Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 55

05/02/201521:13(Xem: 6768)
Phần 55

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 55)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Kinh văn:

Nguyện ngã đắc Phật thanh tịnh thanh

Pháp âm phổ cập vô biên giới

Tuyên dương giới định tinh tấn môn

Thông đạt thậm thâm vi diệu pháp”.

Từ bài kệ này về sau là phát nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng, đây là hình thành 48 nguyện chân thật. Do đây có thể biết, Bồ Tát khởi tâm động niệm tất cả đều là vì phổ độ chúng sanh, cho nên về sau mới có 48 nguyện đại viên mãn. Trong kệ tụng từ thứ ba đến thứ chín đều là nói rõ tình hình của phát nguyện. Bài này là “nguyện âm thanh đồng Phật”.

Thế Tôn ở thế giới này vì chúng ta giới thiệu pháp môn Tịnh Độ. Căn tánh của chúng sanh thế giới này, giống như trên hội Lăng Nghiêm Bồ Tát Văn Thù đã nói là “nhĩ căn lợi độn”. Văn Thù chọn lấy viên thông, Ngài nói: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn”. Cho nên, Thế Tôn năm xưa ở đời là lấy âm thanh làm Phật sự.

Làm Phật sự này, các vị nhất định phải ghi nhớ, Phật sự chính là giúp tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, đây gọi là Phật sự. Dùng âm thanh làm Phật sự chính là giảng kinh nói pháp, dạy bảo tất cả đại chúng. Vào lúc đó ở Trung Quốc cũng xuất hiện một vị thánh nhân là Khổng Lão Phu Tử. Khổng Lão Phu Tử cả đời dạy học cũng là dùng âm thanh, lấy giáo học - một loại phương thức tốt nhất, cùng Thế Tôn ở Ấn Độ có thể nói là không hẹn mà gặp.

Bồ Tát muốn phát nguyện độ chúng sanh đương nhiên phải đầy đủ năng lực trí tuệ trên quả địa Như Lai mới có thể làm tốt được việc này, cho nên câu thứ nhất Ngài nói là “nguyện ngã đắc Phật thanh tịnh thanh”. Cái ý này chính là nói rõ, hy vọng chính mình có thể giống y như chư Phật Như Lai, đầy đủ đức năng lợi ích tất cả chúng sanh. Sáu căn thông lợi, đó là thuộc về đức năng. Phàm phu chúng ta vì sao không có loại trí tuệ năng lực này? Việc này chúng ta chính mình phải sâu sắc mà phản tỉnh. Trên kinh Hoa Nghiêm, Phật nói với chúng ta là tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai. Đức chính là đức năng, tướng chính là tướng mạo, tướng hảo. Như thông thường trên kinh luận đã nói, Phật có 32 tướng 80 vẻ đẹp, đây là nói liệt ứng thân. Nếu như nói báo thân trên quả địa Như Lai, Phật A Di Đà thế giới Tây Phương Cực Lạc, trên kinh Hoa Nghiêm nói Tỳ Lô Giá Na Phật, thì Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, không chỉ 32 tướng 80 vẻ đẹp, không chỉ tướng chánh báo đẹp mà tướng y báo cũng đẹp. Chúng ta đọc kinh văn rồi rất là ngưỡng mộ. Phật nói tất cả chúng sanh không hề khác nhau với Ngài, thế nhưng hiện tại sự thật bày ra trước mắt, vì sao các Ngài ở thế giới Hoa Tạng, ở thế giới Cực Lạc, còn chúng ta ngày nay cư trú ở thế giới Ta Bà? Có phải lời Phật nói ở chỗ này có vấn đề chăng? Người hiểu được kinh giáo đôi chút đều có thể hiểu được, có thể khẳng định lời của Phật nói là chính xác, quyết định không hề nói sai, vấn đề chính là ở phía phàm phu chúng ta.

Chúng ta có trí tuệ đức tướng Như Lai hay không? Thực tế mà nói là có, tất cả chúng sanh mỗi mỗi đều đầy đủ, không phải không có. Chúng ta có đầy đủ nhưng hiện tại không thể khởi được tác dụng, nguyên nhân này là do đâu? Chúng ta tìm không ra. Nếu như chúng ta tìm ra được nguyên nhân này, thì bạn liền đại triệt đại ngộ, bạn không phải là phàm phu nữa. Phật rất từ bi đem nguyên nhân này vì chúng ta nói ra, Phật nói: “Chỉ bởi vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Câu nói này của Thế Tôn đã nói ra hết tâm bệnh của chúng ta. Gốc bệnh của chúng ta là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Nếu như lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì trí tuệ đức năng đầy đủ trong tự tánh chúng ta liền có thể hiện tiền, liền giống như chư Phật Như Lai không hề khác nhau.

Câu nói của Pháp Tạng không hề nói suông, cái nguyện này không phát suông, cũng tuyệt nhiên không hề vượt quá. Thành thật mà nói, chúng ta cũng phải như Bồ Tát Pháp Tạng vậy, phát nguyện mong cầu, chúng ta phải cầu “thanh tịnh thanh” của Phật. Thực tế mà nói, trong nguyện này đã nói rất là thấu triệt, rất là rõ ràng, âm thanh của Phật tuyệt diệu không gì bằng. Âm thanh vì sao tuyệt diệu như vậy? Thanh tịnh, trên văn tự nói rất rõ ràng. Ngày nay âm thanh của chúng ta không thể hồi phục là do tâm của chúng ta không thanh tịnh. Do đây có thể biết, nếu như chúng ta muốn được âm thanh viên mãn của Như Lai, âm thanh vi diệu, diệu đến trình độ nào vậy? Trên kinh nói “Phật dùng một âm mà nói pháp, chúng sanh tùy loại đều hiểu được”, sự việc này là có thể không? Nếu như chúng ta đem đạo lý này thấu triệt, liền biết được sự việc này là có thể. Cho dù đạo lý không làm được mười phần thấu triệt, bạn nghĩ xem khoa học kỹ thuật hiện tại, vi tính phát triển như vậy, ngay trong hội nghị quốc tế mô hình lớn, diễn giảng đã dùng vi tính có thể tự động phiên dịch thành các loại ngôn ngữ khác nhau, chẳng phải là người ta ở trên đài dùng một một ngôn ngữ để nói mà mọi người đều có thể nghe hiểu được hay sao? Vi tính đều có thể làm được thì Phật làm gì mà không làm được chứ? Vi tính mà so với trí tuệ của Phật Bồ Tát thì kém xa, không thể sánh. Từ khoa học kỹ thuật mà chứng thực là việc này có thể, then chốt đều là ở tâm thanh tịnh.

Chúng ta học Phật phải học từ chỗ nào, từ chỗ nào dùng công phu chân thật? Chúng ta từ trong kinh giáo tiết lục ra mấy câu cương lĩnh, phải từ tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi mà hồi phục, bạn liền có thể được âm thanh giống như Như Lai vậy. Cầu loại đức năng này để làm gì vậy? Phía sau nói “pháp âm phổ cập vô biên giới”, là dùng âm thanh này để nói pháp. Nói pháp phổ độ tất cả chúng sanh tận hư không, khắp pháp giới, đó là nguyện thứ nhất “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” trong tứ hoằng thệ nguyện, như vậy bạn mới có thể thực hiện. Chúng ta cũng đã từng phát ra nguyện này, tuy đã phát ra nguyện này nhưng không chân thật. Vì sao nói không chân thật? Bởi vì tâm của chúng ta không bình đẳng, chúng sanh nào ưa thích, xem thấy chúng sanh rất vừa mắt thì độ họ; chúng sanh nào không ưa thích, xem không được vừa mắt thì không độ họ, tâm của bạn không thanh tịnh, tâm của bạn không bình đẳng, bạn không thể phổ độ chúng sanh. Cho nên học Phật phải từ ngay chỗ này mà học, học tâm thanh tịnh của Phật.

Trong kinh giáo, trên rất nhiều kinh luận đều đã nói nghiệp nhân của mười pháp giới, đương nhiên nhân duyên của mười pháp giới là vô lượng vô biên, rất phức tạp. Phật nói pháp có phương tiện khéo léo, trong kinh đã nói là phương tiện thiện xảo. Trong rất nhiều nhân tố phức tạp, Phật tìm ra một nhân tố quan trọng nhất, nói rõ nghiệp nhân của mười pháp giới cho chúng ta nghe. Nghiệp nhân thành Phật ở pháp giới Phật là gì? Phật nói là tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là chân tâm, tâm bình đẳng là tâm Phật. Bồ Tát là tâm lục độ, Duyên Giác là tâm nhân duyên, Thanh Văn là tâm tứ đế, chẳng phải đã nói được rõ ràng hay sao? Chúng ta muốn học Phật, nếu như không bắt tay vào từ tâm bình đẳng, không nỗ lực tu tâm bình đẳng thì bạn làm sao có thể phổ độ chúng sanh? Bạn làm sao có thể viên thành Phật đạo?

Ở nơi đây có không ít pháp sư trẻ phát tâm học tập kinh giáo, bài kệ này chính là viết theo tâm hạnh của các Ngài, cũng chính là nguyện vọng của họ. Tôi cũng thường hay nói với các đồng tu, nếu muốn cứu giúp chúng sanh khổ nạn thế gian hiện tiền, chúng ta đều biết thế gian hiện tại tai nạn quá nhiều, chúng sanh rất khổ, nếu bạn muốn giúp đỡ họ, nếu muốn cứu độ họ, dùng phương pháp gì vậy? Phương pháp duy nhất chính là đem đạo lý của Phật pháp giảng rõ ràng với mọi người, giảng tường tận. Trong Phật pháp giảng là những đạo lý gì? Trong tất cả kinh luận nói với chúng ta chân tướng của vũ trụ nhân sanh, trong đây bao gồm tâm tánh là lý luận, hiện tượng tác dụng, nhân duyên quả báo, phạm vi bao gồm mười phương tam tế. Tam tế là nói quá khứ, vị lai. Nếu bạn không rõ ràng, không tường tận những chân tướng sự thật này, bạn làm sao có thể giới thiệu cho người, bạn làm sao có thể đem những sự việc này nói cho người nghe rõ ràng, tường tận? Cho nên, nhất định phải đem chân tướng sự thật làm cho rõ ràng, đó là trí tuệ. Biểu đạt là phương tiện khéo léo. Nhà Phật thường nói: “Từ bi là gốc, phương tiện là cửa”, đó là tâm từ bi thương xót tất cả chúng sanh, hộ niệm tất cả chúng sanh, quan tâm tất cả chúng sanh, đó là từ bi. Có từ bi, còn phải có phương tiện khéo léo thì bạn mới có thể biểu đạt ra được. Chúng ta cần có năng lực này, thế nhưng năng lực này ngày nay chúng ta không thể nào có được. Phật nói chúng ta có chướng ngại. Nếu như tiêu trừ đi chướng ngại thì năng lực này liền có được. Vì sao liền có được? Nó là bản năng, không phải từ bên ngoài đến, là trí tuệ đức năng trong chân tâm tự tánh vốn đủ, nó không phải từ bên ngoài đến, chỉ cần tiêu trừ đi chướng ngại thì trí tuệ năng lực của bạn liền hồi phục. Chướng ngại cái gì? Trên kinh Phật thường nói về chướng ngại, đã nói vô số lần, hiển thị Như Lai chân thật từ bi, biết được tâm bệnh lớn nhất của phàm phu chúng ta là dễ quên, giảng cho bạn nghe rồi nhưng khi ra khỏi giảng đường thì quên hết, cho nên ngày ngày giảng, mỗi năm giảng, vĩnh viễn không ngừng giảng, hy vọng có một ngày bạn ghi nhớ, không nên quên mất, trường kỳ huân tu thời gian dài.

Phật không ngại phiền, nói cho chúng ta nghe có hai loại chướng ngại, có rất nhiều loại chướng ngại quy nạp lại không ngoài hai loại lớn, một loại là phiền não chướng và một loại là sở tri chướng. Cái gì gọi là phiền não chướng? Thị phi nhân ngã, tham-sân-si-mạn, đó là phiền não. Cái gì là sở tri chướng? Thành kiến, thông thường nói một người nào đó thành kiến quá sâu, thành kiến chính là sở tri chướng. Phật không có ý kiến, quyết định không có thành kiến, Phật cũng không có phiền não, cho nên bạn có thể buông bỏ đi thành kiến, đem phải quấy nhân ngã, tham-sân-si-mạn buông bỏ, như trên kinh Kim Cang đã nói là ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thảy đều buông bỏ, bạn liền được tâm thanh tịnh, trí tuệ thiện xảo của bạn liền hồi phục, bạn mới có thể thực hiện được nguyện vọng cứu độ chúng sanh của bạn.

“Pháp âm phổ cập vô biên giới”. Tâm lượng của bạn phải lớn. Chúng ta giúp đỡ chúng sanh không phải giúp một khu vực này, một thành phố này của chúng ta thôi, không đủ. Giúp đỡ quốc gia này vẫn còn quá nhỏ, ta phải giúp đỡ cả thế giới có được không? Rất miễn cưỡng, nhưng vẫn không đủ lớn. Vậy phải lớn như thế nào? Tận hư không, khắp pháp giới, quá khứ, hiện tại, vị lại. Bạn phải chân thật phát ra cái tâm này. Nếu chúng ta muốn độ chúng sanh, phạm vi ta độ chúng sanh là rộng khắp mười phương, suốt cùng ba thời. Bạn nhất định phải phát ra cái tâm này thì bạn mới tương ưng với tự tánh, bạn mới có thể được oai thần chư Phật Như Lai gia trì. Vì sao vậy? Bạn cùng chư Phật Như Lai đồng tâm đồng nguyện, đồng đức đồng hạnh thì chư Phật Như Lai làm gì mà không đến gia trì chứ? Bạn xem thấy câu nói này, tâm lượng của người bao lớn?

Trong câu thứ nhất này, quan trọng nhất là “thanh tịnh”, trong câu thứ hai là “vô biên giới”, trong nhà Phật thường nói “tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới”. Không có tâm lượng như vậy thì bạn làm sao có thể học Phật? Không có tâm lượng như vậy thì công phu học Phật của bạn làm sao có lực? Đồng tu chúng ta, không luận tại gia hay xuất gia, bạn học Phật, nếu muốn công phu có thể có lực thì việc thứ nhất chính là phải mở rộng tâm lượng.

Hai câu phía sau là nói nội dung nói pháp, bạn nói ra là pháp gì? “Tuyên dương giới định tinh tấn môn”, như thị pháp âm, Phật pháp. Phật rất là khéo ở nói pháp, Phật có năng lực đem các pháp rất phức tạp quy nạp lại, quy kết ra một cương lĩnh quan trọng. Trong câu nói này chính là sáu Ba La Mật của Bồ Tát. “Giới định tinh tấn”, kinh văn phía sau có thuyết minh tường tận, chỗ này chỉ là một cương yếu. Chúng ta phải hiểu được trì giới, phải biết tu định, phải biết tinh tấn, cho nên trong câu này bao gồm Tam Học Lục Độ.

Học Phật, việc quan trọng thứ nhất chính là trì giới.Ý nghĩa của trì giới chính là thủ pháp, giữ quy củ, đó chính là trì giới. Ở trên kinh Phật dạy bảo cho chúng ta, dạy chúng ta nên làm thì chúng ta nhất định chăm chỉ nỗ lực mà làm; dạy chúng ta không nên làm thì chúng ta nhất định phải tránh xa, không dám tạo tác, đây chính là trì giới. Giới-Định-Huệ tam học. Giới là nghĩa rộng, không phải hạn cuộc ngay trong điều văn của giới luật, bạn phải hiểu được tinh thần của giới luật ở đâu. Điều văn rất có hạn, điều văn thì làm sao có thể bao gồm từng li từng tí trong cuộc sống thường ngày của chúng ta? Trong điều văn không có nói, nhưng tinh thần của giới luật bao gồm thì viên mãn rồi. Cho nên giáo huấn của Phật trong tất cả kinh đều là giới, mỗi câu đều là giới, mỗi chữ đều là giới. Lìa khỏi Phật pháp, chúng ta sống ở thế gian, sinh sống ở quốc gia này, thành phố này, thì hiến pháp của quốc gia, pháp luật của quốc gia cũng là giới điều, cũng phải tuân thủ, không được vi phạm. Khu vực này mọi người cùng nhau sinh sống cũng có rất nhiều công ước qui tắc, thậm chí đến phong tục tập quán không có văn tự ghi chép, quan niệm đạo đức. Có câu nói là “nhập cảnh tuỳ tục”, đến một khu vực nào cũng phải tuân thủ phong tục tập quán của khu vực đó, tuân thủ pháp luật qui ước của khu vực đó, thì chúng ta mới có thể cùng ở chung với người của khu vực đó, mới có thể hòa thuận cùng ở chung với mọi người, đây đều là ở ngay trong giới luật. Cho nên tam học, mỗi một chữ phạm vi cùng tâm lượng như nhau, cũng là bao trùm hư không pháp giới thì bạn mới có thể phổ độ tất cả chúng sanh. Bạn ở khu vực này, cùng với người khu vực này trái ngược nhau không thể hòa thuận thì bạn làm sao có thể giúp họ, bạn làm sao có thể giáo hóa họ? Cho nên, Phật tiếp dẫn chúng sanh, cũng nói cho chúng ta nghe rất nhiều nguyên tắc.

Tứ nhiếp pháp chính là nguyên tắc tốt nhất mà Phật rất thường dùng. Thứ nhất là Bố Thí, cùng kết duyên với những chúng sanh này, kết duyên hoan hỉ. Thứ hai là ái ngữ. Thứ ba là lợi hành. Thứ tư là đồng sự.

Tứ Tất Đàn cũng là dạy cho chúng ta cương lĩnh quan trọng tiếp xúc đại chúng. Câu thứ nhất gọi là thế giới tất đàn. Thế giới là ý gì vậy? Khiến tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ. Làm thế nào mới có thể khiến cho tất cả chúng sanh sanh tâm hoan hỉ đối với chúng ta? Chúng ta trì giới, tuân thủ pháp luật, giữ lễ phép thì khi tiếp xúc với mọi người, mọi người sẽ tôn kính đối với bạn, sanh tâm hoan hỉ đối với bạn; điều mà bạn nói ra, họ ưa thích nghe, họ mới có thể tiếp xúc, tiến thêm một bước, họ mới chiếu theo phương pháp lý luận mà làm.

Tóm lại, tu học Phật pháp là ở định. Nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, trong tứ hoằng thệ nguyện nói “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, những pháp môn này nội dung là gì? Xin nói với các vị đều là tu định, nhưng phương pháp tu định, cửa tu định không như nhau. Thí dụ trong Thiền tông dùng phương pháp quán tâm, dùng phương pháp tham thoại đầu, giáo hạ thì dùng phương pháp đọc tụng, dùng phương pháp chỉ quán, đều là tu định. Tịnh Độ tông dùng phương pháp niệm Phật. Niệm Phật còn có quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, trì danh niệm Phật, rất nhiều phương pháp. Phương pháp tuy là không như nhau nhưng mục đích là như nhau, đều là tu định. Tịnh Độ tông không gọi là thiền định mà gọi là Nhất Tâm Bất Loạn. Các vị nghĩ xem, Nhất Tâm Bất Loạn không phải là thiền định hay sao? Cho nên định là tinh hoa của tu học Phật pháp, vì vậy có câu “do giới được định, do định khai trí tuệ”.

Thế nhưng nếu bạn chân thật muốn công phu có lực, phía sau dùng hai chữ “tinh tấn” thì tốt, Ngài không dùng huệ mà dùng tinh tấn, sau cùng còn thêm chữ “môn”. Môn chính là phương pháp, lối đi. Do đây có thể biết, hai chữ “tinh tấn” này rất quan trọng, hai chữ này chúng ta nhất định không thể xem thường. Ngày nay chúng ta tu hành công phu không có lực chính là do không hiểu được đạo lý này. Có phải chúng ta đang rất chăm chỉ tu tập? Rất chăm chỉ, cũng rất nỗ lực, thế nhưng chúng ta không phải tinh tấn. Tôi thường nói, chúng ta đang làm là gì vậy? Là tạp tấn, làm được quá nhiều quá tạp. Tinh tấn, tinh là chuyên, chuyên nhất. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, Phật nói rất hay: “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Đây là Phật nói trên kinh Kim Cang, đây là lời nói chân thật. Nếu bạn tu học, bạn chỉ có thể ở trong tất cả pháp môn chọn lấy một môn. Một môn chính là tinh, một môn thâm nhập thì có tiến bộ, chính là tinh tấn. Phật không hề dạy cho chúng ta tạp tấn, không phải dạy cho chúng ta nhiều tấn, mà dạy chúng ta tinh tấn, vậy mới có đạo lý. Vì sao vậy? Tinh tấn có thể được định, tinh tấn có thể khai trí tuệ. Trong tứ hoằng thệ nguyện nói: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, câu nói này cùng tinh tấn có mâu thuẫn hay không? “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là học rộng nghe nhiều, vậy thì không phải chuyên tinh, là dạy bạn học rộng nghe nhiều, cùng với phương pháp giáo học tinh tấn này không hề có xung đột, thế nhưng nó có thứ tự trước sau. Khi sơ học mới vào cửa thì nhất định phải tinh tấn, một môn thâm nhập. Đến lúc nào bạn mới có thể học rộng nghe nhiều? Trí tuệ khai mở. Do đây có thể biết, một môn tinh tấn là tu Giới-Định-Huệ tam học, học rộng nghe nhiều là tam huệ của Bồ Tát: văn huệ, tư huệ, tu huệ. Văn-Tư-Tu gọi là tam huệ, cái huệ này là gì? Là huệ của Giới-Định-Huệ. Nếu bạn chưa khai huệ thì bạn làm gì có được tam huệ? Bạn có nền tảng của Giới-Định-Huệ, sau đó mới có thể học rộng nghe nhiều, đó chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Cho nên các vị phải nên biết, tinh tấn - một pháp môn này có thể giúp chúng ta hoàn thành “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, đó là thành tựu đức hạnh của chính chúng ta. Phiền não đoạn rồi, hồi phục lại tâm thanh tịnh, vào lúc này mới “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, mới học rộng nghe nhiều, cho nên không hề có xung đột với tinh tấn, thế nhưng có trước sau thứ tự khác nhau. Nếu như chúng ta đảo ngược thứ tự thì ngay trong một đời này của bạn sẽ không có thành tựu. Phương pháp bạn đã dùng sai, cần phải làm theo thứ tự.

Tứ hoằng thệ nguyện, thành thật mà nói, chính là dạy chúng ta tuần tự thứ lớp tu hành. Thứ nhất bạn phải phát tâm, sau khi phát tâm thì đoạn phiền não, phiền não đoạn hết rồi thì học pháp môn, pháp môn viên mãn thì thành Phật đạo. Thứ tự này quyết định không thể nào rối loạn, nhất định phải thứ tự tiến dần. Thực tế mà nói, Phật từ bi đến cùng tột, quan tâm rất chu đáo đối với hậu học, mọi thứ đều nói cho bạn nghe rất tường tận, đều giảng cho bạn nghe thông suốt, chỉ cần bạn có thể nghe hiểu được, thể hội được ý của Phật, y giáo phụng hành, làm gì mà không thành tựu.

Câu sau cùng càng thu thắng hơn: “Thông đạt thậm thâm vi diệu pháp”. Cái gì gọi là “thậm thâm”? Thâm đến trình độ nào mới có thể gọi là thậm thâm? Trên kinh Đại thừa Phật đã nói là “chỉ Phật với Phật mới có thể cứu cánh”, vậy mới xem là thậm thâm. Vì sao vậy? Bồ Tát Đẳng giác còn không thể hiểu được rõ ràng, như vậy chân thật là sâu. Đó là pháp gì vậy? “Vi diệu pháp” là pháp gì vậy? Xin nói với các vị chính là pháp môn niệm Phật, pháp môn niệm Phật là thậm thâm vi diệu pháp. Chúng ta xem thấy trên hội Hoa Nghiêm, Bồ Tát Văn Thù là trí tuệ bậc nhất trong các Bồ Tát, Bồ Tát Phổ Hiền là hành môn đệ nhất, trong hành môn không có người nào có thể siêu vượt hơn Phổ Hiền, trong giải môn không có người nào có thể siêu vượt hơn Văn Thù. Văn Thù, Phổ Hiền - hai vị Bồ Tát này sau cùng ở trong kinh Hoa Nghiêm đều phát nguyện cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc. Những năm đầu tôi học Phật, chân thật rất khó tin đối với Tịnh Độ, cho dù là lời Phật nói. Tôn trọng Phật, chúng ta không dám phản đối, không dám hủy báng, thế nhưng nếu bảo tôi học pháp môn này thì gần như không cam tâm. Tôi rất là yêu thích đối với kinh giáo Đại thừa, nhất là Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa. Đến sau cùng xem thấy những kinh này đều quy về Tịnh Độ mới hiểu rõ chư Phật Bồ Tát nói ra pháp môn này chân thật là pháp khó tin. Thể hội được ý nghĩa của pháp khó tin, cũng hiểu được một chút mùi vị thậm thâm, đó là khi xem thấy Bồ Tát Phổ Hiền, Văn Thù đều phát nguyện vãng sanh. Về sau, nhiều năm đến nay, lướt qua trong kinh giáo dần dần hiểu rõ, biết được cái đạo lý này, đúng như trong Quán Kinh, Phật đã nói là “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”.

Tâm tác tâm thị, thị tâm thị Phật là lý. Phật là gì vậy? Phật chính là chân tâm của chúng ta, Phật chính là bổn tánh của chúng ta, Phật không ở bên ngoài. Chúng ta phải làm thế nào để làm Phật? Nếu như khởi tâm động niệm, lời nói việc làm tương ưng với tự tánh thì bạn liền làm Phật, trái ngược với tự tánh thì bạn là chúng sanh. Phải làm thế nào tương ưng? Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là tương ưng, mỗi môn đều tương ưng, mỗi môn đều là làm Phật. Nhiều pháp môn như vậy có phải đều là thích hợp với tu học của chính chúng ta hay không? Không phải vậy. Vì sao vậy? Tất cả chúng sanh căn tánh không như nhau.

Hiện tại người nước ngoài nói đa nguyên văn hóa, đây là danh từ mới. Tôi nói với họ, không chỉ người các nước tụ hội với nhau là đa nguyên văn hoá, mà chính một mình bạn cũng là đa nguyên văn hóa. Họ nghe rồi cảm thấy rất lạ, vì sao một người cũng biến thành đa nguyên? Tôi nói, bạn là một người, bạn không chỉ có một đời này, bạn có quá khứ, bạn còn có vị lai, quá khứ vô thỉ, vô thỉ kiếp đến nay đời đời kiếp kiếp bạn trải qua sáu cõi luân hồi, cõi nào bạn cũng đều trải qua, trong A Lại Da Thức của bạn hàm chứa chủng tử tập khí rất là phức tạp thì bạn làm sao không phải là đa nguyên? Một người cũng là đa nguyên. Chính bởi nguyên do này, cho nên Phật nói ra tất cả kinh không nhất định đều thích hợp với chúng ta, chúng ta phải cố gắng chọn lựa. Thực tế mà nói, chúng ta giống như một người bị bệnh vậy, bệnh đã quá lâu rồi, tâm bệnh bên trong quá nhiều, không phải một loại, chỉ có một phương thì không thể cứu nỗi, cho nên nhất định phải hiểu được chọn lựa, khi trị bệnh các vị phải biết thuốc, phải đúng bệnh. Thuốc có thể đúng bệnh thì đó chính là thuốc đến bệnh khỏi, bệnh của bạn liền khỏi. Không phải bất cứ loại thuốc nào cũng đều có thể trị hết bệnh của chúng ta, nhất định phải ở trong đống thuốc chọn lấy loại thích hợp, đúng bệnh mới được. Chúng ta tu học Phật pháp cũng là như vậy, kinh luận Phật giảng rất nhiều, những kinh luận nào thích hợp với ta, có thể đối trị tập khí tâm bệnh của ta từ vô lượng kiếp đến nay, để cho ta ở ngay trong một đời này có thể có được thành tựu thì mới có thể sanh ra hiệu quả.

Hiện tại chúng ta ở trong giảng đường này chọn lấy hai bộ kinh rất khế cơ, hay nói cách khác, nhắm đúng vào tâm bệnh của chúng ta mà cho thuốc tốt. Hai bộ kinh này chính là kinh Vô Lượng Thọ cùng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Kinh Hoa Nghiêm rất dài, mới bắt đầu giảng, kinh Vô Lượng Thọ thì các vị đồng tu ngày trước đã từng nghe qua hai lần. Kinh này ngày trước tôi đã giảng qua mười lần, thế nhưng không phải ở một nơi, mà ở rất nhiều quốc gia khu vực. Lần này chúng ta có đủ thời gian, thời gian không vội, chúng ta có thể giảng tỉ mỉ. Bộ kinh này là tất cả chư Phật Như Lai xúc tiến cho chúng ta, giới thiệu cho chúng ta, để chúng ta hạ thủ công phu ở bộ kinh này. Căn tánh lanh lợi, bạn y theo bộ kinh này mà tu hành thì có thể được minh tâm đạt bổn, cũng chính là minh tâm kiến tánh mà nhà Thiền thường nói. Đây chính là trên kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí đã nói: “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai”. Tâm khai là tâm khai ý giải, chính là đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh mà nhà Thiền đã nói, thượng căn tu pháp môn này có thể đạt được. Trong Tịnh Độ tuy không gọi là minh tâm kiến tánh, Tịnh Độ gọi là Nhất Tâm Bất Loạn. Lý nhất tâm bất loạn chính là minh tâm kiến tánh, siêu việt mười pháp giới, trên kinh Hoa Nghiêm là địa vị của Pháp Thân Đại Sĩ. Nếu như không có được căn tánh này, thành thật niệm Phật cũng có thể vãng sanh bất thoái thành Phật, đây chính là “thậm thâm vi diệu pháp”.

Trong Thậm Thâm Vi Diệu Pháp còn có ý nghĩa của Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, ý nghĩa này nói không hết. Chúng ta nhất định phải nên biết, phải có thể tỉ mỉ mà thể hội, vì sao vậy? Nếu bạn không thể hội được, làm sao bạn có thể tuyên thuyết. Bạn chân thật có thể thể hội được, sau đó mở quyển kinh này ra thì mỗi câu mỗi chữ đều là Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, mỗi câu mỗi chữ đều là vô lượng nghĩa. Chúng ta phải khẳng định, chúng ta phải tin tưởng, tin tưởng chân tâm của chúng ta không hề khác nhau với tất cả chư Phật Như Lai. Vậy thì vấn đề hiện tại là chúng ta làm sao có thể tương ưng với chân tâm với tự tánh? Đây là vấn đề lớn. Chư Phật Như Lai nói với chúng ta, bạn thường niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật thì tương ưng.Tương ưng là ba nghiệp tương ưng, Hiển tông gọi là ba nghiệp tương ưng, trong Mật tông gọi là Tam Mật (tức Thân-Ngữ-Ý) tương ưng. Trong tâm chân thật có A Di Đà Phật, ý nghiệp của bạn tương ưng, trong lòng thật có. Ngoài A Di Đà Phật ra, xin nói với các vị là thân tâm thế giới thế xuất thế gian pháp thảy đều buông bỏ.

Buông bỏ không phải nói không cần, vậy thì bạn hoàn toàn sai rồi, buông bỏ là không nên đem nó để ở trong lòng, trên sự thì bình thường, đời sống trước sao thì giờ cũng vậy, làm việc như vậy, qua lại như vậy, trên sự thì có, trong tâm không có, trong lòng trong sạch không chút bụi trần, đó gọi là buông bỏ. Không chỉ buông bỏ thế gian pháp, Phật pháp cũng phải buông bỏ, vì sao vậy? Trên kinh Kim Cang, Phật nói với chúng ta: “Pháp còn nên xả, huống hồ phi pháp”, cái pháp đó chính là Phật pháp. Vì sao nói Phật pháp cũng phải buông bỏ? Phật nói: “Phật pháp là nhân duyên sanh ra”, nhân duyên sanh ra thì không phải là thật. Phật pháp chúng ta có cần hay không? Cần! Cần thì sao buông bỏ? Không nên chấp trước, buông bỏ phân biệt chấp trước của bạn thì đúng. Chúng ta không có tâm phân biệt đối với Phật pháp, không có tâm chấp trước thì bạn liền buông bỏ. Đối với chúng ta, pháp thế gian quyết định không nên để ở trong lòng, vĩnh viễn giữ gìn tâm địa của bạn thanh tịnh bình đẳng. Trên đề kinh chúng ta là “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, bạn phải giữ lấy thì ba nghiệp của bạn liền tương ưng với tự tánh. Tương ưng thì bạn liền minh tâm đạt bổn, bạn thông đạt rồi mới có thể nói ra được.

Chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát giảng kinh nói pháp đều là từ chân ngôn trong “thanh tịnh, bình đẳng, giác” lưu xuất ra. Tại vì sao gọi là chân ngôn? Chữ chân này không phải chân của chân giả, chân giả của chân thì không chân, cái chân này là “chẳng chân chẳng giả, chẳng có chẳng không”, đó mới gọi là chân. Phật giảng kinh nói pháp, bạn không thể nói Ngài có nói, bạn cũng không thể nói Ngài không nói. Nếu bạn nói Ngài có nói thì sai rồi, Phật giảng kinh nói pháp đích thực không có ý, không có khởi tâm động niệm, không hề nghĩ ta phải nói pháp thế nào, đó là phàm phu, rơi vào trong tâm ý thức, Phật không hề có cái ý niệm này. Pháp của Phật làm sao mà nói ra? Ứng cơ nói pháp, thật đúng như đại phu trị bệnh cho người, xem bệnh cho thuốc vậy. Bạn nói xem, đại phu có nói pháp không? Có ra phương thuốc hay không? Không có! Xem bạn bị bệnh gì, họ sẽ nói ra nguyên nhân bệnh tật đó của bạn, tình hình bệnh của bạn và phương thuốc cho bạn. Phật nói pháp cũng là như vậy, tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, làm gì có nhất định? Nếu như nói Phật có pháp đáng nói thì oan uổng cho Phật, bạn không hiểu được Phật. Có pháp đáng nói đó là tình hình gì vậy? Giống như đại phu ra phương thuốc trước vậy, cho ra một đống phương thuốc, bạn bị bệnh đến tôi đưa phương thuốc này cho bạn, đó chính là có pháp đáng nói. Loại đại phu này nhất định hại chết rất nhiều người. Người uống thuốc chết rồi họ vẫn không chịu thừa nhận, vì sao vậy? Ngươi không chịu bệnh giống như phương thuốc ta đã cho, ngươi sai rồi, phương thuốc của ta không hề sai, ngươi đã bệnh sai rồi, đó gọi là có pháp đáng nói. Cho nên Phật đích thực là không có pháp đáng nói, mà nói vô lượng vô biên pháp. Bạn phải hiểu được cái ý này, phải hiểu rõ chân tướng sự thật thì mới biết chúng ta làm thế nào học tập.

Thế nên trên kinh này Phật nói với chúng ta, một câu A Di Đà Phật, công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn, đó là Thậm Thâm Vi Diệu Pháp. Thế nhưng bạn phải biết niệm. Không biết niệm, người xưa gọi là “đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”. Không biết niệm, tuyệt nhiên không thể nói sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” này mà bạn không biết niệm, trẻ nhỏ ba tuổi cũng biết niệm. Không biết niệm là bạn không biết dụng tâm. Bạn phải dùng tâm như thế nào mà niệm thì mới có hiệu quả? Nếu như có miệng không có tâm thì không có hiệu quả, niệm được nhiều hơn cũng không được. Vậy dùng tâm gì niệm mới có hiệu quả? Vừa rồi mới nói là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng thì có hiệu quả,mới có thể niệm ra được mùi vị của Phật hiệu, gọi là pháp vị. Bạn biết niệm sẽ niệm được pháp hỉ sung mãn, bạn niệm được không chỉ tương ưng với thế giới Tây Phương Cực Lạc mà còn tương ưng với chân tâm bổn tánh của chính mình, cho nên niệm Phật phải biết niệm. Một ngày từ sớm đến tối A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, một ngày 24 giờ đồng hồ không gián đoạn, trong lòng còn có thị phi nhân ngã, tham-sân-si-mạn, đó gọi là không biết niệm. Loại niệm Phật này sẽ không có thành tựu, đó chân thật gọi là “đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”. Có được lợi ích gì không? Không thể nói không có lợi ích, vì sao vậy? Tốt hơn là đi mắng người, tốt hơn đi nói chuyện phiếm, được cái tốt như vậy. Cho nên mọi người nhất định phải nên hiểu. Bài kệ này tôi chỉ nói với các vị đến đây thôi, ý nghĩa thực tế rất sâu rất rộng, bạn chính mình tỉ mỉ mà thể hội, rất là thú vị.

Kinh văn:

Trí tuệ quảng đại thâm như hải

Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao

Siêu vượt vô biên ác thú môn

Tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn

Vô minh tham sân giai vĩnh vô

Hoặc tận quá vong tam muội lực”.

Đây là tiểu khoa thứ hai.

Sáu câu này là cầu “tự lợi đức”, cũng là tuyên dương tam vô lậu, dùng tam vô lậu học đoạn ba độc phiền não, trước cầu chính mình thành tựu. Đây đều là tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Bạn thấy Pháp Tạng Ngài làm thế nào tu hành thành Phật? Làm ra cho chúng ta một mô phạm, làm ra một tấm gương, nếu chúng ta muốn tu hành thành Phật thì phải làm theo cách làm của Ngài.

Câu thứ nhất là “trí tuệ quảng đại thâm như hải”, câu sau cùng “hoặc tận quá vong Tam muội lực”. Tam muội là định, bạn xem sáu câu này, phân nửa là lấy trí tuệ mở đầu, lấy Tam muội làm tổng kết, ý nghĩa rất sâu rất rộng, nghĩ lại xem chính chúng ta tu hành có phải đúng như vậy không? Trí tuệ, ngày nay chúng ta đơn giản mà gọi là lý trí, trái với lý trí là cảm tình. Các vị phải biết tình là mê, cho nên gọi là tình thức, mê tình. Trí tuệ là lý trí. Đời sống của chúng ta có phải là lý trí hay không? Hay là cảm tình? Không luận xuất gia hay tại gia, mỗi một người đều có công tác, công việc của chúng ta là lý trí hay vẫn là cảm tình? Ngoài việc chánh đáng ra, ngày tháng không tránh khỏi thù đáp qua lại, đối nhân xử thế tiếp vật bạn dùng cảm tình hay là lý trí? Chỗ này để ở câu thứ nhất. Chúng ta chân thật muốn học Phật, thì làm việc, đời sống, đối nhân xử thế tiếp vật phải đem cảm tình biến thành lý trí, đây gọi là tu hành. Vì sao vậy? Cảm tình là một việc sai lầm, đem những sai lầm cải đổi lại gọi là tu hành. Tu hành là tu sửa hành vi sai lầm. Lý trí, trí tuệ rộng lớn thậm thâm. Hải là thí dụ, không có bờ mé, quyết không thể nói có được chút trí tuệ thì cảm thấy rất vừa lòng rồi, được ít cho là đủ, như vậy là sai rồi.

Người thế gian có trí tuệ hay không? Không có, chúng ta xem họ dường như cũng rất thông minh, có trí tuệ, nhưng không phải, ở trong Phật pháp gọi đó là “thế trí biện thông”. Tiêu chuẩn của trí tuệ Phật pháp là xem trong trí tuệ của bạn có tình hay không? Nếu như có tình xen tạp ở trong đó thì gọi là thế trí biện thông, không phải trí tuệ chân thật. Trí tuệ chân thật là chuyển tình thức mà triển hiện ra, đó là trí tuệ chân thật, trong pháp tướng tông gọi là “chuyển thức thành trí”. Trí tuệ này thậm sâu rộng lớn, sâu rộng không bờ mé. Cho nên tu học của Phật pháp, thực tế mà nói, chính là dạy chúng ta có một sự chuyển biến, làm thế nào chuyển thức thành trí. Trong tướng tông nói được rất rõ ràng, chuyển A Lại Da thức thành Đại Viên Cảnh Trí, chuyển Mạt Na thành Bình đẳng tánh trí, chuyển ý thức thành Diệu quan sát trí, chuyển tiền ngũ thức thành Thành sở tác trí. Bạn có thể chuyển biến lại thì bạn chính là Pháp Thân Đại Sĩ, ở Hoa Nghiêm là từ Bồ Tát sơ trụ trở lên, 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ. Không chuyển lại được thì là phàm phu, cho dù ở trong pháp giới bốn thánh. Trong Đại thừa gọi pháp giới bốn thánh là ngoại phàm, sáu cõi là nội phàm, chưa siêu việt mười pháp giới. Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát là ngoại phàm, không gọi là thánh nhân. Việc này miễn cưỡng khách sáo một chút, gọi là Tiểu thánh, đó là lời khách sáo. Tiêu chuẩn chân thật của phàm thánh chính là chuyển thức thành trí. Bạn chuyển đổi lại thì đó là thánh nhân. Nhà Phật chúng ta thường nói Tam hiền thập thánh đều là Pháp Thân Đại Sĩ. Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng gọi là Tam hiền, thập địa gọi là thập thánh, đều là Pháp Thân Đại Sĩ, đều là trong nhất chân pháp giới, không phải mười pháp giới. Những sự lý này chúng ta phải rõ ràng. Cho nên ngay trong cuộc sống thường ngày phải dùng trí tuệ. Ngày trước, tông môn giáo hạ, lão hòa thượng tiếp dẫn đại chúng (không luận xuất gia hay tại gia) là xem bạn có trí tuệ hay không, không phải xem bạn có cảm tình hay không. Bạn có trí tuệ, đó là bậc pháp khí, bạn có thể thành tựu. Bạn có cảm tình thì phiền phức rất to. Cho nên câu này dùng trí tuệ mở đầu, ý nghĩ rất sâu rất rộng, chính là dạy chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày, làm việc, đối nhân xử thế tiếp vật, tôi nói rất rõ rất cạn, nhất định phải có lý trí, không nên dùng cảm tình. Bồ Tát Pháp Tạng là học pháp như vậy, Ngài làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta.

Câu thứ hai: “Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao”. Vẫn là hai chữ “thanh tịnh” này. Trên kinh Đại thừa thường nói: “Như Lại tạng hữu nhiễm hoàn tịnh”, trên kinh Lăng Nghiêm, câu nói này là giáo nghĩa rất quan trọng. “Nội tâm” vốn sẳn là thanh tịnh, hiện tại nếu muốn hồi phục lại thanh tịnh thì bạn phải đem trần lao khử bỏ đi, cũng chính là buông bỏ đi trần lao. Trần lao là gì vậy? Là phiền não, là đại danh từ của phiền não. Phiền não thật quá lớn, trong Bách Pháp Minh Môn Luận tướng tông đem nó quy nạp lại thành 26 loại. Căn bản phiền não có sáu cái, tùy phiền não có đại tùy phiền não, trung tùy phiền não, tiểu tùy phiền não, hợp lại thành 26 cái, bạn phải đoạn hẳn nó. “Tuyệt” là đoạn tuyệt. Nếu như không đoạn phiền não, thân tâm bạn mệt mỏi, bạn rất khổ cực, thông thường chúng ta gọi là lao nhọc. Lao nhọc quá độ thì đoản mạng, sẽ giảm thọ. Cái gì làm lao nhọc? Phiền não đang lao nhọc. Những lời này phải nên nghe rõ ràng, phải nên nghe tường tận, không phải bảo bạn không làm bất cứ việc gì, vậy thì bạn hoàn toàn sai lầm rồi.

Trung Quốc đại lục có một người viết thư cho tôi, nói là nghe băng giảng kinh của tôi khuyên mọi người buông bỏ, ông buông bỏ rồi, công việc cũng không làm nữa, không làm bất cứ việc gì, viết thư gởi đến cho tôi nói là hiện tại không có cơm ăn thì phải làm sao? Đây là hiểu sai đi ý này rồi, tôi bảo bạn buông bỏ không phải bảo bạn buông bỏ công việc, không phải buông bỏ đời sống, không phải buông bỏ công tác, cư sĩ tại gia không phải buông bỏ gia đình, mà là buông bỏ những lo buồn vướng bận phiền não trong tâm của bạn. Có một số người nói vậy thì không được, tôi không suy nghĩ không được, không lo lắng không được. Tôi hỏi lại họ một câu, bạn lo lắng, buồn phiền, vướng bận có giải quyết được vấn đề không? Họ nghĩ lại thấy không thể giải quyết được vấn đề. Không thể giải quyết được vấn đề thì bạn lo lắng để làm gì, bạn phải phiền não để làm gì? Nếu như bạn phiền não mà có thể giải quyết được vấn đề, vậy thì tốt. Phiền não không thể giải quyết được vấn đề, không những không thể giải quyết được vấn đề, trái lại làm cho vấn đề rối hơn, làm cho vấn đề càng phiền phức hơn. Cho nên Phật dạy chúng ta buông bỏ là buông bỏ phiền não, buông bỏ tri kiến, không phải buông bỏ công việc, không phải buông bỏ đời sống. Ngay đến ăn cơm cũng buông bỏ, vậy chẳng phải bạn đói chết rồi sao? Làm gì có loại đạo lý này. Cho nên ý nghĩa của mỗi một câu nhất định phải nghe cho rõ ràng, vạn nhất không nên để xảy ra hiểu lầm.

Phật dạy chúng ta nhìn thấu. Nhìn thấu là ý nghĩa gì vậy? Có phải là chân thật nhìn thấu được mọi vật không? Làm gì có loại đạo lý này. Bạn xem thấy một cái nhà, bạn xem tám năm, mười năm bạn cũng không thể nhìn thấu được cái nhà. Cho nên nhìn thấu là tường tận thấu suốt đối với chân tướng sự thật, gọi là nhìn thấu.Chưa nhìn thấu thì không thể hiểu rõ, không rõ ràng. Bạn tường tận rõ ràng thì gọi là nhìn thấu. Buông bỏ là trong lòng không còn vướng bận, bạn mới có được tâm thanh tịnh.Trong lòng bạn có lo lắng, có vướng bận, có suy nghĩ, thì bạn làm sao thanh tịnh?

Cổ thánh tiên hiền của người Trung Quốc chân thật là có trí tuệ, văn tự mà họ tạo ra là phù hiệu, văn tự của Trung Quốc tràn đầy trí tuệ. Bạn xem, bạn có tư, bạn có tưởng, tâm của bạn không thanh tịnh. Tư là gì vậy? Trong lòng có rất nhiều giới hạn, trong lòng vẽ ra rất nhiều vách ngăn, đó gọi là tư. Tưởng là gì vậy? Trong lòng khởi vọng tưởng, trong lòng có vọng tưởng, đó là tưởng, không thanh tịnh. Cho nên bảo bạn buông bỏ cái gì? Bảo bạn đem những thứ rối rắm trong lòng vứt bỏ, đem cái tướng hư vọng cũng bỏ đi, còn lại chính là cái tâm. Cái tâm đó chính là tâm thanh tịnh, gọi là chân tâm. Cho nên các vị phải nên biết, tư tưởng là vọng tâm, không phải chân tâm. Chư Phật Bồ Tát tuyệt tư tuyệt lự, chư Phật Bồ Tát không có tư tưởng, việc này chúng ta nhất định phải nên hiểu. Cái tâm không có tư tưởng đó là chân tâm, có tư có tưởng là vọng tâm. Ngày nay chúng ta học kinh gặp phải khó khăn rất lớn, ý của kinh không hiểu, xem chú giải của người xưa cũng xem không hiểu, rốt cuộc là sanh ra tâm bệnh gì? Căn nguyên của tâm bệnh chính là chúng ta có tư có tưởng, không biết được tư là sở tri chướng, tưởng là phiền não chướng. Chúng ta dùng tư dùng tưởng để xem kinh Phật thì bạn làm sao có thể xem hiểu được? Không chỉ kinh xem không hiểu, chú giải của tổ sư đại đức xưa nay cũng xem không hiểu, vì sao vậy? Các Ngài đều là vô tư vô tưởng. Đến lúc nào thì chúng ta có thể xem hiểu được các Ngài? Chúng ta cũng vô tư vô tưởng thì liền xem hiểu. Lời nói này tôi đã nói qua với các vị nhiều lần, các vị muốn chuẩn bị giảng kinh, kinh làm sao chuẩn bị? Có tư có tưởng thì sai rồi. Cách chuẩn bị thế nào vậy? Vô tư vô tưởng, vậy thì bạn đã chân thật chuẩn bị thật tốt.

Ngày nay chúng ta mở quyển kinh ra, những từ mới nhất định phải tra cho rõ ràng, không thể đọc sai được, việc này phải chuẩn bị, bởi vì phù hiệu này mọi người đều công nhận, đọc cái âm này cũng là được mọi người công nhận, ta không thể nào đọc sai đi một chữ, vì như vậy thì mọi người không thừa nhận. Danh từ thuật ngữ có giải thích nhất định, vậy phải tra Phật học từ điển, tra tư liệu tham khảo, bạn phải chuẩn bị. Nhưng nghĩa lý bên trong không cách gì chuẩn bị, phương pháp tốt nhất chính là vô tư vô tưởng. Cái vô tư vô tưởng vừa lên đài thì có thể liền phiền phức. Giảng như thế nào? Lên bụt giảng phải cầu Phật Bồ Tát gia trì. Trước khi tôi lên bụt giảng, các vị thấy tôi lạy ba lạy ở bên dưới, để làm gì vậy? Cầu Phật Bồ Tát gia trì. Mỗi câu mỗi chữ đều là sống động, không phải là khô cứng, cách giảng thế nào vậy? Nhìn vào mắt của mọi người mà nói chuyện. Kinh này phải giảng như thế nào? Nhìn vào ánh mắt của các vị mà có cách giảng như thế nào, linh động. Bởi vì các vị người nghe kinh bên dưới không như nhau, tôi giảng cũng sẽ không như nhau. Mỗi lần giảng kinh đều có ghi lại băng thu âm đĩa VCD, các vị lấy nghe thử, tôi giảng mười mấy lần, mỗi lần đều không như nhau. Có một số đồng tu chỉnh lý lại cho tôi, họ nói khác biệt rất lớn, hoàn toàn không như nhau. Do nguyên nhân gì vậy? Không có tư, không có tưởng. Trong đây có một bí quyết tôi muốn truyền cho các vị, tôi không bòn pháp, tôi không giữ làm của riêng, bí quyết là gì vậy? Tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là chân tâm. Trong hai đến sáu thời, mãi mãi giữ gìn tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, chúng ta dùng cái tâm này mà sống, dùng cái tâm này mà làm việc, dùng loại tâm này mà đối nhân xử thế tiếp vật, mỗi niệm tương ưng với chư Phật Như Lai. Kinh điển là chư Phật Như Lai từ trong thanh tịnh bình đẳng giác lưu xuất ra âm thanh văn tự, chúng ta chính mình dùng tâm thanh tịnh bình đẳng giác mà cảm ứng thì làm gì mà không hiểu được chứ? Cho nên câu nói này rất quan trọng, “nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao”.

Danh vọng lợi dưỡng thế gian quyết định không nên để ở trong lòng, quyết định không nên tiêm nhiễm, tham-sân-si-mạn nhất định phải đoạn. Cái gì gọi là dụng công? Đoạn tham-sân-si-mạn chính là công phu. Thế gian này, nhân gian thiên thượng năm dục sáu trần bày ra trước mắt, còn có động tâm hay không? Các vị phải nên biết, công phu tu hành ở nơi đây rèn luyện thì mới thật có thọ dụng. Chỉ cần hồi phục thanh tịnh bình đẳng giác thì không chỉ tất cả kinh luận bạn sẽ không có chướng ngại, bạn đều hiểu được, mà thế gian tất cả pháp cũng không thể làm khó được bạn, như vậy bạn mới có thể được thọ dụng chân thật, mới chân thật được tự tại mỹ mãn, trong Phật pháp gọi là đại viên mãn, đại tự tại, bạn mới có thể thể hội được. Cho nên câu này là công phu chân thật. Câu thứ nhất là dạy chúng ta chỗ bắt tay vào, sau đó ngay trong cuộc sống thường ngày của bạn, không chỉ một đời này mà đời đời kiếp kiếp, từ sơ phát tâm đến Như Lai địa dùng cái công phu gì vậy? Chính là câu này: “Nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao”.

Trong trần lao này rất là rộng lớn. Phật pháp nói với chúng ta Kiến tư phiền não, Trần sa phiền não, Vô minh phiền não, ba loại lớn này đều là thuộc về trần lao, nhất định phải đoạn. Không đoạn thì bạn không thể liễu sanh tử thoát luân hồi, không đoạn thì bạn không cách gì tránh khỏi ba đường ác.

Câu phía sau là: “Siêu quá vô biên ác thú môn”. “Ác thú môn” này, nghĩa hẹp chính là chỉ ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nghiệp nhân của ba đường ác là gì vậy? Tham-sân-si. Các vị nhất định phải nên biết, lòng tham đọa ngạ quỷ, sân hận đọa địa ngục, ngu si đọa súc sanh, đó là nghiệp nhân của ba đường ác. Thế gian danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần là đối tượng tham-sân-si của người thế gian. Người học Phật có những người không tệ, đem danh vọng lợi dưỡng năm dục sáu trần buông bỏ. Buông bỏ đến sau cùng thì thế nào? Tham Phật pháp, trong Phật pháp khởi lên tham-sân-si, quả báo của họ ở đâu vậy? Quả báo vẫn là ở ba đường. Nghiệp nhân của ba đường là tham-sân-si, không thể nói đổi đối tượng tham-sân-si thì không việc gì. Bảo bạn đoạn phiền não, không phải bảo bạn đổi đối tượng. Cho nên các vị phải nên biết, bạn ưa thích một vị Bồ Tát, ưa thích một vị Phật cũng không được, vì đây là lòng tham. Ưa thích một bộ kinh điển, ưa thích một pháp môn, ưa thích một vị Bồ Tát nào đó cũng là lòng tham. Không ưa một pháp môn khác là lòng sân hận, đều là đang tạo nghiệp. Hiện tượng này từ xưa đến nay có. Chúng ta tu học Tịnh Độ, tán thán Tịnh Độ, xem thấy không phải tu Tịnh Độ thì không ưa họ, xem thấy người tu Tịnh Độ thì khởi lòng tham, xem thấy người tu các pháp môn khác thì khởi lòng sân hận, vẫn là đang tham-sân-si nhưng lại tự cho là mình tu không tệ lắm, sau khi chết bị Vua Diêm La kéo vào địa ngục vẫn không biết do nguyên nhân gì bị đưa vào trong địa ngục. Bạn nói xem, có oan uổng hay không? Thực tế mà nói họ, đó là không tường tận đối với Phật pháp, đó là do hiểu lầm.

Công phu chân thật của chúng ta chính là phải quấy nhân ngã, tham-sân-si-mạn mỗi năm phải tan nhạt đi, đương nhiên muốn đoạn rất khó. Phải đạm bạc, tháng sau đạm bạc hơn tháng trước, mỗi tháng tan nhạt hơn mỗi tháng, bạn chính mình sẽ cảm thấy công phu của bạn có lực, bạn có tiến bộ. Nếu như bạn có thể một tuần lễ có cảm giác được phiền não của ta giảm nhẹ, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của ta tan nhạt thì là công phu thượng thừa, mỗi một tuần lễ bạn có thể phát hiện cảnh giới chính mình nâng lên cao. Mỗi một tháng đều có cảm giác này thì công phu trung thừa. Cảm giác của mỗi năm không như nhau cũng xem là công phu có lực. Nếu như không phải như vậy, chúng ta ở trong Phật pháp ngày ngày rất dụng công, ngày ngày rất tinh tấn, nhưng phiền não tập khí vẫn là như vậy, không có chút cải tiến nào, hay nói cách khác, công phu của bạn hoàn toàn không có lực, tương lai khi lâm chung đáng đến cõi nào thì vẫn phải đến cõi đó, không có cách nào thoát khỏi. Việc này chúng ta phải cảnh giác, rất là quan trọng.

Sáu câu này của Tỳ kheo Pháp Tạng là cương lĩnh tu học của chính Ngài, nguyên tắc chính mình tu học, có nhân có quả. Công phu chân thật ở hai câu phía trước. Hai câu: “Siêu quá vô biên ác thú môn, tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn” là quả, người ta tu nhân chứng quả rõ ràng như vậy.

Chúng ta nói ba đường ác là cửa ác thú, vừa rồi nói là cách nói nghĩa hẹp, nói theo nghĩa rộng thì sáu cõi đều là đường ác, vì sao vậy? Chỉ cần không siêu vượt sáu cõi thì quyết định luân hồi, chỉ cần luân hồi thì quyết định là thời gian ở trong ba đường ác dài, thời gian ba đường thiện ngắn, cho nên sáu cõi đều là đường ác. Sáu cõi đó chân thật chính là vô lượng vô biên cõi, trong mỗi một cõi đều có sáu cõi. Trong cõi người chúng ta, có một số người phước báo rất lớn, cả đời hưởng Phước giống như ở thiên đàng; có một số người cả đời chịu khổ chịu nạn cũn giống như ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh. Mỗi một cõi đều có sáu cõi, sáu lần sáu là ba mươi sáu, trong 36 cõi, mỗi một cõi lại có sáu cõi, trùng trùng vô tận. Đại sư Thiên Thai giảng Pháp Hoa, giảng cho chúng ta nghe Bách Giới Thiên Như chính là nói rõ cái chân tướng sự thật này, cho nên là “vô biên ác thú môn”. Nếu như lại đem cái ý này mở rộng ra, xin nói với các vị, mười pháp giới đều là ác đạo, trong mười pháp giới có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Phật trong mười pháp giới, như Thiên Thai gia đã nói là “Tạng Giáo Phật, Thông giáo Phật đều không lìa khỏi mười pháp giới, Biệt giáo mới siêu việt”. Biệt giáo không ở mười pháp giới, bởi vì Biệt giáo sơ địa Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, bằng với Viên giáo sơ trụ Bồ Tát, đây là ở pháp giới nhất chân. Vậy thì chúng ta biết được Phật của Biệt Giáo phá 12 phẩm vô minh, tương đương với Viên Giáo Bồ Tát Nhị Hành Vị. Vì sao nói mười pháp giới đều là ác thú môn? Trong Phật pháp gọi là “dị sanh tánh”, họ dùng là vọng tâm, không phải dùng chân tâm. Siêu việt mười pháp giới mới dùng chân tâm, cùng chư Phật mới là “đồng sanh tánh”, đó là “siêu quá vô biên ác thú môn”. Cho nên ở chỗ này “siêu quá vô biên ác thú môn”, cảnh giới này, mức độ thấp nhất là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, Biệt Giáo sơ địa Bồ Tát, đây là quả báo. Dùng công phu gì vậy? Trí tuệ “nội tâm thanh tịnh tuyệt trần lao”, dụng cái công phu này.

Câu phía sau này thù thắng: “Tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn”. Nếu như không có pháp phương tiện thì khó rồi. “Bồ Đề” là viên mãn Bồ Đề, Phật quả của Viên giáo. Bạn xem vừa rồi giảng “siêu quá vô biên ác thú môn”, thấp nhất là Viên giáo sơ trụ. Bồ Tát sơ trụ đến Như Lai quả địa có 42 giai cấp, 42 giai đoạn này cũng phải siêu vượt. “Tốc đáo” là rất nhanh liền chứng được vô thượng Bồ Đề. “Bồ Đề cứu cánh ngạn”, các vị phải nên biết, Bồ Tát Pháp Vân Địa chưa cứu cánh, Bồ Tát Đẳng giác cũng chưa cứu cánh, Phật quả của Viên giáo mới là Bồ đề cứu cánh ngạn. Trong câu này chú trọng ở “tốc đáo”, dùng phương pháp gì có thể tốc đáo? Lời nói này rất có đạo lý. Thế Tôn ở trong Đại Thừa Liễu Nghĩa kinh nói với chúng ta, Bồ Tát tu đến cứu cánh ngạn cần phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp. Nếu như là qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp thì không phải tốc đáo, họ từ từ mà đến. A Tăng Kỳ kiếp thứ nhất tu 30 vị thứ, chúng ta lấy kinh Hoa Nghiêm để nói là thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng. A Tăng Kỳ kiếp thứ hai tu bảy vị thứ, sơ địa đến thất địa. A Tăng Kỳ kiếp thứ ba tu ba vị thứ: bát địa, cửu địa, thập địa. Ba Đại A Tăng Kỳ kiếp tu mãn thì đến vị thứ gì? Pháp Vân Địa Bồ Tát. Ba đại A Tăng Kỳ kiếp, các vị phải nên biết, không phải thời gian tu hành trong mười pháp giới, thời gian tu hành trong mười pháp giới không có tính vào. Các vị vạn nhất không nên hiểu lầm là phàm phu tu thành Phật mất ba A Tăng Kỳ kiếp, lời nói này đã giảng sai rồi, không phải phàm phu mà là Pháp Thân Đại Sĩ viên giáo sơ trụ Bồ Tát, phải chứng được Bồ Đề cứu cánh ngạn, sau đó cần phải trải qua ba đại A Tăng Kỳ kiếp mới thành Phật. Hiện tại Bồ Tát Pháp Tạng phát nguyện “tốc đáo”, ý nghĩa chính là không cần phải mất thời gian dài như vậy, mà rất nhanh liền có thể tu thành.

Năm xưa tôi đọc Hoa Nghiêm, giảng Hoa Nghiêm cho mọi người, cũng là có một ngày đột nhiên hiểu rõ việc này, đó là Văn Thù, Phổ Hiền vì sao cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc? Tôi bỗng nhiên có cái nghi vấn này. Chúng ta biết Văn Thù, Phổ Hiền là Bồ Tát Đẳng Giác trên hội Hoa Nghiêm. Bồ Tát Đẳng Giác trên hội Hoa Nghiêm không đơn giản, không phải người phàm, các Ngài vì sao phải vãng sanh thế giới Cực Lạc? “Tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn”, chính là vì sự việc này. Chúng ta có thể tưởng tượng ra được tu hành khó dễ, càng là nội dung dễ hiểu thì càng về sau càng khó. Bạn thấy một A Tăng Kỳ kiếp thứ nhất tu 30 ngôi thứ, A Tăng Kỳ kiếp thứ hai tu bảy ngôi thứ, A Tăng Kỳ kiếp thứ ba tu ba ngôi thứ, vậy ngôi thứ Bồ Tát Đẳng Giác cần phải trải qua bao nhiêu thời gian? Chúng ta cứ như vậy mà nghĩ, chí ít phải trải qua một A Tăng Kỳ kiếp. Thời gian này quá dài, cho nên những Bồ Tát Đẳng giác này, Bồ Tát thập địa sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc hoa nở thấy Phật, họ liền thành công, chân thật tốc đáo. Như vậy chúng ta mới hiểu rõ ý nghĩa của hai chữ này. Nếu như không thể tốc đáo, Văn Thù, Phổ Hiền quyết định không có lý do vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, là vì “tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn” nên mới sanh đến thế giới Cực Lạc. Không chỉ các Ngài vãng sanh mà các Ngài rất từ bi khuyên bảo trên hội Hoa Nghiêm, chánh thức tiếp nhận Bồ Tát địa thượng, nên gọi là “thập địa Bồ Tát thỉ chung bất ly niệm Phật”, tiếp nhận giáo huấn của Văn Thù, Phổ Hiền. Bồ Tát thập địa, thỉ là sơ địa, chung là thập nhất địa, chính là Đẳng giác, đó là thỉ. Đây là nói rõ cho chúng ta, Bồ Tát đăng địa trên hội Hoa Nghiêm không có vị nào không niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Vì sao vậy? “Tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn”. Không chỉ như vậy, ở trong hội chúng ta đích thực thấy được, họ đã khuyên bảo 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ chân thật là đồng sanh Cực Lạc quốc. Chúng ta không tỉ mỉ quán sát từ trên những kinh điển Đại thừa, thì vị đạo của hai chữ “tốc đáo” này chúng ta không thể hội được.

Phía trước là “siêu quá vô biên ác thú môn”, nhỏ thì siêu quá ba đường, lớn siêu vượt mười pháp giới, sau đó có “tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn”, vậy mới đến đại viên mãn. Đây là chúng ta phải ghi nhớ, chúng ta phải học tập, Pháp Tạng làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, chúng ta phải ghi nhớ lời giáo huấn này, biết được chính mình phải tu học như thế nào. Không đoạn phiền não thì quyết định không thể thành tựu, không đoạn phiền não quyết định không thể siêu việt ác thú môn, Bồ Đề ngạn thì không cần phải nói.Cho nên hy vọng các vị đồng tu ở trên kinh nghĩa nhất định phải lưu ý, tỉ mỉ mà tư duy, chúng ta mới chân thật có thể được thọ dụng.

Sáu câu này là cầu “tự lợi đức”. Bồ Tát Pháp Tạng đã làm ra một điển phạm cho chúng ta, làm thế nào cầu tự lợi? Sau khi tự lợi mới có thể lợi tha. Trong sáu câu, lấy trí tuệ làm đầu, lấy Tam Muội làm tổng kết. Cái ý này rất sâu rất rộng, chúng ta phải tỉ mỉ mà thể hội, áp dụng ngay trong đời sống của chính mình, đó chính là cả đời thọ dụng không thể cùng tận, không luận là có học Phật hay không thì chúng ta vẫn là bình lặng mà trải qua ngày tháng. Nếu như không có trí tuệ, nhà Phật gọi là dễ dàng tạo nghiệp. Thậm chí chính mình cũng không biết được rõ ràng cái gì gọi là tạo nghiệp. Tạo nghiệp đương nhiên phải chịu quả báo, cho nên mười pháp giới y chánh trang nghiêm từ do đâu mà có vậy? Chúng ta phải rõ ràng, phải tường tận, sau đó mới biết được những thứ nào là lợi ích chân thật, những thứ nào không phải là lợi ích chân thật.

Phật pháp đối với chân giả có một định nghĩa rất đơn giản. Nếu như ở ngay trong một đời chúng ta có được phước, có được lợi, nhưng đến đời sau thì không có được, Phật nói cái phước lợi này không phải chân thật. Hiện tại có thể có được, đời sau cũng có thể có được, đời đời kiếp kiếp về sau cũng đều có thể có được, Phật nói cái phước lợi này là chân thật. Trong kinh điển Phật cũng có nói với chúng ta, hiện tiền không có được phước lợi, đời sau có được phước lợi, đời sau nữa có được phước lợi, thì đó cũng là chân thật. Do đây có thể biết, chư Phật Bồ Tát nói với chúng ta có thể nói là lợi ích lâu dài chứ không phải là một lúc, không phải tạm thời. Lợi ích ngắn ngủi tạm thời, Phật Bồ Tát nói với chúng ta đều là giả. Thế nhưng lợi ích lâu dài nhất định là xây dựng trên nền tảng trí tuệ, mà lợi ích chân thật chính là một câu phía trước đã nói là “tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn”, đây là người chân thật tu hành.

Mỗi niệm mong cầu, mỗi niệm ước vọng, thế nhưng vì sao họ không thể có được? Thứ nhất là trí tuệ không đủ, thanh tịnh không viên mãn.Trên kinh A Di Đà, Phật nói với chúng ta, không thể thiếu phước đức nhân duyên mà có thể sanh nước kia. Nếu y theo cái tiêu chuẩn này thì là thiện căn, phước đức, nhân duyên không đủ. Nếu như thiện căn phước đức nhân duyên đủ thì “tốc đáo Bồ Đề cứu cánh ngạn” liền làm được. Duyên phận ngày nay của chúng ta, thực tế là hy hữu khó gặp. Duyên phận nay đã đủ, vấn đề là ở chúng ta có thiện căn, có phước đức hay không? Cái gì gọi là thiện căn? Trong sáu câu này, câu thứ nhất là thiện căn, hai câu phía sau là phước đức, chỉ cần chúng ta đầy đủ, thậm chí chúng ta kém khuyết một chút cũng không quan hệ, chỉ cần duyên thù thắng. Thật như đại sư Thiện Đạo đã nói là “chín phẩm vãng sanh luôn là ở duyên ngộ khác nhau”. Chúng ta có duyên thù thắng, dù phước đức thiện căn kém một chút nhưng có thể ở ngay trong một đời này, trong một thời gian ngắn ngủi bổ túc nó. Loại tình hình này, từ xưa đến nay, chúng ta ở trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, trong Vãng sanh truyện xem thấy rất nhiều thí dụ, cho nên có thể bổ túc. Vậy thì hai câu phía sau đó là thọ dụng chân thật.

Vô minh tham sân giai vĩnh vô”. “Giai vĩnh vô” rất là hiếm được, vĩnh viễn đoạn dứt. Do đây có thể biết, đây quyết không phải là người thông thường, đó là tán thán Phật. “Tham sân” là Kiến Tư Phiền Não, đây là thô nhất. Ngoài cái này ra, Phật nói với chúng ta, còn có Trần Sa Phiền Não, Vô Minh Phiền Não. Vô minh, tham, sân, ba loại phiền não thì rất không dễ dàng đoạn hết. Kiến tư phiền não phải có định lực mới có thể phủ phục. Trong kinh Kim Cang đã nói: “Vân hà hàng phục kỳ tâm”, phải có sức định. Định có thể hàng phục nhưng không thể đoạn, không thể vĩnh đoạn. Vĩnh đoạn phải dựa vào trí tuệ. Trí tuệ này tuyệt đối không phải là cái học của kiến văn. Chúng ta nghe kinh nhiều, đọc kinh nhiều, thảo luận nghiên cứu nhiều, có thể khai mở trí tuệ hay không? Cũng có thể được chút trí tuệ nhỏ, thế nhưng cái trí tuệ này không thể đoạn được phiền não, càng không thể phá được vô minh. Trí tuệ phá vô minh là trí tuệ Bát Nhã của tự tánh, trong tông môn thường nói là “minh tâm kiến tánh”. Trí tuệ của minh tâm kiến tánh mới có thể phá được vô minh. Chỗ này nói ra thì dễ dàng, khi làm thì rất khó. Làm thế nào hạ thủ? Hay nói cách khác, chúng ta phải học như thế nào? Bắt đầu học từ đâu?

Nhất định trước tiên phải đoạn phiền não thô. Thô nhất chính là kiến tư phiền não. Kiến tư phiền não, dùng lời hiện tại mà nói, kiến là kiến giải sai lầm, cũng chính là nói, bạn đối nhân xử thế tiếp vật có cách nhìn sai lầm, đó gọi là kiến phiền não; Tư là tư tưởng, cách nghĩ của bạn đối với vũ trụ nhân sanh. Cách nghĩ của bạn sai lầm, đó gọi là tư hoặc, tư tưởng sai lầm. Kiến giải sai lầm cơ bản nhất, cũng chính là nghiêm trọng nhất là đem cái thân này xem là chính mình, đó là trên kiến giải của bạn có sai lầm. Câu nói này rất khó hiểu, tất cả người trên thế giới này có người nào không xem cái thân này là chính mình? Thậm chí chúng ta nói, ngay đến Phật Bồ Tát cũng không ngoại lệ, khi vừa mở đầu quyển kinh là “như thị ngã văn”, chẳng phải cũng đem cái thân này xem thành ta hay sao? Trong đây liền có cưỡng cầu. Chúng sanh đem cái thân này chân thật cho là ta, đó là sai lầm. Chư Phật Bồ Tát là người giác ngộ, nên có thể tùy thuận tất cả chúng sanh. Bạn nói cái thân này là ta, tốt, tôi cũng tùy thuận bạn, cũng cho đây là ta, trao đổi ý kiến thì thuận tiện. Đây gọi là tùy thuận chúng sanh mà nói. Trong lòng chính họ có chấp trước hay không? Không có, đích thực không có chấp trước, đó là chỗ người giác ngộ không giống như người thông thường chúng ta. Bởi vì chúng ta chấp trước cái thân này là ta thì phiền phức to rồi, thế là khởi tâm động niệm phải lo chăm sóc cái thân này, phải chăm sóc cái ta. Các vị nghĩ xem, tất cả ý niệm tự tư tự lợi liền từ ngay chỗ này sanh ra. Không những phải lo chăm sóc cho ta, còn phải lo chăm sóc cái của ta. Cái của ta là gì vậy? Cái mà ta sở hữu, chí thân là quyến thuộc của ta, cha mẹ, chồng vợ, con cái, anh em đều là quyến thuộc của ta, tài sản của ta, địa vị của ta, cái ta sở hữu rất nhiều. Sở hữu của ta là thuộc về ta, ngày ngày ta vì những thứ này mà bận rộn, ngày ngày ta vì những việc này mà tạo nghiệp. Như vậy chúng ta mới hiểu, nhà Phật nói thiện ác, tiểu chuẩn của nó xây dựng trên nền tảng này.

Phật nói thiện ác, cái gì là ác? Vì ta chính là ác. Cái gì là thiện? Vì người chính là thiện. Chúng ta khởi tâm động niệm, tất cả đều có thể vì chúng sanh, vì người khác, Phật nói đó là thiện; khởi tâm động niệm đều vì ta, đó là ác; như vậy chúng ta mới có thể tham thấu được lời giáo huấn này của Thế Tôn. Bởi vì có ta thì đó là chấp trước, liền biến cảnh giới của sáu cõi luân hồi, cho nên sáu cõi mười pháp giới cũng không phải là thật. Trong Phật kinh đã nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Sáu cõi có tướng, mười pháp giới có tướng, những cái tướng này đều là hư vọng, đều không phải là chân thật. Những hiện tướng này do đâu mà có? Chính là từ chấp có ta mà biến hiện ra. Nếu như một ngày nào đó bạn muốn chứng được vô ngã, vậy thì chúc mừng bạn, vô ngã thì không còn sáu cõi. Thí dụ bạn đang ở trong mộng, lúc nào chứng được vô ngã thì bạn liền từ trong mộng tỉnh lại, khi vừa tỉnh lại thì cảnh mộng không còn. Chỉ cần bạn còn chấp trước có ta, có cái của ta, bạn vẫn cứ đang nằm mộng, bạn vẫn chưa tỉnh. Cho nên sáu cõi luân hồi là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra, không còn chấp trước thì sáu cõi không còn, thế nhưng bạn vẫn còn vọng tưởng, vẫn còn phân biệt. Đến lúc đó thì như thế nào vậy? Phật nói với chúng ta, đó là pháp giới bốn thánh trong mười pháp giới, cái cảnh giới này hiện tiền gọi là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Cảnh giới có khác biệt, đó là do bạn phân biệt, chấp trước có nặng nhẹ không giống nhau. Phân biệt nặng thì bạn là Thanh Văn, Duyên Giác, phân biệt nhẹ thì bạn là Bồ Tát, là Phật. Nếu như tất cả bạn đều không phân biệt thì bạn liền ra khỏi mười pháp giới. Ra khỏi mười pháp giới thì thành Phật, tuy là thành Phật nhưng không viên mãn, trong kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Thân Đại Sĩ, trong Thiền tông gọi là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, bạn thành Phật rồi. Do đây có thể biết, tại vì sao chúng ta không thấy được tánh? Chúng ta niệm Phật tại vì sao không thể được nhất tâm bất loạn? Chính là bởi vì có phân biệt, có chấp trước, bị hai thứ này chướng ngại.

Chấp trước là phiền não chướng, phân biệt là sở tri chướng, hai chướng này là chướng ngại, che mất đi tự tánh của chúng ta, khiến cho chúng ta không thể kiến tánh, không thể được lý nhất tâm bất loạn, nguyên nhân chính ngay chỗ này. Khi nào chúng ta lìa khỏi phân biệt chấp trước thì mới có thể giải quyết được việc này. Sau khi buông bỏ hai loại chướng ngại này thì minh tâm kiến tánh, ở trong niệm Phật chúng ta gọi là bạn được lý nhất tâm bất loạn. Địa vị này chính là địa vị sơ địa mà trên kinh Hoa Nghiêm nói. Kinh Hoa Nghiêm là viên giáo. Phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân là thành Phật rồi. Vừa rồi nói tuy thành Phật nhưng không viên mãn, không cứu cánh, vì sao vậy? Còn có vọng tưởng. Vọng tưởng chính là chỗ này nói vô minh, vô minh là vọng tưởng. Vô minh chính là vẫn chưa làm cho rõ ràng, chưa làm cho rõ ràng cho nên mới khởi vọng tưởng. Thảy đều rõ ràng rồi, đương nhiên bạn liền sẽ không còn vọng tưởng. Vô minh này là nói cái gì? Nói căn nguyên của vũ trụ tự tánh chưa làm được rõ ràng, thế xuất thế gian tất cả pháp thì họ tường tận hơn chúng ta quá nhiều, chúng ta làm gì có thể so sánh được với người ta, nhưng đối với tự tánh thì họ chưa làm được rõ ràng. Thể, tướng, tác dụng của tự tánh, họ cũng có thể chứng được một ít, thế nhưng không viên mãn. Tỷ dụ của người xưa so sánh được rất hay, họ đem ánh trăng của ban đêm làm tỷ dụ. Ánh trăng của mùng ba, mùng bốn giống như một cái lưỡi liềm nhưng nó cũng có ánh sáng, đó là ánh trăng thật, không phải là giả. Tuy là thật nhưng không tròn đầy, nếu so với ánh trăng ngày rằm thì kém rất xa. Cho nên Bồ Tát viên giáo sơ trụ, nhị trụ, tam trụ giống như trăng lưỡi liềm vậy, trăng thật chính là Phật thật, cho nên kiến tánh thành Phật, họ là Phật thật, họ không phải là giả. Phật thật mà chưa viên mãn, vô minh của họ phải từ từ mà phá. Vô minh cũng có dày mỏng khác nhau, trên kinh Hoa Nghiêm nói 41 phẩm, phá một phẩm chính là viên giáo sơ trụ Bồ Tát, như vậy vẫn còn 40 phẩm chưa phá, vẫn phải từ từ mà tu, phá từng phẩm từng phẩm. Bốn mươi mốt phẩm vô minh thảy đều phá hết thì mới gọi là “vô minh tham sân giai vĩnh vô”. Phá hết rồi thì đó là quả vị gì vậy? Quả Phật của Viên Giáo, quả Phật cứu cánh viên mãn.

Phật quả là gì vậy? Phật quả là chính chúng ta, trong Thiền tông gọi là “mặt mũi trước khi cha mẹ sanh ra”, cũng chính là Thế Tôn đã nói ở trong Hoa Nghiêm, Viên Giác là “tất cả chúng sanh vốn sẳn là Phật”. Hay nói cách khác, bạn thành Phật không gì khác hơn là hồi phục mặt mũi sẳn có mà thôi. Trong đại kinh thường nói: “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc”. Bạn thành Phật, bạn không nên cho là bạn có được chứng đắc gì, cái bạn có được hoàn toàn là trong tự tánh vốn sẳn có đủ, tuyệt đối không thể nói ở ngoài tự tánh còn có thứ gì có thể chứng được. Cái bạn có được đều là bản năng của tự tánh, vốn sẳn trong tự tánh. Vậy thì do đây có thể biết, giáo học của Phật pháp không gì khác hơn là giúp bạn hồi phục đức năng của tự tánh mà thôi. Đây là chỗ chúng ta cần phải nên biết, phải tường tận.

Câu phía sau này: “hoặc tận”, kỳ thật hai chữ này chính là phía trước một câu nói vô minh. “Quá vong”, quá là lỗi lầm, đời sống hành vi của bạn về sau, đối với người, đối với vật, đối với việc mãi mãi sẽ không phạm phải sai lầm. “Vong” chính là không có, không còn lỗi lầm, chỗ này chẳng phải phía trước đã nói là “vô minh tham sân giai vĩnh vô” sao? Làm thế nào vĩnh vô? Làm thế nào đoạn? Một câu sau cùng là nói với chúng ta phương pháp để đoạn. Dựa vào phương pháp gì? “Tam muội lực”. “Tam muội” là dịch âm từ tiếng Phạn Ấn Độ, ý nghĩa của nó chính là thiền định. Trong Phật pháp phiên dịch rất nhiều, thường thấy nhất gọi là chánh thọ. Chánh là bình thường, thọ là hưởng thọ, tam muội là hưởng thọ bình thường. Hưởng thọ bình thường chính là thiền định. Do đó tu học của Phật pháp là lấy thiền định làm chỗ quy kết, chỗ này chúng ta không thể không nhận biết. Nhà Phật nói là tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn. Pháp là phương pháp, môn là lối đi, phương pháp lối đi vô lượng vô biên nhưng tóm lại thì đều là tu thiền định. Chỗ này chúng ta không thể không biết.

Tam muội vì sao không gọi là thiền định? Ý nghĩa của Tam muội so với thiền định còn viên mãn hơn. Nếu như nói thiền định, thì tứ thiền bát định của thế gian cũng là thiền định. Tứ thiền bát định của thế gian có phải là Tam muội hay không? Không phải, thiền định của Tam muội siêu vượt tứ thiền bát định, nó cũng là thiền định, chúng ta có thể nói Tam muội so với tứ thiền bát định thì cao hơn, sâu hơn nhiều. Bởi vì tứ thiền bát định vẫn chưa rời khỏi sáu cõi luân hồi, mà thọ dụng trong sáu cõi luân hồi không thể xem là thọ dụng bình thường.

Ở trên kinh Phật nói, thọ dụng của chúng sanh sáu cõi có thể quy nạp làm năm loại lớn, luôn không rời khỏi năm loại này. Thân có khổ vui, vô số hưởng thụ của thân bạn không ngoài hai loại lớn là lạc thọ, khổ thọ. Trong tâm lý không ngoài mừng lo, thọ dụng của hai loại lớn này. Lo là lo lắng, ưu sầu, mừng là vui mừng. Đó là nói phàm phu sáu cõi, cái mà bạn hưởng thụ không ngoài phạm vi này. Thế nhưng ở ngay trong Tứ thiền bát định, vào lúc này rất thoải mái, tại vì sao vậy? Thân không có khổ vui, tâm cũng không có lo mừng, cái thọ này rất tốt, chính là khổ vui mừng lo đều buông bỏ, Phật nói đó gọi là xả thọ. Xả thọ là rất tốt, thế nhưng không dài lâu, không phải vĩnh hằng, nó được một thời gian, tùy theo công phu thiền định của bạn sâu cạn mà thời gian xả thọ của bạn dài ngắn không như nhau, không thể gọi là Tam muội. Cho nên Tam muội, mức độ thấp nhất là A La Hán chứng được, trên kinh Lăng Nghiêm gọi là “Cửu Thứ đệ định”, định lực của họ có chín tầng. Bởi vì định thứ tám là ở thế gian, thiền định thế gian cao nhất là đến Bát định, Cửu định là siêu việt thế gian, siêu việt ba cõi, siêu việt sáu cõi luân hồi, loại thiền định này mới có thể xem là Tam muội. Vậy thì do đây có thể biết, đó là Thiền định rất sâu. Nếu bạn muốn đoạn kiến tư phiền não thì bạn nhất định phải dựa vào tam muội, phải nương thiền định.

Trong bài kệ này, tóm lại mà nói, Phật dạy chúng ta phương pháp tu học, dạy bảo chúng ta phương pháp sinh hoạt, chúng ta rất hy vọng trải qua đời sống của Phật Bồ Tát. Đời sống của Phật Bồ Tát chính là trí tuệ cùng Tam muội. Do đó, giáo học của Phật pháp, Phật dạy người cái gì? Phật chính là dạy người khai mở trí tuệ, cho nên Phật pháp là phương pháp của trí tuệ, Phật học là học vấn của trí tuệ, việc này không thể không rõ ràng. Phật pháp không cầu gì khác, chỉ cầu trí tuệ. Trí tuệ từ do đâu mà có? Trí tuệ nhất định từ trong định mà có được, cái điểm này chúng ta phải nên biết. Không có sức định thì loại trí tuệ này, người thế gian chúng ta gọi là trí tuệ, còn ở trong Phật pháp gọi là “thế trí biện thông”. Phật nói là trí tuệ của người thế gian, biện tài thông minh không phải là trí tuệ chân thật. Trí tuệ chân thật nhất định từ ngay trong thiền định sâu thẳm mà khai ngộ. Hay nói cách khác, trí tuệ này không phải từ bên ngoài cầu được, mà phải từ trong nội tâm tự nhiên hiển lộ ra. Việc này chúng ta vừa nghe thì lại không hiểu, vì sao không học thì trí tuệ sẽ hiện tiền? Trên kinh Phật thường hay đem tâm của chúng ta thí dụ là nước, vậy thì mọi người dễ hiểu. Chúng ta xem thấy nước, nước thì có sóng, nước là động, thì nước không có tác dụng chiếu sáng, tướng cảnh giới bên ngoài nó chiếu không rõ ràng. Nếu như nước bình lặng, mặt nước giống như tấm kính vậy, thì cảnh quan bên ngoài ở trên mặt nước chiếu được rõ ràng tường tận. Chiếu kiến thì thí dụ cho trí tuệ, thanh tịnh không có sóng chính là thiền định, cho nên các vị phải nên biết, định có thể khai huệ, đó là trí tuệ chân thật. Nước này rất tĩnh lặng, rất sạch sẽ, rất bình lặng giống như một mặt gương vậy. Hiện tại trong lòng chúng ta không có trí tuệ, vì sao không có trí tuệ? Tâm là động, cũng giống như nước khởi lên sóng vậy, thì bạn làm gì có thể chiếu kiến? Cho nên bạn học được càng nhiều, nghe được càng nhiều, thấy nghe rộng hơn, bạn dường như cũng rất có trí tuệ nhưng không phải là trí tuệ chân thật. Vì sao vậy? Không phải là trí tuệ của nước lặng chiếu thấy, bạn chẳng qua là nghe người ta nói, người nói vạn lời, hoặc giả là chính mình khởi vọng tưởng. Vọng tưởng cũng là trồi sụt không định, bạn là từ vọng tưởng mà ra, bạn là từ bên ngoài đến, không phải từ ngay trong tự tánh ra, đó không phải là trí tuệ chân thật.

Đệ tử Phật, cũng chính là đồng tu học Phật chúng ta, chúng ta thường hay ưa thích ở ngay trong nhà thiết lập một bàn thờ Phật, cúng một tôn tượng Phật là biểu thị kính ý của mình đối với lão sư (Phật là lão sư của chúng ta), niệm niệm không quên giáo huấn của lão sư. Cúng tượng Phật là cái ý nghĩa này. Đã có tượng Phật, chúng ta đương nhiên cũng phải cúng dường. Trong cúng dường, chủ yếu nhất chính là cúng dường một ly nước, chúng ta cúng dường một ly nước ở trước mặt Phật, không thắp hương không hề gì, không cúng hoa cũng không hề gì, quan trọng nhất là phải cúng một ly nước. Nước biểu thị cái gì? Bảo bạn xem thấy nước, tâm của bạn phải thanh tịnh giống như nước vậy, bình lặng như vậy, trí tuệ liền hiện tiền. Cúng nước dụng ý ngay chỗ này, không phải cúng để cho Phật uống, Phật không uống nước này, mà là để cho chúng ta xem, thường hay nhắc nhở chính mình, chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày, đối người, với việc, với vật, dụng tâm phải giống như nước vậy. “Tam muội lực”, hy vọng mọi người chúng ta đều hiểu cái ý này. Bạn học Phật thì không nên mê tín, Phật pháp chân thật là không có mê tín, Phật pháp là dạy người giác ngộ, dạy người thành tựu trí tuệ chân thật. Tất cả đồ cúng đều có ý nghĩa biểu thị đặc biệt của nó, bạn nhất định phải hiểu.

Rất nhiều đồng tu ưa thích cúng thức ăn, cúng cơm, “tam đức lục vị”. Cúng cơm, cúng thức ăn biểu thị ý nghĩa gì? Bạn tưởng tượng xem, cơm thức ăn khởi lên tác dụng gì? Làm cho thân thể này chúng ta có thể sống thêm được vài năm, bạn không ăn cơm thì chết rồi, cho nên ăn cơm là cúng dường cái thân thể này, để thân thể này thường trụ ở thế gian này. Sau đó bạn liền biết được, cúng chính là cái ý này, để chúng ta nghĩ đến cơm thức ăn, mục đích là cái gì? Chánh pháp thường trụ ở thế gian. Thí như chánh pháp cũng được thức ăn, cũng có được nuôi dưỡng thì có thể thường trụ thế gian. Cho nên đó là một nguyện vọng, hy vọng Phật Bồ Tát, hy vọng thiện tri thức, hy vọng Phật pháp có thể thường trụ thế gian, biểu thị chút ý nghĩa này của chính mình. Bao gồm tất cả đồ cúng đều có ý nghĩa đặc biệt của nó trong đó, việc này chúng ta nhất định phải nên hiểu.

Do đây có thể biết, trí tuệ cùng Tam muội là quan trọng. Hiểu rõ thì mới biết được chúng ta chính mình phải nên làm thế nào tu học, làm thế nào trải qua ngày tháng mới có thể được lợi ích chân thật.

Kinh văn:

Diệc như quá khứ vô lượng Phật

Vi bỉ quần sanh đại đạo sư

Năng cứu nhất thiết chư thế gian

Sanh lão bệnh tử chúng khổ não”.

Bài kệ này là cầu “giác tha đức” của Phật. Sau khi tự lợi được rồi, nhất định phải lợi tha, cho nên chúng ta trên tựa đề nói “như Phật cứu khổ”. Pháp Tạng có cái nguyện này. Chúng ta học Phật thì phải học tập Pháp Tạng, học tập Pháp Tạng cầu tự lợi đức, học tập Pháp Tạng cầu lợi ích chúng sanh. Đức chính là đức năng.

Câu thứ nhất nói: “Diệc như quá khứ vô lượng Phật”. “Quá khứ” thời gian dài, quá khứ vô lượng kiếp, ngay trong vô lượng kiếp đương nhiên có vô lượng chư Phật Như Lai. Những vị Phật này xuất hiện ở thế gian đều vì “quần sanh đại đạo sư”. Những xưng hô này trong nhà Phật chúng ta đều phải biết, đó là thuộc về thường thức Phật học.

“Đại đạo sư” là xưng hô đối với Phật. Ngài có thể chỉ đạo chúng ta, Ngài có thể lãnh đạo chúng ta siêu việt sanh tử luân hồi, siêu việt mười pháp giới, thành Phật làm tổ, người như vậy mới có thể gọi là đại đạo sư. Chỉ có Phật mới có thể gánh vác nổi. Đại đạo sư đơn giản gọi là Đại sư. Người Trung Quốc chúng ta ưa thích đơn giản, nhiều hơn một chữ cũng không bằng lòng, cho nên bình thường ở Trung Quốc gọi là Đại sư. Đại sư là xưng hô với Phật, nếu như có người gọi người nào đó là Đại sư thì thật là quá đáng, họ không phải Phật, không phải Đại sư, nhất định muốn gọi họ là Đại sư thì quá đáng rồi, đó thật là không thích hợp. Bạn xem thấy Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát thì còn được. Ở Trung Quốc chúng ta Ngài là người nổi tiếng nhất, gọi là “nhà nhà Quan Thế Âm”, có ai mà không biết Bồ Tát Quan Thế Âm đâu? Bồ Tát Quan Thế Âm không xưng là Đại sư, chúng ta gọi là Quan Âm Đại sĩ. Đại sĩ là tôn xưng đối với Bồ Tát. Chúng ta đem lời này nói cho rõ ràng, giảng cho tường tận, để các vị đồng tu có được thường thức này. Về sau các vị xem thấy người xuất gia, các vị muốn viết thư gởi cho tôi, viết một tấm thiệp gởi cho tôi, ghi Tịnh Không Đại sư là sai rồi. Vừa xem thấy cách xưng hô này của bạn liền biết được bạn chưa học Phật, bạn là người bên ngoài, bạn không phải là người chuyên học Phật. Bạn chân thật cung duy tán thán, đem tôi xem thành Bồ Tát, Tịnh Không Đại sĩ, vậy thì còn miễn cưỡng, làm sao có thể gọi là Đại sư? Không thể được, việc này phải nên hiểu. Nhà Phật từ xưa đến nay, tổ sư đại đức không xưng là Đại sư, thông thường xưng là Pháp sư. Nếu như là các tông phái, trong thiền tông thông thường gọi là Thiền sư, đó là học thiền; Học giới luật chúng ta gọi là Luật sư; Nghiên cứu luận điển, nghiên cứu dài lâu những bộ luận điển như Du Già Sư Địa Luận, Đại Trí Độ Luận thì chúng ta gọi là Luận sư; Nghiên cứu kinh giáo thông thường gọi là Pháp sư. Vào thời trước, lão sư của đế vương gọi là Quốc sư, không hề nghe nói qua gọi là Đại sư, bạn không thể tìm thấy. Người phiên dịch kinh điển gọi là Tam Tạng Pháp sư. Tam Tạng Pháp sư ở trong Phật pháp chúng ta gọi là thông gia, ba loại Kinh-Luật-Luận họ đều thông đạt, họ đều tường tận, có tư cách dịch kinh, phiên dịch kinh điển, gọi là Tam Tạng Pháp sư. Bởi vì hiện tại chúng ta xem thấy Đại sư quá nhiều, cũng làm cho người ta hồ đồ. Một thế giới chỉ có một vị Phật, chỉ có một Đại sư, ở đâu mà có nhiều Đại sư đến như vậy? Cũng như một trường học chỉ có một hiệu trưởng, làm gì có nhiều hiệu trưởng, không có đạo lý này. Cho nên thông thường xưng hô này chúng ta phải ghi nhớ, sư chính là sư phạm, ngôn hạnh của họ có thể làm điển phạm, mô phạm cho tất cả người tu hành thế gian, đó mới gọi là Đại Đạo Sư. Phật là đạo sư của chúng sanh chín pháp giới, vậy mới gọi là Đại sư. Không chỉ là nhân gian thiên thượng, mà A La Hán, Bồ Tát, đến Đẳng Giác Bồ Tát đều phải học tập với Phật, cho nên Phật gọi là Đại sư.

Ngoài chỗ này ra, có một số thường thức phổ thông cũng không thể không biết, thí dụ mọi người quen thấy người xuất gia thì gọi là Hòa Thượng. Hòa Thượng không thể tùy tiện gọi, vì sao vậy? Quá tôn kính. Thế nhưng hiện tại có rất nhiều người không hiểu rõ ý nghĩa của hai chữ Hòa Thượng này, thực tế mà nói là một loại trào phúng xem thường. Hòa Thượng dường như không có người nào dám xem thường, họ không hiểu được ý nghĩa của hai chữ Hòa Thượng này. Người tu hành xem thấy người xuất gia không thể tùy tiện gọi là Hòa Thượng, có thể gọi họ là Pháp sư, không thể gọi họ là Hòa Thượng.

Hòa Thượng là dịch âm từ tiếng phạn, là từ trong tiếng Ấn Độ xưa phiên dịch ra, ý nghĩa là thân giáo sư. Khi dịch kinh không dịch ra ý của nó, chỉ dịch âm, cái danh xưng này là thuộc về tôn trọng không dịch. Chúng ta tôn kính đối với danh xưng này, dùng nguyên cái nguyên âm để gọi, đây thuộc về tôn trọng mà không dịch, thực tế mà nói có thể dịch là thân giáo sư. Như ở một trường học, người đích thân chế định chánh sách giáo học thì mới được gọi là thân giáo sư, là ai vậy? Hiệu trưởng. Các vị phải nên biết, một đạo tràng chính là một trường học, một trường học chỉ có một thân giáo sư, chỉ có một hiệu trưởng, cho nên một đạo tràng chỉ có một người được gọi là Hòa thượng, hiện tại chúng ta gọi là trụ trì, gọi là phương trượng, người đó mới được gọi là Hòa thượng, những người xuất gia khác không thể gọi là Hòa thượng, không thể có nhiều Hòa thượng đến như vậy, không nên có cách gọi như vậy, vậy thì bạn hoàn toàn sai rồi. Nên gọi là Pháp sư. Pháp sư là gì? Là giáo viên trong trường học. Hòa thượng là hiệu trưởng trong trường học. Hiệu trưởng chỉ có một, giáo viên thì rất nhiều, cho nên gọi giáo sư, gọi A Xà Lê.

A Xà Lê là dịch âm từ tiếng Phạn, dịch thành ý Trung văn là ngôn hạnh của họ có thể làm gương mẫu cho học sinh chúng ta, gọi là quỹ phạm sư. Quỹ là quỹ đạo, phạm là mô phạm, gọi là quỹ phạm sư, không phải là thân giáo sư, nhờ vào thân giáo sư, hiệp trợ thân giáo sư dạy bảo học sinh sơ học. Như các tự viện thời xưa, tương lai những xưng hô này trong tự viện nhất định phải đổi thành hiện đại hóa, nếu không thì mọi người sẽ không hiểu. Trong tự viện, có lẽ các vị có nghe nói Hòa Thượng thủ tọa, lại thêm vào thủ tọa. Thủ tọa làm công tác gì? Họ là thuộc về A Xà Lê. Thủ tọa, Duy na, Giám viện đều là thuộc về A Xà Lê, không thể gọi là Hòa Thượng. Thủ tọa quản giáo học, chính là người phụ trách việc dạy học. Như trong trường học hiện tại, giáo vụ trưởng trong trường đại học, chủ nhiệm giáo vụ trong trung học phụ trách giáo học, duy na phụ trách huấn đạo, giám viện quản tổng vụ. Bạn thấy trong tòng lâm tự viện gọi là cương lĩnh chấp sự, phân ra ba bộ phận lớn là giáo bộ, huấn đạo, tổng vụ. Ba bộ phận lớn này cùng với tổ chức hành chánh trong trường học hiện tại hoàn toàn như nhau. Phật pháp là giáo dục, không phải tôn giáo, bạn từ trong những xưng hô này, từ trong những tính chất của công việc, bạn hoàn toàn tường tận. Chúng ta đối với những xưng hô thường thức này nhất định phải biết, nếu không thì bạn vừa mở miệng người trong đạo liền biết bạn chưa có học qua, bạn không hiểu.

Còn có một xưng hô phổ thông, chỗ này cũng giảng kèm theo một chút, đó là chữ “chúng”. Chữ “chúng” này ở trong Phật pháp là đại biểu đoàn thể, không phải chỉ một người. Bạn xem chúng ta đọc Tam quy y: “Quy y tăng, chúng trung tôn”. Tăng là tăng đoàn, tăng không phải một người, mà là một đoàn thể, đoàn thể của nhà Phật. Không luận là xuất gia, hoặc giả là tại gia cư sĩ, bạn hợp thành một đoàn thể, đoàn thể gọi là tăng. Như Cư Sĩ Lâm là một đoàn thể, Cư Sĩ Lâm chính là một tăng đoàn, cái tăng đoàn này do cư sĩ tại gia tổ hợp nên. Tăng đoàn không phân biệt là tại gia hay xuất gia, chỉ cần tuân thủ “sáu phép hoà”, nương vào sáu phép hòa tu hành thì đó gọi là tăng đoàn. Như đoàn thể này là một tăng đoàn, do đó một người cũng gọi là tăng. Nếu chiếu theo ý nghĩa của nó mà nói, thì tại gia, xuất gia đều gọi là tăng. Thế nhưng theo thói quen hiện tại của Trung Quốc, cư sĩ tại gia không gọi là tăng, người xuất gia gọi là tăng, bạn phải hiểu rõ cái ý nghĩa này. Đã là một tăng đoàn, cho dù là tại gia hay xuất gia, nếu như bạn muốn thỉnh giáo với người, bạn muốn hỏi đạo tràng Cư Sĩ Lâm của các vị ở bao nhiêu người, người ta vừa nghe thì biết bạn là người ngoài, bạn chưa có học Phật. Người đã học Phật, nếu như họ thỉnh giáo với người, họ sẽ không hỏi bạn ở nơi đây ở có bao nhiêu người, mà họ hỏi là ở nơi đây có bao nhiêu “chúng”. Không thể nói bạn ở bao nhiêu người, tại vì sao vậy? Nói ở bao nhiêu người, bạn có ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, đó là trên kinh Kim Cang nói, hoặc giả là ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, bạn đã dính tướng. Nếu nói chúng thì phá mất đi cái tướng này rồi. Chúng là cái ý gì? Đạo tràng này của bạn ở có bao nhiêu thứ “chúng duyên hòa hợp”, chính là cái ý này, là chúng duyên hòa hợp. Bạn xem, ở ngay trong lời nói cũng làm cho bạn khai ngộ. Không nên chấp trước, đây là thứ do chúng duyên hòa hợp, cho nên những thuật ngữ này trong nhà Phật chân thật đều là mỗi giờ mỗi phút đang nhắc nhở chúng ta, dạy chúng ta không nên chấp trước. Đó là nói đến chỗ này, nói thêm với các vị một vài cách xưng hô thường nghe.

Phía sau Đại đạo sư hướng dẫn là gì? “Năng cứu nhất thiết chư thế gian”, đây là chân năng. “Chư thế gian”, phía trước lại thêm “nhất thiết”. Nhất thiết chẳng phải là “chư”, chư chẳng phải là nhất thiết hay sao? Vì sao phải lập lại? Cách nói này thế nào vậy? Trước tiên chúng ta nói “thế gian” là ý nghĩa gì? Thế là chỉ thời gian, quá khứ, hiện tại, vị lai. Bạn xem, chữ của Trung Quốc, chữ “thế” này là tam thập, ba cái mười. Trung Quốc thời xưa ba mươi năm gọi là một đời, quá khứ, hiện tại, vị lai. “Gian” là không gian. Cho nên, thế gian cũng gọi là thế giới, giới cũng là nói không gian. Hợp hai chữ thế gian này lại chính là hiện tại chúng ta gọi là không gian cùng thời gian, trong thời không đều bao gồm tất cả ở trong đó. Đây là ý nghĩa của hai chữ thế gian. Trong Phật pháp gọi là “chư thế gian” là nói ba loại thế gian. Một cái là hữu tình thế gian, một cái là khí thế gian. Trong giới học thuật chúng ta hiện tại phân loại là động vật, thực vật, khoáng vật. Động vật thì tương đương “hữu tình thế gian” mà trong Phật pháp nói, động vật có cảm tình, đó là một loại lớn. Thực vật cùng khoáng vật ở trong Phật pháp gọi là “khí thế gian”, cũng chính là vật chất mà chúng ta thường gọi. Trong đây thì không có tinh thần, chỉ có vật chất. Động vật là hiện tượng tinh thần cùng vật chất hoà hợp lại mà sanh ra. Còn có một loại gọi là chánh giác thế gian, đây là trong pháp thế gian chúng ta không có. Chánh giác thế gian chỉ cái gì? Chỉ chư Phật Bồ Tát, A La Hán, hay nói cách khác là ngoài sáu cõi ra, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật gọi là chánh giác thế gian. Các Ngài là bậc giác ngộ, hữu tình cùng khí thế gian đang mê, đó chỉ là mê ngộ khác nhau. Giác ngộ thì gọi là chánh giác thế gian, đó gọi là chư thế gian.

“Nhất thiết”, hai chữ này giảng thế nào? Thế giới vô lượng vô biên, mỗi một thế giới đều có ba loại thế gian này, có một vị Phật ở nơi đó giáo hoá thì vị Phật này là Đại đạo sư. Thế gian vô lượng vô biên, chư Phật cũng vô lượng vô biên, cho nên phía trước nói “quá khứ vô lượng Phật”. “Nhất thiết” chính là vô lượng. Vô lượng vô biên ba loại thế gian, Phật có năng lực cứu. Trong thế gian này có sanh-lão-bệnh-tử chúng khổ não. Hiện tượng rõ ràng nhất của câu này là chúng sanh sáu cõi. Chúng sanh sáu cõi, sanh-lão-bệnh-tử chúng khổ não thảy đều nay đủ. Cái khổ não này trên kinh Phật nói ba khổ tám khổ. sanh-lão-bệnh-tử ai có thể tránh khỏi? Ai có thể cứu giúp? Phật có thể cứu, Phật có năng lực dạy chúng ta không sanh, không già, không bệnh, không chết. Thế nhưng hiện tại chúng ta đã sanh rồi, Phật có cách nào giúp cho chúng ta không già, không bệnh, không chết hay không? Có, thật có biện pháp, tại vì sao chúng ta không đạt được? Bởi vì chúng ta không tin đối với Phật pháp, vậy thì không còn cách nào. Nếu bạn chân thật tin tưởng, chân thật hiểu rõ ý nghĩa của Phật đã nói, y theo lời dạy của Ngài mà làm, thì bạn liền có thể tránh khỏi. Đây là nói lời chân thật với bạn, không phải nói lời giả dối với bạn.

Phật dùng phương pháp gì để giúp chúng ta? Phật đem căn gốc của sanh-lão-bệnh-tử chúng khổ não nói ra cho chúng ta nghe, giáo huấn của Phật chính là dạy những việc này. Tại vì sao bạn có sanh? Tại vì sao bạn có thể sanh vào thời đại này? Chúng ta không biết. Chúng ta không biết được sanh ra từ nơi đâu, chết đi về đâu. Thực tế mà nói, người thông thường mơ mơ hồ hồ cả một đời, thật đúng như ngạn ngữ thường nói “say sống, mộng chết”, đại đa số người đều có hiện tượng này. Khi sống giống như người say rượu vậy, khùng khùng điên điên, không bình thường, khi chết thì mơ mơ hồ hồ, trải qua hết một đời này. Bạn nói xem, đáng thương cỡ nào! Có mấy người có thể biết được sanh ra là từ nơi đâu đến, bạn tại vì sao phải sanh, chết đi về đâu, đi làm cái gì? Đây là vấn đề lớn, đó là đại sư nhân duyên. Phật xuất hiện ở thế gian này, xin nói với các vị, chính là vì sự việc này mà đến. Trên kinh Pháp Hoa nói rất hay: “Vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian”. Đại sự là sanh tử đại sự. Tôi ngay trong lúc giảng giải thường hay nhắc nhở các đồng tu, tôi nói sanh tử không phải là việc lớn, mà tử sanh mới là việc lớn. Chúng ta sau khi chết rồi đi đến nơi đâu để thọ sanh? Sự việc này là lớn.

Trong kinh luận Phật nói với chúng ta, con người sau khi chết lại đi đầu thai thì có mười pháp giới. Thực tế mà nói, pháp giới là vô lượng vô biên, Phật đem nó phân làm mười loại lớn, bạn đi đến loại nào? Mười loại này chúng ta từ thấp mà nhìn lên trên, nơi thấp nhất là địa ngục, bạn có khả năng đến địa ngục hay không? Kế đến là ngạ quỷ, bạn có thể biến thành ngạ quỷ hay không? Đại đa số con người sau khi chết đều biến thành quỷ, vì sao vậy? Vì họ nghĩ người chết rồi liền làm quỷ, họ không nghĩ gì khác, họ muốn làm quỷ, cho nên họ chết rồi đương nhiên làm quỷ. Phật pháp nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Trước khi chưa chết họ đã muốn đi làm quỷ thì họ làm sao mà không làm quỷ? Cho nên tuyệt đại số người họ đi làm quỷ. Còn có người đi làm súc sanh. Đây gọi là ba đường ác. Tạo tác một số tội nghiệp, cảm thọ quả báo của ác đạo. Ngoài ra còn có ba đường thiện là cõi người, cõi A Tu La, cõi trời. Lại hướng lên trên mà đi, thì là cõi Thanh Văn, cõi Duyên Giác, cõi Bồ Tát, cõi Phật. Đây là Phật trên tổng thể nói ra mười cõi mà sau khi chúng ta chết sẽ đi đến. Mười cõi này bạn đi đến cõi nào? Đó mới là việc lớn. Muốn đi đến một cõi nào phải đầy đủ điều kiện của cõi đó, thì bạn mới có thể sanh đến được cõi đó. Điều kiện rất nhiều, rất phức tạp, lúc Phật giảng kinh nói pháp chỉ nêu ra cương lĩnh, tức là trong tất cả điều kiện, điều kiện nào là quan trọng nhất thì nêu ra cho chúng ta. Nếu như chúng ta nắm lấy điều kiện quan trọng nhất thì các điều kiện khác dễ làm, dễ dàng đầy đủ.

Phật nói với chúng ta, nếu như bạn muốn sanh đến cõi Phật, điều kiện quan trọng nhất của cõi Phật là gì? Tâm bình đẳng. Tâm Phật bình đẳng, hay nói cách khác, tâm của bạn không bình đẳng thì bạn không thể nào sanh đến cõi Phật. Tâm của Phật đối với tất cả chúng sanh đều là bình đẳng, đối với tất cả vạn vật là bình đẳng. Không chỉ đối với tất cả chúng sanh hữu tình, mà cả chúng sanh vô tình, tất cả vạn vật, tâm Phật đều bình đẳng. Chỗ này khó. Tâm phàm phu chúng ta rất không bình đẳng. Xin nói với các vị, tâm bình đẳng chính là tâm thanh tịnh. Chúng ta đưa ra cương lĩnh tu học rườm rà hơn Phật đã nói. Chúng ta đã nói năm loại là tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi. Nếu như các vị đem năm loại này tu thành công, sau khi lâm chung nhất định vãng sanh, bạn đi làm Phật, đó là điều kiện của cõi Phật. Bộ kinh này chính là nói cho chúng ta nghe điều kiện để làm Phật, cho nên chúng ta chọn lựa bộ kinh này chính là chọn lựa sau khi ta chết phải đi cõi Phật, đời sau ta phải làm Phật, bởi vì trên đề kinh này rất là rõ ràng dạy chúng ta thanh tịnh, bình đẳng, giác, chúng ta đầy đủ điều kiện thanh tịnh bình đẳng giác thì làm vô lượng thọ Phật. Đây là chọn lựa thù thắng nhất, chọn lựa cao minh nhất, chọn lựa chính xác nhất, chọn lựa làm Phật.

Kém hơn Phật một bậc là Bồ Tát. Điều kiện của Bồ Tát là tu lục độ. Câu kệ phía sau này: “Thường hành bố thí cập giới nhẫn, tinh tấn định huệ lục ba la”,đây là Bồ Tát đạo. Điều kiện mà Bồ Tát cần phải chuẩn bị là sáu điều kiện này. Chúng ta ở câu kệ tiếp theo sau sẽ nói tường tận với các vị. Nếu bạn thảy đều làm được, thảy đều đầy đủ thì đời sau bạn làm Bồ Tát. Ngoài ra còn một bậc là Duyên Giác. Duyên Giác trong nhà Phật gọi là Bích Chi Phật. Bích Chi Phật, ba chữ này đều là dịch âm từ tiếng Phạn. Bích Chi dịch là Duyên, duyên của nhân duyên; Phật dịch là Giác, cho nên Duyên Giác là dịch ý của Trung văn, Bích Chi Phật là dịch âm của tiếng Phạn. Duyên Giác tu mười hai nhân duyên. Chúng ta tu mười hai nhân duyên, đầy đủ điều kiện này thì chúng ta liền đầu sanh làm Bích Chi Phật. Nếu như bạn tu học Tứ Đế, tức là khổ, tập, diệt, đạo, bạn liền thành A La Hán, gọi là Thanh Văn đạo. Nếu như bạn tu thập thiện nghiệp đạo, tứ vô lượng tâm (tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỉ, xả, tâm lượng rất lớn, từ vô lượng, bi vô lượng, hỉ vô lượng, xả vô lượng. Xả là bố thí; Từ là ban vui, cho tất cả chúng sanh an lạc; bi là bạt khổ, giúp đỡ tất cả chúng sanh lìa khổ gọi là bi; hỉ là xem thấy tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, sanh tâm hoan hỉ), lại thêm vào tu tứ thiền bát định, đó là bạn lấy được điều kiện cõi trời. Nếu như đời sau vẫn muốn làm người, điều kiện của cõi người là phải tu ngũ giới, mười thiện. Năm giới trì được tốt, mười thiện tu được tốt, cả đời đều không trái phạm, đời sau có thể được cõi người. Cõi A Tu La tương đối thù thắng hơn, phước báo của A Tu La rất lớn, ưa thích bố thí, ưa thích cúng dường tu phước, thế nhưng hiếu thắng ngạo mạn. Thí dụ như bố thí ở trong nhà Phật, họ xem thấy người ta bố thí một trăm đồng, họ phải bố thí hai trăm đồng, nhất định phải vượt hơn bạn, hiếu thắng, thích hơn, tương lai quả báo liền đọa vào cõi A Tu La. Thắp hương thì phải thắp cây hương đầu tiên, không bằng lòng thắp cây thứ hai. A Tu La hiếu thắng, thích hơn thua, thích tranh đấu, ưa thích tranh giành, vậy thì rơi vào cõi Tu La. Nghiệp nhân của ba cõi ác đạo bên dưới, cõi ngạ quỷ là san tham, đó là nghiệp lực của họ. Tham không biết chán, chính mình có thì không muốn cho người khác, bỏn xẻn, cho nên san tham là ngạ quỷ. Súc sanh là ngu si, chân giả, phải quấy, tà chánh, thiện ác, thậm chí đến lợi hại họ đều không làm rõ ràng, thường hay làm điên đảo. Thí dụ đem việc thiện cho là ác, đem việc ác cho là thiện, sự điên đảo này thì biến thành súc sanh.

Đại thiện của thế xuất thế gian là giáo học, đây là việc thiện lớn nhất. Các vị tỉ mỉ mà nghĩ xem, từ xưa đến nay, đế vương tướng quân rất nhiều, khi còn ở đời thì rất cừ khôi, quyền thế phú quý giàu có một thời, người Trung Quốc gọi là “quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải”, sau khi chết rồi đến hiện tại có mấy người biết được? Không ai biết đến, cho nên đó là giả, không phải là thật. Thật là gì vậy? Mở trường học, làm giáo dục. Khổng Lão Phu Tử bình dân làm giáo dục, thiên niên vạn thế nhắc đến Khổng Lão Phu Tử có ai mà không tôn kính? Điển tích của Khổng Lão Phu Tử để lại người người đều vẫn muốn học tập. Đó là thật. Thích Ca Mâu Ni Phật xả bỏ ngôi vua, cả đời từ nơi công tác nghĩa vụ giáo dục xã hội, ngày nay nhắc đến Thích Ca Mâu Ni Phật có ai mà không tôn kính? Phật để lại những lời giáo huấn này, bạn xem ở thế gian này có bao nhiêu người đang chăm chỉ nỗ lực học tập? Đó là thật. Chúng ta tu phước, trồng phước, đây mới gọi là phước điền chân thật. Cho nên ngày trước có người nói ngay trong Tam bảo là tu phước báo chân thật. Thế gian đại phú đại quý từ do đâu mà có? Đều là từ ngay trong Tam bảo mà trồng được phước, bạn mới được quả báo này. Chúng ta có năng lực phân biệt thiện phước, đó là trí tuệ, biết được chính mình phải nên tu học thế nào, làm thế nào để trồng phước.

Cư sĩ Lý Mộc Nguyên thường hay nhắc nhở chúng ta giúp đỡ những trẻ em khổ nạn, giúp đỡ trẻ mồ côi không nơi nương tựa, giúp đỡ chúng cầu học, giáo dục chúng, đây gọi là Công Trình Hy Vọng, có hy vọng. Đây là phước đức chân thật. Do đây có thể biết, trong tất cả giáo dục, Phật giáo dục là thù thắng nhất. Phật giáo dục bồi dưỡng nhân tài thế nào? Bồi dưỡng Bồ Tát nhân tài, cũng chính là nói tương lai mười pháp giới bày ra ngay trước mắt chúng ta, Phật giáo dục là bồi dưỡng Bồ Tát pháp giới, pháp giới Phật. Bạn nói xem, việc này thù thắng cỡ nào! Bước vào Phật học viện để làm cái gì? Để làm Phật, để làm Bồ Tát, không phải trường học thông thường. Trường học thông thường, bước vào học viện y, ta muốn làm bác sĩ; đến pháp viện thì học làm cái gì? Ta muốn làm luật sư. Phật học viện làm cái gì? Ta đến học làm Phật. Các vị thử nghĩ xem, đó chẳng phải là rõ ràng tường tận lắm hay sao? Niệm Phật đường ở lầu bốn chúng ta, bạn đến niệm Phật đường để làm gì? Ta đến để làm Phật, niệm Phật thành Phật, “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, họ đến nơi đây là để làm Phật. Cho nên các vị đồng tu phải nên biết, họ đến làm Bồ Tát, làm Phật, sanh-lão-bệnh-tử chúng khổ não sẽ không còn. Đây là nói “năng cứu nhất thiết chư thế gian”. Phật có năng lực lớn đến như vậy! Cho nên, nếu bạn đều tường tận, đều thấu suốt tất cả thì bạn sẽ không biến thành súc sanh. Nếu bạn đem phải quấy thiện ác làm cho điên đảo là ngu si, thì đi đến cõi súc sanh. Thế gian này cái gì là phước báo chân thật, cái gì là phước báo giả, cái gì là công đức chân thật, cái gì là công đức giả, cả đời này chúng ta làm cái gì? Bạn nhất định phải làm cho tường tận, làm cho rõ ràng.

Cõi địa ngục là sân hận, đây là đáng lo nhất. Tâm sân hận, tâm đố kỵ sẽ đọa địa ngục. Cho nên sanh tử không phải là việc lớn gì, sau khi chết rồi đi về đâu mới là việc lớn. Phật là đạo sư, Phật có thể cứu độ chúng ta.

Sanh-lão-bệnh-tử chúng khổ chính là nói tám khổ. Phật đem tất cả các khổ gom lại quy nạp thành tám điều. Sanh-lão-bệnh-tử, bốn điều này mọi người đều không thể tránh khỏi, ngoài bốn điều này ra còn có bốn điều nữa. Điều thứ nhất là cầu bất đắc khổ. Bạn có rất nhiều tâm nguyện, nguyện vọng, nhưng không thể mãn nguyện. Cầu không được rất khổ.

Ngoài ra, một điều nữa là ái biệt ly khổ. Người bạn yêu thích, đồ mà bạn ưa thích không thể thường đầy đủ, rất khổ. Người yêu thích thì thường ly biệt, không thể đoàn tụ, thứ ưa thích không có ở trước mặt. Thế gian này có rất nhiều khu vực danh lam thắng cảnh trên thế giới, người giàu sang mua được biệt thự rất là hào hoa nhưng họ không thể đến ở, rất khổ. Họ mời công nhân đến đó ở, mỗi một tháng còn gởi tiền cho họ. Những người công nhân đó rất có phước báo, thế nhưng họ không có chủ quyền. Chủ quyền là ông chủ. Bạn xem, bạn rất ưa thích cái nhà đó, rất ưa thích cái khu vực đó, nhưng không thể đi là ái biệt ly khổ. Thế gian, người có loại khổ này rất nhiều. Tôi đã từng nghe nói qua, cũng đã thấy qua, có những người giàu có mua được biệt thự, nghe nói cả đời chỉ ở đó được một ngày, vẫn thường hay nhớ đến, thường hay bận lòng. Còn có một loại người, mua được biệt thự rất hào hoa, ngay trong một đời chưa ở qua ngày nào, cũng là ngày ngày nghĩ đến nơi đó. Thế gian có một loại người có phước báo, họ ngày ngày ở nơi đó hưởng thụ, trông chừng nhà cho họ, họ còn phải trả tiền lương cho người đó. Những người này có phước báo, cả đời họ ở nơi đó hưởng phước. Cho nên có rất nhiều người có phước nhưng chính mình thì không thể hưởng, có rất nhiều người tuy chính mình không có tiền của nhưng họ cũng hưởng phước nhiều. Nghiệp báo mỗi người không như nhau, chúng ta phải nên biết. Cho nên, ái biệt ly khổ.

Còn có một loại gọi là oán tắng hội khổ. Oan gia đối đầu, không muốn gặp mặt mà vẫn cứ gặp mặt, thường hay thấy mặt, vậy thì rất khổ. Tất cả những việc không vừa ý thường hay gặp phải, nên có câu rằng “bất như ý sự thường bát cửu”, thường hay gặp phải. Loại khổ này đều bao gồm ở trong oán tắng hội khổ, không nuốn gặp mà vẫn cứ gặp.

Phật nói bảy loại: sanh, lão, bệnh, tử, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tắng hội, đây là bảy loại quả báo, bảy loại khổ báo. Ngoài ra còn một loại nửa là nhân của khổ, tại vì sao bạn bị những cái khổ này? Cho nên Phật nói pháp đều là đem nhân cùng quả nói ra, Ngài nói được rất viên mãn.

Sau cùng, Ngài nói ra một loại là ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm xí thạnh tương đối khó hiểu, đó là nhân, chính là nguyên nhân những loại khổ của bạn phía trước vì sao mà có? Phật nói với bạn là do năm ấm lừng lẫy. Năm ấm là nói chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Năm loại lớn này là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đó gọi là ngũ ấm.

Sắc là gì vậy? Thân thể. Thân thể chúng ta là thuộc về sắc pháp, hiện tại người ta gọi là vật chất. Bốn loại phía sau đều là hiện tượng của tinh thần. Cho nên một động vật là hiện tượng của vật chất cùng tinh thần tổ hợp lại. Trong tinh thần đã nói bốn loại.

Thứ nhất là thọ. Thọ là cảm nhận của bạn, chịu khổ, được vui, lo buồn, ưa thích, chính là cảm nhận khổ vui lo mừng. Nhân gian chúng ta rất nhiều ưu khổ, mừng vui ít, đây là ở nhân gian.

Thứ hai là tưởng, là vọng tưởng. Ngày ngày đang khởi vọng tưởng, vọng tưởng này vĩnh viễn sẽ không ngừng nghỉ. Phật nói: “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Bởi vì cái nghĩ của bạn đều là sai lầm, hoàn toàn trái ngược với chân tướng sự thật, thì cảm thọ của bạn làm sao mà không khổ? Cái gọi là vui, cái gọi là mừng, thành thật mà nói là ưu khổ của bạn tạm thời ngưng nghỉ một chút mà thôi, cho nên Phật nói ưu khổ là thật, mừng vui là giả. Cái chân giả này tiêu chuẩn ở đâu vậy? Phật nói vui sẽ thay đổi, vui sẽ biến thành khổ, cho nên vui là giả, khổ không thể biến thành vui, khổ là thật. Thí dụ bạn thích ăn, bạn ưa thích ăn thức ăn, đặc biệt ưa thích ăn thức ăn nào đó, có người ưa thích ăn ngọt, có người ưa thích ăn cay, mỗi người ưa thích không giống nhau. Bạn ưa thích ăn món ăn của bạn, bạn xem, ăn một chén thì rất ngon, nhưng nếu như bảo bạn liên tiếp ăn đến mười chén thì bạn liền khổ rồi, thì bạn chịu không nổi, chẳng phải vui biến thành khổ sao? Cho nên vui là giả. Tại vì sao khổ là thật? Bạn không ăn một bửa cơm thì đói rất khó chịu, ba ngày không ăn cơm thì càng khổ hơn, không thể biến thành vui, không thể nói để cho bạn ba ngày năm ngày không ăn cơm thì bỗng nhiên an vui ra, không thể có việc này. Cho nên khổ là thật, vui là giả. Người thanh niên ưa thích khiêu vũ, bảo bạn nhảy đến bảy ngày bảy đêm thì khổ rồi, không chịu nổi! Cho nên vui sẽ biến thành khổ, khổ thì không thể biến thành vui. Người ta dùng roi đánh chúng ta thì khổ, đánh một lần khổ, đánh hai lần càng khổ, càng đánh càng khổ, tuyệt đối không thể nói đánh đến sau cùng thì vui cười ha ha lên, không hề có đạo lý này. Cái gì là thật, cái gì là giả, Phật đã nói cho chúng ta nghe rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, do đó tư tưởng phải thuần chánh thì vấn đề liền được giải quyết rồi.

Thứ ba gọi là hành khổ. Hành là gì vậy? Hành là thay đổi từng giây, bạn không thể dừng lại. Thí dụ như xả thọ, tâm không có mừng lo, thân không có khổ vui thì tốt, cái cảnh giới này quá tốt. Thế nhưng bạn không giữ được dài lâu, không thể vĩnh viễn giữ lấy, đó gọi là hành khổ. Rõ ràng nhất là người thế gian thường nói không thể giữ được tuổi thanh xuân, đó gọi là hành khổ. Con người mười bảy, mười tám tuổi rất tốt, nhưng không thể mãi mãi giữ lấy mười bảy mười tám, càng ngày càng già yếu đi, không phải là năm sau già hơn năm trước mà bạn phải nên biết ta già đi từng ngày. Loại hiện tượng này gọi là hành khổ.

Sau cùng là thức. Thức tương đối khó giảng, tương đối khó hiểu. Đơn giản mà nói, chính là ở ngay trong cuộc sống thường ngày của bạn, bao gồm tất cả những ấn tượng phức tạp của thiện ác, hiện tại chúng ta gọi là đều rơi vào trong ký ức của bạn, ở trong Phật pháp gọi là A Lại Da Thức. A Lại Da Thức giống như một cái kho vậy, khởi tâm động niệm nghiệp tập chủng tử, toàn bộ đều hàm chứa ở trong đó, đến lúc nào gặp được cơ duyên thì nó liền khởi tác dụng hiện bày ra, muốn dừng cũng không thể dừng. Thí dụ nói, bạn khởi tâm động niệm, tất cả tạo tác, A Lại Da Thức cũng giống như một cái phòng tư liệu của chính bạn, như một kho chứa hồ sơ, cả đời của bạn tạo tác, quá khứ đời đời kiếp kiếp đã tạo, toàn bộ đều có hồ sơ, toàn bộ đều có ghi chép, không hề sót lọt một việc nào. Bạn nói xem, cái thứ này có phiền phức hay không? Không nên cho rằng chúng ta nói hay làm mấy việc người khác không biết, việc ghi chép lại rất chuẩn xác, một chữ cũng không lọt. Bạn nói xem, việc này phiền phức cỡ nào?

Phật nói năm ấm này xí thạnh, xí thạnh là hình dung, giống như lửa cháy rất dữ dội, đây là cội gốc quả khổ của bảy loại trước. Các vị nghĩ xem, nếu không phải là Phật nói cho chúng ta nghe được rõ ràng thì chúng ta làm sao mà biết được. Làm sao Phật biết được? Phật ở ngay trong thiền định sâu thẳm xem thấy được, Ngài xem thấy được kho tư liệu của chúng ta, Ngài thấy qua hồ sơ của chúng ta, chúng ta không cách gì giấu được Phật Bồ Tát. Chỗ này trên kinh nói, phàm hễ là người vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc đều như Như Lai quả địa, đầy đủ thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng thông, những năng lực đó đều hồi phục đầy đủ. Hay nói cách khác, tất cả hồ sơ chúng sanh trong A Lại Da Thức các Ngài thảy đều có thể xem thấy. Nếu như chúng ta tường tận những chân tướng sự thật này, hiểu được đạo lý này, không những chúng ta không thể làm ác mà khởi lên một niệm ác cũng đều không nên, vì sao vậy? Chúng ta phải làm Phật, Phật là thuần thiện không lỗi lầm, chúng ta làm sao có thể phạm lỗi lầm? Chính mình phải gánh vác trách nhiệm đối với chính mình, nhất định phải làm đến chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Đạo làm Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật ở trên kinh này nói với chúng ta, thế giới Tây Phương Cực Lạc là xã hội như thế nào? “Chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”. Chúng ta ngày nay nếu muốn tham gia câu lạc bộ thượng thiện đó, chúng ta chính mình phải chuẩn bị điều kiện thượng thiện. Cho nên, mọi người nếu như muốn quyết tâm cầu sanh Tịnh Độ thì nhất định phải ghi nhớ, khởi tâm động niệm lời nói việc làm quyết định không thể có tổn hại tất cả chúng sanh, không những không thể có những sự tướng tổn hại tất cả chúng sanh mà ngay ý niệm cũng không thể sanh khởi.

Vậy vọng niệm của chúng ta quá nhiều thì phải làm sao? Phật dạy chúng ta niệm Phật. Ý niệm vừa sanh, nếu như ý niệm là ác niệm thì lập tức dùng A Di Đà Phật đem nó hoán đổi lại, nên gọi là “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Giác ngộ không thể trì hoản, lập tức dùng A Di Đà Phật hoán đổi lại. Nếu như là thiện niệm, ý niệm lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội thì được, quyết định không nên có ý niệm tự tư tự lợi. Có ý niệm này phải mau dùng một câu A Di Đà Phật hoán đổi lại. Cho nên nói chín giới hữu tình, sáu chữ hồng danh thì phổ độ tất cả, đó là “năng cứu nhất thiết chư thế gian”, đó là phổ độ.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com