỉnh thức và nhận biết. Sự chuyển hóa đó chỉ có thể được thực hiện dần dần nhờ vào công phu duy trì chánh niệm mà không thể dựa vào những nỗ lực phân tích, suy diễn của ý thức.

Khi dòng tư tưởng không sinh khởi nữa, nhà thiền gọi là “chỉ”. Từ Hán Việt này có nghĩa là dừng lại, ngăn lại. Cũng có thể hiểu đó là sự tập trung, gom tư tưởng về một mối. Nhận biết, thấy rõ được các tư tưởng sinh khởi, tồn tại và diệt mất, nhà thiền gọi là “quán”. Từ Hán Việt này có nghĩa là quán sát, nhìn thấy. Khi dừng được tư tưởng không để cho tản mác loạn xạ nữa thì tự nhiên có thể thấy rõ.

Chỉ và quán là miêu tả nội dung thực hiện của việc ngồi thiền, hay nói cách khác đó là nhìn về mặt nhân. Nhìn về mặt quả, việc ngồi thiền là nhắm đến đạt được chánh niệm. Niệm là một từ mà chữ Hán đã dùng để dịch chữ smrti trong tiếng Phạn, với nghĩa là trạng thái có ý thức, cũng có thể hiểu là nhớ biết. Ở đây chỉ cho sự nhận biết thường xuyên, sự chú ý đến đối tượng trong thiền quán.

Trong niệm có hai yếu tố cấu thành là định và tuệ. Định là sự tập trung tư tưởng, và tuệ là sự nhận biết, thấy rõ. Nhờ có tập trung chú ý mới có thể thấy rõ, nên định đi liền với tuệ. Có dừng được các vọng niệm thì mới có thể tập trung được tư tưởng; có quán sát, theo dõi thì mới có thể nhận biết, thấy rõ. Vì vậy mà nói rằng chỉ quán là nhân, mà niệm hay định tuệ là quả. Mặt khác, cũng có thể nói chỉ là nhân, quán là quả; hoặc định là nhân, tuệ là quả.

Mối quan hệ nhân quả như nói trên là giới hạn trong mặt suy diễn mà nói. Trong thực tế, khi đạt được chánh niệm thì chánh niệm đó vừa là nhân mà cũng vừa là quả. Chánh niệm soi chiếu vào các đối tượng của tâm, nhưng cũng đồng thời soi chiếu chính nó. Như một ngọn đèn, không chỉ tỏa sáng chung quanh, mà cũng chiếu sáng chính nó, nhờ đó mà ta nhìn thấy được ngọn đèn. Hiểu theo cách này, chánh niệm bao gồm trong nó cả chỉ và quán, cả định và tuệ. Các yếu tố này đồng thời xuất hiện ngay khi trong tâm ta có chánh niệm.

Nhận thức như vậy hoàn toàn phù hợp trong ý nghĩa không gian cũng như thời gian. Như ngọn đèn vừa thắp lên thì đồng thời soi sáng cả chung quanh và tự thân nó. Chánh niệm vừa có được thì tâm an định mà cũng đồng thời có sự nhận biết, thấy rõ. Đó là chỉ và quán đồng thời đạt đến, định và tuệ cùng lúc có được. Như vậy, nhân và quả tuy hai mà một, đều có mặt đồng thời và không thể chia tách với nhau. Không thể có chỉ mà không có quán, cũng như không thể đã có định mà lại không có tuệ.

Mặt khác, định và tuệ là những yếu tố cấu thành chánh niệm. Nhưng định và tuệ cũng có mức độ, cường độ khác nhau. Định lực của người mới đạt đến không vững chắc bằng định lực cũng của người ấy sau một thời gian thực hành thiền quán. Sở dĩ như vậy, là vì việc duy trì chánh niệm còn có tác dụng nuôi dưỡng, vun đắp thêm cho định tuệ ngày càng vững chắc, mạnh mẽ hơn. Như ngọn lửa mới nhen nhúm, tuy có tỏa sáng nhưng lại rất yếu ớt, có thể bị gió thổi tắt bất cứ lúc nào. Quá trình tu tập thiền quán như việc duy trì ngọn lửa và cho thêm củi khô vào bếp. Vì thế mà lửa ngày càng bùng lên mạnh mẽ hơn, tỏa sáng hơn và cũng không dễ dàng bị gió thổi tắt nữa. Khi công phu đã thuần thục, người tập thiền có thể duy trì được chánh niệm một cách liên tục không gián đoạn, thậm chí ngay cả trong giấc ngủ.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9599)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7804)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9548)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 7024)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13572)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5299)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6617)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2298)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14182)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14075)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567