Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 29. Kinh Địa Tạng giải nghĩa

30/04/201618:19(Xem: 4231)
Bài 29. Kinh Địa Tạng giải nghĩa

KINH

ĐỊA TẠNG BẢN NGUYỆN

Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Đăng 
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh

GIẢI NGHĨA

(Tiếp theo)

Toàn Không

 

11). KỆ LƯU TRUYỀN KINH ĐỊA TẠNG

Bấy giờ đức Thế-Tôn liền nói kệ rằng:

1- Ta xem Địa-Tạng sức oai thần

Kiếp số Hằng-sa khó tỏ trần,

Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ,

Trời, người lợi ích sự không ngằn,

 

2- Hoặc Rồng hoặc Thần cùng nam nữ

 Báo tận sẽ sa vào đường dữ,

Chí tâm qui mạng Đại Sĩ thân,

Tuổi thọ thêm nhiều trừ tội dữ.

 

3- Trẻ thơ chết mất mẹ cùng cha,

Huynh đệ chị em kẻ ruột rà,

Lớn khôn nghĩ đến đều không biết,

Nẻo dữ đường lành ở đâu là?

 

4- Hoặc vẽ, hoặc tô Đại Sĩ hình

Cảm thương chiêm lễ biệt chẳng đành,

Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu.

Bồ-tát hiện thân đến bên mình:

 

5- Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nào,

Dầu sa ác thú cũng ra mau,

Nếu được không lui lòng kính ngưỡng,

Thánh ký, Bồ-tát vuốt đầu trao.

 

6- Bồ-đề vô thượng muốn tu hành,

Mong ra ba cõi khỏi tử sinh,

Người này đã phát lòng bi lớn

Trước nên chiêm lễ Đại Sĩ hình.

 

7- Nghe tên quy y đấng trọn lành,

Cúng dường cung kính phát lòng thành,

Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng

Bao nhiêu mong ước sớm viên thành.

 

8- Có kẻ phát tâm tụng kinh sách

Muốn độ chúng sanh khỏi tai ách

Dầu lập nguyện lớn chẳng nghĩ bàn

Đọc rồi quên rồi luôn sót mất.

 

9- Người này nghiệp chướng nó làm mê

Học đại thừa kinh khó mọi bề

Y phục, uống ăn, các ngọa cụ,

Cúng dường Địa-Tạng với hương hoa.

 

10- Dùng chén nước trong bày trước tượng,

Cách một ngày đêm bưng lấy uống,

Sanh lòng ân trọng cữ ngũ tân

Rượu thịt, tà dâm cùng dối luống.

 

11- Trong hăm mốt ngày chớ sát sanh,

Chuyên lòng tưởng niệm Thượng Nhơn danh,

Chiêm bao thấy rõ Tôn-dung hiện,

Thức rồi, liền đặng trí khôn lanh.

 

12- Đại Thừa kinh giáo nghe qua tai,

Nghìn vạn đời sau nhớ chẳng sai,

Chính nhờ Đại Sĩ oai thần lớn

Thầm giúp người kia có huệ tài.

 

13- Chúng sanh nghèo khổ lại ốm đau,

Cửa nhà họa hoạn, người lìa nhau

Ngủ mê mộng mị không an giấc,

Cầu muốn hỏng hư chẳng được nào!

 

14- Dốc lòng chiêm lễ Địa-Tạng Ngài,

Bao nhiêu việc ác thảy tiêu ngay

Nhẫn đến chiêm bao đều an cả,

Quỉ Thần phò hộ, của dư xài.

 

15- Muốn qua sông biển, đến núi rừng,

Cầm thú độc nguy, giặc đón đường,

Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió dữ,

Nhiều nỗi gian nan khốn không lường,

 

16- Sắp sửa ra đi đối trước tượng

Cúng dường kính lễ cùng chiêm ngưỡng.

Núi rừng biển cả có vào trong

Ác tai tiêu sạch thường an sướng.

 

17- Quán Âm lóng nghe ta nói rõ

Địa-Tạng vô lượng oai thần đó,

Trăm nghìn muôn kiếp thuật chẳng rồi,

Rộng tuyên Đại Sĩ đầy sức nọ!

 

18- Như người nghe đến Địa-Tạng danh,

Thấy hình chiêm lễ hết lòng thành,

Hương hoa, ăn uống, dưng y phục,

Trăm nghìn báo đẹp hưởng điều lành.

 

19- Nếu hay đem công hồi pháp giới,

Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi,

Quán Âm nên biết gắng tuyên bày,

Truyền khắp Hằng-sa nhiều nước cõi

 

GIẢI NGHĨA

     Rồi Ngài nói kệ:

1- Ta xem Địa-Tạng sức oai thần,

Kiếp số Hằng-sa khó tỏ trần,

Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ,

Trời, người lợi ích sự không ngằn,

     Bốn câu kệ này ý nói sức oai thần của Tâm thì nói vô số kiếp cũng nói không hết được, chúng sinh Người và Trời nên nhớ tôn trọng quán chiếu Tâm thì có vô lượng vô biên sự lợi ích.

 

2- Hoặc Rồng hoặc Thần cùng nam nữ

Báo tận sẽ sa vào đường dữ,

Chí tâm qui mạng Đại Sĩ thân,

Tuổi thọ thêm nhiều trừ tội dữ.

     Hàng Rồng và Thần khi qua đời sẽ đọa vào nơi xấu, nếu một lòng quy y tu hành cái tâm thì tội ác giảm mà tăng tuổi thọ.

 

3- Trẻ thơ chết mất mẹ cùng cha,

Huynh đệ chị em kẻ ruột rà,

Lớn khôn nghĩ đến đều không biết,

Nẻo dữ đường lành ở đâu là?

     Người mất cha mẹ anh chị em từ khi còn nhỏ, cho tới khi lớn khôn trưởng thành đều không biết người thân thác sinh về đâu.

 

4- Hoặc vẽ, hoặc tô Đại Sĩ hình

Cảm thương chiêm lễ biệt chẳng đành,

Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu,

Bồ Tát hiện thân đến bên mình.

Đây là tu cái tâm đủ thứ như làm lành tránh làm ác, bố thí, giữ giới, thiền định quán chiếu cái tâm, đó là tượng trưng cho vẽ hoặc tô hình tượng Địa Tạng, và vì lòng thương người thân ly biệt chẳng dứt mà trong 21 ngày niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng hoặc tham thiền ngày đêm không ngưng nghỉ, thì tâm đạt đến thanh tịnh.

 

5- Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nào,

Dầu sa ác thú cũng ra mau,

Nếu được không lui lòng kính ngưỡng,

Thánh ký, Bồ-tát vuốt đầu trao.

     Khi đạt tâm thanh tịnh rồi thì sẽ tự biết được nơi quyến thuộc sinh đến, do công đức tu hành sẽ giúp cho người thân, cho dù người thân có bị đọa sinh vào loài súc vật cũng được mau thoát khỏi; nếu sự tu hành không lui sụt thì dần dần tiến lên và được bậc Thánh thọ ký qủa vị giải thoát.

 

6- Bồ-đề vô thượng muốn tu hành,

Mong ra ba cõi khỏi tử sinh,

Người này đã phát lòng bi lớn

Trước nên chiêm lễ Đại Sĩ hình.

     Muốn tu đạo Bồ Đề để mong ra khỏi sinh tử ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, phát lòng đại bi thì trước nhất phải tôn trọng tu hành quán chiếu cái tâm mình.

 

7- Nghe tên quy y đấng trọn lành,

Cúng dường cung kính phát lòng thành,

Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng

Bao nhiêu mong ước sớm viên thành.

     Nếu phát tâm tôn trọng vâng làm việc quán sát tâm rồi xả bỏ những điều chướng ngại cho tâm thì nghiệp chướng chẳng thể ngăn ngại mà những mong cầu đềuđược sớm thành tựu.

 

8- Có kẻ phát tâm tụng kinh sách

Muốn độ chúng sanh khỏi tai ách

Dầu lập nguyện lớn chẳng nghĩ bàn

Đọc rồi quên rồi luôn sót mất.

     Có người tụng Kinh muốn cứu khổ những người hoạn nạn, dù phát nguyện rộng lớn vô cùng, nhưng đọc rồi chẳng nhớ đượcgì cả.

 

9- Người này nghiệp chướng nó làm mê

Học đại thừa kinh khó mọi bề

Y phục, uống ăn, các ngọa cụ,

Cúng dường Địa-Tạng với hương hoa.

     Vì người này bị nghiệp chướng làm cho u mê, do Kinh Đại Thừa khó hiểu, nên phải ngồi thiền quán (ngọa cụ) xét sự dính mắc của sắc với đẹp xấu (hoa), mũi với mùi (hương), lưỡi với vị (uống ăn), thân với xúc (y phục), mà xả bỏ xa lià sự chấp chặt những thứ đókhỏi tâm (Cúng dường Địa Tạng).

 

10- Dùng chén nước trong bày trước tượng,

Cách một ngày đêm bưng lấy uống,

Sinh lòng ân trọng cữ ngũ tân

Rượu thịt, tà dâm cùng dối luống.

     Phải thiền quán thanh lọc tâm (nước trong bày trước tượng) qua  một ngày đêm cho tâm được thanh tịnh (uống nước trong), còn phải tôn trọng ăn chay, không tà dâm, nói dối, uống rượu và không ăn Ngũ Vị Tân là hành, hẹ, tỏi, cừ, nén.

 

11- Trong hăm mốt ngày chớ sát sanh,

Chuyên lòng tưởng niệm Thượng Nhân danh,

Chiêm bao thấy rõ Tôn-dung hiện,

Thức rồi, liền đặng trí khôn lanh.

     Lại trong 21 ngày không sát sinh các loài, chuyên niệm Địa Tạng (niệm Thượng Nhân danh) liên tiếp không ngưng nghỉ tới khi đạt nhất tâm bất loạn, thì lúc chiêm bao thấy rõ tâm mình, khi thức dậy liền có trí thông minh.

 

12- Đại Thừa kinh giáo nghe qua tai,

Nghìn vạn đời sau nhớ chẳng sai,

Chính nhờ Đại Sĩ oai thần lớn

Thầm giúp người kia có huệ tài.

     Khi nghe hay đọc qua Kinh điển một lần thì dù nghìn đời chẳng quên là do thần lực của tâm mà người ấy được vậy.   

 

13- Chúng sanh nghèo khổ lại ốm đau,

Cửa nhà họa hoạn, người lìa nhau

Ngủ mê mộng mị không an giấc,

Cầu muốn hỏng hư chẳng được nào!

     Chúng sinh nghèo bệnh, tai họa chia lià, ngủ đầy mộng mị không yên, mong cầu gì cũng chẳng được.

 

14- Dốc lòng chiêm lễ Địa-Tạng Ngài,

Bao nhiêu việc ác thảy tiêu ngay

Nhẫn đến chiêm bao đều an cả,

Quỉ Thần phò hộ, của dư xài.

     Nếu một lòng quán chiếu cái tâm (chiêm lễ Địa Tạng), xa lià rời bỏ các sự dính mắc, thì các sự ác bị tiêu diệt, ngủ được an ổn, có Qủy Thần hộ vệ, của cải không thiếu thốn.

 

15- Muốn qua sông biển, đến núi rừng,

Cầm thú độc nguy, giặc đón đường,

Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió dữ,

Nhiều nỗi gian nan khốn không lường,

     Muốn giải quyết những vấn đề trọng đại (qua sông biển đến núi rừng), về tham sân (cầm thú độc nguy, giặc đón đường, Ác Thần ác Qủy), về bát phong (được mất, hơn thua, vinh nhục, vui buồn) (mưa gió dữ), và về nhiều vấn đề khốn khổ không tả hết được (nhiều nỗi gian nan khốn không lường)

 

16- Sắp sửa ra đi đối trước tượng

Cúng dường kính lễ cùng chiêm ngưỡng.

Núi rừng biển cả có vào trong

Ác tai tiêu sạch thường an sướng.

     Khi đó nếu tôn trọng một lòng quán sát tâm (đối trước tượng), để thấy rõ sự tai hại của của các tâm xấu ác điên đảo mà xa lià rời bỏ (cúng dường) nó (như tâm tham, tâm sân, tâm dối trá, tâm kiêu mạn,tâm được mất, hơn thua, vinh nhục, vui buồn…), thì chúng sẽ không còn là nguy hiểm nữa, nên ví như vào núi rừng qua sông biển, các tai họa đều không có mà được an ổn.     

 

17- Quán Âm lóng nghe ta nói rõ

Địa-Tạng vô lượng oai thần đó,

Trăm nghìn muôn kiếp thuật chẳng rồi,

Rộng tuyên Đại Sĩ đầy sức nọ!

     Hãy lắng nghe cho rõ cái bản tâm có sức oai thần vô lượng, dù nói muôn kiếp cũng chẳng hết, nên chỉ có thể nói cái tâm có sức mạnh vô biên.

 

18- Như người nghe đến Địa-Tạng danh,

Thấy hình chiêm lễ hết lòng thành,

Hương hoa, ăn uống, dâng y phục,

Trăm nghìn báo đẹp hưởng điều lành.

     Người một lòng dùng nghe để quán cái khen chê v.v…, dùng thấy để quán sát cái đẹp xấu v.v…, dùng cái ngửi để quán mùi hương thơm hôi, dùng cái vị để quán thức ăn uống ngon dở, dùng cái thân để quán xúc chạm mềm cứng nóng lạnh, v.v.. để thấy chúng là lừa dối, ảo huyển, không thật, mà xa lià dứt bỏ tâm bị dính mắc ràng buộc, thì sẽ hưởng trăm nghìn điều tốt lành.

 

19- Nếu hay đem công hồi pháp giới,

Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi,

Quán Âm nên biết gắng tuyên bày,

Truyền khắp Hằng-sa nhiều nước cõi

     Sau nữa, nếu đem công đức tu hành mà hồi hướng khắp pháp giới, tức là hồi hướng công đức cho hết thảy chúng sinh mười phương thì sẽ có vô lượng công đức, do đó giải thoát khỏi sinh tử, và sau chót là thành Phật. Vì vậy cho nên phải cố gắng giải bày tuyên dương Kinh này truyền khắp các cõi nước.

(Còn tiếp)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com