Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tận Dụng Khi Được Thân Người và Bí Quyết Tu Hành

10/05/201916:06(Xem: 6131)
Tận Dụng Khi Được Thân Người và Bí Quyết Tu Hành


Phat_Thich_Ca_14



TẬN DỤNG KHI ĐƯỢC THÂN NGƯỜI
& BÍ QUYẾT TU HÀNH


Trong kinh A Hàm Phật dạy rằng: “Thân người khó được, khó tu! Giống như biển cả, rùa mù lâu nay, mênh mông trôi dạt lưu đày, Biết bao giờ gặp bộng cây chui vào ?” Đúng là một việc vô cùng gian khó.

Nhưng tại sao lại khó như vậy? Có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục” (tài, sắc, danh, thực, thùy) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị  phi”, “danh lợi”, xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnh năm điều cấm giới. Một khi giữ năm giới cấm một cách lơ là, mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa” thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người, rất khó là như vậy đấy!

Khi còn nằm trong vòng “Lục đạo” (Trời, người, Atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) như một ai trôi trong dòng sông, nếu không quyết lội vào bờ, thì sẽ bị cuốn trôi ra biển khổ, cũng vậy, nếu được làm người, mà ta không quyết tu hành tinh tấn để thoát ly sanh tử, thì vẫn phải bị sống chết, luân hồi trong sáu đường này. Xuôi dòng dễ hơn bơi ngược vào bờ, thỏa mãn dục vọng dễ hơn phải giữ gìn giới hạnh, và khi thoải mái hưởng thụ “ngũ dục” thì tha hồ mà phạm giới: Tham tài, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ, để rồi sẵn sàng sát hại chúng sanh, phục vụ món ngon vật lạ cho vừa cái miệng, hay hãm hại người này, người nọ để tranh danh đoạt lợi…“gieo nhân phải gặt quả”, giết chúng sanh phải đền mạng, gây thù, chuốc oán cũng phải trả quả, cho nên hầu hết khó được lại “thân người” mà đều đọa vào cõi tam đồ ác đạo là như vậy.

Lòng “tham” nặng thì “nghiệp thức” đọa vào cõi ngạ quỷ (quỷ đói), lang thang vất vưởng, phải lo kiếm ăn, không ai khai thị, hướng dẫn để biết cách thoát ra, tâm “sân” hận nặng thì vào cõi địa ngục khổ đau, với những hình phạt ghê gớm, không có thời gian để tu, ngu “si” nặng, thì u mê ám chướng, không phân biệt trắng đen, sống điên đảo, chẳng rõ chánh tà thì đến cõi súc sanh, phải chìm đắm mãi trong quả báo. “Nợ máu phải đền nợ máu”, “oán thù phải trả bằng oán thù” cứ thế chất chồng lên mãi, nên rất khó trở lại được thân người, là vậy.

“Hơi nước” gặp nóng bốc hơi bay lên thành mây, mây gặp lạnh đông lại thành mưa rơi xuống ao, hồ, sông, suối…cuối cùng chảy ra biển cả, và tiếp tục hành trình như cũ. “Nghiệp thức” của chúng sanh cũng giống như “hơi nước”, nếu không “Tu” để thoát ra khỏi vòng sinh tử, thì cũng phải trôi lăn mãi trong sáu nẻo luân hồi.

Tam độc phiền não: Tham, sân, si chính là nghiệp nhân của tam ác đạo, cho nên Phật chỉ dạy cho chúng ta nhất định phải cắt đứt tham sân si. Nhưng tham sân si là do ở “chấp ngã”, do “cái tôi” của mỗi chúng ta mà tạo ra cả. Còn “cái tôi” là còn tham sân si, nên việc “Tu” của chúng ta, điều tiên quyết là phải “quán chiếu nội tâm”, không chạy theo ngoại cảnh, thấy rõ được “khổ” và sự “vô thường” của vạn vật, để không ham muốn và dính mắc, mà “diệt trừ cái tôi”.

Theo như Albert Einstein đã nói: “Cái tôi và sự hiểu biết, tỷ lệ nghịch với nhau, hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé, hiểu biết càng ít, cái tôi càng có to” cho nên Đức Phật khi mới sinh ra đời, đã truyền đi ‘thông điệp’: “Trên Trời dưới Trời, cái “Ta” này là quan trọng nhất”, rồi suốt thời gian truyền đạo, Ngài đã phải dẫn đệ tử đi xin ăn khắp đó đây, cũng không ngoài mục đích là diệt “cái tôi” ấy và dạy rằng: Hãy “lấy trí tuệ làm sự nghiệp”.Như vậy, là người con Phật, muốn có “trí tuệ” thì “cái tôi” phải nhỏ hoặc không có.

“Luôn quán chiếu nội tâm, triệt tiêu bản ngã” mới tu hành đạt kết quả và có nhiều công đức, cũng giống như muốn trồng hoa hay những cây hữu ích, thì phải diệt trừ“cỏ cú” hay bứng hết gốc rễ của những loài cây dại, thì hoa mới phát triển đơm bông kết trái được, còn nếu chỉ lo “hướng ngoại tìm cầu” sẽ bị ngoại cảnh tác động, chi phối và bón bao nhiêu phân vào, sẽ bị rễ hay cỏ dại ăn hết, thì cũng tốn công vô ích. “Không có cái tôi” mới hy vọng hết tham sân si và chuyển hóa được nghiệp lực của mình, hầu tiến lên con đường giải thoát, giác ngộ (gốc của việc tu và diệt tham sân si là ở chỗ này, đây cũng là “bí quyết tu hành”!).

Biết được thân người là khó, và được làm người với đầy đủ lục căn, là một phước báu rất lớn. Nhưng nếu ta không biết vận dụng thân người này để mà tu, chỉ lo ham muốn dục lạc thế gian thì: Mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý của chúng ta sẽ thành sáu tên giặc vì “…mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày, tai thích tiếng mật đường dua nịnh, mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh, luỡi dệt thêu lắm chuyện gay go, thân ham dùng gấm vóc sa sô, ý mơ tưởng bao la vũ trụ, bởi lục dục lòng tham không đủ, lấp che dần trí tuệ từ lâu…” cho nên từ đó có thể giết người, phá nhà, cướp của, để rồi đọa lạc.

Nhưng khi ta biết vận dụng thân người để tu và tạo phước lành, sống “ít muốn, biết đủ” thì sẽ chuyển hóa, thân tâm thanh tịnh trong chánh niệm, lúc đó sáu căn cũng là sáu thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn. Mà cụ thể trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Pháp Sư Công Đức: “…"Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh”.

Khi Tôn giả Phú-Lâu-Na thỉnh Phật chỉ dạy pháp yếu tu hành, Phật đã bảo: "Chỉ cần sáu căn không dính mắc với sáu trần, ngay đó là giải thoát". Kinh Lăng Nghiêm mô tả lời giải đáp cho nghi vấn của Ngài A-Nan, bằng lời dạy đồng thanh của mười phương Chư Phật: "Nguồn gốc của trầm luân sanh tử là sáu căn của ông; Nguồn gốc của Niết-Bàn giải thoát cũng là sáu căn của ông chứ không đâu khác”.

Nếu chúng ta được thân người, đầy đủ sáu căn, gặp được Phật Pháp để hiểu rõ được luật nhân quả và sự vô thường, khổ, không của vũ trụ, hầu tiến vào tám con đường chánh (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tính tấn, chánh niệm, chánh định) thì từ thân người này sẽ vượt lên thành Thánh, thành Bồ Tát và thành Phật. Trong “lục đạo”, cõi Trời sung sướng quá, nên không lo tu; địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tham lam, khốn khổ và mê muội quá nên cũng không biết đường tu; chỉ có loài người, mới có khả năng và nhiều điều kiện thuận lợi nhất để tu thành Phật mà thôi.

Đạo Phật là đạo giác ngộ, là đạo của của tình thương và sự hiểu biết, nên khi được làm người, ta nên luôn tỉnh thức, lắng đọng tâm tư qua các pháp tu tịnh thiền, để được thân an tâm lạc, hoặc thường quán chiếu nội tâm hay cắt đứt các duyên, để không bị ngoại cảnh chi phối, hầu thoát khỏi những mê lầm, dùng sáu giác quan của mình, thắm đượm và hoằng truyền Phật Pháp đến với mọi người được sống an lạc, thanh thoát hầu đem hạnh phúc lại cho nhau. Nếu không tỉnh giác, thì sẽ dễ bị vô minh sai sử, biến thành kẻ cuồng tín, với máu lạnh giết người không gớm tay, hay ôm bom tự sát, thì khổ đau cho nhân loại quá rồi.

 

Cho nên, muốn được an lạc, để tiến lên con đường giải thoát, giác ngộ, hầu thành Phật, thành Bồ Tát mà cứu độ chúng sanh, ta phải giữ gìn cấm giới, biết làm chủ bản thân, qua mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, không cho sáu căn dính mắc sáu trần, vận dụng thân người, với sáu căn đầy đủ này, trong tinh thần “vô ngã để có sự khiêm cung và hoan hỷ, dùng “tứ nhiếp pháp” tận tụy phụng sự, hầu bảo toàn công đức, mà dễ nhiếp phục và hóa độ chúng sanh. Nên nhớ, với triết lý cao siêu của đạo Phật, biết rõ rằng: “Chơn không, diệu hữu”, nên hãy hân hoan, phấn khởi khi thấy mình không là gì cả, lúc đó ta sẽ thành “vô ngã” với biết bao sự “diệu hữu” của thân tâm, tha hồ mà phổ độ!

 

 

Pháp Hoa – Nam Úc, ngày 8/5/2019,
Kính Mừng Vesak 2643 và đóng góp cho Mùa An Cư năm 2019, của Giáo Hội tại Chùa Thiên Ấn, Sydney.

Thích Viên Thành










Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com