Lạy này con dâng cha
Lạy này con dâng mẹ
Lặng lẽ tháng ngày qua
Nguyện Từ bi cứu thế
Phật lịch 2564
KINH
NĂM TRĂM DANH HIỆU
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Thích Nguyên Hiền dịch
***
LỜI GIỚI THIỆU
Đức đại sĩ Quán Thế Âm: “ Trên hợp lòng Từ của chư Phật, dưới bi nguyện độ khắp quần sanh”. Nếu ai có lòng chí thành tha thiết thì sẽ có cảm ứng, vì Quan Âm trong “tự tánh của chúng sanh”, “dường trăng tròn in bóng nghìn sông” nhưng không có lên hay xuống.
Nước trong thì trăng hiện, nước đục bóng lu mờ, đó là lẽ tất nhiên.
Nay có cuốn kinh “Ngũ bách danh” Quan Âm chưa có vị nào dịch ra Việt văn để cho Phật tử lễ sám.
Tôi thì “lão lai tài tận” và tuổi quá cổ lai hy, như ngọn đèn sắp tàn. May có thầy Nguyên Hiền, Hán văn trác tuyệt, tôi yêu cầu thầy phiên dịch ra Việt văn mang lợi ích cho hàng Phật tử. Xin cảm niệm công đức vô lượng của thầy ,trong lúc đa đoan Phật sự.
Xin hết lòng tùy hỷ tán thán thầy!
Tổ đình Tịnh viện Hương Nghiêm
Liên Phương Thích Toại Châu.
DUYÊN KHỞI
Cuối năm 2020, Hòa thượng Thích Toại Châu, viện chủ Tổ Đình Hương Nghiêm gọi tôi sang, trao cho bản Kinh Ngũ Bách Danh, việt dịch Thích Chân Lý. Hòa thượng bảo: Nguyên Hiền xem và dịch lại mấy bài sám nguyện rất hay cuối kinh để Phật tử tụng đọc, hiểu được những lời vàng ngọc trong ấy. Tôi chỉ chắp tay lễ kính vâng lời, nghĩ rằng chuyện ấy đơn giản nên về làm ngay. Ba ngày sau đem bản dịch qua, Hòa thượng khen dịch hay nên khuyến khích dịch luôn trọn vẹn bản kinh. Về lật Đại Tạng tìm bản gốc, tìm mãi không ra, mới biết chuyện dịch Kinh Ngũ Bách Danh là thách thức quá lớn với mình. Khi dịch 500 danh hiệu từ chữ Hán qua chữ Việt, nếu không tra cứu kỹ từng danh hiệu, đối chiếu trong các Nghi quỹ, Đà-la-ni thì chắc chắn sẽ dịch sai, hiểu sai danh hiệu của Ngài. Từ đó, tiểu tăng đã dành trọn mùa Xuân Covid để làm việc này.
Vì không có bản gốc chữ Hán trong Đại Tạng nên đầu tiên chẳng biết mò mẫm từ đâu. Trên mạng hiện tại có mấy bản dịch, bản của Hòa thượng Tâm Châu ở Canada, bản của Hòa thượng Như Điển và các đệ tử chùa Viên Giác ở Đức Quốc và đặc biệt là bản dịch của Đạo hữu Quảng Minh, có chú thích rất kỹ từng danh hiệu. Cả 3 bản này đều sử dụng bản gốc là bản khắc tại chùa Xiển Pháp, làng An Trạch, năm Thành Thái thứ 9, Mậu Tuất (1898).
Trong “Vài lời đầu sách” của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tâm Châu có đoạn: “Trước đây, tại Việt Nam, Phật tử miền Bắc lễ tụng chữ Hán. Nhưng sau năm 1954, Phật tử miền Bắc di cư vào miền Nam, được phiên âm ra chữ Việt, in thành sách và phổ biến rộng rãi. (...) kinh Ngũ Bách Danh, do sự tuyển trạch những từ, những câu quan yếu trong các kinh Đà-ra-ni và Kinh Phổ Môn, tập thành 500 danh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm; hầu cung ứng cho sự cầu nguyện của Phật tử”.
Trong “lời Phi Lộ” bản dịch của Quảng Minh có ghi: “Kinh này chắc do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn lúc nào thì chưa ai biết được”.
Từ hai gợi ý của nhị vị Cao tăng và Cư sĩ, tôi cố gắng truy tìm và phát hiện ra còn nhiều bản kinh Ngũ Bách Danh rất quý báu. Hiện tại Tu Viện Huệ Quang ở Sài Gòn có ba bản. Bản thứ nhất là bản được khắc in ở chùa Xiển Pháp năm Mậu Tuất (1898) niên hiệu Thành Thái, thôn An Trạch, tỉnh Hà Nội tàng bản. Chùa Xiển Pháp (nằm cạnh Văn Miếu) là một trong những cơ sở khắc in Kinh nổi tiếng ở Hà Nội với 17 bản kinh các loại. Bản thứ 2 có ở Tu Viện Huệ Quang là bản song ngữ Hán-Việt, thường gọi là bản Miền Nam, do Sa-môn Thích Quang Hào ở Bồ-đề Tinh Xá, Sài Gòn đối chiếu (dịch âm) ấn loát và phát hành. Đầu bản này có bài “Cung văn bằng chữ Hán giới thiệu của Sa-môn hiệu Xuân Thành. Cuối bài ghi “Việt Nam Cộng Hòa Đinh Dậu Niên Qúy Xuân Hạ Hoàn ... Đạo lưu Bùi Văn Nhơn tự Trần Phước Thanh cung tả”. Như vậy đây là bản viết tay chứ không phải bản khắc ván. Năm Đinh Dậu ở đây chính là năm 1957. Là bản viết tay nên chữ rất đẹp, rõ ràng, bên cạnh hàng chữ Hán lại có chen chữ Việt một bên, cũng viết tay với nét bút máy đơn giản, trông khá bình dân. Đây có thể là bản được Hòa thượng Tâm Châu sử dụng sau này và là bản dịch được Thích Chân Lý biên tập ấn hành.
Bản thứ 3 hiện có tại Tu viện Huệ Quang là bản hoàn toàn mới, cũng song ngữ, do Tỳ-kheo Thích Lệ Trang chùa Định Thành ấn tống vào mùa hạ năm Canh Tý (2020), không thấy ghi xuất sứ của bản gốc. Theo Tỳ-kheo Thích Đồng Dưỡng, trụ trì chùa Ba Phong, Quảng Nam, bản của chùa Định Thành là theo bản chùa Linh Quang (Chùa Bà Đá) ở Hà Nội được khắc in vào năm 1878, tức trước cả bản chùa Xiển Pháp (1898). Ngoài ra, Thầy Đồng Dưỡng còn cho biết ở Việt Nam còn rất nhiều bản kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm mà Thầy sưu tập được, gồm:
- Bản khắc gỗ ở chùa Hoa Lâm, Khê Hồi, khắc in vào năm Minh Mạng thứ 21, Canh Tý (1840).
- Bản khắc gỗ ở chùa Hưng Phúc, Bắc Ninh, khắc in vào năm Tự Đức thứ 27, (1874).
- Bản khắc gỗ ở chùa Kim Liên (bên bờ Hồ Tây, Hà Nội), được khắc in vào năm Tự Đức thứ 31, Mậu Dần (1878).
- Bản khắc gỗ ở chùa Linh Quang (Bà Đá) cũng vào năm 1878.
- Bản chùa Xiển Pháp, Thành Thái, Mậu Tuất 1898. Đây là bản được đóng gáy đàng hoàng, khác với thể loại gấp như trước.
- Bản khắc gỗ ở chùa Thiên Ấn, Quảng Ngãi, Phước Hậu Nguyễn Từ Đường Tàng Bản, khắc in vào niên hiệu Khải Định, năm Bính Thìn (1916).
Như vậy, kể cả bản miền Nam, ở Việt Nam hiện tại có ít nhất là 7 bản chữ Hán kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm, nhưng cũng không có bản nào ghi rõ tác giả của bản kinh này là ai.
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán Bồ-tát Quan Thế Âm rằng: “Nhân tu Lục độ, quả chứng Nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm Ngũ Bách Danh”. Tạm dịch: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu, như biển lớn khôn lường cùng ngằn mé. Từ bi quảng đại, tợ trời cao khó thấy hết mênh mông. Ngài hiến dâng bất hoại pháp thân, rộng phát mười hai nguyện lớn, trải qua vô lượng kiếp, cảm ứng Ngũ Bách Danh”.
Thủy Lục Chư Khoa được Thiền sư Chuyết Chuyết (1590 - 1644) đem theo lần đầu khi vào Việt Nam hoằng hóa, được lưu hành vào đời Trần và được Thiền sư Chân Nguyên (1646 - 1726) trùng san hiệu khắc. Theo Đạo hữu Quảng Minh, Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm hẳn phải xuất hiện trước thời của Thiền sư Chuyết Chuyết, tức trước thế kỷ 16, lùi xa hơn nữa tới thế kỷ 12 của Phật giáo đời Trần, đặc biệt có thể xuất hiện vào thế kỷ thứ 13, khi mà tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm ngàn tay ngàn mắt được truyền tụng rộng rãi.
Theo thiển ý của người viết, 3 chữ Ngũ Bách Danh xuất hiện trong đoạn văn trên của Thủy Lục Chư Khoa được mang từ Trung Hoa sang, cũng rất có thể bản kinh này đã có từ Trung Quốc, được Chư tăng Việt Nam đón nhận trong thời kỳ Hiển Mật dung thông của Phật giáo Việt Nam. Bởi nếu đó là tác phẩm của các Thiền sư Việt Nam đời Trần hoặc sau đó, chắc chắn Thiền sư Chân Nguyên, người nổi tiếng san định các tác phẩm đời Trần, đã không bỏ qua tên tác giả của bản kinh rất thịnh hành này. Đây có thể là bản kinh xuất hiện vào đời Minh ở các tỉnh miền Nam Trung Hoa, gần với giai đoạn Mật giáo thịnh hành ở Việt Nam, vì lý do nào đó chưa được đưa vào Tạng. Nếu đây là tác phẩm lưu hành ở Việt Nam thì tác giả cũng có thể là người Trung Hoa và có ảnh hưởng nhất định đối với Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.
Bỏ qua nguồn gốc của tác phẩm, đi vào nội dung, có thể thấy Mật giáo có ảnh hưởng rất lớn trong bản kinh thông qua những hình tượng trong các danh hiệu. Xưa nay khi lạy Ngũ Bách Danh, chúng tôi cứ ngỡ các bậc cao tăng nương vào một số ý tưởng trong các kinh điển và tự sáng tạo ra các danh hiệu. Nhưng khi đặt bút vào dịch các danh hiệu mới biết rằng không một danh hiệu nào không lưu xuất từ các kinh điển và các Đà-la-ni quan trọng trong Đại Tạng, như phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh, kinh Đại Bảo Tích, kinh Bi Hoa, kinh Đại Nhật, các Đà-la-ni nổi tiếng. Qua đó có thể thấy Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm là một tác phẩm vô cùng giá trị cả về mặt triết học lẫn tín ngưỡng, không hề là một tác phẩm bình dân dành cho hạng sơ cơ cầu nguyện lễ bái.
Về tín ngưỡng Quán Thế Âm, nhiều người cho rằng đây là tín ngưỡng xuất phát từ Trung Hoa, đó chỉ là một nhận định hời hợt. Tất nhiện, hình ảnh các vị Bồ-tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí... chỉ xuất hiện trong kinh điển Đại thừa, nhưng là kinh điển Đại thừa thời kỳ đầu, xuất phát từ Ấn Độ, sau được truyền sang Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam ... Trong hang động Kanheri gần thành phố Mumbai, chúng tôi có thấy một pho tượng Quan Âm Thập Nhất Diện rất đẹp đứng hầu bên Phật Thích Ca. Trong hang động Ajanta ở Aurangabad có rất nhiều bức bích họa vẽ hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm mà niên đại của nó được cho là có từ thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, đến nay màu sắc vẫn còn tươi nhuận. Ở Tây Tạng, tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm rất thịnh hành. Các vị pháp vương như Đức Đạt-lai Đạt-ma đều được người Tây Tạng xem là hóa thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong Mạn-đồ-la Thai Tạng giới có Quan Âm Viện, bên cạnh các viện Thích Ca, Văn thù, Tô-tất-địa... Hầu hết các kinh điển Đại thừa, cả Hiển giáo lẫn Mật giáo đều nói đến Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhân hạnh của Ngài có quan hệ nhân quả với Đức Phật A-di-đà trong Tịnh độ giáo. Hình tượng đặc trưng của Ngài là trên mão quan có vị cổ Phật, tức Chánh Pháp Minh Như Lai, vì lòng Từ bi mà hiện thân Bồ-tát cứu độ chúng sanh, hầu Phật Di-đà nơi cõi nước Cực Lạc. Tên tiếng Phạn của Ngài, Avalokitesvara được dịch là Quán Tự Tại, có giá trị triết lý sâu thâm nhất của Phật giáo Đại thừa trên lộ trình chuyển hóa nghiệp dĩ để đi vào cuộc đời, hóa độ chúng sanh mà nội dung bài viết này không thể nói hết được. Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ-tát Văn Thù ca ngợi pháp “Nhĩ căn Viên thông” của Bồ-tát Quán Thế Âm là thù thắng nhất trong 25 viên thông của Chư vị Bồ-tát. Đó là pháp “phản văn văn tự tánh”, quay cái nghe trần cảnh lại để nghe thấy tự tánh của mình. Đây là pháp tu có thể nói là nền tảng, phù hợp mọi căn cơ và có giá trị triết lý rất lớn. Người học Phật mà không biết nền tảng này thì dù thực hành pháp môn nào cũng trở thành mê tín.
Trở lại với Phật giáo Việt Nam, nếu ai đó nói rằng tín ngưỡng chính của Phật giáo Việt Nam là tín ngưỡng Quan Âm, điều đó cũng không sai. Nhìn vào một thời khóa tụng trong các chùa viện, các nghi lễ kỳ nguyện ở bên ngoài, không có một thời khóa tụng nào mà không có trì chú Đại bi, thần chú mà hầu hết Phật tử Việt Nam đều thuộc. Thần chú ấy không gì khác hơn 42 thủ nhãn ấn pháp của Bồ-tát Quán Thế Âm. Nhờ phát nguyện thọ trì thần chú này, hành giả thể nhập vào hội Đại bi vô ngại của Chư Phật, chư Bồ-tát, bằng biểu tượng ngàn tay ngàn mắt đi vào cuộc đời. Sau khi tụng trì các kinh điển, thời khóa nào cũng kết lại bằng Bát-nhã Tâm kinh, bản kinh cốt tủy nói về tuệ giác Bát-nhã của Bồ-tát Quán Thế Âm. Hai bài kinh quan trọng nhất, không thể thiếu trong các thời khóa tụng là nói về Quán Thế Âm. Nghi thức cầu an thì thường tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, gọi đủ là Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn phẩm. Trong việc thờ phụng, từ pho tượng Thiên thủ Thiên nhãn bằng gỗ rất đẹp ở chùa Bút Tháp, Bắc Ninh, các chùa viện tạc tượng Thiên thủ Thiên nhãn thờ trong chánh điện hoặc thờ riêng rất nhiều. Riêng hình tượng Quan Âm như người mẹ thương yêu chúng sanh như con đẻ được vẽ, khắc, tạc thờ phụng ở hầu hết các chùa, kể cả các Thiền viện, trên núi, trên biển, trong mỗi bàn Phật các gia đình, đeo trên cổ, để đầu giường, trong các lễ hội và trong tất cả các nghi thức lễ bái, nếu thống kê cụ thể, số lượng hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm còn nhiều hơn cả Đức Bổn sư Thích-ca và Phật A-di-đà. Mỗi năm có đén 3 ngày vía Bồ-tát Quán Thế Âm. Không ai nói Phật Văn Thù, Phật Phổ Hiền, nhưng nhiều người vẫn gọi là Phật Quan Âm, thay vì Bồ-tát, thế mới thấy tín ngưỡng Quán Thế Âm trong Phật giáo Việt Nam sâu đậm như thế nào.
Chính vì tín ngưỡng Quán Âm sâu đậm như thế nên việc thực hành lễ lạy kinh Ngũ Bách Danh là vô cùng cần thiết. Nhìn số lượng khắc bản in kinh này ở miền Bắc trước đây đủ thấy chư Tăng và Phật tử đã chú trọng kinh này như thế nào. Một trong 10 hạnh nguyện Phổ Hiền là lễ kính Chư Phật, nên việc lễ lạy Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm là pháp tu cần được đề cao, chủ xướng. Gần đây, khi thiên tai dịch bệnh hoành hoành, đời sống bất an và nhiễu loạn, các chùa tổ chức những pháp hội lễ lạy Quán Thế Âm rất nhiều. Rất tiếc rằng bản kinh phổ cập lại chỉ là những danh hiệu Hán âm, Phật tử tụng đọc không thể hiểu. Chính vì thế, chúng tôi mạo muội dịch ra Việt văn theo cách dễ hiểu nhất dùng để sử dụng trong pháp hội, tức chủ lễ xướng danh hiệu tôn vị, đại chúng hòa theo “Đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát” theo tiếng khánh của Duy-na, người chủ xướng và Đại chúng đều được thân lễ, miệng tụng, tâm quán tưởng, năng lượng và cảm xúc được thăng hoa, lợi lạc vô cùng.
Khi dịch bản Kinh này, chúng tôi may mắn tìm được bản chú thích từng danh hiệu của Đạo hữu Quảng Minh. Tra cứu lại trong các kinh chú trong Đại Tạng, chúng tôi thấy phần chú thích này khá chính xác và kỹ lưỡng nên giữ nguyên, chỉ bổ sung vài chú thích cần thiết, thay đổi cách dịch danh hiệu cho thật rõ ràng theo Việt văn, đối chiếu với các bản dịch có trước để bản kinh được hoàn bị hơn, nhưng chắc chắn không sao tránh khỏi những sai sót. Kính mong các bậc cao minh tận tình chỉ giáo để nếu có dịp tái bản sẽ hoàn bị hơn.
Nguyện đem công đức này hồi hướng Tây phương trang nghiêm Tịnh độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường. Nguyện cho thế giới hòa bình, dịch bệnh tiêu trừ, nhân dân an lạc. Nguyện cho danh hiệu Bồ-tát Quán Tự Tại rền vang pháp giới để mỗi chúng sanh được trở về tự tánh của mình, an trú trong Từ bi hỷ xả Tứ vô lượng tâm.
Thùy Ngữ Thất, xuân Tân Sửu (2020)
Điều Ngự Tử Thích Nguyên Hiền.
KHẢI BẠCH
Giáo chủ hiệu Viên Thông
Kim dung ngời mãn nguyệt
Hầu Phật Di Đà nơi quê hương Cực Lạc
Giúp đức Thích-ca nơi cảnh giới Ta-bà
Ngự trên tòa muôn báu lưu ly
Trụ giữa đóa sen hồng nghìn cánh
Quá khứ hiệu Chánh Pháp Minh
Hiện tiền danh Quán Tự Tại
Ba mươi hai tướng, rộng độ quần sanh
Thất nạn nhị cầu (1), tùy duyên ứng hóa
Diệu lực thù thắng, khen ngợi khôn cùng
Lạy Đức Từ bi rủ lòng chứng giám.
Hôm nay chúng con cùng các Phật tử, bẩm thọ di huấn của Phật, cung thỉnh Chư Tăng vân tập già lam, sắm sửa trai nghi, lễ bái Quan Âm, thỉnh giáng đạo tràng.
Trên hết mở bày pháp hội
Thắp nén tâm hương, cung thỉnh Bồ-tát
Rũ nhành dương mà rưới khắp cam lồ
Xua nóng bức để thảy đều mát dịu.
Quan Thế Âm Bồ Tát:
Tìm âm thanh cứu khổ nơi bốn loài
Tuyên diệu pháp độ người nơi sáu nẻo.
Tâm Từ bi kiên cố ban sơ
Tướng Tự tại đoan nghiêm sẵn đủ
Nguyện cầu đều ứng hiện, chẳng nguyện nào chẳng thành
Nên hàng Thích Tử chúng con, nâng chén nước này
Trì tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy.
Giọt nước này:
Tùy vật chứa mà vuông hay tròn
Theo thời tiết mà đầy hay cạn
Xuân đến chảy tan, Đông về ngưng tụ
Gặp lũng thấp thì luân lưu
Nơi bờ cao thì đọng lại (2)
Mênh mang thay nguồn diệu khó lường
Cuồn cuộn thay dòng linh khôn tận
Dưới khe trong rồng thiêng ẩn bóng
Bên đầm lạnh trăng biếc lặng soi
Hoặc dưới ngòi bút quý Đấng quân vương – ban phát long ân
Hoặc đầu nhành dương liễu Bậc Bồ-tát – rưới nhuận cam lồ
Một giọt vừa đọng đầu cành, hết thảy mười phương thanh tịnh.
Đầu nhành dương liễu giọt cam lồ
Rảy khắp mười phương chốn hải hồ
Trừ sạch tanh hôi cùng cấu uế
Đàn tràng thanh tịnh ngát hư vô.
Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạt, điệp tá ra tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp.
Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngỏa, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt.
TÁN DƯƠNG CHI
Giọt nước nhành dương
Rảy khắp mười phương
Tánh không tám đức nhuận thiên hương
Pháp giới rộng miên trường
Diệt tội, tiêu ương
Sen trong lửa thanh lương.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma-ha-tát.
Hương Ngũ phần (3) thơm ngát
Hoa Thất giác (4) hiện bày
Chảy vào sông Tứ biện (5)
Khen ngợi biển Tam tôn
Cung kính Phật Pháp Tăng
Chuyển nghiệp thân khẩu ý
Thành mây lành sáng chói
Lợi lạc đến vô cùng.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma-ha-tát.
CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. (3 lần khi trì biến cuối cùng)
TÁN DƯƠNG TRÍ TUỆ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Mênh mông trí tuệ biện tài
Đứng trên đầu sóng trần ai sạch làu
Tường quang dứt bệnh ngàn sau
Cam lồ tưới mát khổ đau muôn đời
Nhành dương hé cõi rạng ngời
Sen hồng nở ngát mở phơi lầu đài
Cúi dâng trọn nén hương này
Xin Ngài ứng hiện về đây độ đời.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát Ma-ha-tát.
Kính lạy Đức Đại từ bi
Kính lạy danh xưng thù thắng
Đấng có năng lực cứu độ
Hết thảy khổ nạn thế gian.
Hôm nay đệ tử chúng con
Thành tâm trì tụng kinh chú
Cầu an tăng thêm phước huệ
Thay cho Phật tử tên là ...
Nguyện cứu khổ ách chúng con
Tâm Đại bi che tất cả
Bủa giăng ánh tịnh quang minh
Diệt trừ bao nhiêu si ám
Trừ hết khổ đau độc hại
Cùng bao bệnh hoạn não phiền
Nguyện đến tận nơi con ở
Ban cho con niềm an lạc
Con nay đảnh lễ cúi đầu
Bồ-tát Tầm thanh cứu khổ
Con nay xin nguyện quy y
Đấng thế gian Từ bi phụ
Nguyện Ngài đến tận bên con
Dẹp hết tham sân si khổ
Cho con hiện đời an lạc
Đạt đến cảnh giới Niết-bàn
Nguyện cho ba cõi chúng sanh
Giải thoát hết bao khổ nạn
Hữu tình cùng với vô tình
Hết thảy đều thành Phật đạo.
CA NGỢI BA NGHIỆP BỒ TÁT QUÁN ÂM
Đôi mắt sen ngời mở lắng sâu
Nét ngài trăng khuyết lặng nghiêng chau
Ngọc bội đỉnh đầu soi lấp lánh
Cổ đeo anh lạc ánh sắc màu
Sen hồng nhuận thắm tươi đầu lưỡi
Tần bà sắc đỏ nhuộm đôi môi
Kim tướng uy nghi như vương tượng
Thanh âm sư tử hống liên hồi
Ứng cơ cảm hóa chưa từng dứt
Tầm thanh cứu khổ mãi không thôi
Ba không quán tưởng không không quán(7)
Bốn tâm vô lượng trụ muôn nơi(8).
LỄ HỒNG DANH
Kính nghe: Giáo chủ hiệu Viên Thông, Đạo sư danh Chánh Pháp. Tịnh cư nơi Thiên Trúc, từng trụ núi Phổ Đà. Đôi khi hiện tướng Tăng già; có lúc hiện bày Chánh pháp. Thường hiện ra ngàn tay ngàn mắt, luôn đủ đầy sáu món thần thông. Mày ngài mảnh khảnh trăng non, mắt ngọc ngời ngời sao rụng. Tóc thắm xỏa ba xuân liễu biếc, nét hồng khơi chín hạ sen hồng.Thân sen khoác nhẹ áo lục thù(9), mũ báu đính đầy châu thất bảo. Tầm thanh cứu khổ, phát nguyện lợi sanh, cúng dường Ngài phước báo vô cùng, khen ngợi Ngài tội căn tiêu sạch. Cung thỉnh Ngài chứng minh công đức, tác thành viên mãn các nguyện tâm, chúng con một dạ chí thành, nhất tâm đảnh lễ:
Chủ lễ xướng:
- 1. Kính lạy Đức Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni, Đấng giáo chủ của cõi Ta-bà.
Chúng hòa: ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
Chủ lễ xướng:
- 2. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị đối trước Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thưa rõ nhân hạnh xa xưa.
Chúng hòa: ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
Chủ lễ xướng:
- 3. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị cổ Phật thị hiện.
Chúng hòa: ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 4. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị đương lai được bổ xứ làm giáo chủ thế giới Tây phương của Đức Phật A-di-đà.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 5. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị được gặp Đức Phật Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ trao Đại Bi Tâm Chú(10).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 6. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị cầu xin Đức Phật được phát lập lời thề như sở nguyện để hiện ra nghìn tay nghìn mắt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 7. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị Chánh Pháp Minh Vương Như Lai trong kiếp quá khứ(11).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 8. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng tám vạn bốn ngàn cánh tay kết ấn Cát tường(12).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 9. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng Ngàn tay ngàn mắt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
10. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng bốn mươi hai cánh tay(13).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
11. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng Mười tám cánh tay(14).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
12. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng Mười hai cánh tay.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 13. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng Tám cánh tay.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 14. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng Bốn cánh Tay(15).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 15. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu Thiên Chuyển(16).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 16. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng mười hai mặt(17).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 17. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có hình tượng mười một mặt(18).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 18. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Chánh Thú(19).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 19. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Tỳ Câu Chi(20).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 20. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Mã Đầu(21).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 21. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là A-gia-yết-rị-bà(22).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 22. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Pháp Tịnh(23).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 23. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Diệp Y(24).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 24. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị thuyết Đà-la-ni Tiêu Phục Độc Hại(25).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 25. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị cầm bảo châu Như ý và bánh xe báu(26).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 26. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra Thần Chú Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm(27).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 27. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực phá tan hết thảy nghiệp chướng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 28. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú Ma-ha Ba-đầu-ma Chiên-đàn Ma-ni tâm(28).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 29. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực diệt trừ các đường ác.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 30. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm lợi lạc chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 31. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng làm thỏa mãn hết thảy nguyện cầu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 32. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực cứu khổ sản nạn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 33. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị thành tựu tâm Đại bi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 34. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị thành tựu tâm Đại từ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 35. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực mở toang cửa Địa ngục.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 36. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra đủ loại âm thanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 37. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra đủ loại sắc tướng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 38. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra đủ thứ lợi lạc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 39. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra đủ loại phương tiện cứu khổ cứu nạn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 40. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra đủ loại thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 41. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực viên mãn tất cả các nguyện.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 42. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói thần chú có năng lực thoát khỏi Ngũ nghịch trọng tội(29).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 43. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực giải trừ ngãi độc, bùa chú, trù ếm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 44. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa trị các bệnh đầu não ngực sườn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 45. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa trị các bệnh cổ họng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 46. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa trị các bệnh miệng, bụng, eo, lưng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 47. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa trị các bệnh mắt tai môi lưỡi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 48. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa trị các bệnh răng nướu mũi thân.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 49. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa trị các bệnh tay chân.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 50. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa chị các bệnh cùi hủi điên dại.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 51. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa trị các bệnh do các quỷ thần hung ác gây não hại cho người.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 52. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực dứt trừ các tai ách đao binh lửa nước.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 53. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực dứt trừ nỗi sợ hãi sấm sét, động đất.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 54. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ khử oan gia, trộm cướp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 55. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ khử quân giặc tàn ác.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 56. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ khử ba tai họa và chín thứ hoạnh tử(30).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 57. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ khử ác mộng và những điều quái dị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 58. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ khử rắn rít, bò cạp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 59. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực hàng phục các loài ác thú hung độc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 60. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ dẹp mọi chuyện kiện tụng ở cửa quan.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 61. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực hiện bày thế giới Cực lạc làm lợi lạc cho người.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 62. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực khiến người trì niệm được mọi người quý kính.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 63. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực khiến người trì niệm có đầy đủ của cải thế gian.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 64. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực tăng thêm các loại nhạc cụ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 65. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực khiến chúng sanh tăng thêm đủ mọi thế lực
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 66. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực ban cho chúng sanh mạng sống dài lâu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 67. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực ban cho sự giàu sang và sống lâu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 68. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng tâm vô vi của Đại bi thần chú(31).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 69. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng tâm không nhiễm trước của Đại bi thần chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 70. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng Tâm không quán của Đại bi thần chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 71. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng Tâm cung kính của Đại bị thần chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 72. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng Tâm khiêm hạ của Đại bi thần chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 73. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng Tâm không tạp loạn của Đại bi thần chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 74. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng Tâm nhớ nghĩ Đà-la-ni của Đại bi thần chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 75. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra biểu tượng tâm thề độ tất cả chúng sanh của Đại bi thần chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 76. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả được ngàn mắt chiếu soi(32).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 77. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả được ngàn tay hộ trì.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 78. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả trừ được tám vạn bốn ngàn bệnh tật.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 79. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả hàng phục tất cả quỷ thần hung dữ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 80. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả hàng phục hết các thiên ma.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 81. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả chế phục các ngoại đạo.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 82. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả trừ diệt được các loài yêu tinh quỷ quái xuất sanh từ gỗ đá đầm lầy núi non(33).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 83. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả đoạn trừ được tâm tham nhiễm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 84. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp hành giả trừ được tâm tham nhiễm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 85. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực khiến chúng sanh gặt hái được quả lành.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 86. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng thân Phật(34).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 87. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng thân ánh sáng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 88. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Từ bi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 89. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Diệu pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 90. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Thiền định.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 91. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Hư không.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 92. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Vô úy.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 93. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Thường trụ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 94. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Giải thoát.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 95. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Dược vương.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 96. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tán thán công đức của hành giả là người có đủ kho tàng Thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 97. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra Thần chú Quảng Đại Tự Tại(35).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 98. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại(36).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 99. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Nhiên Sách.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 100. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Thiên Quang Nhãn(37).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
Chúng con cúi đầu đảnh lễ, nguyện cho những mong cầu của tất cả chúng sanh đều được đầy đủ.
- 101. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị giúp chúng sanh thành tựu sự an lạc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 102. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị giúp người có đầy đủ nguyện lực Đại bi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 103. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị thị hiện làm một vị Bồ-tát.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 104. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có danh hiệu là Bất Không Quyên Tác(38).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 105. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau mắt(39).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 106. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau tai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 107. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau mũi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 108. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau lưỡi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 109. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau nướu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 110. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau răng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 111. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau môi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 112. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau tim ngực.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 113. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau bụng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 114. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau lưng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 115. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau cột sống.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 116. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh gãy xương quai hàm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 117. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau xương bánh chè.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 118. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau khớp gối.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 119. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau khớp xương.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 120. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau tay chân.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 121. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau đầu mặt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 122. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau cổ họng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 123. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh đau bả vai, bắp tay.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 124. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh phong hàn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 125. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh thời khí.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 126. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh trĩ bón.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 127. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh kiết lị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 128. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh lậu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 129. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh bướu trong bụng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 130. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh cùi hủi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 131. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh ung thư.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 132. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh ghẻ lở.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 133. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh mụn bọc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 134. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh nhọt đốm cam.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 135. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh nhọt đốm hoa.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 136. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh nhọt chảy mủ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 137. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh nhọt độc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 138. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh ung nhọt sưng tấy.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 139. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh ban đỏ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 140. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh mụt đầu đinh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 141. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh rôm sảy.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 142. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh sưng độc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 143. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh động kinh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 144. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chữa lành bệnh sưng tinh hoàn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 145. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực giúp người thoát khỏi gông cùm xiềng xích.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 146. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực giúp người trừ được sự đánh chửi chê bai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 147. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực giúp người trừ được mưu hại khủng bố.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 148. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực giúp người trừ bỏ được việc không lợi ích.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 149. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm cho người Trì chú được lợi tha.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 150. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm cho nước tắm của người trì chú dính đến người khác liền được tiêu tội(40).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 151. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm cho gió thổi qua người trì chú chạm đến thân người khác cũng được lợi lạc(41).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 152. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm cho người trì chú nói ra lời gì cũng khiến người khác hoan hỷ và quý mến(42).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 153. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm cho gió thổi qua người trì chú chạm đến thân người khác cũng được diệt tội.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 154. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm cho người trì chú thường được trời rồng theo ủng hộ(43).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 155. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ khử được những tai nạn của quốc gia(44).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 156. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ khử được sự thù địch của những quốc gia khác.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 157. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực làm cho đất nước được mùa màng no ấm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 158. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực ngăn chặn được dịch bệnh lưu hành .
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 159. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực trừ dẹp được các nạn lũ lụt, hạn hán thời tiết không điều hòa.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 160. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị nói ra thần chú có năng lực chuyển hóa các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực thất thường(45).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 161. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực khiến người làm phản dứt hết âm mưu nghịch loạn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 162. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực khiến thế lực thù địch của ngoại bang tự nhiên hàng phục.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 163. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho quốc gia trở về với nền pháp trị(46).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 164. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho mưa thuận gió hòa.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 165. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho cây trái sum suê dồi dào.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 166. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho quốc gia hưng thịnh, dân chúng được an cư lạc nghiệp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 167. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho mọi việc xấu ác thảy đều tiêu diệt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 168. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho cõi nước được bình yên.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 169. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho Bồ-tát Nhật Quang ủng hộ chúng sanh(47).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 170. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho Bồ-tát Nguyệt Quang ủng hộ chúng sanh(48).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 171. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho hạt mầm giáo pháp Đại thừa được tăng trưởng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 172. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho công đức tu tập được thành tự như sở nguyện(49).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 173. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giải trừ mười lăm việc chết xấu(50).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 174. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết khổ sở vì đói khát.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 175. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết đau đớn vì bị nhốt đánh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 176. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì oán thù oán đối.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 177. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì giết nhau ngoài chiến trường.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 178. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì ái dục và oán khổ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 179. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì rắn độc cắn trúng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 180. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì lửa cháy và nước cuốn trôi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 181. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì trúng phải thuốc độc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 182. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì bị trùng độc hãm hại.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 183. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì bị cuồng loạn mất trí.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 184. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì té ngã xuống từ cây cao hay bờ sông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 185. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì bị người ác trù ếm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 186. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì tà thấn ác quỷ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 187. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì bệnh khổ bức bách thân mình.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 188. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không chết vì không chịu an phận nên tự hại mình.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 189. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh được sanh vào mười lăm nơi tốt lành(51).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 190. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh sinh ra quốc gia nào cũng được gặp các vị quốc vương hiền thiện.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 191. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh thường được sanh vào các quốc gia hiền thiện.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 192. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh thường được sanh ra vào các thời đại tốt lành.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 193. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh thường được gặp bạn hữu tốt lành.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 194. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh được thân thể và giác quan đầy đủ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 195. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh có đạo tâm thuần thục.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 196. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh không phạm vào các giới cấm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 197. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp chúng sanh có được quyến thuộc hòa thuận.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 198. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho hành giả được mọi người cung kính.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 199. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho hành giả có tài vật gì không bị cướp đoạt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 200. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho hành giả cầu mong điều gì đều được xứng ý.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
Nay con cúi đầu đảnh lễ, nguyện cho tất cả chúng sanh mọi điều mong cầu đều được đầy đủ.
- 201. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho Long thiên thiện thần thường theo ủng hộ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 202. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh sanh ra chỗ nào cũng được thấy Phật nghe pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 203. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng sanh nghe được chánh pháp, tỏ ngộ được nghĩa lý sâu mầu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 204. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm biết tất cả các pháp(52).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 205. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm đạt được con mắt trí huệ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 206. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau độ được tất cả chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 207. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm đạt được phương tiện thiện xảo.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 208. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm ngồi được trên thuyền Bát-nhã.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 209. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm được vượt qua biển khổ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 210. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm thành tựu được các pháp Giới, Định.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 211. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm lên được đỉnh núi Niết-bàn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 212. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm vào được ngôi nhà Vô vi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 213. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con sớm hòa đồng vào chân thân pháp tánh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 214. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con luôn thấy được mười phương Chư Phật.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 215. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con luông nghe được tất cả các pháp lành.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 216. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con luôn gặp được ngàn tay ngàn mắt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 217. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con thường trông thấy Ngài ngự tại núi Phổ Đà.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 218. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con thường nghe được Ngài diễn thuyết Đại Bi Tâm Chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 219. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực khiến Mật Tích Kim Cang ủng hộ người thọ trì tâm chú(53).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 220. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Ô-sô Kim Cang ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 221. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Quân-trà-lợi Kim Cang ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 222. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Uyên-câu-thi Kim Cang ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 223. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bát bộ lực sĩ ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 224. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Thường-ca-la Kim Cang ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 225. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Ma-hê-thủ-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 226. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Na-la-diên ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 227. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Kim-tỳ-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 228. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bà-tỳ-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 229. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Ba-cấp-bà ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 230. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Ca-lâu-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 231. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Mãn-hỷ-xa-bát ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 232. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Chân-đà-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 233. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bán-để-ra ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 234. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tất-bà-già-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 235. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Ưng-đức-tỳ-đa ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 236. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tát-hòa-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 237. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tam-bát-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 238. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Ngũ Bộ Tịnh Cư ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 239. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Diêm-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 240. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Vua trời Đế Thích ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 241. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến trời Đại Biện ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 242. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến trời Công Đức ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 243. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bà-niết-na ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 244. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Đề-đầu-lại-tra Thiên vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 245. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bổ-đan-na ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 246. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Đại Lực Chúng ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 247. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tỳ-lâu-lặc-xoa Thiên vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 248. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tỳ-lâu-bát-xoa ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 249. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tỳ-sa-môn Thiên vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 250. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Kim Sắc Khổng Tước ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 251. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến hai mươi tám bộ Đại tiên chúng ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 252. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Ma-ni-vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 253. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bạt-đà-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 254. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tán Chỉ Đại tướng ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 255. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Phất-la-bà ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 256. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Nan-đà Long vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 257. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bạt-nan-đà Long vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 258. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Bà-già-la Long vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 259. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Y-bát-la Long vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 260. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Y-bát-la Long vương ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 261. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến A-tu-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 262. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Càn-thát-bà ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 263. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Khẩn-na-la ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 264. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Thủy thần ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 265. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Thủy thần ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 266. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Phong thần ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 267. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Địa thần ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 268. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Lôi thần ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 269. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Điện thần ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 270. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Cưu-bàn-trà ủng hộ người thọ trì tâm chú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 271. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Tỳ-xá-xà ủng hộ người thọ trì tâm chú(54).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 272. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau được trọn đủ hạnh tu Lục độ(55).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 273. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau chứng được quả vị Thanh Văn
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 274. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau chứng được tín căn Đại thừa.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 275. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau chứng được địa vị Thập Trụ(56).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 276. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau đến được địa vị Phật-đà.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 277. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau thành tự được ba mươi hai tướng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 278. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con mau thành tựu được tám mươi vẻ đẹp tùy hình.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 279. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực mở cửa địa ngục giúp tội nhân được giải thoát(57).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 280. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh được niềm vui lớn thù thắng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 281. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh được lợi ích lớn thù thắng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 282. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có chú lực làm cho những nghiệp chướng ác bị phá hoại.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 283. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có chú lực làm cho kẻ sắp đọa vào địa ngục liền được giải thoát.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 284. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho những gì mong cầu đến mau như gió thổi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 285. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho sở nguyện việc gì đều được ngài ban bố.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 286. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng sanh muốn thấy Phật liền cho thấy Phật.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 287. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có Quán Thế Âm Bí Mật tâm chú và Bí Mật dữ nguyện(58).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 288. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực tuôn mưa báu lớn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 289. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực chở che như Đại kiếp thọ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 290. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sáng soi như ngọc Như Ý.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 291. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho tất cả sở nguyện được trọn đủ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 292. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho tất cả sở cầu không gì chướng ngại được.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 293. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho người đọc tụng thần chú không cần chọn ngày giờ vẫn được thành tựu(59).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 294. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho người đọc tụng thần chú không cần trì trai vẫn được thành tựu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 295. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho không có chú nào khác sánh bằng thần chú Như Ý Ma Ni Chuyển Luân.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 296. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho tội Ngũ Vô Gián tiêu diệt không sót(60).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 297. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho tất cả hoạn nạn nhờ đọc chú này đều được tiêu trừ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 298. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho các trận chiến tranh nhờ đọc chú này không ai thắng được.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 299. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho hành giả khi hóa sanh trong hoa sen, tất cả phẩm tính tốt đẹp đều tự trang nghiêm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 300. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho hành giả thẳng đến quả vị Bồ đề, vĩnh viễn xa lìa các nẻo ác thú.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
Nay con cúi đầu đảnh lễ, nguyện cho tất cả chúng sanh mọi điều mong cầu đều được đầy đủ.
- 301. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho tội ác tiêu diệt, rốt ráo thành Phật.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 302. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho lương thực hàng hóa tăng trưởng thêm nhiều.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 303. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh càng thêm phú quý, của cải vật chất phong phú đầy đủ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 304. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho những ai thường nhớ nghĩ Bồ-tát Quán Thế Âm thì Ngài mãi làm nơi nương tựa lâu dài.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 305. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị đã thành tựu được tâm Đại Bi trong Vô lượng kiếp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 306. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực thỏa mãn mọi mong cầu của chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 307. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm tăng trưởng các pháp thanh tịnh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 308. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực thành tựu hết thảy mọi căn lành.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 309. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho lìa hết thảy mọi sự sợ hãi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 310. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có khả năng thỉnh Phật sai bảo Thiện thần thường theo ủng hộ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 311. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện thành Bồ-tát thành tựu chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 312. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực đẩy lùi những hạt mầm tai hại.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 313. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm Bảo Châu Như Ý(61).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 314. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm sợi dây Quyên tác.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 315. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm chiếc bình bát báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 316. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một thanh kiếm báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 317. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm chày Kim-cang ba ngấn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 318. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm chày Kim-Cang một ngấn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 319. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay kiết ấn Thí Vô Úy.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 320. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm Nhật tinh Ma-ni.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 321. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm Nguyệt tinh Ma-ni.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 322. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một cây cung báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 323. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một mũi tên báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 324. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một nhành dương liễu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 325. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm cây phất trần trắng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 326. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một chiếc hồ bình(62).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 327. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm tấm bảng bàng bài(63).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 328. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một cây búa lớn(64).
Đ ẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 329. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một chiếc vòng ngọc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 330. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm nhánh hoa sen trắng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 331. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm nhánh hoa sen xanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 332. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một tấm gương báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 333. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm nhánh hoa sen tím.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 334. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm áng mây ngũ sắc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 335. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một chiếc tịnh bình.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 336. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm nhánh hoa sen hồng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 337. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một cây kích báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 338. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một ống loa báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 339. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm cây gậy đầu lâu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 340. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một xâu chuỗi ngọc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 341. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một chiếc bình báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 342. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một chiếc ấn báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 343. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một cây kích ba chĩa.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 344. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một cây tích trượng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 345. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân hai tay hiệp chưởng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 346. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân hai tay nâng Hóa Phật.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 347. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay nâng cung điện biến hóa.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 348. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một cuốn kinh báu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 349. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm Kim luân Bất thối(65).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 350. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay nâng Hóa Phật trên đầu.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 351. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị tay cầm một chùm nho xanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 352. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân bốn mươi hai tay.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 353. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân con mắt thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 354. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân lỗ tai thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 355. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân lỗ mũi thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 356. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân chiếc lưỡi thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 357. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân thân thể thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 358. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân ý căn thần thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 359. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được Thiên nhãn thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 360. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được Thiên nhĩ thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 361. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được Thiên tỷ thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 362. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được Thiên thiệt thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 363. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được Thiên thân thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 364. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được Thiên ý thông.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 365. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân có đủ ngàn tay.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 366. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hiện thân có đủ ngàn mắt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 367. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc Đại bi Tâm Đà-la-ni.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 368. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực phổ môn thị hiện.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 369. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hóa độ chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 370. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực thỏa mãn các lời nguyện.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 371. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị hay nói Đại bi tâm Đà-la-ni.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 372. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực khiến cho hành giả đắc quả Thập Địa(66).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 373. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực khiến hàng Thanh Văn chứng được Tứ quả(67).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 374. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho hành giả không quên mất Đại-đà-la-ni.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 375. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con thường đọc chú này không để đoạn dứt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 376. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con chế ngự tâm ý an định một chỗ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 377. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con được ngàn mắt soi thấy.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 378. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con được ngàn tay hộ trì.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 379. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con nói ra lời nào đều là pháp âm(68).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 380. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con được chín mươi chín ức Hằng ha sa chư Phật xót thương ái niệm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 381. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con lấy pháp chân thật quán tưởng chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 382. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con đạt được hết thảy ánh sáng của Như Lai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 383. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con hằng đem Đà-la-ni để cứu độ chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 384. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng con thường được trăm ngàn Tam-muội hiền tiền.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 385. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực sai khiến Thiên long bát bộ thường theo ủng hộ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 386. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho kiếp tam tai không thể hủy hoại chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 387. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực thường đem Đà-la-ni chữa lành các bệnh của chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 388. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực dạo chơi các cõi nước Phật một cách tự tại.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 389. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực tụng đọc chú này âm thanh vang vọng không dứt.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 390. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực ở tại chỗ nào nhân dân ở đó đều được an lạc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 391. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có đầy đủ oai thần lực không thể nghĩ bàn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 392. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiển bày công đức của Lục tự Đà-la-ni(69).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 393. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có được đầy đủ pháp lực để làm lợi lạc tất cả chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 394. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc Hóa thân thuyết pháp(70).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 395. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Phật để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 396. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Bích Chi Phật để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 397. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Thanh Văn để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 398. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Phạm Vương để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 399. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Đế Thích để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 400. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Tự Tại Thiên để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
Con nay xin cúi đầu đảnh lễ, nguyện cho tất cả chúng sanh mọi thứ mong cầu đều được đầy đủ.
- 401. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Đại Tự Tại Thiên để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 402. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Thiên Đại Tướng Quân để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 403. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Tỳ-sa-môn để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 404. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Tiểu Vương để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 405. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Trưởng giả để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 406. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Cư sĩ để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 407. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Tể quan để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 408. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Bà-la-môn để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 409. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Tỳ-kheo để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 410. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Tỳ-kheo-ni để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 411. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Ưu-bà-tắc để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 412. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Ưu-bà-di để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 413. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Phụ nữ để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 414. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Đồng nam để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 415. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Đồng nữ để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 416. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Chư Thiên để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 417. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Rồng để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 418. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Dạ-xoa để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 419. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Càn-thát-bà để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 420. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân A-tu-la để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 421. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Ca-lầu-la để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 422. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Khẩn-na-la để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 423. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân Ma-hầu-la-già để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 424. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân người để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 425. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân phi nhân để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 426. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện ra thân thần Chấp Kim Cang để thuyết pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 427. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực ban bố sự không sợ hãi cho chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 428. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực an nhiên tự tại.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 429. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực cảm ứng đối với chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 430. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được thân tướng Như Thị(71).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 431. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được con mắt Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 432. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được lỗ tai Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 433. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được lỗ mũi Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 434. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được cái lưỡi Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 435. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được tâm ý Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 436. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được tánh thấy Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 437. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được tánh nghe Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 438. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được công dụng Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 439. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được công hạnh Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 440. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được lòng tự ái Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 441. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đắc được tâm cung kính Như Thị.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 442. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị đạt được năng lực lễ lạy chính mình như lễ lạy Như Lai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 443. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị thân cận chính mình như thân cận Như Lai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 444. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực thủ đắc chính mình như thủ đắc Như Lai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 445. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực nhớ tưởng chính mình như nhớ tưởng Như Lai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 446. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực phụng sự chính mình như phụng sự Như Lai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 447. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực cúng dường chính mình như cúng dường Như Lai.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 448. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm thanh tịnh ba nghiệp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 449. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị đạt được danh hiệu nhiệm mầu là Quán Âm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 450. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực dứt trừ khổ não của ba đường ác.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 451. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho khắp pháp giới được mát trong.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 452. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực độ thoát các khổ não cho chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 453. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực quán sát tiếng kêu đau khổ của chúng sanh giúp họ được giải thoát.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 454. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho thuốc độc biến thành nước cam lồ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 455. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng sanh lìa được lòng dục.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 456. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng sanh lìa được sân hận.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 457. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho chúng sanh lìa được ngu si.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 458. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực giúp cho người cầu sanh con trai, con gái thì được sanh con trai, con gái.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 459. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực thọ nhận sự lễ bái giúp cho người nhận lễ bái được phước báo không luống mất.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 460. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực thọ nhận sự cúng dường giúp cho người cúng dường được phước báo không luống mất.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 461. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực dùng mọi thân hình để đi vào khắp các thế giới.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 462. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực đi vào khắp các thế giới để độ thoát chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 463. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị khéo ứng hợp hết thảy mọi nơi chốn(72).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 464. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có lời thệ nguyện sâu như biển cả.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 465. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có lời thệ nguyện trải qua số kiếp không thể nghĩ bàn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 466. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị đã từng hầu cận nhiều ngàn đức Phật.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 467. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị đã từng phát ra lời nguyện vô cùng thanh tịnh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 468. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh khi nghe danh hiệu thì không thể bỏ qua.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 469. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh khi thấy hình tượng thì không thể bỏ qua.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 470. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh khi tâm nhớ nghĩ thì không thể bỏ qua.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 471. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực diệt trừ khổ não trong các cõi còn có đau khổ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 472. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực khiến cho kẻ có lòng gia hại người khác liền phát khởi tâm từ bi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 473. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có đầy đủ thần thông lực(73).
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 474. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực tu tập trí tuệ và phương tiện rộng lớn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 475. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực hiện thân khắp các cõi, không nơi nào không hiện được.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 476. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho các thứ khổ sanh già bệnh chết dần dần hết sạch.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 477. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đạt được sự quán chiếu đúng như thật.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 478. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đạt được sự quán chiếu thanh tịnh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 479. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đạt trí tuệ quán chiếu rộng lớn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 480. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đạt sự quán chiếu Đại bi.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 481. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị chứng đạt sự quán chiếu Đại từ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 482. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị khiến chúng con trong mỗi lời nguyện đều được chiêm ngưỡng.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 483. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có ánh sáng trong suốt không tỳ vết.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 484. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực như mặt trời trí tuệ phá tan mọi sự hắc ám.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 485. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực như mặt trời trí tuệ chiếu sáng khắp cả thế gian.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 486. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có đồng thể Đại bi rền vang như sấm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 487. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có ý niệm Đại từ nhiệm mầu như mây phủ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 488. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực rải mưa pháp cam lồ.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 489. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực rưới tắt lửa dữ phiền não.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 490. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho các oán thù đều thoái lui tan hoại.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 491. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có tôn hiệu là Diệu Âm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 492. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có tôn hiệu là Phạm Âm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 493. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có tôn hiệu là Hải Triều Âm.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 494. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có tôn hiệu là Tịnh Thánh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 495. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực đem tuệ nhãn Từ bi để quán sát chúng sanh.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 496. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có phước báo châu tụ nhiều vô lượng như nước biển lớn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 497. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm chỗ nương tựa cho chúng sanh giữa các ách nạn chết chóc của khổ não.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 498. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực ủng hộ làm cho Phật pháp được trường tồn.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 499. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho tự thân chúng sanh ngày đêm đều an trụ trong Phật pháp.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
- 500. Kính lạy Đại sĩ, tôn vị có năng lực làm cho chúng sanh tùy chỗ an trụ luôn được an lạc.
ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. (O)
Hôm nay chúng con xin cúi đầu đảnh lễ. Nguyện cho tất cả chúng sanh mọi mong cầu đều được đầy đủ.
Nguyện cho cha mẹ nhiều đời, oán thân nhiều kiếp, tám vạn ba đường, hồn siêu phách lạc được sanh về cõi nước an lạc, tội lỗi trong vô lượng kiếp đều được tiêu diệt.
QUÁN ÂM BỒ TÁT TÙY TÂM CHÚ.
Án đa rị, đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha.
CHỦ LỄ XƯỚNG
Nguyện cho cha mẹ nhiều đời, oan thân nhiều kiếp, tám nạn ba đường, hồn đơn phách lạc sanh về miền An dưỡng, tội khổ từ vô lượng kiếp đến nay đều tiêu diệt.
Án đa ri, đa ri, đốt đa ri, đốt đốt đa ri, ta bà ha. (3 lần)
CUNG KÍNH KHẢI BẠCH
Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng Từ bi thương xót, tâm lợi tế sáng soi. Mở con đường lễ kính thảnh thơi. Bày phương tiện sửa mình lầm lỗi. Xót thương đệ tử, cùng khắp hữu tình, kiếp này đời này, vướng bao tội cấu. Duyên xưa nghiệp trước, biết mấy oan khiên, đem thân lễ sám hành nghi, mong được bao dung đức độ. Sữa pháp mong trừ oan sáu nẻo, gió lành quạt mát nghiệp ba đường. Tội căn chuyển tạo phúc căn, Ác quả hóa thành Thiện quả.
Ngưỡng nguyện: Từ Tôn rũ niệm bao dung, chúng con đầu thành sám hối. Khắp vì bốn ân ba cõi, pháp giới chúng sanh, đoạn trừ bao nhiêu tội chướng.
CHÍ TÂM SÁM HỐI
Một tấm thân trôi cõi mộng này
Gây bao tội chướng tạo lồng vây
Bốn đại để cho tài sắc khiến
Suốt đời rượu thịt mãi no say
Sát sanh hại vật mê nam nữ
Nuôi tằm ươm kén cứ trả vay
Khách khứa rượu chè bao thứ chuyện
Bạn bè nấu nướng đãi nhau hoài
Giàu có lại lường thăng tráo đấu
Nghèo hèn toan tính kế mưu hay
Dùng lời hủy báng trên chư Phật
Dèm pha luôn cả những bậc Thầy
Cô phụ lắm oan gia trái chủ
Thêm nhiều oán tắng mãi cuồng quay
Chiếm đoạt của công làm của để
Lấy tiền kẻ khác giữ riêng xài
Gương nghiệp tỏ soi thân hiện rõ
Sông mê chìm đắm não nùng thay
Sự nghiệp trăm năm tiêu tán hết
Tránh sao địa ngục mãi lưu đày
Lưới sắt cột đồng tù rộng mở
Nước sôi xương trắng ngục phơi bày
Đêm đến giường đinh nằm xé xác
Ngày qua núi kiếm đứng phanh thây
Nghe nói bao nhiêu là địa ngục
Đâu ngờ phải chịu cảnh hôm nay
Từng nghe ánh sáng vầng huệ nhật
Phá hết oan khiên tội chướng này
Muốn được thân người không luống mất
Nương vào Phật lực ấy duyên may
Chớ chuốc sừng lông niềm khổ lụy
Đừng gây muông thú cảnh đọa đày
Cay đắng muôn ngàn nương Đức Thánh
Tỏ bày Đại sĩ Quán Âm đây
Bao nhiêu tội chướng gây nhiều kiếp
Trước Đấng Từ bi nguyện tỏ bày.
Sám hối rồi chí tâm quy mạng lễ Thập phương Thường trụ Tam bảo.
CỬ TÁN
Quan Âm Đại Sĩ
Cổ hiệu Viên Thông
Mười hai nguyện lớn rộng mênh mông
Biển khổ một thuyền không
Nghe tiếng buồm dong
Chốn chốn hiện thân cùng
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát.
TỤNG
Giải kết, giải kết, giải oan kết
Nghiệp chướng bao đời giải tỏa hết
Rửa tâm, tẩy ý phát lòng thành
Đối trước Phật đài mong giải kết
Giải kết, giải kết, giải oan kết
Oan trái nhiều đời xin giải hết
Trăm ngàn vạn kiếp những oán thù
Tất cả nay đều xin rửa sạch
Giải hết oan, diệt hết tội
Nguyện được tham dự Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Quả vị Bồ đề xin tiếp nối
Nam mô Giải Oan Kết Bồ Tát Ma-ha-tát.
KINH TINH YẾU BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA(75)
Bồ Tát Quán Tự Tại
Khi quán chiếu thâm sâu
Bát Nhã Ba La Mật
(tức diệu pháp Trí Độ)
Bỗng soi thấy năm uẩn
Đều không có tự tánh.
Thực chứng điều ấy xong
Ngài vượt thoát tất cả
Mọi khổ đau ách nạn.
“Nghe đây, Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không
Không chẳng khác gì sắc
Sắc chính thực là không
Không chính thực là sắc
Còn lại bốn uẩn kia
Cũng đều như vậy cả.
“Xá Lợi Tử, nghe đây:
Thể mọi pháp đều không
Không sanh cũng không diệt
Không nhơ cũng không sạch
Không thêm cũng không bớt.
Cho nên trong tánh không
Không có sắc, thọ, tưởng
Cũng không có hành, thức
Không có nhãn, nhĩ, tỷ
Thiệt, thân, ý (sáu căn)
Không có sắc, thanh, hương
Vị, súc, pháp (sáu trần)
Không có mười tám giới
(Từ nhãn đến ý thức)
Không hề có vô minh
Không có hết vô minh
Cho đến không lão tử
Cũng không hết lão tử
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí cũng không đắc
“Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ Tát
Nương diệu pháp Trí Độ
(Bát Nhã Ba La Mật)
Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt niết bàn tuyệt đối.
Chư Bụt trong ba đời
Y diệu pháp Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nên đắc vô thượng giác.
Vậy nên phải biết rằng
Bát Nhã Ba La Mật
Là linh chú đại thần
Là linh chú đại minh
Là linh chú tối thượng
Là linh chú tuyệt đỉnh
Là chân lý bất vọng
Có năng lực tiêu trừ
Tất cả mọi khổ nạn
Cho nên tôi muốn thuyết
Câu thần chú Trí Độ
Bát Nhã Ba La Mật
Nói xong đức Bồ Tát
Liền đọc thần chú rằng:
GATE
GATE
GATE
PARAGATE
PARASAMGATE,
BODHISVAHA.
Quy mạng mười phương các Như Lai
Chánh pháp, Tăng già nguyện chiếu khai
Xin đem ba nghiệp hằng thanh tịnh
Chắp tay kính lễ tán dương hoài .
Nam mô thập phương thường trú Phật.
Nam mô thập phương thường trú Pháp.
Nam mô thập phương thường trú Tăng.
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Bao nhiêu phiền não của đời con
Nghiệp chướng oan khiên nguyện chẳng còn
Thập triền thập sử do mê đắm
Không còn hiện khởi giữa lòng son.
Nghiệp nhân hữu lậu hàng vô số
Tận trừ trong ba cõi chon von
Nhân quả trần duyên bao cấu nhiễm
Lũy kiếp mai sau nguyện xói mòn.
Nghiệp chướng hiện tiền cùng hậu nghiệp
Ba đời oan khuất mãi vùi chôn
Oai nghi giới hạnh bao lầm lỡ
Chí tâm sám hối hết không còn.
Nghiệp chướng báo chướng phiền não chướng
Nhìn rõ thật tướng thảy đều không.
Kính Phật kính Pháp kính chơn Tăng
Pháp thân thanh tịnh sớm huân tập.
Khi con nghĩ đến đao sơn
Núi đao rừng kiếm sạch trơn trong lòng.
Khi con nghĩ đến lửa hồng
Nước sôi lửa bỏng cột đồng tiêu tan
Tưởng về địa ngục kinh hoàng
Bao nhiêu cảnh khổ hoàn toàn tiêu khô
Nghĩ về Ngạ quỷ lô nhô
Tự nhiên no đủ huyết đồ tiêu ma
Khi con nghĩ đến Tu la
Ác tâm điều phục lòng tà vắng tanh
Khi con nghĩ đến súc sanh
Vô phân biệt huệ đắc thành như nhiên.
Chúng sanh vô biên
Thệ nguyện độ khắp
Phiền não đầy ắp
Nguyện tận đoạn trừ
Pháp môn vô dư
Nguyện đều tu học
Phật đạo cao tột
Nguyện được viên thành
CUNG NGUYỆN
Mặt trời Phật chiếu đầy, bánh xe pháp thường xoay, mây lành giăng phủ khắp, Chánh pháp trụ lâu dài. Quốc gia càng hưng thịnh, Thế giới được sum vầy, Thanh bình và an lạc, Bây giờ và ở đây.
PHỔ NGUYỆN
Hàng Phật tử chúng con, thanh thản cả thân tâm, bao mê lầm tiêu tán, tín niệm vững tâm thành, huệ căn thêm tăng trưởng. Đời này sanh lợi lạc, mai sau được siêu thăng. Gia đạo càng hưng thịnh, tông môn sáng vô ngần. Bốn ân đều lợi lạc. Ba cõi thảy tri ân, chúng sanh cùng pháp giới, Phật đạo được viên thành.
TAM TỰ QUY
Tự quy y Phật
Xin nguyện chúng sinh
Thể theo đạo cả
Phát lòng vô thượng.
Tự quy y Pháp
Xin nguyện chúng sinh
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng
Xin nguyện chúng sinh
Nương vào chúng lý
Hết thảy không ngại.
HỒI HƯỚNG
Công đức lễ Phật
Hạnh tu thù thắng
Phước báo vô biên
Nguyện đem hồi hướng.
Nguyện cho pháp giới
Tất cả chúng sanh
Mau được vãng sanh
Cõi Phật Vô Lượng.
Nguyện cho ba chướng
Phiền não tiêu diệt
Nguyện được trí tuệ
Hiểu biết rõ ràng.
Nguyện cho tội chướng
Sớm được tiêu trừ
Đời đời thực hành
Theo Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tịnh độ
Về cõi Tây phương
Chín phẩm hoa sen
Chính là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật
Ngộ được Vô sanh
Bồ tát Bất thối
Chính là bạn lữ.
Nguyện đem công đức
Hồi hướng tất cả
Con và chúng sanh
Đều thành Phật đạo.
CHÚ THÍCH
1/ Thất nạn nhị cầu: Bảy thứ nạn và hai điều mong cầu.
Theo Kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện Công Đức, bảy nạn là: 1. Dân chúng bị dịch bệnh; 2. Nước khác đến xâm chiếm; 3. Trong nước có phản nghịch; 4. Tinh tú biến hiện điều quái lạ; 5. Nhật thực nguyệt thực; 6. Gió mưa trái thời; 7. Hạn hán.
Theo Phẩm Phổ Môn, Kinh Pháp Hoa, bảy nạn là nạn lửa, nạn nước, nạn La-sát, nạn dao gậy, nạn quỷ, nạn gông cùm và nạn oán tặc.
Trong Phẩm Thị Trì, Kinh Nhân Vương Bát-nhã quyển hạ và trong Đà-la-ni Tập quyển 10 cũng đều có nói đến bảy nạn, nhưng nội dung có chút khác biệt, ở đây không trích dẫn.
Nhị cầu: Hai thứ mong cầu là cầu con trai và cầu con gái. Ở đây còn có ý cầu phước đức, trú tuệ và sự đoan chánh.
2/ Nguyên văn là “Khảm Lưu Cấn (坎 流 艮 止): Khảm là một quẻ trong Bát quái, nghĩa là hõm vào, là hiểm hóc, chỗ nào hõm sâu xuống đều gọi là Khảm. Cấn cũng là một quẻ trong Bát quái, nghĩa là thôi, là ngăn lại. Ở đây lấy ý tính chất của nước “gặp lũng thấp thì luân lưu, nơi bờ cao thì đọng lại” nên dịch như vậy.
3/ Ngũ Phần Hương: 5 thứ hương thơm: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát và Giải thoát tri kiến hương.
4/ Hoa thất giác: tức Thất giác chi, còn gọi là Thất Bồ-đề Phần: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Khinh an, Hỷ, Định và Xả.
5/ Tứ biện: Chỉ cho Tứ voi ngại biện tài: Từ vô ngại, Nghĩa vô ngại, Lý vô ngại và Nhạo thuyết vô ngại.
6/ Tần-bà (Phạn: Bimba, Bimbaja; Pali: Bimba, Bimbajala). Tên khoa học: Momardica, Momadelpha. Hán dịch: Tương tư thọ 相 思 樹 , một liaij cây sinh trưởng ở Ấn Độ thời xưa, quả của nó có màu đỏ tươi. Điều Tần-bà quả trong Tịch Chiếu Đường Cốc Hưởng Tập quyển 1 ghi: Tần-bà là một loại cây cao, có quả màu đỏ, lớn như hạt đậu. Du-già Luận Ký quyển 2, thượng cho rằng quả Tần-bà chính là quả Tần-duyên (quả Tần-la).
7/ Tam Không: Ba thứ không được lập ra dựa vào sở chấp của chúng sanh:
1. Ngã không (còn gọi là Nhân không): Đối với pháp 5 uẩn gượng lập chủ tể, gọi là Ngã chấp; néu xét sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô tự tánh, không thấy có ngã thể, gọi là Ngã không.
2. Pháp không: Đối với pháp 5 uẩn chấp là thật có, gọi là Pháp chấp, nếu xét thấy pháp 5 uẩn như huyễn như hoá đều do nhân duyên sanh, không tự tánh, gọi là Pháp không.
3. Câu không (còn gọi là Ngã pháp nhị không): Đã trừ được Ngã chấp và Pháp chấp, Không của Năng không cũng trừ, Không và chấp đều mất, khế hợp bản tánh gọi là Câu không. (Theo Kim Cương Kinh Sớ Luận Toản Yếu, thượng).
8/ Tứ đẳng trụ tâm: 4 chỗ trụ tâm Thân, Thọ, Tâm, Pháp trong Tứ niệm xứ. Có chỗ nói chỉ cho Tứ vô lượng tâm Từ , Bi, Hỷ, Xả.
9/ Áo lục thù (六 銖 衣): Chiếc áo rất nhẹ có trọng lượng 6 thù của chư thiên (1 thù nặng khoảng 0,75 gam).
Theo phẩm Đao-lợi Thiên, Kinh Trường A-hàm 20, chiếc áo của chư thiên cõi trời Đao-lợi nặng 6 thù, trời Diệm-ma nặng 3 thù, trời Đâu-suất nặng 2,5 thù, trời Hoá Lạc nặng 1 thù, trời Tha hoá tự tại nặng nửa thù.
10/ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni (Đại Chánh Tạng tập 20, trang 106 trung có ghi: “Quán Thế Âm bồ tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến con và tất cả chúng sinh nên Ngài nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, Ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu con mà bảo: Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sinh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự an vui lớn. Lúc đó con mới ở ngôi Sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên Đệ bát địa.”
11/ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Quán Thế Âm Bồ Tát, sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về quá khứ, đã từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Do đại bi nguyện lực, vì muốn phát khởi hết thảy Bồ Tát, vì để an lạc thành thục các chúng sinh, nên hiện làm bồ tát.” Kinh Quán Âm Tam Muội cũng nói: Quán Âm thành Phật trước Như lai, tên là Chánh Pháp Minh Như lai, Như lai là đệ tử khổ hạnh của ngài.
12/ Cánh tay Mẫu đà la: Còn gọi là Cát tường thủ. Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Khi ấy Đức Như lai ruỗi cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo A nan rằng: Thầy nay thấy tay Mẫu đà la của tôi là chánh hay là ngược?” Về tám muôn bốn ngàn tay, Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Tôi (bồ tát Quán Thế Âm) xoay tánh nghe để nghe tiếng mầu nhiệm của nội tâm. Tánh nghe này không chút nhiễm ô. Tôi ngăn dứt tất cả âm thanh đối tượng của nhĩ căn; bấy giờ tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của sáu căn còn là một tánh giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn ngại. Tôi còn có thể hiện ra nhiều hình tướng và nói vô số chân ngôn bí mật; từ 1 đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, 108 đầu, 1.000 đầu, 10.000 đầu cho đến 84.000 đầu. Tôi có thể hiện ra 2 tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14 tay, 16 tay, 18 tay, 20 tay, 24 tay, 108 tay rồi 1.000 tay, 10.000 tay cho đến 84.000 tay uyển chuyển. Tôi có thể hiện ra 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, 108 mắt, rồi 1.000 mắt, 10.000 mắt, cho đến 84.000 mắt thanh tịnh, hoặc từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ cứu độ chúng sinh được đại tự tại.” Trong Bích Nham Lục, tắc 89, Vân Nham Đại Bi Tay Mắt có ghi: “Bồ tát Đại Bi có tám muôn bốn ngàn cánh tay Mẫu đà la. Đại Bi có lắm tay mắt, các ông lại có hay không? Bá Trượng nói: Tất cả ngữ ngôn văn tự thảy đều xoay về chính mình.”
13/ Tứ thập nhị tý Quán Âm: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Quán Thế Âm Tự Tại bồ tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sinh. Đó cũng là do tâm đại bi của vị đại sĩ ấy hóa hiện.” Bốn mươi hai tay là: 1. tay cầm ngọc Như ý; 2. tay cầm sợi dây; 3. Tay cầm bát báu; 4. Tay cầm cây kiếm báu; 5. Tay cầm chày Kim cang tam cổ; 6. Tay cầm chày Kim cang độc cổ; 7. Tay Thí vô úy; 8. Tay cầm Nhật tinh; 9 tay cầm Nguyệt tinh; 10. Tay cầm cây cung báu; 11. Tay cầm mũi tên báu; 12. Tay cầm cành dương liễu; 13. Tay cầm cây phất trắng; 14. Tay cầm cái Hồ bình; 15. Tay cầm cái bang bài; 16. Tay cầm cây búa; 17. Tay cầm cái vòng ngọc; 18. Tay cầm hoa sen trắng; 19. Tay cầm hoa sen xanh; 20. Tay cầm cái gương báu; 21. Tay cầm hoa sen tím; 22. Tay cầm cái tráp đựng châu báu; 23. Tay cầm mây ngũ sắc; 24. Tay cầm bình quân trì; 25. Tay cầm hoa sen hồng; 26. Tay cầm cây kích báu; 27. Tay cầm vỏ ốc báu; 28. Tay cầm cây gậy đầu lâu; 29. Tay cầm tràng hạt; 30. Tay cầm cái linh báu; 31. Tay cầm cái ấn báu; 32. Tay cầm Câu thi thiết câu (cây kích ba chĩa); 33. Tay cầm cây tích trượng; 34. Hai tay chắp lại; 35. Tay nâng vị hóa Phật; 36. Tay hiện hóa cung điện; 37. Tay cầm quyển kinh báu; 38. Tay cầm bánh xe vàng bất thoái; 39. Tay nâng vị hóa Phật trên đỉnh đầu; 40. Tay cầm chùm bồ đào; 41. Tay tuôn dòng cam lộ; 42. Tay tổng nhiếp ngàn tay. Kính lạy thứ 313 đến kính lạy 351 là nói về 39 tay của bồ tát Quán Thế Âm, thiếu 3 tay là tay cầm bảo tráp, tay tuôn cam lộ và tay tổng nhiếp ngàn tay.
14/ Chuẩn Đề Quán Âm (Cundi), còn gọi là Chuẩn Đề Phật mẫu, Thất câu chi Phật mẫu, là một trong 6 hình tượng Quán Âm: Trong mạn đà la Thai tạng giới, tôn tượng này được thờ ở tận cùng bên trái của viện Biến tri. Theo kinh Thất câu chi Phật mẫu sở thuyết Chuẩn Đề đà la ni, hình tượng ngài thân màu trắng vàng, ngồi kiết già trên hoa sen, thân tỏa hào quang tròn, mặc lụa trắng mỏng, có thiên y, chuỗi anh lạc, dây thần thông, đầu đội mũ, trên mặt có 3 mắt, 18 cánh tay đều đeo vòng xuyến, 2 tay trên cùng bắt ấn thuyết pháp. Các tay bên phải là: thí vô úy, cầm kiếm, cầm tràng báu, cầm trái câu duyên, cầm búa, cầm móc, cầm chày kim cang, cầm xâu chuỗi. Các tay bên trái là: cầm cờ báu như ý, cầm hoa sen hồng nở, cầm cái bình, cầm dây lụa, cầm bánh xe pháp, cầm vỏ ốc, cầm hồ bình, cầm hòm kinh Bát nhã chữ Phạn. Ngoài ra có tượng 2 tay, 4 tay, 6 tay, 14 tay ... cho đến 84 tay, mật hiệu là Tối Thắng kim cang
15/ Tứ tý Quán Âm: một trong các vị bản tôn của mật tông thuộc Phật giáo Tây Tạng. Về hình tướng, tôn vị này có 4 đầu: màu hồng, trắng, lam và màu tro, có 4 tay, 2 chân, thân màu lam, chân đạp trên mình người nam nằm ngữa. Tôn vị này được thờ trong viện Thời Luân và viện Hoan Hỷ Kim Cang.
16/ Xem Thiên Chuyển Đà La Ni Quán Thế Âm Bồ Tát Chú (ĐTK 1035, sa môn Trí Thông ở chùa Tổng Trì, nước Đại Đường dịch). Tụng chú Thiên Chuyển thì “ trong lúc nằm ngủ, mộng thấy Đức Quán Âm với các thứ trang nghiêm, thì thành tựu tất cả việc lành, tiêu diệt tất cả nghiệp ác, truyền thẳng đến người đọc tụng cũng được diệt tội.” Thiên chuyển là một ngàn vị Chuyển luân thánh vương.
17/ Thập Nhị Diện Quán Âm: Trong kinh điển và các nghi quỹ không có nói đến hình tượng Quán Âm 12 mặt, và không có trong các hóa thân của đại sĩ được biết đến. Phật Tổ lịch đại thông tải, quyển 9 có nói: “Lương Vũ Đế lịnh cho chúng tăng miêu tả hình tượng ngài Chí Công; ngài Chí Công chỉ vào mặt mình rồi phân thành 12 mặt diệu tướng của đức Quán Âm.” Sách Sơn cốc ngoại tập, quyển 14 ghi: “Thập Nhị Diện Quán Âm không có khuôn mặt chánh. Ghi chú: đại sư Tăng Ca (người Tây Vực) đi đến Lâm Hoài, từng nằm nghỉ ở nhà của bà Hạ Bạt, hiện hình tướng Quán Âm 12 mặt, cả nhà rất vui mừng, bèn quy y, bỏ nhà mà kiến lập ngôi chùa. Xem Tống cao tăng truyện.”
18/ Tượng Bồ-tát Quán Thế Âm có 11 mặt: 9 mặt của 9 vị Bồ-tát,1 của 1 vị Phật và 1 là mặt của đức Phật A Di Đà. Cứ mỗi ba mặt tượng trưng là ba đặc tính: từ bi với chúng sinh khổ nạn, quyết tâm đối trị cái xấu, hoan hỷ với cái tốt. Theo một quan điểm khác thì 11 mặt biểu tượng cho Thập Địa và Phật quả.
19/ Bồ tát Chánh Thú được xem như hóa thân của bồ tát Quán Thế Âm. Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới thứ 39: Thiện Tài đồng tử tham vấn bồ tát Quán Tự Tại, được bồ tát chỉ dạy pháp môn Đại bi hạnh: " Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Quán Tự Tại Bồ Tát, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm Vô thượng bồ đề mà chưa biết bồ tát thế nào học bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin chỉ dạy cho! Bồ Tát nói: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử ! Người đã có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Này thiện nam tử! Ta đã thành tựu bồ tát Đại bi hạnh giải thoát môn. Này thiện nam tử! Ta dùng môn bồ tát Đại bi hạnh này bình đẳng giáo hóa tất cả chúng sinh tiếp nối chẳng dứt. Này thiện nam tử! Ta trụ nơi môn Đại bi hạnh này thường ở chỗ tất cả chư Phật, hiện khắp trước tất cả chúng sinh. Hoặc dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, lợi hành, đồng sự để nhiếp thủ chúng sinh. Hoặc hiện sắc thân nhiếp thủ chúng sinh. Hoặc hiện những sắc bất tư nghì quang minh thanh tịnh để nhiếp thủ chúng sinh. Hoặc dùng âm thanh, hoặc dùng oai nghi, hoặc vì họ thuyết pháp, hoặc hiện thần biến, làm cho tâm họ tỏ ngộ mà được thành thục. Hoặc vì họ mà hiện thân đồng loại cùng họ ở chung mà thành thục họ. Này thiện nam tử! Ta tu hành môn Đại bi hạnh này , nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sinh, nguyện tất cả chúng sinh khỏi sợ con đường hiểm, khỏi sợ nhiệt não, khỏi sợ mê hoặc, khỏi sợ trói buộc, khỏi sợ sát hại, khỏi sợ nghèo cùng, khỏi sợ chẳng sống, khỏi sợ tiếng xấu, khỏi sợ sự chết, khỏi sợ đại chúng, khỏi sợ ác thú, khỏi sợ tối tăm, khỏi sợ dời đổi, khỏi sợ ái biệt ly, khỏi sợ oán thù gặp, khỏi sợ thân bức bách, khỏi sợ lo buồn. Ta lại phát nguyện: Nguyện tất cả chúng sinh hoặc nhớ đến ta, hoặc xưng tên ta, hoặc thấy thân ta đều được khỏi tất cả sự bố úy. Này thiện nam tử! Ta dùng phương tiện này làm cho chúng sinh khỏi sự bố úy, lại dạy họ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề trọn chẵng thối chuyển. Này thiện nam tử! Ta chỉ đuợc môn bồ tát Đại bi hạnh này.” Sau đó Thiện Tài đồng tử gặp bồ tát Chánh Thú đến pháp hội, nhân đó bồ tát Quán Tự Tại chỉ cho Thiện Tài cách hỏi bồ tát Chánh Thú: Thế nào học bồ tát hạnh, thế nào tu bồ tát đạo? Bồ tát Chánh Thú chỉ dạy pháp môn giải thoát tên là "phổ môn tốc tật hành”. (Kinh Hoa Nghiêm, Hán dịch ngài Thật Xoa Nan Đà, Việt dịch H.T Thích Trí Tịnh).
20/ Tỳ câu chi (Bhrkuti) cũng viết là Tỳ câu tri: Là một trong 37 tôn vị của viện Quán Âm thuộc Thai tạng giới, gọi là Tỳ câu chi bồ tát, hoặc gọi là Tỳ câu chi Quán Âm, hoặc gọi là Tỳ câu chi thiên nữ (một trong 8 đại Quán Âm). Tỳ câu chi dịch ý là cau mày, nghĩa là vị thiên nữ xuất sinh từ nếp nhăn trên trán của bồ tát Quán Âm. Lại dịch là mắt giận dữ, vì vị thiên nữ hiện hình tướng phẫn nộ với 4 tay, 3 mắt. Đại Nhật kinh sớ viết: “Bên trái thánh giả tên Tỳ câu chi, thân hình có 4 tay: một tay bên phải cầm xâu chuỗi có tua rủ, tay nữa bắt ấn Thí nguyện, một tay bên trái cầm hoa sen, tay nữa cầm bình quân trì; mặt có 3 con mắt, như hình tượng Ma Hê Thủ La, đầu đội mão phát quan, như mão phát quan của đức Tỳ Lô Giá Na.” Cũng theo Đại Nhật kinh sớ ghi: “Trong đại hội của Phật, bấy giờ chư vị Kim Cang hiện tướng trạng hàng phục rất đáng sợ, như thể không còn ai có thể hàng phục được chư vị. Lúc đó từ trong trán nhăn của Quán Âm hiện ra bồ tát (Tỳ câu chi). Vị bồ tát này hiện thân với tướng trạng rất phẫn nộ, khi ấy chư vị Kim Cang đều sinh lòng sợ hãi, thể nhập Kim cang tạng thân. Bấy giờ bồ tát Tỳ câu chi tiến đến trước mặt vị Chấp kim cang tạng, thì vị ấy cũng rất sợ hãi, rồi đi đến dưới tòa ngồi của đức Phật mà thưa rằng: Xin đức Phật gia hộ cho con. Lúc bấy giờ đức Phật bảo vị Tỳ câu chi rằng: thiên nữ hãy đứng yên. Vị Tỳ câu chi liền đứng yên. Đứng yên xong, thưa với Phật rằng: Những gì đức Phật dạy bảo con đều vâng làm.”
21/ Mã Đầu Quán Âm (Hayagrīva): Dịch âm tiếng Phạn là A gia yết rị bà hay Ha gia yết rị bà, còn gọi là Mã Đầu Đại sĩ, Mã Đầu Minh vương. Chỉ cho Phẫn Nộ Trì Minh vương, thuộc Liên hoa bộ trong 3 bộ Minh vương, ngự ở ngôi thứ 7, hàng thứ nhất trong viện Quán Âm, Thai tạng giới, một trong 8 vị đại Minh vương, mật hiệu là Hám Thực kim cang, Tấn Tốc kim cang. Tôn vị này là một trong những hóa thân của đức Quán Tự Tại, hiện tướng giận dữ, trên đảnh có đầu ngựa, hoặc 1 mặt 8 tay, 3 mặt 8 tay,hoặc 4 mặt 8 tay,3 mặt 2 tay. Vị Minh vương này là giáo chủ của súc sinh đạo được phối hợp với Sư Tử Vô Úy Quán Âm, được nói trong Ma Ha Chỉ Quán. Vì lấy từ bi làm trọng cho nên tôn vị này phá trừ các ma chướng, chiếu phá sự tối tăm của chúng sinh bằng vầng mặt trời đại oai đức, tận diệt các phiền não vô minh của chúng sinh. Trong Bát Tự Văn Thù Nghi Quỹ có nói: “Vẽ một vị Mã Đầu Minh vương có ba mặt, sáu cánh tay đều cầm khí trượng: bên trái, một tay cầm hoa sen, một tay cầm bình, một tay nắm lại để ở tim; bên phải, tay trên cầm búa, một tay cầm chuỗi hột, một tay cầm dây tơ. Ngài ngồi trên tòa luân vương trên hoa sen, tướng rất giận dữ, ở trong tư thế rất ác, rất dữ tợn.”
22/ Ha Gia Yết Lị Bà tượng pháp (ĐTK 1073) có ghi: Dùng tâm chú Ha gia yết lị bà, chú nguyện 21 biến xong, đưa cho người bịnh, người ấy hướng lên hư không rồi uống thì hết thảy loại trùng độc có trong bụng đều được nôn ra.
23/ Pháp tịnh: là làm sạch các pháp, là không sinh tâm chấp trước đối với tất cả pháp. Kinh Vô Lượng Môn Phá Ma Đà La Ni (ĐTK 1014) nói pháp tịnh là một trong 4 diệu hạnh thanh tịnh của bồ tát, đó là: chúng sinh tịnh, pháp tịnh, biện tịnh và Phật độ tịnh.
24/ Diệp Y Quán Âm (Parn’savari): vị bồ tát đắp y bằng lá sen, là một biến hóa thân thứ 32 trong 33 thân. Trong Thai tạng giới mạn đà la, Diệp Y Quán Âm có vị trí trong viện Quán Âm, mật hiệu là Dị Hạnh kim cang, toàn thân màu thịt, tay trái cầm sợi dây, tay phải cầm cây gậy, gối phải co lại dựng thẳng đứng, ngồi trên hoa sen đỏ. Nếu thờ bồ tát Diệp Y làm bổn tôn thì tụng kinh Diệp Y Quán Tự Tại bồ tát, có thể tiêu trừ bịnh dịch, đói khát, tai họa giặc cướp đao binh, lũ lụt, hạn hán v.v... gọi là Diệp y pháp. Nếu dùng pháp tu này để cầu cho quốc vương, đại thần được sống lâu không bịnh gọi là Diệp y trấn, còn để giữ cho nhà cửa yên ổn thì gọi là Trấn trạch pháp.
25/ Tiêu phục độc hại: Là chỉ cho đà la ni Phá ác nghiệp chướng tiêu phục độc hại: “Đa điệt tha, đà hô nị, mô hô nị, diêm bà nị, đam bà nị, a bà hê, mô hô nị, an trà lê, bàn trà lê, thâu bệ đế, bàn trà ra, bà tư nị, hưu, hưu, lâu, lâu, an trà lê, đâu, đâu, lâu, lâu, bàn trà lê, chu chu, lâu lâu, nị bàn trà lê, đậu đậu, phú phú, bàn trà ra, bà tư nị thẩn trì, chẩn trì, nị chẩn trì, tát bà a bà da yết đa, tát bà niết bà bà đà già, a bà da, ty ly đà,bế điện ,sa ha”. Đà la ni này xuất từ Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Kinh (ĐTK 1043, Đông Tấn, Thiên Trúc cư sĩ Trúc Nan Đề dịch). Kinh kể rằng, vào thời Phật, nhân dân nước Tỳ Xá Ly mắc bịnh quái ác do dạ xoa gây ra, không ai cứu chữa được. Bấy giờ có trưởng giả Nguyệt Cái đi đến chỗ Phật, thỉnh Phật cứu giúp nhân dân Tỳ Xá Ly. Đức Phật dạy đốt hương, rải hoa cúng dường, nhất tâm mười niệm, hướng về Tây phương thỉnh đức Phật A Di Đà và hai vị bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí xót thương cứu hộ, xướng lời rằng: Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng, nam mô Quán Thế Âm bồ tát ma ha tát, đại bi, đại danh xưng, cứu hộ khổ ách. Dân chúng Tỳ Xá Ly làm theo lời Phật thì được lành bịnh. Đức Phật lại thỉnh bồ tát Quán Thế Âm nói thêm chú Tiêu phục độc hại. Đức Phật dạy tôn giả A Nan: Thần chú này tên là Ban Cho Hết Thảy Chúng Sinh Thuốc Cam Lộ Mầu Nhiệm, không sợ hãi bịnh tật, không sợ chết ngang trái, không sợ bị trói buộc bởi các nỗi sợ hãi thuộc ba độc tham dục, giận dữ, ngu si. Vì vậy, thế giới Ta Bà này đều gọi Quán Thế Âm bồ tát là bậc Thí vô úy.
26/ Như Ý Luân (Cintamanicakra): Quán Thế Âm là một trong 6 vị Quán Âm, ngài cầm bảo châu Như ý và Pháp luân, vì rộng độ tất cả khổ não của chúng sinh, thành tựu những nguyện cầu của chúng sinh. Như ý bảo châu chỉ cho trân bảo thế gian và của báu thật tướng xuất thế gian. Hai thứ của báu này có khả năng làm cho chúng sinh sinh ra phước đức. Pháp luân nghĩa là chuyển pháp luân, có năng lực làm cho chúng sinh sinh ra trí đức. Tượng bồ tát này được đặt trong viện Quán Âm thuộc Thai tạng giới, mật hiệu là Trì Bảo kim cang. Hình tam muội da là Như Ý Bảo Châu. Hình tượng vị Bồ tát này có 2 tay,4 tay, 6 tay, 8 tay, 10 tay, 12 tay ... khác nhau. Trong đó tượng Như Ý Luân Quán Âm có 2 tay là tượng Phật có trước Mật giáo và tượng Như Ý Luân Quán Âm 6 tay được nhiều người thờ phụng.
27/ Kính lạy thứ 26 đến kính lạy 41 là nói sự trọng yếu mà ngài phải nói ra chú Đại bi: “Đức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ Tát: Thiện nam tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị bồ tát ma ha tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà la ni môn. Vị bồ tát ấy vì muốn làm cho chúng sinh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế. Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sinh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa. Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế.” (kinh Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm bồ tát Quảng đại viên mãn đại bi tâm đà la ni, H.T Thích Thiền Tâm dịch)
28/ Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú (ĐTK 1082) ghi: “Một thời đức Phật trú ở núi Già Lất Tư cùng với chúng bồ tát câu hội. Bấy giờ Quán Thế Âm bồ tát ma ha tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, quì gối chắp tay thưa với đức Phật rằng: Thế Tôn, con có pháp Đại Đà la ni tên là Ma ha Ba đầu ma Chiên đàn Ma ni Tâm luân, có thể làm cho tất cả việc mong cầu đều được thành tựu.” Ba đầu ma là hoa sen hồng. Chiên đàn (candana): một loại cây, gỗ rất thơm, còn gọi là gỗ đàn hương, mọc trên núi Malaya, miền Nam Ấn Độ, có thân giống đầu trâu, nên còn gọi là ngưu đầu chiên đàn. Ma ni là ngọc Ma ni như ý. Luân là bánh xe chuyển pháp luân. Thần chú Ma ha Ba đầu ma Chiên đàn Ma ni Tâm luân là: “Na mô hạt la đát na đát la dạ da, na mô a lị da, bà lộ cát đế nhiếp phạt la da, bồ đề tát đỏa phả da , ma ha tát đỏa phả da, ma ha ca lô ni ca da, đát điệt tha, án, chiết ca la phạt để chiên đàn ma ni, ma ha bát đầu mê, lỗ lỗ để sắt xá, già phạt la a hạt la, xá minh phán sa bà ha. Án, bát đầu mê, chiên đàn ma ni, ma ha giả phạt la hồng. Án,
phạt la đá, bát đầu mê, hồng.” Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường. Các bản dịch khác tương đương gồm có: Như Ý Luân Đà La Ni Kinh (ĐTK 1080, phẩm 1 và 2, đời Đường, Bồ Đề Lưu Chí dịch), Phật Thuyết Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Tâm Đà La Ni Chú Kinh (ĐTK 1081, đời Đường, Nghĩa Tịnh dịch), Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni Kinh (ĐTK 1083, nửa phần trước, đời Đường, Bảo Tư Duy dịch).
29/ Kính lạy thứ 42 đến kính lạy thứ 67 là nói năng lực của thần chú Ma ha Ba đầu ma Chiên đàn Ma ni Tâm luân: Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú có ghi: Bấy giờ đức Thế tôn lại bảo bồ tát Quán Thế Âm rằng: Thiện nam tử, ông vì các chúng sinh mà nói pháp đà la ni Đại Thần Thông Vương. Khi ấy, bồ tát Quán Thế Âm bạch với đức Phật rằng: Nếu có người thiện nam, người thiện nữ, tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, đồng nam, đồng nữ ở trong đời sống này muốn cầu quả báo hiện tại thì nên trong ngày đêm nhất tâm tinh cần không quên đà la ni này, cũng chẳng cần lựa chọn ngày giờ, tịnh hay bất tịnh, chỉ cần tụng chú xong liền có hiệu nghiệm. Nếu có sự mong cầu, nên tụng 108 biến thì trăm, ngàn việc được thành tựu. Không có thần chú nào khác bì với đà la ni Như ý luân vương này. Vì sao? Vì những nghiệp ác, chướng nặng của quá khứ và hiện tại thảy đều phá hoại được. Nếu có thể tụng đà la ni này thì tội đáng bị đọa vào địa ngục A tỳ liền được giải thoát. Những tội nặng như ngũ nghịch cũng được diệt trừ huống chi là những nghiệp ác khác. Và các ách nạn, tất cả bịnh tật như bịnh sốt trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, lên cơn ban ngày hay ban đêm, hoặc bị trúng gió, mắc bịnh vàng da, bịnh ho đờm v.v... nếu tụng chú này thảy đều lành bịnh. Nếu bị trúng độc, bùa chú, trù ếm, mụn nhọt, cùi hủi, ghẻ ngứa, điên cuồng, đau đầu, đau tai, đau mũi, đau môi, đau lưỡi, đau răng nướu, đau cổ họng, đau miệng mặt, đau đầu não, đau ngực sườn, đau tim, đau bụng, đau eo lưng, đau tay chân, đau toàn thân v.v... thảy đều được khỏi bịnh. Nói tóm là trong thân có bịnh gì cũng chữa trị được. Tụng chú này thì các loài dạ xoa, la sát, tỳ na dạ ca, ác ma, quỷ thần không thể làm hại; cũng chẳng bị hại vì đao binh, nước lửa, gió bão, mưa đá, oan gia, trộm cướp, bạo chúa, giặc ác; cũng chẳng bị chết ngang trái, bị ác mộng, không bị hại vì các giống độc như rắn rít, bò cạp, thằn lằn, nhền nhện và các thú dữ như sư tử, cọp, sói. Quân trận chiến đấu thảy đều thắng lợi. Nếu có việc quan, tranh tụng đều hòa giải được. Nếu tụng đà la ni này một biến thì những việc kể trên đều được toại ý. Nếu ngày ngày tụng đà la ni này 108 biến thì thấy bồ tát Quán Thế Âm đến dạy rằng: Thiện nam tử, ông chớ có sợ hãi, muốn cầu nguyện điều gì, ta sẽ ban cho ngươi tất cả. Đức Phật A Di Đà tự hiện thân tướng, thấy sự trang nghiêm nơi thế giới Cực lạc giống như trong kinh đã nói. Cũng nhìn thấy các chúng bồ tát ở thế giới Cực lạc, cũng thấy chư Phật ở trong mười phương, cũng thấy nơi cư ngụ của bồ tát Quán Thế Âm là núi Bổ đát la. Người trì tụng liền được tự thân thanh tịnh, thường được các vua chúa, công khanh, tể tướng cung kính cúng dường, mọi người đều yêu kính. Chỗ thọ sinh chẳng phải ở trong thai mẹ mà là sinh trên hoa sen vi diệu trang nghiêm. Sinh ra nơi nào cũng thường được túc mạng thông. Bắt đầu từ ngày nay cho đến lúc thành Phật rốt ráo chẳng bị đọa vào đường ác, thường sinh trước Phật.
30/ Ba tai nạn có phân ra lớn và nhỏ: Ba tai nạn lớn là tai nạn lửa, tai nạn nước và tai nạn gió, vào thời kì thế giới sắp hoại diệt. Ba tai nạn nhỏ là tai nạn mất mùa, tai nạn tật dịch và tai nạn đao binh, xảy ra trong mỗi tiểu kiếp của trung kiếp Trụ. Chín thứ hoạnh tử thì trong kinh Dược Sư có ghi: “Ông A Nan hỏi: Chín thứ hoạnh tử là những thứ chi? Cứu Thoát Bồ tát trả lời: Một là nếu có chúng hữu tình nào bị bịnh tuy nhẹ, nhưng không thầy, không thuốc,không người săn sóc, hay giá có gặp thầy lại cho uống lầm thuốc, nên bịnh không đáng chết mà lại chết ngang. Lại đang lúc bịnh mà tin theo những thuyết họa phước vu vơ của bọn tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt trong đời, sinh lòng rúng sợ không còn tự chủ đối với sự chân chánh, đi bói khoa để tìm hỏi mối họa rồi giết hại loài vật để tấu với thần minh, vái van cùng vọng lượng để cầu xin ban phước, mong được sống lâu, nhưng rốt cuộc không thể nào được. Bởi si mê lầm lạc, tin theo tà kiến điên đảo nên bị hoạnh tử, đọa vào địa ngục đời đời không ra khỏi. Hai là bị phép vua tru lục, ba là sa đắm sự chơi bời, săn bắn, đam mê tửu sắc, buông lung vô độ, bị loài quỉ đoạt mất tinh khí, bốn là bị chết thiêu, năm là bị chết đắm, sáu là bị các thú dữ ăn thịt; bảy là bị sa từ trên núi cao xuống; tám là bị đè chết vì thuốc độc, êm đối, rủa nộp, trù ẻo và bị quỉ tủ thi làm hại; chín là bị đói khát khốn khổ mà chết. Đó là chín thứ hoạnh tử của Như Lai nói. Còn những thứ hoạnh tử khác nhiều vô lượng không thể nói hết được.”
31/ Kính lạy thứ 68 đến kính lạy thứ 75 là nói biểu tượng của chú Đại bi: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Khi ấy Đại Phạm thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch vớI đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: Lành thay đại sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe. Quán Thế Âm bồ tát bảo Phạm vương: Ông vì phương tiện lợI ích cho tất cả chúng sinh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì ông mà nói lược qua. Này Phạm vương! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm vô thượng bồ đề, nên biết các thứ tâm này đều là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành.”
32/ Kính lạy thứ 76 đến kính lạy thứ 85: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: "Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm bồ đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn trai giới, đối với chúng sinh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì. Lúc ấy, sẽ có Nhật Quang bồ tát, Nguyệt Quang bồ tát cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch Vi Đà và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sinh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỉ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỉ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, Long vương, Kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ".
33/ Sơn tinh: yêu tinh ở núi lâu năm. Ly, mị, võng, lượng: bốn loài tiểu quỉ xuất sinh từ gỗ đá, sống ở đầm, núi. Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi: “Nếu ở chốn sơn dã tụng kinh tọa thiền mà có các sơn tinh, tạp mị, vọng lượng, quỷ thần hoành hành não loạn làm cho tâm không được an định, tụng chú (đại bi) này một biến thì các quỷ thần đó đều bị trói lại hết.”
34/ Kính lạy thứ 86 đến kính lạy thứ 96 là tán thán công đức người trì tụng chú Đại bi: “Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng Dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi mười phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!"
35/ “Ngài A Nan lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào? Đức Phật bảo: Thần chú này có những tên như sau: 1. Quảng đại viên mãn đà ra ni, 2. Vô ngại đại bi đà ra ni, 3. Cứu khổ đà ra ni, 4.Diên thọ đà ra ni, 5. Diệt ác thú đà ra ni, 6. Phá ác nghiệp chướng đà ra ni, 7. Mãn nguyện đà ra ni, 8. Tùy tâm tự tại đà ra ni, 9. Tốc siêu thánh địa đà ra ni. Ông nên y như thế mà thọ trì.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni)
36/ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Ngài A Nan lại bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Vị bồ tát ma ha tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn đà ra ni như thế? Đức Phật bảo: Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn.”
37/ Kinh Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp (ĐTK 1065, sa môn Tô Phược La dịch) ghi: “Đức Thế Tôn dung Phạm âm ca ngợi bồ tát Quán Tự Tại rằng: Tốt lắm, tốt lắm, Đại liên hoa vương có thể diễn nói pháp thù thắng bậc nhất, dung trăm ngàn mắt chiếu soi chúng sinh, vì vậy mà gọi Thiên quang nhãn.” “Bồ tát Quán Tự Tại vui vẻ mỉm cười, phóng ra ánh sáng lớn, trên đầu hiển hiện 500 đầu mặt, đủ 1000 con mắt. Trên mỗi mão Thiên quan đều có vị hóa Phật cũng phóng ánh sáng. Trên thân bồ tát hiện ra 1000 cánh tay đều cầm báu vật.”
38/ Kinh Bất Không Quyến Sách Chú (ĐTK 1093, đời Tùy, Xà Na Quật Đa dịch) nói về tâm chú tên là Bất Không Quyên Tác Vương: Đức Thế Giới Vương Như Lai ở quốc độ Quán Thị trao truyền tâm chú này cho bồ tát Quán Thế Âm. Bất Không Quyến Sách Quán Âm tay thường cầm một dải lụa bền chắc đi cứu người trong biển khổ; mỗi khi khởi tâm muốn cứu người nào thì đều cứu được, vì vậy mà gọi là "bất không".
39/ Kính lạy thứ 105 đến kính lạy 148 là trích trong Kinh Bất Không Quyên Tác Chú (ĐTK 1093) nói về lợi ích của việc trì chú Bất Không Quyên Tác Vương: “Bạch đức Thế tôn, lại có người nghe Bất không tâm chú này, nên biết người ấy, nếu ngày xưa đối với người đã làm ra những việc xấu ác, những việc trái với chánh pháp như hủy báng các Thầy, hủy báng chánh pháp, thì ở đời vị lai phải đọa vào địa ngục A tỳ. Tất cả chư Phật, bồ tát, thanh văn, bích chi phật v.v... thảy đều rời bỏ. Người ấy ở đời sau sinh tâm hối hận, không tạo ác nữa, đồng thời người ấy có thể trong một ngày một đêm không thọ thực, tụng tâm chú này, thì những tội nặng của người ấy trở thành tội nhẹ nhận chịu trong đời hiện tại. Người ấy mắc bịnh nóng lạnh trong khoảng một ngày, hoặc mắc bịnh nóng lạnh trong hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến bảy ngày; trong một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày; hoặc đau mắt, đau tai, hoặc đau nhức răng môi, hoặc đau nhức miệng lưỡi, hoặc đau tim, đau bụng, đau đầu gối, đau xương sườn, đau lưng, đau cột sống, đau lồng ngực, đau nhức tay chân do có tật, hoặc bị bịnh trĩ, hoặc đi đại tiện tiểu tiện không thông, hoặc bị bịnh kiết lỵ, hoặc đau nhức ở tay, chân và đầu, bị bịnh ghẻ nhọt, bịnh cùi hủi, nhọt đốm cam, mụn bọc, nhọt đốm hoa, bịnh nhọt độc, nhọt trăng ăn, hoặc mắc bịnh động kinh, các bịnh do quỷ ám; hoặc bị yếm đối nên nói lảm nhảm đủ thứ, hoặc do người ếm mà mình mắc bịnh, hoặc do mình ếm mà trở lại hại mình; hoặc bị giam cầm tại lao ngục, hoặc bị người đánh đập, hoặc bị người giết hại, hoặc bị người chửi mắng, xỉ nhục, chê bai. Bạch đức Thế tôn, nay con chỉ nói sơ lược, người ấy bị những nghiệp báo của thân, miệng, ý bức bách, hoặc ban đêm gặp phải ác mộng, tụng chú này thì những hiện báo người ấy nhận chịu do ác nghiệp gây ra thảy đều trừ diệt; huống là những chúng sinh thanh tịnh, chánh tín, chánh hạnh, tụng chú này mà không tiêu diệt được những nghiệp tội hay sao.”
40/ “Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sinh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về Tây phương Tịnh Độ, hóa sinh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sinh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng?” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni).
41/ “Người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sinh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sinh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni).
42/ “Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni).
43/ “Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni).
44/ Kính lạy thứ 155 đến kính lạy thứ 168 là chỉ thêm cách trì chú sao cho đúng cách: “Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo: Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc tụng chú này. Hành trì như thế luôn bảy ngày đêm thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui. Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bịnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhật, nguyệt sai độ v.v... Muốn diệt các thứ tai nạn như thế ấy, vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu. Hành trì như thế đúng bảy ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo, thương mến lẫn nhau, trong triều từ vương tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi, phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với vua, các thiên, long, quỷ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận hòa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp. Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên Nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng đà ra ni này đủ ngàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh viễn an vui.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni)
45/ Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật Đa ghi: Mặt trời mặt trăng thay đổi bất chừng, thời tiết trái ngược, hoặc mặt trời màu đỏ xuất hiện, mặt trời màu đen xuất hiện, hai ba bốn hay năm mặt trời cùng xuất hiện, hoặc nhật thực không có ánh sáng, hoặc vầng mặt trời có thêm một quầng sáng, hai ba bốn hay năm quầng sáng đồng tâm cùng hiện. Lúc đang xảy ra những điềm quái dị như vậy thì nên đọc tụng kinh này.” Kinh nói bảy tai nạn là: 1. Nạn mặt trời mặt trăng lỗi độ (vận chuyển sai lạc), 2. Nạn các vì sao lỗi độ, 3. Nạn lửa cháy, 4. Nạn nước mưa xảy biến lạ, 5. Nạn gió dữ, 6. Nạn khí dương quá thịnh, 7. Nạn giặc dữ.
46/ Chánh văn là chính trị: Có 4 cách hiểu khác nhau về chính trị: 1) nghệ thuật của phép cai trị; 2) những công việc của chung; 3) sự thỏa hiệp và đồng thuận; 4) quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích (xem Andrew Heywood, Politics, Palgrave Macmillan, New York, 2007). Người xưa tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
47/ “Khi ấy Nhật Quang bồ tát vì người thọ trì Đại bi tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng: “Nam mô bột đà cù na mê. Nam mô đạt ma mạc ha đê. Nam mô tăng già đa dạ nê, đế chỉ bộ tất đát đốt chiêm nạp ma.” Nhật Quang bồ tát bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm ba thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni)
48/ Nguyệt Quang bồ tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng: “Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá phạ hạ.” Nguyệt Quang bồ tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này năm biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do bốn mươi hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni).
49/ “Nếu chúng sanh nào chưa được tín căn Đại Thừa, do sức oai thần của Đà La Ni này, hột giống Đại Thừa tự sanh mầm và tăng trưởng; lại do sức Tư Bi phương tiện của Ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni).
50/ Kính lạy thứ 173 đến kính lạy thứ 188: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi là: “Thế nào là 15 việc chết xấu? 1. Không bị chết do đói khát khốn khổ. 2. Không bị chết do gông tù đánh đập. 3. Không bị chết vì oan gia thù địch. 4. Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau. 5. Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại. 6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn. 7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy. 8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc. 9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại. 10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn. 11. Không bị chết do té cây, té xuống núi. 12. Không bị chết bởi người ác trù ếm. 13. Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại. 14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân. 15. Không bị chết vì phi mạng tự hại. Tụng trì thần chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.”
51/ Kính lạy thứ 189 đến kính lạy thứ 203: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Sao gọi là 15 chỗ sinh tốt? 1. Tùy theo chỗ sinh, thường gặp đấng Quốc vương hiền lành. 2. Tùy theo chỗ sinh, thường ở cõi nước an lành. 3. Tùy theo chỗ sinh, thường gặp thời đại tốt, 4. Tùy theo chỗ sinh, thường gặp bạn lành. 5. Tùy theo chỗ sinh, thân căn thường được đầy đủ. 6. Tùy theo chỗ sinh, đạo tâm thuần thục. 7. Tùy theo chỗ sinh, không phạm cấm giới. 8. Tùy theo chỗ sinh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa. 9. Tùy theo chỗ sinh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ. 10. Tùy theo chỗ sinh, thường được người cung kính giúp đỡ. 11. Tùy theo chỗ sinh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt. 12. Tùy theo chỗ sinh, những việc mong cầu đều được toại nguyện. 13. Tùy theo chỗ sinh, Long Thiên, thiện thần thường theo ủng hộ. 14. Tùy theo chỗ sinh, thường được thấy Phật nghe pháp. 15. Tùy theo chỗ sinh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu. Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sinh tốt như thế! Cho nên tất cả hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sinh lòng biếng trễ.”
52/ Kính lạy thứ 204 đến kính lạy thứ 212: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sinh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện: Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm được mắt trí huệ. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau độ các chúng sinh. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm được qua biển khổ. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau được đạo giới định. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm lên non Niết Bàn. Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm, Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh. Nếu con hướng về nơi non đao, Non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi, Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục, Địa ngục liền mau tự tiêu diệt.
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ, Ngạ quỷ liền được tự no đủ.
Nếu con hướng về chúng Tu La, Tu la tâm ác tự điều phục.
Nếu con hướng về các súc sinh, Súc sinh tự được trí huệ lớn.
Khi phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai, kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sinh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sinh tử."
53/ Kính lạy thứ 219 đến kính lạy thứ 271: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi:
“Tiếp đó, Bồ Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng: ‘Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ, Ô Sô Quân Đồ Ương Câu thi, Bát bộ lực sĩ, Thưởng Ca la, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Ma Hê Na La Diên, Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La, Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Tát Giá Ma Hòa La, Cưu La Đơn Tra Bán Chỉ La, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Tất Bà Dà La Vương, Ưng Đức Tỳ La Tát Hòa La, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Phạm Ma Tam Bát La, Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam, Đại Biện Công Đức Bà Đát Na, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương, Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương, Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Sa Môn, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương, Hai mươi tám bộ Đại tiên chúng, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Ma Ni Bạt Đà La, Táng Chi đại tướng, Phất La Bà, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà, Bà Dà La Long, Y Bát La, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La, thường theo ủng hộ bên hành giả. Ta sai thủy, hỏa, lôi, điển thần, Cưu Bàn Trà vương, Tỳ Xá Xà, thường theo ủng hộ bên hành giả.’ Các vị thiện thần này cùng thần Long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 Đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại bi. Nếu người đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng nạn phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu, lạc mất đường về, tụng trì chú này, thiện thần, long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa.”
54/ Sau đây là chú thích của H.T Thích Thiền Tâm:
1. Mật tích Kim cang sĩ: Thiên thần cầm kim cang xử theo ủng hộ Phật. Gọi là mật tích vì thần này thường theo Phật nghe những sự tích bản thệ bí mật, hoặc các vị này do Phật, Bồ Tát thị hiện làm thần, tung tích rất bí mật, chúng sinh không biết.
2. Ô Sô quân đồ Ương câu thi (Ucchusma angùsa) Ô sô quân đồ cũng gọi là Ô Sô Sa Ma, dịch là Uế Tích Kim Cang, Ương câu thi: có nghĩa là Phúc Câu, tên một thứ vũ khí hình như cái móc. Đây là tên của một vị Minh vương thần, có công đức chuyển uế thành tịnh, vị thần này và đầu chân lông đều phun ra lửa, mặt mày phẫn nộ, có bốn cánh tay cầm những thứ vũ khí: gươm, dây roi, xoa hoặc khúc câu.
3. Bát bộ lực sĩ, Thưởng Ca La: Bát bộ lực sĩ chính là Thiên Long bát bộ. Thưởng Ca La (Sankara) dịch là Cốt Tỏa Thiên, đây chính là tên vị thiên thần bộ thuộc của đức Quán Âm, thống lãnh bát bộ.
4. Ma Hê Na La Diên (Mahésvara Nàràyana): Ma hê gọi cho đủ là Ma Hê Thủ La, có nghĩa Đại Tự Tại, dịch là lực sĩ hoặc Kiên cố. Đây là tên vị thiên thần rất hùng mãnh, có ba con mắt, tám cánh tay, ở cõi Sắc Cứu Cánh.
5. Kim Tỳ La Đá Ca Tỳ La: gọi tắt là Kim Tỳ La Đà (Kumbhirabà) dịch là Oai Như Vương, thân hình sắc trắng hồng, tay trái cầm bảo cung, tay mặt cầm bảo tiễn
6. Bà Cấp Ta Lâu La: Ta Lâu La cũng gọi là Ca Lâu La, đây chỉ cho vị thần thống lãnh loài Kim Súy Điểu.
7. Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La: Chân Đà La tức Khẩn Na La, đây là chỉ cho tên vị thần thống lãnh loài Nhơn Phi Nhơn.
8. Tát Giá Ma hòa La: Ma Hòa La cũng gọi Ma Dà La (Makara) tức là cá Ma Kiệt, loài cá này rất lớn, cơ thể dài đến 700 do tuần. Đây là tên chỉ cho vị thần thống lãnh loài cá Ma Kiệt.
9. Cưu Lan Đơn Trà Bán Chỉ La: cũng gọi là Bán Chỉ Ca (panika), tức là vị đại thần đứng vào hàng thứ ba trong hàng tám vị Dược xoa đại tướng.
10. Tất Bà Già La Vương: tức là thọ thần vương, vị thần làm chủ các loài cây.
11. Ứng Đức Tì La Tát Hòa La: dịch là Hoan hỉ thần.
12. Phạm Ma Tam Bát La: tức là Phạm Thiên vương.
13. Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La: gọi tắt là Diêm Ma Thiên (Suyàmadeva), vị Thiên tử quyết đoán những nghiệp lành dữ của chúng sinh.
14. Thích Vương Tam thập tam: tức là trờI Đế Thích ở cõi trời Đao Lợi, làm chủ 33 cung trời, đây là chỉ cho vị Đế Thích cùng 32 vị thiên chủ tùy thuộc.
15. Đại Biện Công Đức Bà Đát Na: Bà Đát Na dịch là Tăng Ích, đây là chỉ cho Đại Biện Tài Thiên vương.
16. Thần Mẫu Nữ, chúng đại lực: tức là thần Quỉ Tử Mẫu, thống lãnh đại lực dạ xoa.
17. Tỳ Lâu Lặc Xoa vương (Virùdhaka): Tăng trưởng thiên vương.
18. Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, gọi tắt là Tỳ Sa Môn (Vairasana) tức Đa Văn Thiên Vương.
19. Kim Sắc Khổng Tước Vương: tên một vị thần thân mình sắc vàng rực, tay tả cầm phướng báu, trên báu có chim khổng tước (chim công).
20. Ma Ni Bạt Đà La (Manibhadra) tức Bảo Hiền, một trong tám vị Dược xoa đại tướng.
21. Táng Chi Đại tướng, Phất La Bà: cũng gọi là Phất Bà La Ha (Puspàraha) dịch là Thực Hoa, một trong tám vị Dược xoa đại tướng.
22. Nan Đà, Bạt Nan Đà (Nanda, Upananda): dịch là Hoan Hỉ, Thiện Hoan Hỉ. Tên của hai vị Long vương huynh đệ, Nan Đà là rồng lớn, Bạt Nan Đà là rồng nhỏ. Hai vị Long vương này mỗi vị đều có bảy đầu, tay hữu cầm đao, tay tả cầm dây.
23. Bà Già La Long Y Bát La: Bà-già- la dịch là Hàm Hải Long Vương, Y Bát La dịch là Hương Diệp Long vương, mình rồng đầu voi. 24. Cưu Bàn Trà vương, Tỳ xá xà: Cưu Bàn Trà (Kumbhànda) dịch là Yểm Mị Quỷ, Tỳ Xá Xà (Pisàca) dịch là Đạm Tinh Khí Quỷ. Đây là hai loại quỉ vương trong bát bộ quỉ thần.
55/ Kính lạy thứ 272 đến kính lạy thứ 278: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Này Phạm vương! Nếu chúng sinh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗI một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy. Tâm chú Đại bi đây do 99 ức hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sinh; hàng thanh văn chưa chứng may được chứng quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng bồ đề, mau được phát tâm bồ đề, nếu chúng sinh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà ra ni này, hột giống đại thừa tự sinh mầm và tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu. Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sinh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị bồ tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn đà ra ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì 4 quả sa môn không cầu tự được. Công lực của thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi thiết vi và núi Tu Di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sinh ở trong ấy đều phát tâm bồ đề.
56/ Bồ tát trải qua 5 vị, mỗi vị có 10 phần gọi là Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng và Thập địa. Theo kinh Lăng Nghiêm, 5 vị gồm có:
1) Tư lương vị tức là Thập tín. Bước vào vị bồ tát thì Thập tín là căn bản, gồm có: 1. Tín tâm, 2. Niệm tâm, 3. Tinh tấn tâm, 4. Tuệ tâm, 5. Định tâm, 6. Bất thối tâm, 7. Hộ pháp tâm, 8. Hồi hướng tâm, 9. Giới tâm, 10. Nguyện tâm.
2) Gia hạnh vị tức là Thập trụ: 1. Phát tâm trụ, 2. Trị địa trụ, 3. Tu hành trụ, 4. Sinh quí trụ, 5. Phương tiện cụ túc trụ, 6. Chánh tâm trụ, 7. Bất thối trụ, 8. Đồng chân trụ, 9. Pháp vương tử trụ, 10. Quán đỉnh trụ.
3) Kiến đạo vị tức là Thập hạnh: 1. Hoan hỉ hạnh, 2. Nhiêu ích hạnh, 3. Vô sân hận hạnh, 4. Vô tận hạnh, 5. Ly si loạn hạnh, 6. Thiện hiện hạnh, 7. Vô trước hạnh, 8. Tôn trọng hạnh, 9. Thiện pháp hạnh, 10. Chân thật hạnh.
4) Tu đạo vị tức là Thập hồi hướng: 1. Cứu hộ nhất thiết chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng, 2. Bất hoại hồi hướng, 3. Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng, 4. Chí nhất thiết xứ hồi hướng, 5. Vô tận công đức tạng hồi hướng, 6. Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng, 7. Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh hồi hướng, 8. Chân như tướng hồi hướng, 9. Vô phược giải thoát hồi hướng, 10. Pháp giới vô lượng hồi hướng.
5) Cứu kính vị tức là Thập địa: 1. Hoan hỉ địa, 2. Ly cấu địa, 3. Phát quang địa, 4. Diệm tuệ địa, 5. Nan thắng địa, 6. Hiện tiền địa, 7. Viễn hành địa, 8. Bất động địa, 9. Thiện tuệ địa, 10. Pháp vân địa.
Đây là phối hợp 5 vị trải qua 50 địa của chư Bồ tát.
57/ Kính lạy thứ 279 đến kính lạy 286: Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Như Ý Luân Đà La Ni Thần Chú (ĐTK 1082, Thực Xoa Nan Đà dịch) có ghi: “Khi Quán Thế Âm bồ tát nói Như Ý Luân đà la ni này xong thì đại địa chấn động theo sáu cách. Các cung điện của trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la già v.v... thảy đều bị chấn động. Ma vương và các chúng ma thảy đều rất kinh sợ. Cung điện của ma vương đều bốc lửa. Các loài còn lại, dạ xoa, ác quỷ cũng đều hoảng hốt che mặt té lăn xuống đất. Tất cả cửa địa ngục đều mở, tội nhân ở trong đó được giải thoát và nhận được thắng lạc của cõi trời. Lúc ấy, trời tuôn mưa hoa với mọi thứ vật dụng trang nghiêm quý báu, các âm nhạc của cõi trời từ trong hư không vang ra mọi thứ âm thanh cúng dường.” “Có sự mong cầu thì nên tụng 108 biến chú này thì ngàn việc liền thành. Lại không có thần chú nào khác bì kịp Như ý luân vương đà la ni này. Vì sao? Vì nghiệp ác, chướng nặng của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai thảy đều phá hoại được. Nếu hay trì tụng đà la ni này thì tội đáng bị đọa vào địa ngục A tỳ liền được giải thoát”. “Tài vật, tôi tớ, tất cả nhạc khí, bao điều ưa thích, nếu ở nơi xa, tùy theo ý mong cầu đều như gió đến mau”. “Nếu muốn thấy bồ tát Quán Thế Âm thì tụng 1080 biến (Như ý luân đà la ni) thì liền thấy chân thân của đại sĩ và thành mãn tất cả”. “Nếu muốn thấy chư Phật với các đại chúng thì tụng một muôn ba ngàn biến (Như ý luân đà la ni) thì liền thấy”
58/ Kính lạy thứ 287 đến kính lạy 292: Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni (ĐTK 1083, đời Đường, Bảo Tư Duy dịch) ghi rằng: “Bấy giờ bồ tát Quán Thế Âm thưa với đức Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, con có pháp đại đàn tên là Liên hoa phong kim cang gia trì bí mật vô ngại và minh chú tên là Quán Thế Âm liên hoa như ý ma ni chuyển luân tâm đà la ni. Bạch đức Thế Tôn, vì sao gọi là sự thành tựu tối thắng tâm của việc quán sát âm thanh thế gian, đó là vì có thể làm cho những ước nguyện của tất cả chúng sinh được thành tựu. Nay ở trước đức Thế Tôn con xin nói, xin đức Thế Tôn gia hộ cho con, vì tất cả chú tiên mà tuôn trận mưa báu, như cội cây ở trong đại kiếp, như viên ngọc Ma ni như ý thường làm cho những nguyện cầu của chúng sinh được tròn đầy. Đức Phật bảo: Ta đã gia trì cho ông, ông nay hãy nói bản nguyện và tâm chú bí mật Quán Thế Âm để cho tất cả mong cầu đểu được tròn đầy, không có chướng ngại.”
59/ Kính lạy thứ 293 đến kính lạy thứ 295: Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni có ghi: “Bấy giờ đức Thế Tôn dung âm thanh Ca lăng tần già đẹp mầu ca ngợi bồ tát Quán Thế Âm rằng: Tốt lắm tốt lắm, ông vì lợi ích tất cả chúng sinh nên nói công năng của chú này. Bồ tát Quán Thế Âm thưa với Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, tỳ kheo, tỳ kheo ni mà muốn cầu nguyện được các lợi ích ngay trong đời sống hiện tại thì lời cầu nguyện ấy liền được kết quả. Phải ráng siêng tu chú ấn Như Ý này, không phải tác pháp, không cầu ngày có sao, không phải trì trai, không phải tắm gội, không cần trang phục đặc biệt, khi thọ trì chú không gì cực khổ, chỉ cần đọc là có thành tựu. Người trì tụng làm được các sự nghiệp, có thể làm được trăm ngàn các thứ sự nghiệp, không có chú nào khác cho điều này bằng với chú đây.”
60/ Kính lạy thứ 296 đến kính lạy thứ 304: Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Như Ý Ma Ni Đà La Ni có ghi: “Nay con sẽ nói sự thể chỉ đọc tụng liền thành tựu vô thượng: Người sắp đọa địa ngục A Tỳ, vừa đọc liền được thanh tịnh. Người mắc năm tội Vô gián liền tiêu tội. Người mắc nhiều bịnh đều lành cả. Nếu người bị tai họa chỉ độc chú này đều giải trừ. Tất cả chú thuật, bùa ếm độc ác đều không thể hại. Tất cả bịnh ung nhọt chẳng dính vào thân. Tất cả quỉ thần, Tần na dạ ca, các thứ dao gậy, mưa gió, tai ách, quân ma, giặc cướp, ngoại xâm, nạn vua, oan gia rình rập, vật độc, thú dữ đều chẳng làm hại được. Trọn đời chẳng bị hoạnh tử, chẳng thấy ác mộng. Chiến phạt đấu tranh không thảy đều thắng lợi. Các việc như vậy chỉ đọc tụng liền thành tựu. Lúc sáng sớm tụng đủ 100 biến thì trong ngày ấy bồ tát Quán Thế Âm hiện ra trước người đó làm cho những sự nguyện cầu thảy đều thành tựu, lại còn thấy tất cả chư Phật Như lai, thấy đức Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây nơi quốc độ Cực lạc cùng pháp hội bồ tát, thấy cung điện của bồ tát Quán Thế Âm ở trong núi Bổ đặc lặc già. Thân thể của người ấy trở nên thanh tịnh, quí nhân cung kính cúng dường, mọi người ưa gặp gỡ. Những tội chướng, phiền não trói buộc cũng trở thành thanh tịnh. Sinh ra nơi nào cũng được Túc mạng trí, hóa sinh trong hoa sen, tất cả những phẩm tính tốt đẹp dung để trang nghiêm, thẳng đến bồ đề, xa hẳn nẻo ác, rốt ráo thành Phật. Tội ác tiêu diệt, khéo đi đến thanh tịnh là nhờ thần chú đọc tụng liền được thành tựu. Bấy giờ bồ tát Quán Thế Âm, lại nói công năng bí mật tối thượng của chú này là vì lợi ích và thương xót tất cả chúng sinh. Nắm giữ chú này thì chế phục được người ác, làm cho tâm từ tăng trưởng, niệm tụng liền thành. Thần chú này có thể cho chúng sinh những lợi ích lớn, như làm cho người trí được niềm an lạc lớn, hàng hóa lương thực thêm nhiều, giàu sang, của cải đồ dung thảy đều dư dả, thân sắc đẹp ra, sức khỏe dồi dào. Thần chú bí mật này được nói ra không có hư dối. Nếu muốn chân thật thành tựu vô thượng thì cần thực hành như ý ma ni đại ấn niệm tụng liền thành. Nếu ăn rồi, nếu chưa ăn, nếu trong sạch hay không trong sạch, trường hợp nào cũng phải thường tụng niệm thì không bị những khốn khổ. Khi tụng niệm phải nghĩ nhớ bồ tát Quán Thế Âm là bậc mà mình cần nương tựa.”
61/ Kính lạy thứ 313 đến kính lạy thứ 351: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi:
1. Nếu chúng sinh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.
2. Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi tay cầm cành dương liễu. Chân ngôn rằng: Án, tô tất địa, ca rị, phạ rị, đa nẫm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng phấn tra.
3. Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi tay cầm cái bát báu. Chân ngôn rằng: Án, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.
4. Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi tay cầm châu nhựt tinh ma ni. Chân ngôn rằng: Án, độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.
5. Nếu muốn hàng phục tất cả thiên ma thần, nên cầu nơi tay cầm bạt chiết la. Chân ngôn rằng: Án, nễ bệ nễ bệ, nễ bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.
6. Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi tay cầm chày kim cang. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt-ra, chỉ nãnh, chỉ nãnh, bát-ra nễ bát đa dã, tá-phạ hạ.
7. Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi tay thí vô úy. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt-ra, nẵng dã, hồng phấn tra.
8. Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi tay
cầm dây quyến sách. Chân ngôn rằng: Án, chỉ rị, lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
9. Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bịnh, nên cầu nơi tay cầm châu nguyệt tinh ma ni. Chân ngôn rằng: Án, tô tất địa, yết rị, tát-phạ hạ.
10. Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi tay cầm cung báu. Chân ngôn rằng: Án, a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.
11. Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi tay cầm tên báu. Chân ngôn rằng: Án, ca mạ lã, tát-phạ hạ.
12. Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng, nên cầu nơi tay cầm gươm báu. Chân ngôn rằng: Án, đế thế, đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.
13. Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi tay cầm cây phất trắng. Chân ngôn rằng: Án, bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.
14. Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được hòa thuận nhau, nên cầu nơi tay cầm cái hồ bình. Chân ngôn rằng: Án, yết lệ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
15. Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi tay cầm cái bàng bài. Chân ngôn rằng: Án, dược các sam nẵng, na dã chiến nại-ra, đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.
16. Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên cầu nơi tay cầm cây phủ việt. Chân ngôn rằng: Án, vị ra dã, vị ra dã, tát phạ hạ.
17. Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi tay cầm chiếc vòng ngọc. Chân ngôn rằng: Án, bát na hàm, vị ra dã, tát-phạ hạ.
18. Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi tay cầm hoa sen trắng. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt ra, vị ra dã, tát phạ hạ.
19. Nếu muốn được sinh về mười phương tịnh độ, nên cầu nơi tay cầm hoa sen xanh. Chân ngôn rằng: Án, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt ra, bộ ra bạn đà hồng phấn tra.
20. Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi tay cầm cái gương báu. Chân ngôn rằng: Án, vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhựt ra, mạn trà lã, hồng phấn tra.
21. Nếu muốn được diện kiến mười phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi tay cầm hoa sen tím. Chân ngôn rằng: Án, tát ra, tát ra, phạ nhựt ra, hồng phấn tra.
22. Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi tay cầm cái bảo kíp. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt ra, bát thiết ca rị, yết nẵng hàm ra hồng.
23. Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi tay cầm hóa hiện mây ngũ sắc. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt ra, ca rị ra tra hàm tra.
24. Nếu muốn sinh lên cõi Phạm Thiên, nên cầu nơi tay cầm bình
quân trì. Chân ngôn rằng: Án,phạ nhựt ra thế khê ra, rô tra
hàm tra,
25. Nếu muốn được sinh lên các cung trời, nên cầu nơi tay cầm
hoa sen hồng. Chân ngôn rằng: Án, thương yết lệ, tát phạ hạ.
26. Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi tay cầm cây bảo kích. Chân ngôn rằng: Án, thảm muội dã,
chỉ nãnh hạ rị, hồng phấn tra.
27. Nếu muốn triệu tất cả chư thiên thiện thần, nên cầm nơi tay
ống loa báu. Chân ngôn rằng: Án, thương yết lệ, mạ hạ thảm
mãn diệm, tát phạ hạ.
28. Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ thần, nên cầu nơi tay cầm cây
gậy đầu lâu. Chân ngôn rằng: Án, độ nẵng, phạ nhựt ra.
29. Nếu muốn mười phương chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên cầu nơi tay cầm xâu chuỗi ngọc. Chân ngôn rằng: Nẵng mồ a đá nẵng, đát ra dạ dã, Án, a na bà đế vĩ nhã duệ. Tất địa
tất đà lật đế, tát phạ hạ.
30. Nếu muốn có được tất cả phạm âm thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi tay cầm chiếc linh báu. Chân ngôn rằng: Nẵng mồ bát ra hàm bá noa duệ, án, a mật lật đảm, nghiễm bệ thất rị duệ, thất rị, chiếm rị nảnh, tát phạ hạ.
31. Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi tay cầm chiếc ấn báu. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát phạ hạ.
32. Nếu muốn được Thiên thần, Long vương thường đến ủng hộ, nên cầu nơi tay cầm cu thi thiết câu. Chân ngôn rằng: Án, a rô rô, đa ra ca ra, vĩ sa duệ, nẵng mồ tát phạ hạ.
33. Nếu vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sinh được nhở sự che chở giúp đỡ, nên cầu nơi tay cầm cây tích trượng. Chân ngôn rằng: Án, na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế na dạ bát nảnh, hồng phấn tra.
34. Nếu muốn cho tất cả chúng sinh thường cung kính yêu mến nhau, nên cầu nơi tay hiệp chưởng. Chân ngôn rằng: Án, bát nạp mạng, nhá lăng hất rị. (Theo trong Tạng bản, lại có chân ngôn: Án, vĩ tát ra, vĩ tát ra, hồng phấn tra).
35. Nếu muốn tùy theo chỗ sinh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi tay hiện hóa Phật. Chân ngôn rằng: Án, chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.
36. Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ sinh ở bào thai, nên cầu nơi tay hiện hóa cung điện. Chân ngôn rằng: Án, vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.
37. Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi tay cầm quyển kinh báu. Chân ngôn rằng: Án, a hạ ra, tát ra phạ ni, nễ dã đà ra, bố nễ đế, tát phạ hạ.
38. Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, tâm bồ đề thường không lui sụt, nên cầu nơi tay cầm bất thối kim luân. Chân ngôn rằng: Án, thiết na di tả, tát phạ hạ.
39. Nếu muốn mười phương chư Phật mau đến xoa đầu thọ ký, nên cầu nơi tay đảnh thượng hóa Phật. Chân ngôn rằng: Án, phạ nhựt rị ni, phạ nhựt lãm nghệ tát phạ hạ.
40. Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi tay cầm chùm bồ đào. Chân ngôn rằng: Án, A ma lã kiếm đế nễ nãnh, tát phạ hạ.
41. Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ, nên cầu nơi tay hóa nước cam lộ. Chân ngôn rằng: Án, tố rô tố rô bác ra tố rô, bác ra tố rô, tố rô dã, tát phạ hạ.
42. Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi đại thiên, nên cầu nơi tay tổng nhiếp thiên thủ. Chân ngôn rằng: Đát nễ dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã, tra ô hạ di dã, sá phạ ha.
Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi.
62/ Hồ bình: cái bình có hình đầu chim, pháp khí cầm tay nơi tay bên phải trong 40 tay của đức Thiên Thủ Quán Thế Âm. Cánh tay đó gọi là Hồ bình thủ hay Bảo bình thủ. Tương truyền bình này do người nước Hồ ở phía Bắc núi Tuyết mô phỏng theo hình Kim sí điểu mà chế ra. Chuyển luân thánh vương đặt bình này ở trước thân, tiêu biểu chho nghĩa tụ tại. Trong Mật giáo có pháp tu Hồ bình, cầu cho quyến thuộc được hòa thuận. Tu pháp ấy thực hành như sau: đặt Hồ bình đầy nước trước tôn tượng, niệm tụng chân ngôn rồi rưới nước ấy lên những quyến thuộc bất hòa, thì tất cả đều được hòa thuận an vui, như nhiều vị hợp thành một vị.
63/ Bàng bài: là vũ khí phòng ngự thời cổ đại, tính chất như cái mộc, dung da thú bao bọc lại, có hai loại: dài và tròn, bộ binh thì loại dài, kỵ binh dung loại tròn.
64/ Nguyên văn là Việt Phủ Thủ: có nghĩa là Cây búa lớn.
65/ Chánh văn là bất thoái kim cang thủ, là lỗi khi in ấn, đúng phải là bất thoái kim luân thủ.
66/ Kính lạy thứ 372 và 373: “Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả A na hàm, có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô lượng chúng sinh phát lòng Bồ đề.” (Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni).
67/ Tứ quả Thanh Văn: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
68/ Kính lạy thứ 379 đến kính lạy thứ 389: Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni có ghi: “Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, Thiên, Long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật. Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền định vì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng Dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sinh. Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi mười phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!"
69/ Lục tự minh chú: Án ma ni bát di hồng (Om mani padme hum). Lục Tự Đại Minh Chú, Om mani padme hum, có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương tiện và trí tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình thành thân miệng ý thanh tịnh của Phật.
70/ Kính lạy thứ 394 đến kính lạy thứ 426: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn thứ 25 ghi: “Đức Thế tôn dạy bồ tát Vô tận ý, thiện nam tử, người ở thế giới nào nên hóa độ bằng thân hình Phật đà thì Quan âm đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Duyên giác thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Thanh văn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Người nào nên hóa độ bằng thân hình Phạn vương thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Đế thích thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Tự tại thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Đại tự tại, thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Thiên đại tướng quân thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Tỳ sa môn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình quốc chúa thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình trưởng giả thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình cư sĩ thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình tể quan thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình bà la môn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng những thân hình tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng những thân hình phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan và bà la môn, thì đại sĩ biến thể những thân hình phụ nữ ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng những thân hình đồng nam và đồng nữ, thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Những ai nên hóa độ bằng những thân hình tám bộ thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Ai nên hóa độ bằng thân hình thần Chấp kim cang thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Vô tận ý, Quan âm đại sĩ hoàn hảo năng lực như vậy: dùng mọi thân hình vào mọi thế giới mà hóa độ cho chúng sinh.” (Kinh Pháp Hoa, H.T Trí Quang dịch).
71/ Như thị: 71/ Từ câu 430 đến câu 441, các bản khác đều dịch “được thân như vậy”, “được mắt như vậy”... Dịch như thế cũng không sai, nhưng e rằng hàng Phật tử sẽ hiểu sai khi chưa nắm bắt được tinh thần Như thị trong kinh điển Đại thừa, nên ở đây để nguyên chữ “Như thị” rồi chú thích. Trong Kinh Pháp Hoa có nói đến 10 thứ Như thị, đó là: Tướng, tánh, Thể, Lực, Tác, Nhân, Duyên, Quả, Báo và Bản mạt cứu cánh. Ngài Trí Khải trong Ma-ha Chỉ Quán phối hợp 10 Như thị này với 10 pháp giới và Tam chủng thế gian thành thuyết “Nhất niệm Tam thiên”.
Phẩm Phương Tiện, Kinh Pháp Hoa 1 (Đại 9, 5 hạ) ghi: “Chỉ có Phật với Phật mới có khả năng thấy biết cùng tận thật tướng các pháp. Các pháp Như thị tướng, Như thị tánh, Như thị thể, Như thị Lực, Như thị tác, Như thị nhân, Như thị duyên, Như thị quả, Như thị báo, Như thị bản mạt cứu cánh, nghĩa là tướng trạng xưa nay (thật tướng) của tất cả các pháp đầy đủ 20 Như thị”.
Tuy nhiên, các Luận sư Thiên Thai xưa nay giải thích 10 Như thị có chỗ khác nhau.
72/ Từ câu 442 đến câu 447: Nguyên văn là “Nam mô Lễ Ngã Như Thị Lễ”, “Cận Ngã Như Cận”, Đắc Ngã Như Đắc”, “Ức Ngã Như Ức”, “Sự Ngã Như Sự”, “Cúng Dường Ngã Như Cúng Dường”. Đây là những danh hiệu không khó hiểu, nhưng để dịch được ra Việt văn thị cực kỳ khó. Ban đầu xứ ngỡ bản Hán viết sót chữ Thị, chẳng hạn “Cận Ngã Như Thị Cận”, “Đắc Ngã Như Thị Đắc”, nhưng đúng là không có chữ Thị. Ngài Huệ Tư, một Luận sư thầy của Trí Khải chủ trương câu văn trong Kinh Pháp Hoa nên ngắt tại chữ “Như” mà gọi là “Thập như” hoặc “Thập như thật tướng”.
Các bản dịch của Hoà Thượng Tâm Châu, Hoà Thượng Như Điển và cư sĩ Quảng Minh đều khác nhau. Hoà thượng Thích Tâm Châu dịch là: “Kính lễ Bồ tát như kính lễ Chư Phật”, “Thân cận Bồ tát như thân cận Chư Phật”, “Chứng được chân ngã của Bồ tát như chứng được chân ngã của chư Phật”...
Hoà Thượng Như Điển cũng dịch giống ý này. Cư sĩ Quảng Minh thì dịch là “Đảnh lễ Như Lai như Lễ Quán Âm Đại Sĩ”, “Thân cận Như Lai như thân cận Quán Âm Đại Sĩ”, “Thể nhập Như Lai như Thể nhập Quán Âm Đại sĩ”, “Nghĩ nhớ Như Lai như nghĩ nhớ Quán Âm Đại sĩ”, “Kính thờ Như Lai như kính thờ Quán Âm Đại Sĩ”, “Cúng dường Như Lai như cúng dường Quán Âm Đại Sĩ”.
Cả ba cách dịch trên đều là cố gắng Việt hoá danh hiệu cho dễ hiểu, đều không chính xác hoàn toàn. Ở đây hàng hậu học cũng noi theo Quý Ngài, phương tiện dịch thêm chữ “như lễ Như Lai”, dẫu biết rằng làm cho ý văn bị cạn đi rất nhiều.
73/ Kính lạy thứ 463 đến kính lạy thứ 472: Kinh Diệu Pháp Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thứ 25: “Này Vô tận ý, hãy nghe cho khéo. Việc làm Quan âm là khéo đáp ứng hết thảy mọi người ở khắp mọi nơi, với sự thệ nguyện sâu rộng như biển, một sự thệ nguyện cực kỳ hùng vĩ, vô cùng trong sáng, và được đại sĩ đã từng phát ra, trong khi trải qua vô số thời kỳ không thể nghĩ bànphụng sự rất nhiều vạn ức đức Phật. Nay đây Như lai chỉ nói vắn tắt. Ai nghe danh hiệu hoặc thấy hình tượng Quan âm đại sĩ, chuyên tâm trì niệm chứ không bỏ qua, thì hết đau khổ ở trong những nơi còn có đau khổ. Bị kẻ ác ý xô xuống hố lửa, năng lực trì niệm Quan âm đại sĩ làm tắt hố lửa như bị nước tưới. Trôi nổi biển cả rồng, cá, quái vật, năng lực trì niệm Quan âm đại sĩ làm cho sóng nước không thể nhận chìm. Trên đỉnh Tu di bị xô rơi xuống, năng lực trì niệm Quan âm đại sĩ làm như mặt trời đứng trong không gian. Kẻ ác đuổi rơi chân núi đá cứng, năng lực trì niệm Quan âm đại sĩ làm không thương tổn đến một mảy lông. Giặc thù bao vây cầm đao muốn hại, năng lực trì niệm Quan âm đại sĩ làm giặc thù ấy sinh ra hiền lành.” (Kinh Pháp Hoa, H.T Trí Quang dịch).
74/ Kính lạy thứ 473 đến kính lạy thứ 497: Kinh Diệu Pháp Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thứ 25: “Chúng sinh khốn đốn vì bao đau khổ, cái nhìn tuệ giác của Quan thế âm đầy cả năng lực cứu khổ cho đời. Quan âm đại sĩ đầy thần thông lực, đầy tuệ giác lực, đầy phương tiện lực, cho nên khắp cả mười phương thế giới không đâu mà không biến thể xuất hiện. Chỗ dữ địa ngục, ngạ quỉ súc sinh, cho đến khổ lớn sinh già bịnh chết, đại sĩ làm cho dần dần hết sạch. Nhìn đúng sự thật, nhìn thật trong suốt, nhìn với tuệ giác vô cùng vĩ đại,nhìn bằng đại bi, nhìn theo đại từ, nên hãy thường xuyên nguyện cầu chiêm ngưỡng. Là thể trong suốt sáng không tỳ vết, là vầng tuệ nhật phá tan hắc ám, là lửa rực sáng xua tan tai nạn, ngài trải hào quang khắp cả trần gian. Bản thể đại bi như sấm thức tỉnh, ý thức đại từ như mây dồn lớn, đại sĩ mưa xuống nước Pháp cam lộ rưới tắt lửa dữ của bao phiền não. Đối chất cửa quan, kinh hoàng chiến trận, năng lực trì niệm Quan âm đại sĩlàm cho giặc thù lui bước tan rã. Tiếng cực tinh tế, tiếng nhìn vào đời, tiếng giống Phạn thiên, tiếng như hải triều, tiếng hơn tất cả cung bậc trong đời, nên hãy thường xuyên chuyên tâm trì niệm. Hãy niệm liên tục, đừng có hoài nghi; trong cơn đau khổ, chết chóc, nguy khốn, Quan âm đại sĩ vị Thanh tịnh ấy là nơi nương tựa cho bao chúng sinh. Là bậc trọn vẹn phẩm chất hoàn hảo, là mắt từ bi nhìn xuống chúng sinh, là biển dồn lại vô lượng phước đức, vị đại sĩ ấy đáng kính đáng lạy.” (Kinh Pháp Hoa, H.T Trí Quang dịch).
75/ Bát Nhã Tâm Kinh, bản dịch của Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
Kinh Năm Trăm Danh Hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm_Thích Nguyên Hiền dịch_2020
Thượng Tọa dịch giả Thích Nguyên Hiền
ghé thăm Tu Viện Quảng Đức và tặng kinh sách đến
TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (chiều Chủ Nhật 8/9/2024)
🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️