- Phần 1
- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 11
- Phần 12
- Phần 13
- Phần 14
- Phần 15
- Phần 16
- Phần 17
- Phần 18
- Phần19
- Phần 20
- Phần 21
- Phần 22
- Phần 23
- Phần 24
- Phần 25
- Phần 26
- Phần 27
- Phần 28
- Phần 29
- Phần 30
- Phần 31
- Phần 32
- Phần 33
- Phần 34
- Phần 35
- Phần 36
- Phần 37
- Phần 38
- Phần 39
- Phần 40
- Phần 41
- Phần 42
- Phần 43
- Phần 44
- Phần 45
- Phần 46
- Phần 47
- Phần 48
- Phần 49
- Phần 50
- Phần 51
- Phần 52
- Phần 53
- Phần 54
- Phần 55
- Phần 56
- Phần 57
- Phần 58
- Phần 59
- Phần 61
- Phần 62
- Phần 63
- Phần 64
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 49)
Pháp Sư Tịnh Không
“NHỮ KIM TƯ VẤN, THẮNG Ư CÚNG DƯỜNG, NHẤT THIÊN HẠ A LA HÁN, BÍCH CHI PHẬT. BỐ THÍ LŨY KIẾP, CHƯ THIÊN NHÂN DÂN, QUYÊN PHI NHUYỄN ĐỘNG CHI LOẠI, CÔNG ĐỨC BÁCH THIÊN VẠN BỘI”
Đoạn sau Thế Tôn dùng thí dụ tán thán A Nan. Lời tán thán của Thích Ca Mâu Ni Phật có quá đáng hay không? Nêu câu hỏi mà được công đức lớn như vậy sao? Thế Tôn đã nói trong kinh Kim Cang: “Phật thị chân ngữ giả”. Chân thì không giả. Lời nói của Phật là chân ngữ, nhất định tương ưng với chân tướng sự thật, quyết không quá đáng cũng không bất cập, đó gọi là như ngữ, không vọng ngữ, không cuồng ngữ. Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời tuân theo nguyên tắc này, Ngài cũng dạy bảo chúng ta như vậy, luôn nói lời chân thật.
Chúng ta nghĩ thử xem, công đức của Ngài A Nan được tính như thế nào? “Thắng” là siêu thắng, siêu quá cúng dường thiên hạ A La Hán, Bích Chi Phật, công đức quá lớn. Phật thường nói, A La Hán cùng Bích Chi Phật là phước điền chân thật của người thế gian. Chúng ta vì sao phải cúng dường họ? Cúng dường, đơn giản mà nói, là chăm sóc đời sống đi lại của họ, không để họ bị kém khuyết trên đời sống vật chất. Cúng dường này trong Phật pháp gồm bốn sự việc là ăn uống, y phục, ngọa cụ, thuốc thang. A La Hán cùng Bích Chi Phật đều tu hành thành tựu thù thắng, có học vấn, đạo đức, năng lực, có thể gánh vác sứ mạng giáo hoá chúng sanh. Nói cách khác, họ chân thật làm đến “học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Ngôn hạnh, tư tưởng, hành vi của họ có thể làm mô phạm cho tất cả mọi người trong thế gian. Người thông thường gọi họ là chân thiện tri thức, tức thầy giáo tốt của xã hội. Họ cũng đều từ nơi công tác giáo dục xã hội, đáng được người tôn kính, cho nên bạn phải cúng dường họ. Đời sống của họ tuyệt đối không phung phí, không hề trải qua phù hoa, mà rất đơn giản, chính trực, toàn tâm toàn lực cống hiến cho xã hội, vì xã hội đại chúng mà phục vụ. Chúng ta cúng dường, thân cận vị lão sư như thế, công đức sẽ rất lớn. Một người chân thật có học vấn, có đạo đức ngay nơi đó sẽ ảnh hưởng cả khu vực, vô hình chung thay đổi được phong tục. Công đức không thể nghĩ bàn.
Bạn cúng dường bao nhiêu A La Hán, Bích Chi Phật? “Một thiên hạ”. “Một thiên hạ” là số tự, kinh Phật gọi là Nam Thiện Bộ Châu. Nam Thiện Bộ Châu chỉ địa cầu của chúng ta. Pháp sư Giác Hoa hôm trước định nghĩa Nam Thiện Bộ Châu chính là thế giới Ta Bà là sai rồi. Thế giới Ta Bà là đại thiên thế giới, còn Nam Thiện Bộ Châu là địa cầu này. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở ba ngàn năm trước, nhân khẩu thế giới không nhiều đến như vậy. Hiện tại nhân khẩu thế giới sắp gần sáu mươi tỉ người. Vào thời đại ba ngàn năm trước, chúng ta rút số tự nhỏ hơn, đương nhiên chúng ta cũng không cách gì thống kê nhân khẩu của toàn thế giới, chỉ có thể phỏng đoán nhân khẩu toàn thế giới khoảng một hai ngàn vạn. Vậy một hai ngàn vạn vị A La Hán, Bích Chi Phật thì phước báu đó bao lớn! Nhiều lão sư, nhiều thánh hiền đến như vậy!
Bích Chi Phật dịch âm từ tiếng Phạn, “Bích Chi” dịch thành Độc, “Phật” ý nghĩa giác ngộ cũng dịch là duyên. Bích Chi Phật dịch là Duyên Giác, hoặc Độc Giác. Phần nhiều họ xuất hiện không có Phật, cũng không có Phật pháp ở thế gian. Họ rất thông minh, tuy ở thế gian nhưng chính họ cũng có thể giác ngộ. Trình độ giác ngộ của họ bình đẳng với A La Hán, thậm chí còn siêu việt hơn so với A La Hán. A La Hán theo Phật học tập, là học trò của Phật, do tiếp nhận giáo học mà giác ngộ. Duyên Giác, nếu theo Phật tu học mà khai ngộ thì gọi là Duyên Giác, không theo Phật học mà chỉ tự mình giác ngộ thì gọi là Độc Giác. Bích Chi Phật bao gồm hai loại này, đều là lão sư tốt của người thế gian cũng là tấm gương tốt nhất của người thế gian. Chúng ta cung kính cúng dường, học tập với họ thì công đức lớn. Đó là một thí dụ.
Thí dụ thứ hai, “bố thí lũy kiếp”. “Bố thí” là đề tài tu học quan trọng nhất trong Phật pháp. Phật dạy chúng ta nếu muốn cầu giác ngộ thì phải học tập từ bố thí vì Phật biết rõ tại sao bạn không giác ngộ. Vì bạn mê hoặc điên đảo, bạn có lòng tham, bỏn xẻn, keo kiệt, không chịu cho người khác, cứ ưa thích tham muốn không chán. Nếu chân thật muốn giác ngộ, bạn phải vứt bỏ lòng tham, vứt bỏ bỏn xẻn, với thế gian pháp và xuất thế gian pháp đều không tham. Chính mình cùng cộng hưởng với tất cả chúng sanh, đó là người giác ngộ.
Phật dạy bố thí gồm tài thí, pháp thí và vô uý thí. Bố thí tài nhất định có tiền tài, bố thí pháp thì được thông minh trí tuệ, bố thí vô uý được khoẻ mạnh sống lâu. Bạn muốn phát tài, thông minh, khoẻ mạnh sống lâu, bạn mới tu ba loại bố thí này, nhưng bạn làm vẫn chưa viên mãn. Mặc dù bạn có thể đạt tiền tài, thông minh, khoẻ mạnh sống lâu nhưng vì sao không viên mãn? Hiện tại thế gian có rất nhiều người phát tài, họ cũng thông minh, khoẻ mạnh, sống lâu, đều do nhân đời quá khứ đã tu, nên hiện tại nhận quả báo. Bạn tỉ mỉ quan sát liền biết vì sao không viên mãn. Họ vẫn là phàm phu, vẫn mê hoặc điên đảo. Phước báu trong đời hưởng hết thì đời sau phải làm sao? Vấn đề này trở nên nghiêm trọng.
Phật dạy chúng ta bố thí. Bố thí nhất định được quả báo. Tuy nhiên, sau khi được vẫn phải đem nó xả hết, quyết không hưởng thụ. Khi vừa hưởng thụ thì hỏng, liền mê hoặc trở lại. Bạn có thì phải mau xả ra, vậy mới cao minh. Xả càng nhiều thì được càng nhiều, được càng nhiều lại mau đem số lượng nhiều đó thảy đều xả hết, không nên lưu lại. Vậy tài vật thọ dụng, trí tuệ thêm lớn, khoẻ mạnh sống lâu là vĩnh hằng. Phật nói ý nghĩa này chúng ta phải thể hội. Kinh Phật dạy, các đồng tu lớn tuổi đều hiểu. Không những hiểu mà còn biết giảng, thế nhưng không làm được. Họ băn khoăn: “Tôi không dễ gì kiếm ra tiền, bạn bảo tôi xả bỏ hết, ngày mai ai cho tôi?”. Như vậy, kinh Phật khuyên cũng không tệ, nhưng không làm được. Bạn sợ: “Nếu nhỡ tôi bố thí rồi, ngày mai không có cơm ăn thì phải làm sao?”. Bạn không dám bố thí, nên đối với tài, đối với pháp đều bỏn xẻn, không dám làm. Ngay chỗ này, chúng ta đương nhiên có kinh điển làm căn cứ. Chúng ta có lòng tin đối với Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kỳ thật lòng tin này nửa tin nửa nghi, không phải thật tin nên mới không chịu làm.
Lão sư có quan hệ rất lớn đối với việc tu học của chúng ta. Khi tôi còn trẻ, thành thật mà nói rất ngoan cố. Tôi đối với các tôn giáo hoàn toàn không thể tiếp nhận. Vị pháp sư nào đến giảng kinh cho tôi đều không có cửa để vào thì làm sao khuyên tôi. Khi tôi biện luận, chỉ cần mấy câu là xô ngã ông ấy thì làm sao ông ấy khuyên tôi? Trong cuộc đời, mối quan hệ với lão sư rất quan trọng. Chúng ta đến với lão sư mà ta kính ngưỡng nhất, bội phục nhất; chúng ta thân cận học tập với ông ấy, thì khi lão sư giới thiệu cho chúng ta ấn tượng sẽ hoàn toàn khác, tín tâm liền không như nhau. Phật pháp của tôi do tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu. Nếu như không phải ông, bất cứ người nào cũng không thể bảo tôi tin Phật. Khi còn trẻ, tôi phản đối nhất chính là Phật giáo, tôi có ấn tượng tốt với Ki Tô giáo, X-Lam giáo, chỉ riêng với Phật giáo là có thành kiến, vì tôi cho là mê tín, không đạo lý.
Tôi ở Đài Loan học triết học với lão sư Phương. Thầy giới thiệu cho tôi một cách hệ thống từ triết học phương Tây đến cổ đại Trung Quốc. Triết học sớm nhất của Trung Quốc là Kinh Dịch, sau đó đến Chu Tử, Nhị Trình, triết học Dương Minh. Sau khi giảng xong, thầy giới thiệu triết học Ấn Độ. Từ triết học Ấn Độ giới thiệu đến triết học Phật kinh. Thầy nói với tôi, triết học Phật kinh là đỉnh cao nhất của triết học trên toàn thế giới, đây mới là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh. Tôi nghe lời này của thầy nên mới đến chùa tìm kinh Phật nghiên cứu. Tôi xem kinh Phật nhưng không chào hỏi người xuất gia. Tôi đem kinh Phật xem thành triết học, không hề liên quan gì với người tin theo nó. Đây là tâm trạng ban đầu học Phật. Phương tiên sinh chí ít ảnh hưởng tôi ba năm.
Về sau, khi đã học Phật, tôi thân cận đại sư Chương Gia. Đại sư Chương Gia kéo tôi trở lại, tôi mới biết mình đem kinh Phật xem thành triết học chỉ là một bộ phận trong kinh Phật, không phải toàn diện. Toàn diện còn cao minh hơn nhiều so với triết học. Việc này Phương tiên sinh cuối đời cũng khế nhập, cho nên cuối đời chúng tôi gặp nhau rất vui vẻ. Khi tôi học với thầy, thầy mới hơn bốn mươi tuổi, tôi hai mươi sáu tuổi.
Cho nên thiện tri thức là nhân vật then chốt. Nếu không phải là một lão sư mà bạn kính phục thì bạn sẽ rất khó tiếp nhận giáo huấn của ông. Cả đời chúng ta được lợi ích thù thắng, có cái hay của Phật pháp thì phải cảm ân đội đức. Nếu không do lão sư chỉ điểm, không phải lão sư nhắc nhở, chúng ta làm sao biết thế gian này còn có thứ tốt đến như vậy.
Khi thân cận đại sư Chương Gia, đại sư Chương Gia liền dạy tôi bố thí. Tôi cũng chịu nghe lời. Ngài dạy tôi thế nào, tôi làm như thế đó. Tục ngữ rằng: “Cảm ứng không thể nghĩ bàn”, chân thật càng thí càng nhiều, càng nhiều càng thí, quyết không giữ lại. Hiện tại mấy năm gần đây, thu nhập mỗi năm của tôi khái lược tính sơ khoảng hơn một triệu Mỹ kim. Thế nhưng trên người tôi không có bất cứ thứ gì, đến rồi liền cho đi, đến nhanh thì đi cũng nhanh, không lưu lại. Lưu lại sẽ sanh phiền não. Lưu lại bạn phải xem giá cả ngoại tệ, thật phiền phức. Phải giống như dòng nước không ngừng chảy.
Các vị đồng tu tỉ mỉ quan sát xem, có thể chỗ này bạn có lòng tin, chứng minh lời Phật dạy không sai. Bạn thấy gần đây suy thoái kinh tế, mỗi người đều bị ảnh hưởng, chỉ có Cư Sĩ Lâm không bị ảnh hưởng. Không những không bị ảnh hưởng, trái lại còn tăng thêm. Vì sao? Bố thí quá nhiều. Thí nhiều thì được nhiều. Nơi đây là minh chứng rất rõ để chúng ta thấy. Chúng ta thấy hiện tượng này, phải chân thật quan sát kỹ lưỡng mới tin tưởng, bạn liền đoạn dứt lòng nghi hoặc, liền dám làm.
Đầu năm nay, cư sĩ Lý Mộc Nguyên vẫn còn lo lắng việc ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, thính chúng Cư Sĩ Lâm thảy đều bị ảnh hưởng. Theo lý thì thu nhập của Cư Sĩ Lâm cũng sẽ giảm đi phân nửa. Thế nhưng, khi chúng ta khai giảng kinh Hoa Nghiêm, niệm Phật đường hoạt động, thu nhập bỗng chốc tăng cao, còn nhiều hơn so với năm trước. Cho nên, lần này việc cứu trợ Trung Quốc đại lục tương đối khả quan. Cư Sĩ Lâm chịu xả, chịu bố thí, tài pháp vô uý thí thảy đều đang làm. Bạn thấy mỗi ngày cúng dường ba bữa cơm, bình đẳng phổ biến cúng dường, bất cứ ai đến đây ăn cơm đều hoan nghênh, không ai hỏi bạn học Phật hay không học, có tin Phật hay không tin. Tôi nghe nói, một số tín đồ Ki Tô giáo, Hồi Giáo, thậm chí có người hủy báng Phật pháp cũng đến ăn cơm. Chúng ta đều hoan nghênh, hoan hỉ. Chỉ cần đến ăn cơm thì chúng ta hoan hỉ cung ứng không điều kiện, một phân tiền cũng không lấy.
Cư sĩ Lý kể, từ lúc khai trương cúng dường ăn cơm, mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, mỗi ngày ba bữa không thiếu bữa nào. Năm xưa thì nghỉ ngày mùng một tết nhưng tôi đề nghị không nên nghỉ. Mùng một tết không có cơm ăn thì phải làm sao? ăn tết bằng cái gì? Cho nên ngày mùng một tết cũng cúng dường theo thường lệ, như vậy mới viên mãn. Ông cho biết từ trước đến giờ chưa từng mua gạo, chưa từng mua rau, mua dầu, bởi vì mọi người tặng gạo, dầu, rau. Họ hoan hỉ vui vẻ đưa đến, tặng nhiều ăn không hết. Nơi đây không sợ người ăn cơm, ăn càng nhiều càng tốt, càng nhiều càng hoan hỉ. Ăn không hết thì chúng ta tặng viện dưỡng lão, viện cô nhi. Cư sĩ Lý còn nói: “Chúng ta ra ngoài đi chợ, người bán hàng nghe nói mua cho Cư sĩ Lâm thì không lấy tiền”. Tôi ở đây rất ít ngồi xe công cộng. Từ Nha Long đến đây, ngồi xe công cộng cũng không lấy tiền của tôi. Cho nên bạn không sợ bố thí. Chân thật càng thí càng nhiều. Cư Sĩ Lâm in kinh, ghi đĩa hình, đĩa tiếng CD, mỗi năm tặng biết bao nhiêu trên thế giới, toàn bộ miễn phí không lấy một xu. Đó là bố thí pháp khai mở trí tuệ. Hiện tại Cư Sĩ Lâm từ trên xuống dưới, người làm công quả mỗi mỗi đều thông minh, có trí tuệ do bố thí pháp. Nhất là khi niệm Phật đường hoạt động không lâu, từ lúc bắt đầu đến nay chưa đầy ba tháng, bạn thấy thù thắng cỡ nào. Điều này chứng minh lời Phật dạy một chút cũng không sai.
Bố thí được xếp vào hàng thứ nhất của Bồ Tát hạnh. Đó là hành vi đời sống của người giác ngộ. Chịu bố thí, chịu giúp đỡ người, hoan hỉ vui vẻ mà giúp người khác, tất cả vì xã hội, vì nhân dân, vì chúng sanh, không nên vì chính mình, thậm chí nghĩ đến cũng không nên nghĩ. Không luận bạn từ cương vị công tác nào, ôm tâm trạng phục vụ mọi người, phục vụ chúng sanh thì bạn có hoan hỉ an vui không? Quyết không chút ý niệm tự tư tự lợi, đời sống của bạn sẽ rất an vui.
Điều thứ hai của Bồ tát hạnh là trì giới. Ý nghĩa của trì giới là thủ pháp, tuân thủ giáo huấn của Phật đối với chúng ta, tuân thủ pháp luật quốc gia, pháp quy của địa phương, nhân tình, phong tục, tập quán, khái niệm đạo đức thảy đều phải tuân thủ. Thủ pháp là đức tính của công dân tốt trong quốc gia, là học trò tốt của Phật.
Nhẫn nhục là lòng nhẫn nại. Không luận làm bất cứ việc gì, phải có lòng nhẫn nại mới có thể thành tựu.
Tinh tấn là cầu tiến bộ, không ngừng đổi mới, không ngừng cầu tiến bộ.
Thiền định là chính mình có chủ tể, không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc, dao động. Đó gọi là thiền định.
Trí tuệ là tất cả mọi việc, tất cả lý rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, gọi là trí tuệ Bát Nhã.
Phật khuyên người giác ngộ trong cuộc sống thường ngày cần tuân thủ sáu nguyên tắc trên. Bố thí hàm chứa hết năm điều, bởi vì trì giới, nhẫn nhục thuộc về bố thí vô uý; tinh tấn, thiền định, trí tuệ thuộc về bố thí pháp. Chỉ một bố thí mà bao gồm tất cả hành môn của Bồ Tát. Nhưng bố thí bao lâu? “Lũykiếp”, thời gian quá dài! “Kiếp” là đơn vị thời gian trong Phật pháp dùng để tính đếm. Trên kinh Phật có đại kiếp, trung kiếp, tiểu kiếp. Cách tính tiểu kiếp thế nào? Các kinh nói theo nhiều cách khác nhau, nhưng những cách nói này đều của Phật. Phật giảng kinh không phải ở một nơi. Năm xưa khi Phật ở đời, du hóa thế gian, vân du khắp nơi, Ngài giảng kinh tùy theo tập quán từng địa phương. Tri thức trình độ của người mỗi địa phương không như nhau, do đó giảng số tự cũng không như nhau.
Ngày trước lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam thuyết pháp trong trường học Đại Chuyên, nêu ra một thí dụ rất đơn giản mà mọi người đều nhớ, gọi là tăng giảm kiếp. Phật nói thọ mạng con người lâu nhất là tám vạn bốn ngàn tuổi. Mỗi lần qua một trăm năm giảm đi một tuổi, như vậy mà cứ giảm dần. Giảm đến mười tuổi, sau đó từ mười tuổi lại mỗi trăm năm tăng thêm một tuổi, lại tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Một tăng một giảm như vậy gọi là một tiểu kiếp, đơn vị của thời gian. Mười hai tiểu kiếp bằng một trung kiếp. Bốn trung kiếp bằng một đại kiếp. Số tự này có thể tính được, nhưng rất dài; ngày nay gọi là số tự thiên văn.
“Bố thí luỹ kiếp”, luỹ kiếp ở đây ý nói đại kiếp. Bố thí cho ai? Cho “chư thiên nhân dân, quyên phi nhu động”. Hợp hai câu lại là chúng sanh sáu cõi. Bạn bố thí cho một người, giúp một người thì cái phước này không nhỏ. Nếu bạn giúp tất cả chúng sanh sáu cõi thì phước báu của bạn quá to lớn.
Đồng tu học Phật hầu như đã tiếp nhận định luật nhân quả. Trồng thiện nhân nhất định được thiện quả. Bố thí tài là nhân, được tiền của là quả. Trồng nhân thế nào sẽ có quả như thế. Quả báo thông ba đời. Con người luôn có quá khứ, vị lai chứ không chỉ một đời. Sáu cõi luân hồi do đâu mà có? Do khởi tâm động niệm của chúng ta mà biến hiện ra, tuyệt đối không do người nào khác tạo ra sáu cõi để bạn đến thọ dụng và luân hồi. Kinh đại thừa, Phật phân tích cho chúng ta rõ ràng. Cho nên khi bạn làm việc tốt, công đức sẽ rất lớn. “Công” là làm việc thiện, “đức” là nhận báo ứng quả thiện. Ở đạo tràng của chúng ta, hiển lộ việc này rất rõ. Ngày nay chúng ta tu công đức bố thí kém xa so với kinh dạy. Tuy nhiên, tỉ mỉ tư duy, bình lặng quan sát, chúng ta ngày nay cũng chân thật làm, nên công đức cũng không thể nghĩ bàn.
Phật nói thí dụ nhưng vẫn lo sợ người đời sau nghe rồi hoài nghi, không tin tưởng, nên phía sau tiếp tục giải thích: “Hà dĩ cố”, tức vì sao A Nan vừa hỏi mà có công đức to lớn đến như vậy?
“HÀ DĨ CỐ. ĐƯƠNG LAI CHƯ THIÊN NHÂN DÂN, NHẤT THIẾT HÀM LINH GIAI NHÂN NHỮ VẤN, NHI ĐẮC ĐỘ THOÁT CỐ”
Công đức A Nan siêu việt cúng dường một thiên hạ A La Hán, Bích Chi Phật, công đức bố thí lũy kiếp chư thiên nhân dân. “Đương lai” là tương lai. Phật lúc đó nói tương lai bao gồm chúng ta hiện tại và chúng sanh sau khi Phật qua đời. Không chỉ người y theo pháp môn này có thể thành tựu, mà “chư thiên” bao gồm cả quỷ thần, “nhất thiết hàm linh” là chúng sanh mà ngày nay gọi là động vật, Phật kinh nói chúng sanh chín pháp giới cũng đều do A Nan hỏi lần này mà có thể giải quyết vấn đề, họ chân thật lìa khổ, được an vui. Cái lìa khổ được vui không phải nhất thời mà vĩnh hằng, không phải cục bộ, mà toàn diện, nên công đức là “trăm ngàn vạn lần”. Do A Nan hỏi, dẫn khởi Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta nói ra bổn kinh, nên tất cả phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, những thánh giả thảy đều được lợi ích, gọi là “phàm thánh tề thâu, lợi độn tất bị, hoằng siêu tam giới, kinh đăng tứ độ”.
Ngày trước Phật giảng những lý luận phương pháp. Chúng ta tu học theo từng giai đoạn, có tầng lớp giống như đi từ tiểu học đến đại học. Phải trải qua thời gian dài bạn mới tốt nghiệp. Cứ như vậy mà siêu việt sáu cõi thì rất khó.
Nhưng ngày nay Phật truyền cho chúng ta một phương pháp đặc biệt, đơn giản, dễ dàng, ổn định, lại mau chóng. Phương pháp này không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật nói, mà tất cả chư Phật Bồ Tát đều nói: “Nan tín chi pháp”, thật khó tin. Thực tế lý quá sâu, phương pháp tuy đơn giản, dễ dàng nhưng lý rất sâu. Nếu như lý không thể thấu triệt thì chúng ta luôn hoài nghi đối với pháp môn này, nhất là đối với phần tử tri thức thời hiện đại.
Năm xưa khi mới học, Phương tiên sinh giới thiệu, đại sư Chương Gia chỉ dẫn. Chúng ta đối với tánh tướng hai tông rất có hứng thú, nhưng đối với pháp môn niệm Phật vãng sanh tôi không tin tưởng. Lão sư của tôi là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, chuyên tu Tịnh Độ, chuyên hoằng Tịnh Độ. Tôi ngưỡng mộ đạo đức của thầy nên theo học giảng kinh. Thầy khuyên tôi tu Tịnh Độ, dạy tôi đọc Ấn Quang Đại Sư Văn Sao. Sau khi đọc, tôi rất bái phục, không phản đối Tịnh Độ nữa nhưng vẫn không chịu học. Lão sư khuyên tôi khẩn thiết. Thầy nói từ xưa đến nay nhiều tổ sư đại đức, những người có học vấn, có đạo đức đều tu pháp môn này, nếu tu sai cũng không thua thiệt gì, có lỗ một lần cũng không can hệ. Thầy khuyên tôi hết lòng hết dạ nhưng tôi vẫn không chịu nỗ lực học tập. Nếu tôi không hiểu rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, bạn bảo tôi làm thì rất khó. Đến khi tôi bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm, tôi giảng qua mười bảy năm. Nhờ kinh Hoa Nghiêm, tôi mới tường tận thấu hiểu. Một hôm đang giảng kinh, tôi bỗng nghĩ ra, Văn Thù, Phổ Hiền học pháp môn gì? Tỉ mỉ xem kinh thì thấy Thiện Tài Đồng Tử học pháp môn gì? Các Ngài đều niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc. Việc này đích thực đối với tôi là một chấn động lớn. Tôi không hề nghĩ các Ngài niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ.
Sau đó, từ kinh này tôi tỉ mỉ quan sát, hiểu rõ đạo lý, khẳng định pháp môn niệm Phật được tất cả chư Phật tán thán, thiên kinh vạn luận chỉ qui. Người xưa giảng kinh, kinh này gọi là “nhất thừa liễu nghĩa, vạn thiện đồng qui, bất khả tư nghì”, tôi mới dứt hoài nghi. Cho nên tôi học Phật thực tế gần ba mươi năm mới khẳng định pháp môn niệm phật. Thật không dễ dàng! Nhờ những lão sư tốt, có thể nói tôi gặp được ba vị thầy đều là cao thủ nổi tiếng thời cận đại. Tôi học Phật vô cùng may mắn không đi qua con đường oan uổng. Vì phiền não tập khí của chính mình nên tôi đã bỏ lỡ rất nhiều năm. Nếu năm xưa lão sư Lý giảng kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ rõ ràng tường tận như tôi đang giảng thì tôi sớm đã tin tưởng. Các thầy tôi chỉ giảng bao quát chung chung, không thấu triệt như vầy, nên làm tôi mất hai ba mươi năm mới tìm ra được lối đi, mới tin tưởng lão sư hết lời khuyên bảo.
Công đức thỉnh pháp của A Nan không thể nghĩ bàn, khi Ngài nhìn thấy Thế Tôn hiển thị tướng hảo thù thắng. Mọi người đều biết tướng tùy tâm chuyển. Tướng đạt đến trang nghiêm cực độ thì tâm nhất định cũng tốt đẹp không gì bằng, cho nên tướng mới chuyển theo. Trong tất cả tướng hảo trang nghiêm, không tướng nào hơn tướng Phật. Trong tất cả ý niệm, không ý niệm nào thù thắng hơn niệm Phật. A Nan vừa đoán đã trúng, Thế Tôn lúc này quả nhiên đang niệm A Di Đà Phật, nên được Phật A Di Đà và chư Phật Như Lai gia trì. Phật cũng phải được chư Phật gia trì, nhờ vậy tướng của Phật đặc biệt tốt đẹp. Tôn giả A Nan ngày ngày bên cạnh Phật, nhưng từ trước đến giờ chưa từng thấy qua tướng hảo của Phật. Điểm này khải thị cho chúng ta rất lớn. Nếu chúng ta muốn tướng hảo, thân thể mình tốt, thì nên niệm Phật. Niệm Phật tất nhiên có thể mãn nguyện.
A Nan không vì tư lợi mà vì lợi ích tất cả chúng sanh thỉnh giáo với Phật, nên Phật tán thán câu hỏi của A Nan công đức rất thù thắng. Người thế gian chúng ta thỉnh pháp với cư sĩ, trưởng giả, đại đức ngay nơi diễn giảng Phật pháp lợi ích chúng sanh, công đức đó cũng giống A Nan vừa hỏi. Đặc biệt thời kỳ mạt pháp, có thể vì tất cả chúng sanh thỉnh pháp, lợi ích này rất lớn. Thời hiện tại và thời quá khứ không hề như nhau. Ngày trước khoa học kỹ thuật chưa phát triển, mời pháp sư giảng kinh nói pháp chỉ có thính chúng tại hiện trường được lợi ích, còn thính chúng ngoài hiện trường thì không. Ngay trong thính chúng cũng ít người phát tâm ghi chép lại những gì pháp sư giảng, sau đó in thành sách để lưu thông, nên sức ảnh hưởng không thể nào mở rộng.
Hiện tại khoa học kỹ thuật tiến bộ, ghi âm, thu hình ngày càng thuận tiện. Gần như mỗi đạo tràng đều có đầy đủ thiết bị. Máy móc tiến bộ, giá cả rẻ tiền, càng ngày càng đại chúng hoá, nên chúng ta ở một nơi giảng kinh mà toàn thế giới đều có cơ hội tiếp sóng nghe được. Hiện tại đường truyền internet còn có hình ảnh, âm thanh, văn tự gần như đồng thời xem thấy, nên công đức thỉnh kinh so với quá khứ thật không biết mở rộng đến bao lớn. Như vậy, Phật nói pháp ảnh hưởng càng lớn, mức độ ảnh hưởng càng sâu, thì chúng sanh được ảnh hưởng càng nhiều. Tất cả chúng sanh nhờ pháp môn này mà được độ nên công đức của A Nan, người thỉnh pháp sẽ càng nhân rộng. Chúng ta phải học tập. Công đức đặt câu hỏi chân thật như Thế Tôn đã nói là không thể nghĩ bàn, do đó Thế Tôn mới tán thán bằng hai chữ “Thiện tai”. Câu hỏi hay lại hợp với bổn hoài của Phật.
“A NAN! NHƯ LAI DĨ VÔ TẬN ĐẠI BI, CĂNG ÁI TAM GIỚI, SỞ DĨ XUẤT HƯNG Ư THẾ. QUANG XIỂN ĐẠO GIÁO, DỤC CHẨN QUẦN MANH. HUỆ DĨ CHÂN THẬT CHI LỢI”
Thế Tôn gọi tên A Nan để nhắc nhở Ngài chú ý, thực tế là nhắc nhở chúng ta chú ý lời nói tiếp theo sau rất quan trọng. Trước tiên là mục đích của Như Lai ứng hoá ở thế gian. Xưng “Như Lai”, không xưng “Thế Tôn”, ý nghĩa thâm thúy. Mười phương thế giới có vô số chư Phật Như Lai, nhiều pháp thân đại sĩ mỗi giờ mỗi phút ứng hóa ở thế gian, như trong phẩm Phổ Môn nói đáng dùng thân gì để độ, Phật Bồ Tát liền hiện ra thân đó. Chúng sanh có thể nghe những pháp môn nào, Phật liền vì mọi người nói ra pháp môn đó, gọi là “ứng cơ nói pháp”. Vì sao Phật đến thị hiện? Vì sao phải nói pháp? Như Lai vì lòng đại bi vô tận thương xót ba cõi. Tám chữ “đại bi vô tận, thương xót ba cõi” nói rõ lý do Phật Bồ Tát ứng hoá ở thế gian.
Phàm phu đến thế gian do quả báo của nghiệp chiêu cảm. Nghiệp đời quá khứ đã tạo nên không thể không đến chịu quả báo, đó là phàm phu. Chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác thoát khỏi sáu cõi luân hồi, có thể không cần trở lại, nhưng các Ngài vẫn đến. Các Ngài đến thế gian không phải chịu quả báo, vì sau khi thoát khỏi sáu cõi không còn tạo nghiệp luân hồi nữa. Các Ngài đến vì nguyện lực, nhà Phật thường nói “thừa nguyện tái lai”. Nguyện gì? Các Ngài học Phật đã từng phát nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Nguyện đã phát, hôm nay các Ngài có trí tuệ, có năng lực, nếu không quan tâm đến chúng sanh thì phải chăng họ chỉ hứa suông, chỉ nói mà không làm thì sao được? Thế gian thiện quân tử đều giữ chữ tín, “ngôn nhi hữu tín”, thì thánh nhân xuất thế gian làm gì còn vọng ngữ. Họ tuyệt nhiên không vọng ngữ, quyết giữ chữ tín vĩnh viễn. Nguyện lực này chính là “vô tận đại bi”, tâm bi mẫn chúng sanh không cùng tận.
“Căng ái”, “căng” là thương tiếc; “ái” là ai mẫn, thương sót chúng sanh ba cõi bao gồm Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Ba cõi sáu đường cùng một ý nghĩa. Chúng sanh ba cõi sáu đường rất khổ, không có cơ hội thoát khỏi luân hồi, nhất định phải nhờ Phật xúc tiến cho họ. Vậy thì Phật vào lúc nào vì những chúng sanh này mà xúc tiến? Phải chờ thời tiết nhân duyên. Phật pháp nói: “Phật không độ người vô duyên”. Thời tiết nhân duyên theo kinh A Di Đà là thiện căn, phước đức, nhân duyên đầy đủ thì Phật mới xuất thế. Then chốt nhất chính là thiện căn phước đức. Chúng sanh thiện căn phước đức chín muồi, Phật sẽ đến xúc tiến nhân duyên. Như vậy, trong ba điều kiện, bản thân chúng ta phải đủ hai điều thì Phật mới đến giúp chúng ta điều còn lại. Khi đủ ba điều kiện, ngay đời này nhất định thoát khỏi sáu cõi luân hồi, bạn chứng quả vị A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát hay thành Phật.
Sau khi thoát khỏi, quả vị cao thấp không như nhau. Sự việc cũng giống như trên kinh Địa Tạng, chúng sanh Diêm Phu Đề tu phước, quả báo mà họ chiêu cảm không như nhau. Đại sư Thiện Đạo nói: “Chỉ ở gặp duyên khác nhau”. Tóm lại, quả báo của bạn có khác biệt, đều ở gặp duyên không đồng.
Duyên không phải ngẫu nhiên, “duyên kết đa sanh”. Chính mình nhất định phải kết thiện duyên với mọi người. Nhà Phật cho biết: “Phật không độ người vô duyên”. Năm xưa, Thích Ca Mâu Ni Phật ở đời, đã chứng minh cho chúng ta. Không có duyên, Thích Ca Mâu Ni Phật đi tìm họ, họ thấy nhưng liền lắc đầu bỏ đi, không thèm để ý đến Ngài vì không có duyên. Phật có thần thông, lại biến một thân khác. Phật đi về bên kia, từ bên kia chặn đường anh ta. Anh ta lại nhìn thấy rồi xoay mình chạy mất. Phật hiện rất nhiều thân, vây quanh hết anh ta, anh ta liền nằm lăn trên đất mà khóc òa, vẫn không thèm ngó đến Phật. Việc này nói rõ, không có duyên với Thích Ca Mâu Ni Phật thì Phật không thể độ được, anh ấy không tin, không thể tiếp nhận.
Ngày nay chúng ta có duyên ở ngay trong pháp hội, mọi người cùng nhau học tập kinh Vô Lượng Thọ. Đây là nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp đã chín muồi, làm gì có chuyện ngẫu nhiên. Thế gian không có chuyện ngẫu nhiên, đích thực “một bữa ăn, một ngụm nước đều do tiền định”. Chư Phật Như Lai cũng phải xem khu vực này có duyên với mình hay không. Có duyên với vị Phật nào thì vị Phật đó thị hiện giáo hoá. Không có duyên thì những vị Phật Bồ Tát này có thể cùng với Phật Đà thị hiện kết duyên với đại chúng, giúp đỡ Phật giáo hóa chúng sanh. Như vậy, có duyên thì họ dẫn đầu, không duyên thì cùng theo phía sau, thảy đều kết thiện duyên.
Thiện căn phước đức của chúng sanh đến lúc nào chín muồi? Chỉ cần một ý niệm cầu giải thoát, thông thường chúng ta gọi là ghét bỏ thế gian, không còn tâm ưa thích thế gian nữa, Phật Bồ Tát có duyên với bạn sẽ đến giúp. Đây là nguyên do chư Phật Bồ Tát ứng hiện ở thế gian. Họ vì “Vô tận đại bi, thương xót ba cõi” nên xuất hiện ở đời, hiện thân nói pháp. Hiện thân không phải hiện một loại thân mà vô lượng vô biên thân. Phật Bồ Tát có năng lực này để giúp chúng ta giác ngộ. Họ có thể đồng thời đồng nơi, hoặc đồng thời khác nơi, hoặc đồng nơi khác thời, thị hiện của họ rất tự tại, không chút chướng ngại; kinh Hoa Nghiêm gọi là sự sự vô ngại. Phật thị hiện thân tướng tự tại, nói pháp tự tại, dùng rất nhiều thân phận khác nhau, các loại hình tướng khác nhau, làm cho sáu căn chúng ta tiếp xúc thì giác ngộ. Sau khi tiếp xúc còn cảm động, lĩnh hội, tất cả đều do Như Lai và Bồ Tát thị hiện.
Thị hiện ở thế gian làm những việc gì? Ba câu phía sau nói chung, các Ngài đến thế gian để “quang xiển đạo giáo, dục chẩn quần minh, huệ dĩ chân thật chi lợi”. Đây là sự nghiệp cả đời của Thích Ca Mâu Ni Phật. “Quang” là quang đại, “xiển” là xiển dương. Ý nghĩa chữ “đạo” rất nhiều, nhưng Phật pháp chủ yếu được phân làm sáu loại lớn là Phật đạo, Bồ Tát đạo, Thanh văn đạo, Duyên Giác đạo, Thiên đạo, Nhân đạo. Nếu nói một cách chung chung thì đây là tất cả pháp môn. “Quần minh” là chỉ chúng sanh sáu cõi, đặc biệt ở ba đường khổ. Tại sao trải qua đời sống khổ cực như vậy? Do mê mất đi chân tướng của vũ trụ nhân sanh; khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều trái ngược với chân tướng sự thật, đó là tạo nghiệp mà nhà Phật thường khuyên tránh, vì không tương ưng với chân tướng sự thật.
Nghiệp tạo tác nhất định sẽ chiêu cảm quả báo. Hiện tượng của sáu cõi đều do nghiệp lực mà ra. Nghiệp lực có thiện ác. Thiện nghiệp biến hiện ra ba đường thiện, ác nghiệp biến hiện ra ba đường ác. Tiêu chuẩn của thiện ác chính là tự lợi và lợi tha. Nếu trong cuộc sống thường ngày, chúng ta tạo tác chỉ vì tự lợi không màng lợi tha, thậm chí tổn hại người khác chỉ cầu tự lợi thì đó là ác nghiệp. Nếu tự lợi đồng thời quan tâm đến lợi tha, đó là tiểu thiện. Còn nếu có thể xả mình vì người, chỉ cần xã hội đại chúng được lợi ích, hy sinh chính mình cũng cam tâm tình nguyện, đó là đại thiện. Thiện nghiệp cảm phước báu trời người; ác nghiệp cảm địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Sáu cõi do vậy mà có.
Một số người hỏi địa ngục ở đâu? Thiên đường ở đâu? Đối với hiện tại, nếu khoa học không trưng ra chứng cứ thì họ sẽ không tin tưởng. Nếu tôi nói bạn có cha mẹ, bạn tin không? Dĩ nhiên tin, vì bạn thấy qua. Nói bạn có tổ phụ, bạn tin không? Cũng tin, vì có lẽ đã thấy qua, hoặc cha mẹ bạn thấy qua. Nói bạn có lão tổ tông mấy mươi đời, mấy trăm đời trước, bạn tin không? Không hề thấy nên không tin. Thế kỷ trước, có người nói địa cầu này đất là động, đất hình tròn nhưng không ai tin tưởng, còn đem họ đi treo cổ hoặc xử tử vì cho rằng nói năng xằng bậy. Hiện tại khoa học hoàn toàn chứng minh, mới biết người đó đã phải chết oan uổng. Địa ngục đích thực có người thấy, cũng có người đi qua, nhưng họ nói với bạn, bạn vẫn không tin, vẫn cho rằng họ đang lừa gạt. Bạn muốn chính mình đích thân thấy mới tin. Loại người này rất khó độ.
Nếu chúng ta có chút thường thức khoa học, chút đầu óc tư duy hợp lý, thì từ lý luận biết xây dựng tín tâm. Gần đây khoa học gia phát hiện tầng không gian khác nhau, gọi là không gian ba độ, bốn độ. Duy thứ không gian càng cao thì cảnh giới càng không thể nghĩ bàn. Thực tế, không gian địa ngục, ngạ quỷ, chư thiên không cùng không gian duy thứ với chúng ta, không ở không gian ba độ nên chúng ta không thể nhìn thấy.
Những năm gần đây, không ít truyền thuyết về việc người ngoài thái không đến, người ngoài hành tinh đến địa cầu của chúng ta. Những người này có được xem là người cõi trời không? Không. Họ vẫn thuộc cõi người, vì khi đến địa cầu, họ vẫn phải nhờ vào công cụ phi hành. Nếu là thiên nhân, quỷ thần thì không cần. Tôi không hề nghe nói thiên nhân, quỷ thần đến đây bằng phi cơ hay phi thuyền. Cho nên phàm hễ chế tạo máy móc, công cụ phi hành, không luận tốc độ của nó nhanh bao nhiêu, có thể vượt qua tốc độ ánh sáng hay không, nhưng bay đến địa cầu này thì họ vẫn là con người. Đã là cõi người thì dù khoa học phát triển cỡ nào, nếu không biết Phật pháp, không biết niệm Phật, thì những người đó vẫn có sanh-lão-bệnh-tử, vẫn không thể giải quyết được vấn đề.
Chư Phật Bồ Tát, những bậc thánh nhân có năng lực siêu việt không gian duy thứ, tự do tự tại bước vào bốn độ, năm độ không gian, thậm chí không gian vô hạn độ, họ có thể rộng độ chúng sanh. Theo cách nói này, khoa học nghe chấp nhận được tuy không hoàn toàn tin tưởng. Ngày nay khoa học đang tiến bộ, không ngừng phát triển, nhưng mong cầu tìm phương pháp đột phá thì vẫn chưa tìm ra. Nếu tìm được sẽ chí ít chứng minh có sáu cõi luân hồi.
Phật pháp dùng phương pháp gì để đột phá? Chỉ Phật mới biết. Làm thế nào để hình thành không gian duy thứ? Có phải vốn dĩ đã có? Phật nói, vốn dĩ không có, pháp giới chỉ là nhất chân thì làm gì có nhiều thời không cách biệt lớn đến vậy. Thế nhưng ngày nay nó thật sự đang tồn tại. Phật nói, đó là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng sanh biến hiện ra.
Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng sanh vô lượng vô biên, cho nên không gian duy thứ sẽ vô lượng vô biên. Theo kinh Phật, mười pháp giới chính là mười không gian duy thứ khác nhau. Giống như chúng ta xem kênh đài truyền hình có mười kênh đài khác nhau, kỳ thực kênh đài là vô lượng vô biên. “Mười” đại biểu cho vô tận, không phải số tự. Trong mỗi “mười” lại có mười cái thì biến thành một trăm. Trong một trăm, mỗi cái lại có mười cái. Mười mười vô tận mới là chân tướng sự thật. Làm thế nào để đột phá? Đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước buông bỏ thì liền đột phá. Ngay tức khắc, chín pháp giới tất cả hàm linh bạn thảy đều thấy, tận hư không khắp pháp giới bạn cũng thảy đều tiếp xúc.
Sinh mạng của mỗi chúng sanh đều vĩnh hằng. Sinh mạng không chỉ trong mấy mươi năm, mà còn đời quá khứ, vị lai, quá khứ vô cùng, vị lai vô tận. Trong vô thỉ vô chung, chúng ta quan hệ với tất cả chúng sanh quá mật thiết. Quan hệ có sâu cạn dày mỏng khác nhau nhưng nhất định có quan hệ. Duyên phận cũng vậy, có dày mỏng khác nhau. Duyên chín muồi thì họ xem thấy bạn sẽ sanh tâm hoan hỉ. Họ tin tưởng lời bạn và những lý giải của bạn, cũng chịu y theo phương pháp bạn truyền đạt mà học tập. Đây gọi là duyên chín muồi.
Khi duyên chín muồi, Phật Bồ Tát nhất định đến giúp đỡ, nên có câu: “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”, thế mới biết Phật Bồ Tát từ bi tột đỉnh. Cha mẹ đối với con cái có lúc còn chăm sóc không chu đáo, nhưng Phật Bồ Tát đối với chúng sanh đều chăm sóc chu đáo. Họ vì tất cả chúng sanh giảng kinh nói pháp, giúp giải thoát, và thỏa nguyện vọng của chúng sanh.
“Huệ dĩ chân thật chi lợi”. Câu nói này cũng sâu rộng vô hạn. Trong kinh văn có hai chữ “chân thật” biểu thị sự tương ưng với chân như thật tánh. Lợi ích này mới chân thật. Nếu không tương ưng thì không viên mãn. Thí dụ, bạn chịu khổ ở đường ác, Phật Bồ Tát giúp bạn thoát khỏi đường ác sanh đến nhân thiên, như vậy là có lợi ích nhưng lợi ích không chân thật. Vì sao? Con người chết vẫn phải luân hồi, đọa lạc. Nhân gian gặp Phật pháp, gặp đại thừa, bạn y giáo phụng hành, thoát khỏi ba cõi sáu đường, chứng quả A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, có phải là chân thật hay không? Vẫn không chân thật. Đó là lợi ích rất lớn nhưng không thể xem là lợi ích chân thật. Lợi ích chân thật phải tương ưng với tự tánh. Nói cách khác, nhất định phải giúp đỡ bạn “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Cho nên, trong câu nói này, thêm hai chữ “chân thật” thì là đại thừa, quyết giúp bạn đoạn kiến tư phiền não, trần sa phiền não, phá vô minh phiền não, lợi ích mới chân thật.
Người Trung Quốc may mắn, hai ngàn năm trước Phật pháp từ Ấn Độ truyền đến Trung Quốc. Trung Quốc tiếp nhận Phật pháp đại thừa, đó là lợi ích chân thật. Trung Quốc không tiếp nhận tiểu thừa. Trong lợi ích chân thật của Phật pháp đại thừa, trình độ cũng không như nhau. Bồ Tát có bốn mươi mốt giai đoạn. Đầu tiên là thập tín không nói đến, vì thập tín không phải chân thật, chưa phá vô minh. Thập tín vị, viên giáo thập tín vị có thể nói là đại lợi ích nhưng không phải là lợi ích chân thật. Từ Sơ trụ trở lên mới là lợi ích chân thật. Đến Đẳng Giác bốn mươi mốt ngôi thứ, lớn nhỏ không như nhau. Cứu cánh viên mãn là viên giáo Phật quả, đó mới là chân thật cứu cánh viên mãn, nên chỗ này có bốn chữ “chân thật chi lợi”. Bốn chữ này theo nghĩa rộng là phá một phẩm vô minh chứng một phần pháp thân. Theo nghĩa hẹp thì chính là Viên giáo Phật quả.
Thích Ca Mâu Ni Phật có cho chúng ta hay không? Cho rồi chúng ta có tiếp nhận hay không? Có y giáo phụng hành hay không? Thích Ca Mâu Ni Phật đem lợi ích chân thật cứu cánh viên mãn dâng hai tay tặng chúng ta. Nếu bạn muốn hỏi: “Tôi chưa tiếp nhận được, đưa tôi lúc nào mà sao tôi không biết?”.Đưa cho bạn mà bạn còn không biết thì bạn làm sao có được thọ dụng? Lợi ích chân thật là gì? Là bộ kinh Vô Lượng Thọ, dạy bạn ngay đời này thành Phật quả cứu cánh viên mãn, không giống như pháp đại thừa, pháp đại thừa không làm được. Ngày nay, bổn kinh theo tôi tính một cách phỏng đoán thì số lượng hiện tại lưu thông cũng vượt qua con số mười triệu quyển. Bạn có bổn kinh, đó chính là Thế Tôn đem lợi ích chân thật tặng cho bạn.
Phía trước tôi đã nói, các vị đem kinh này từ đầu đến cuối đọc một lần. Một lần đọc là một lần mười phương tất cả chư Phật Như Lai quán đỉnh cho bạn. Mỗi ngày đọc một biến, mỗi ngày nhận chư Phật quán đỉnh một lần. Thử tính xem bạn có bao nhiêu phước báu. Bạn nghe tôi nói thế cũng không tin tưởng, “Phật quán đỉnh cho tôi sao tôi không hề có cảm giác?”. Không sai. Bạn không có cảm giác Phật quán đỉnh nên không có tiếp nhận. Vậy phải làm thế nào mới có thể tiếp nhận? Phải có tín tâm, nguyện tâm, phải biết lý giải, tín-giải-hành-chứng. “Chứng” chính là tiếp nhận. Cảm nhận được từ bi, sự thương yêu của chư Phật Bồ Tát đối với mình, gia trì đối với mình, bạn liền có thể thể hội lợi ích chân thật. Cho nên chỗ này lợi ích chân thật tổng quy kết lại chính là bổn kinh. A Di Đà nói đại nguyện độ sanh. Đại sư Thiện Đạo nói: “Chư Phật sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải”. Đó là “huệ dĩ chân thật chi lợi”. Như Lai trên quả địa thực hiện đại nguyện “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” của Ngài. Ngài không hề nói suông câu này.
Chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian, nếu không nói bộ kinh này thì trái với bổn nguyện. Các kinh khác có thể không giảng, nhưng bộ kinh này nhất định phải giảng. Các kinh khác với pháp môn kinh luận có mức độ ứng cơ không rộng, chỉ dành cho một số đối tượng đặc thù. Thí dụ thiền tông, bạn thấy Đại sư Huệ Năng trong Đàn Kinh nói rõ đối tượng của Ngài là người thượng thượng căn. Nói cách khác, người trung hạ không có phần, tức là khi gặp được, y theo phương pháp này mà tu hành cũng không thể thành tựu. Căn cơ của họ thích ứng với phạm vi rất nhỏ hẹp, không phải là pháp môn phổ độ, hơn nữa thành tựu cũng không cứu cánh viên mãn. Họ có thể giúp đỡ bạn “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, cao nhất cũng chẳng vượt qua Bồ Tát Thập Trụ, Thập Hạnh Vị. Họ không viên mãn, không cứu cánh, không phải là bổn hoài của Phật độ chúng sanh.
Tất cả chư Phật độ chúng sanh luôn hy vọng chúng sanh mau thành Phật giống y các Ngài, đó là bổn nguyện của Phật. Không như người thế gian, người thế gian thì “Tôi hy vọng bạn thành tựu, nhưng thành tựu của bạn phải kém hơn tôi một chút, không được vượt qua tôi”. Đó là tâm phàm phu, muốn giúp đỡ người nhưng luôn không muốn giúp người vượt qua mình, như vậy là tâm luân hồi. Chư Phật Như Lai không như vậy, không những hy vọng bạn thành tựu, mà còn hy vọng bạn vượt qua các Ngài, vì sao? Bạn vượt qua các Ngài thì các Ngài tự tại. Tôi cũng mong muốn thế hệ học trò mau thành tựu vượt qua tôi, vậy tôi mới có thể nghỉ hưu, ngày ngày du sơn ngoạn thủy. Bạn nói xem, tự tại dường nào. Tôi hy vọng mọi người vượt qua tôi, tôi đã nghĩ như vậy suốt mười mấy năm. Nếu tôi biết có người vượt qua tôi thì tôi liền tự tại, liền hưởng phước. Cho nên chư Phật Bồ Tát hy vọng tất cả chúng sanh đều làm Phật, hơn nữa còn bình đẳng làm Phật. Điểm này thật trác tuyệt. Bình đẳng làm Phật chỉ có ở pháp môn này.
Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra vô lượng vô biên pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng chỉ pháp môn này bình đẳng thành Phật. Các vị nhất định phải ghi nhớ. Cổ đức nói: “Pháp môn này có thể khiến người ngũ thừa vào báo độ”, đó là cực tán thán, hơn nữa tán thán không chút khoa trương. Ngũ thừa gồm nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, trình độ chúng sanh khác biệt nhau rất lớn. Pháp môn này có thể dạy họ bình đẳng khế nhập cõi Thật Báo Trang Nghiêm, hiển thị rõ pháp môn không thể nghĩ bàn.
Thế Tôn trên kinh nói, A Di Đà Phật trên kinh cũng nói, chỉ cần sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, không luận bạn thuộc tầng lớp nào, đều hiểu rõ thế giới Tây Phương Cực Lạc, đều là A Duy Việt Chí Bồ Tát. Đại đức xưa chú giải, A Duy Việt Chí là từ Thất Địa trở lên. Cho nên đây gọi là pháp khó tin, pháp môn lợi ích chân thật, sanh đến Tây Phương liền bằng Bồ Tát Thất địa.
Bồ Tát Thất địa rất khó được. Chúng ta chân thật vô lượng kiếp tu hành, đời đời kiếp kiếp chuyên cần mới có thể chứng quả vị Sơ Trụ. Từ sơ trụ đến thất địa phải đủ hai A Tăng Kỳ kiếp. Bạn thấy thông thường những người tu các pháp môn khác khó cỡ nào, khổ cực cỡ nào; phải dùng thời gian không cách gì tính đếm mới có thể tu đến Thất địa. Trong niệm Phật đường của chúng ta, người căn tánh lanh lợi, niệm mấy ngày liền thành tựu; người căn tánh chậm lụt thì niệm ba năm, năm năm cũng thành tựu. Bạn thấy thời gian ba đến năm năm có thể vượt qua pháp thân đại sĩ hai A Tăng Kỳ kiếp. Những thứ khác thì không cần phải nói, Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên Giác trong mười pháp giới không nói đến, chúng ta siêu vượt Pháp Thân Đại Sĩ trong hội Hoa Nghiêm hai A Tăng Kỳ kiếp, đây mới gọi là chân thật chi lợi.
Phật dùng phương pháp gì?
Phương pháp huyền diệu thông qua hồng danh sáu chữ, dạy bạn “phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”. Một lòng chuyên niệm thì các đồng tu có, nhưng phát tâm Bồ Đề thì đồng tu không nhiều. Các vị phải nên ghi nhớ, cần phát tâm Bồ Đề và một lòng chuyên niệm mới thành công. Nếu bạn một lòng chuyên niệm mà không phát tâm Bồ đề thì ngay trong đời không thể thành tựu, chẳng qua chỉ kết thiện duyên với Phật A Di Đà mà thôi. Nếu phát tâm Bồ đề, niệm Phật ít cũng có thể vãng sanh. Đây đúng như đại sư Ngẫu Ích trong Kinh A Di Đà Yếu Giải khuyên chúng ta, người niệm Phật có thể vãng sanh hay không là do có tín nguyện hay không (tín nguyện là tâm Bồ Đề), sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc phẩm vị cao thấp do công phu niệm Phật sâu hay cạn. Công phu niệm Phật của bạn cạn, phẩm vị vãng sanh thấp; công phu niệm Phật sâu, phẩm vị vãng sanh cao. Lời của đại sư Ngẫu Ích trùng ý của Phật A Di Đà. Ấn Tổ cũng khẳng định, kinh A Di Đà mà đại sư Ngẫu Ích chú giải đích thực là bổn ý của Phật A Di Đà. Như vậy, chúng ta phải phát tâm Bồ Đề.
Làm thế nào để phát tâm Bồ Đề? Trước tiên, chúng ta phải biết tâm Bồ Đề là gì? Đại sư Ngẫu Ích nói trong Yếu Giải đó là “một lòng chuyên chú cầu sanh Tịnh Độ”. Lời giải thích rất dễ hiểu, nói cách khác, chúng ta chỉ một lòng một dạ cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, chỉ cầu thấy Phật A Di Đà, tất cả thứ khác thảy đều buông bỏ, quyết không để trong lòng, người như vậy đầy đủ viên mãn tâm Bồ Đề. Nếu đối với thế gian còn những việc vướng mắc bận lòng thì tâm Bồ Đề của bạn chưa phát, bạn chưa triệt để buông bỏ thế gian. Cho nên, người phát tâm Bồ Đề buông bỏ thế xuất thế gian pháp, tâm địa thanh tịnh mảy trần không nhiễm, sau đó một lòng chuyên niệm, trong lòng chỉ có câu A Di Đà Phật rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, như vậy mà niệm Phật liền nhất định vãng sanh. Đây là lợi ích chân thật, cụ thể áp dụng cho tất cả chúng sanh. Chỉ có phương pháp này mới mãn hoằng nguyện cứu độ và phổ độ của chư Phật.
Chúng ta phát nguyện làm đệ tử Như Lai thì phải học Phật, phải hướng đến Phật mà học tập ba câu này. Ba câu quy nạp lại chính là bốn chữ: “Hoằng pháp lợi sanh”. “Quang xiển đạo giáo” là hoằng pháp; “dục chẩn quần minh” và “huệ dĩ chân thật chi lợi” là lợi sanh, quyết không vì chính mình. Chính mình tất nhiên được lợi ích lớn hoặc lợi ích chân thật. Lợi ích tất cả chúng sanh mới là lợi ích chính mình. Mỗi niệm vì quang đại Phật pháp. Chỉ có Phật pháp mới cứu độ tất cả chúng sanh mười pháp giới, chúng ta phải làm thế nào quang đại Phật pháp.
Vì sao phải hoằng dương Phật pháp? Vì chỉ có Phật pháp mới có thể độ chính mình và độ chúng sanh. Chúng ta phát tâm xuất gia vì cái gì? Chính là vì sự việc này nên nhất định phải làm tốt, nhất định phải y giáo phụng hành, cụ thể là năng tín, năng giải, năng nguyện, năng hành. Kinh Phật dạy chúng ta làm, chúng ta quyết nỗ lực làm; kinh dạy không nên làm, chúng ta nhất định nghe lời. Không những thân không làm, mà ngay đến ý niệm cũng không khởi, vậy mới gọi là học Phật. Học Phật chính là học tập với Phật.
“NAN TRỰC NAN KIẾN, NHƯ ƯU ĐÀM HOA, HY HỮU XUẤT HIỆN. NHỮ KIM SỞ VẤN, ĐA SỞ NHIÊU ÍCH”
“Nan trực”, “trực” là gặp được. Phật không thường hay xuất hiện ở thế gian. Chúng ta xem kinh Di Lặc Hạ Sanh có thể thấy, sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, sức ảnh hưởng của Ngài vẫn tương đối lớn, Phật pháp gọi là pháp vận, kinh Phật cho biết thời hạn mười hai ngàn năm. Thế Tôn năm xưa ở đời giảng kinh nói pháp bốn mươi chín năm, sức ảnh hưởng có thể đến mười hai ngàn năm sau. Căn cứ theo ghi chép của người Trung Quốc, Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến nay là ba ngàn không trăm hai mươi mấy năm. Pháp vận của Ngài hay sức ảnh hưởng của Ngài phải còn đến chín ngàn năm nữa. Sau chín ngàn năm, thế gian không còn Phật pháp, mãi đến Bồ Tát Di Lặc hạ sanh ở nhân gian, thị hiện thành Phật, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật để biểu diễn một lần. Thời gian trong khoảng trống đó quá dài, kinh Phật nói cũng gần năm mươi bảy ức vạn năm. Bạn thấy, gần năm mươi bảy ức vạn năm thế gian không có Phật pháp. Pháp vận của Phật là mười hai ngàn năm so với năm mươi bảy ức vạn năm là không thể so sánh.
Chúng ta đến nhân gian đầu thai, làm thế nào khi vừa đầu thai thì liền gặp Phật pháp, trùng hợp như vậy? Cho nên kinh mới nói là “khó gặp khó thấy”. Chúng ta trong sáu cõi luân hồi đời đời kiếp kiếp xả thân thọ thân, không thể chắc chắn mỗi lần được thân người đều nghe Phật pháp, làm gì có cơ hội tốt thế? Nếu có cơ hội tốt thì bạn sớm đã thành Phật, không còn làm phàm phu nữa. Cơ hội này rất khó gặp, nên Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Do đó nếu gặp thì nhất định phải trân quý cơ hội. Đời này chúng ta đã gặp thật không dễ dàng gì.
Chúng ta được thân người, lại nghe Phật pháp; không chỉ nghe Phật pháp, mà còn nghe Phật pháp chân chính, đạt lợi ích chân thật. Với kinh Vô Lượng Thọ, pháp môn Tịnh Độ, nếu bạn nhận biết không sâu, không đủ thấu triệt, thì bạn làm sao biết trân trọng cơ hội này? Chỉ có chân thật thấu triệt, chân thật hiểu rõ mới nắm chặt cơ hội không để lỡ qua. Biết đây là cơ hội hi hữu khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay, làm sao có thể để nó vuột mất?
Chúng ta giảng kinh nói pháp nơi đây, nhất định sẽ không để lỡ lần nào. Khi tôi học Phật, tôi đã hiểu rõ. Tôi theo lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam mười năm. Mỗi lần thầy lên lớp giảng kinh, tôi chưa từng để lỡ lần nào. Thỉnh thoảng bên ngoài mời thầy đi giảng, chúng tôi cũng đi theo. Chúng tôi phát tâm làm tùy tùng, làm chúng thường tùy của lão sư Lý. Đại khái khoảng vài ba chục người không vắng mặt buổi giảng nào. Đó là do chúng tôi sâu sắc hiểu rõ cơ hội hi hữu khó gặp. Trừ khi bị bệnh thì hết cách, còn bất cứ nhân duyên nào cũng đều không trở ngại.
Hai câu phía sau nêu thí dụ: “Như hoa Ưu Đàm, hi hữu xuất hiện”. Hoa Ưu Đàm còn gọi là hoa Đàm. Loại hoa Đàm ở thế gian chúng ta nở vào nửa đêm, thời gian nở rất ngắn, chỉ sau hai ba giờ đồng hồ thì úa tàn. Muốn xem hoa Đàm thì nhất định phải vào nửa đêm bạn mới có thể xem thấy. Đó là hình ảnh ví dụ cho sự khó thấy, hi hữu xuất hiện. Cho nên phải đầy đủ rất nhiều điều kiện, cộng thêm thiện căn phước đức chín muồi. Như Lai cùng những chúng sanh này duyên phận chín muồi hay không quyết không phải sự việc đơn giản. Trước khi Phật nói chân tướng sự thật cho chúng ta nghe, Phật nhắc nhở chúng ta lưu ý pháp môn mà A Nan cho rằng “rất hi hữu, rất khó được”.
Hai câu phía sau tán thán A Nan đã hỏi: “nhữ kim sở vấn, đa sở nhiêu ích”. A Nan vừa hỏi tức là mang đến vô lượng vô biên lợi ích phong phú cho tất cả chúng sanh. Sự việc này thực tế Thế Tôn quan sát nhân duyên đã chín muồi. A Nan cũng không phải người thông thường, đều là Pháp Thân Đại Sĩ thừa nguyện tái lai, giúp đỡ Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh. Cũng giống như diễn kịch trên sân khấu, Thích Ca Mâu Ni Phật diễn vai chính, tôn giả A Nan diễn vai phụ. Các Ngài đều đang biểu diễn trên sân khấu, mục đích giúp chúng sanh giác ngộ. Phật nói “đa sở nhiêu ích” là chính xác, lợi ích vô lượng vô biên.
“A NAN ĐƯƠNG TRI! NHƯ LAI CHÁNH GIÁC, KỲ TRÍ NAN LƯỢNG, VÔ HỮU CHƯỚNG NGẠI. NĂNG Ư NIỆM KHOẢNH, TRỤ VÔ LƯỢNG ỨC KIẾP. THÂN CẬP CHƯ CĂN, VÔ HỮU TĂNG GIẢM”
Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta chế định giới luật, nhất quyết cấm chúng ta khen mình chê người. Phật dạy phải khiêm nhường, nhưng vì sao ở đây Thích Ca Mâu Ni Phật lại tán thán chính mình? Đó là lòng từ bi tột đỉnh. Thực tế do bất đắc dĩ lo bạn không tin tưởng và vì không có người nào có thể tán thán Phật, nên Phật đành phải tán thán chính mình vài câu, hy vọng bạn hiểu rõ mà sanh khởi tín tâm kiên định thì mới đạt được lợi ích chân thật. Nếu tín tâm đối với Phật không đủ, đại pháp có tốt hơn cũng sẽ lỡ qua trước mặt, đó mới là việc đáng tiếc. Cho nên Phật gọi “A Nan, ông phải nên biết”.
A Nan là thị giả của Phật. Bình thường Phật giảng kinh, Ngài không hề bỏ sót buổi giảng nào. Ngài nghe kinh rất nhiều. A Nan cũng có trí tuệ tương đối. Ngay trong mười đệ tử, Ngài là đa văn đệ nhất. Vì vậy Phật nói: “Ông phải nên biết”: “Như Lai chánh giác, kỳ trí nan lượng”. Cách nói của Thế Tôn tuy tán thán chính mình nhưng vẫn còn mấy phần khiêm tốn. Phật không hề bảo chúng ta nên biết, mà chỉ gọi A Nan. Người khác không hề biết nhưng A Nan phải biết. Câu “Như Lai chánh giác”, Thích Ca Mâu Ni Phật không hề nói riêng một mình Ngài. Như Lai là bao gồm mười phương tất cả chư Phật. Điểm này chính mình tán thán với kỹ thuật cao minh. Tất cả chư Phật Như Lai chánh giác. “Như” là chân như, thành đạo chân như mà đến thị hiện làm Phật nên gọi là Như Lai. Chúng ta cũng có thể nói, nương vào đại đạo nhất như của A Di Đà Phật mà đến thị hiện thành Phật, thì gọi là Như Lai. Như Lai là ứng thân của Như Lai. Đến phẩm sau có mười hiệu của Phật, tôi sẽ giảng giải tỉ mỉ với các vị. Như Lai có pháp thân, báo thân, ứng hóa thân. Chỗ này nói ứng thân. “Chánh giác” là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, do văn tự đã tỉnh lược bớt. Thị hiện thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng giống như Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời thị hiện cho chúng sanh vậy.
“Kỳ trí nan lượng”, trí tuệ Phật vô lượng vô biên không chướng ngại. Trong bổn kinh, chúng ta từ phần trước có một đoạn kinh văn lớn cho thấy, Thích Ca Mâu Ni Phật lúc đó trụ niệm Phật Tam Muội. Niệm Phật Tam Muội là Tam Muội trung vương. Tam muội cũng dịch là thiền định. Tất cả thiền định đều không thể so sánh được với sức định của niệm Phật. Trong Đại Tập kinh, Phật cũng đã nói rõ “niệm Phật chính là thâm diệu thiền”, không phải là thiền thông thường mà cao minh hơn rất nhiều so với thiền thông thường. Thiền định thông thường có ra có vào. Khi vào định thì cảnh giới thiền định hiện tiền, khi xuất định thì định cảnh mất hết. Người niệm Phật chỉ riêng một câu Phật hiệu, buông bỏ vạn duyên, đi đứng nằm ngồi đều trong định, nên gọi là thâm diệu thiền. Vậy chúng ta biết, thiền định sanh trí tuệ. Tam Vô Lậu Học thường nói: “Nhân giới được định, nhân định khai trí tuệ”. Thiền định có thể khai mở trí tuệ. Thiền định cực diệu sanh khởi ra chính là diệu huệ. “Kỳ trí nan lượng” vượt hơn trí tuệ thông thường của Bồ Tát. Định huệ của tất cả Bồ Tát không thể so sánh, trí tuệ của Bồ Tát cũng không thể xưng lượng, đó gọi là nan lượng. “Xưng” là xưng nói, “lượng” là cân nhắc, thông thường Bồ Tát không làm được. Chỗ này tương đương kinh dạy: “Duy Phật dữ Phật phương năng cứu cánh”. Ngay đến Bồ Tát Đẳng giác cũng không cách nào hoàn toàn hiểu rõ.
Câu sau cùng chỉ tác dụng. Họ khởi tác dụng, “không có chướng ngại”, thông đạt tất cả pháp. Đoạn tổng tiêu đề “pháp báo đức dụng” là pháp thân, báo thân của Phật và tác dụng của các Ngài. Đoạn nhỏ này là “giác trí nan lượng” bao gồm “Bát Nhã Đức”. Đoạn phía sau là “Đức Dụng Viên Dung”. Theo văn kinh: “Năng ư niệm khoảnh, trụ vô lượng ức kiếp”, đó là một thí dụ. “Niệm khoảnh” chỉ thời gian rất ngắn, như trên kinh Hoa Nghiêm: “Tri vô lượng kiếp thì nhất niệm, tri nhất niệm tức vô lượng kiếp”. Cổ đức cho chúng ta biết, cảnh giới này sự sự vô ngại, diễn biến đồng thời, đột phá hiện tượng thời gian. Đó là chân tướng sự thật. Nếu chúng ta đột phá được hiện tượng thời gian, đột phá hiện tượng không gian, thì chính là vô lượng thọ mà thế giới Tây Phương Cực Lạc đã nói. Không chỉ tuổi thọ vô lượng mà không thứ nào không vô lượng, trí tuệ vô lượng, đức năng vô lượng, thần thông vô lượng, biến hóa vô lượng, thị hiện vô lượng, nói pháp vô lượng. Hiện tại mọi người đều ưa thích vàng bạc tiền của. Vàng bạc của cải cũng vô lượng.
Nếu bạn hiểu rõ sự thật, bạn muốn có tất cả vô lượng, thì cứ pháp môn này mà học; hơn nữa, đời sống chúng ta nhất định có thể đạt được. Pháp môn khác thì chưa chắc, vì cái bạn đạt rất giới hạn, còn trong pháp môn này bạn có vô lượng viên mãn. Mỗi câu đều chân thật, cho nên họ trong khoảnh một niệm, trong thời gian ngắn đến vậy mà “trụ vô lượng ức kiếp”. Thời gian ngắn có thể kéo dài. Một sát na, khoảnh một niệm có thể biến thành vô lượng kiếp. Đương nhiên cũng có thể đem vô lượng kiếp biến thành một niệm, một sát na, sự sự vô ngại. Hiện tại khoa học gọi là siêu việt thời không. Con người siêu việt thời không thì liền tùy ý quay về quá khứ, tùy ý bước vào tương lai. Quá khứ, hiện tại, tương lai đều không có, đó là siêu việt thời gian, đồng thời cũng siêu việt không gian. Chúng ta ở hiện tiền, nếu muốn nghe Phật A Di Đà giảng kinh nói pháp, hiện trường của thế giới Cực Lạc là Phật A Di Đà đang giảng kinh nói pháp ngay trước mặt ta với cự ly rất gần, siêu việt không gian, gọi là “thập vạn ức cõi Phật, bất cách hào đoạn”.
Làm thế nào để siêu việt? Lìa tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì siêu việt. Ngày nay chúng ta không cách nào siêu việt, mà bị trùng trùng chướng ngại của không gian thời gian, không tự do, không tự tại, nguyên nhân là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Những thứ này không thể không buông bỏ. Tường tận biết rõ thì phải mau buông bỏ. Quả nhiên sau khi buông bỏ, bạn niệm Phật sẽ hoàn toàn khác. Lúc đó niệm Phật sẽ một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật. Mỗi danh Phật hiệu đều tương ưng với tâm tánh của chính mình, tương ưng với Phật A Di Đà và tương ưng mười phương Như Lai. Do đây mà biết, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chúng ta chưa buông bỏ nên cảnh giới này không thể hiện tiền. Chúng ta phải tỉ mỉ mà suy xét.
Chúng ta có hy vọng hiện tại được lợi ích chân thật hay không? Muốn thế, bạn phải giúp đỡ chính mình. Phật đích thực từ bi đã đem phương pháp, lý luận, cảnh giới truyền đạt cho chúng ta. Được lợi ích chân thật hay không phụ thuộc chính mình có chịu tiếp nhận hay không? Không chịu tiếp nhận thì Phật cũng không còn cách. Chịu tiếp nhận, hoan hỉ tiếp nhận chính là Phật độ người có duyên. Chúng ta nghe rồi vẫn không chịu buông bỏ, vẫn còn hoài nghi, do dự, tham luyến thế gian; thế gian vạn sự vạn vật, chỉ cần tham luyến một việc thì liền tạo thành chướng ngại lớn, chướng ngại bạn kiến tánh, chướng ngại bạn tương ưng, tuy bạn niệm Phật nhưng không tương ưng.
Chịu buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, tâm bạn trở nên thanh tịnh, là tâm bình đẳng. Thanh tịnh bình đẳng giác chính là A Di Đà Phật. Như vậy bạn niệm Phật ra được tự tánh Di Đà, lúc này đương nhiên tương ưng với thế giới Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, gọi là “một niệm tương ưng một niệm Phật”. Mọi người nghe nhiều, thậm chí đã quen tai, thế nhưng có nghĩ lúc nào ta tương ưng? tương ưng mấy phần? Chỉ cần ý niệm khởi lên là tốt, chứng tỏ bạn bắt đầu giác ngộ. Sự giác ngộ này không nên gián đoạn, phải càng nỗ lực, càng cố gắng hướng về phía trước mà đột phá, thì cảnh giới của bạn ngày càng cao, cảnh giới ngày càng tốt, bạn càng có tín tâm, nguyện lực của bạn càng mạnh. Kinh nói đó là “dõng mãnh tinh tấn”, quyết không thoái chuyển. Chỗ này là tín sâu, giải thấu triệt.
Giảng kinh nói pháp mục đích vì mọi người giải thích, giúp mọi người hiểu thấu triệt chân tướng sự thật. Sau đó trong hành môn không có trở ngại, bạn sẽ học đúng pháp. Ngay đời sống của bạn, công việc của bạn, đối nhân xử thế tiếp vật mọi thứ đều tự tại, đều như pháp.
Hai câu tiếp theo lại nêu lên một thí dụ: “Thân cập chư căn, vô hữu tăng giảm”. “Thân” là thân thể, “căn” là sáu căn. Căn thân không tăng không giảm, các vị thử nghĩ xem đó là gì? Là vô lượng thọ. Chúng ta đọc qua bổn kinh, người thế giới Tây Phương Cực Lạc không già yếu. Chúng ta già yếu là có tăng có giảm. Hai chữ “tăng giảm” ý nghĩa là biến hoá. Căn thân chúng ta biến hoá mỗi năm không như nhau, năm sau già yếu hơn năm trước rất nhanh. Ngày trước tôi cũng y như các bạn thanh niên hiện tại, cũng trẻ trung, hoạt bát, dường như chỉ mới hôm qua. Hôm nay, bỗng chốc đã già. Ngay trong bạn bè, hiện tại vừa gặp lại thì tóc bạc trắng, người xuất gia cạo tóc nên không thấy. Vừa gặp bạn bè cũ, tuổi tác gần như nhau, mỗi người đầu tóc đều bạc, tôi mới biết mình già. Nghĩ lại chỉ là việc của ngày hôm qua, sự thay đổi quá lớn.
Con người trên thế gian đích thật đang say sống mộng chết, mơ mơ hồ hồ trải qua ngày tháng. Thời gian trôi rất nhanh, nếu không nắm bắt cơ hội thì phải làm sao? Qua vài ngày, bạn già yếu, thể lực suy giảm, bạn muốn làm cũng không được. Đó là việc tu hành, còn làm việc tốt cũng phải nắm lấy cơ hội. Cơ hội trôi qua thì duyên bị cắt đứt, muốn tu ít phước cũng không có cơ hội để tu. Bạn xem, loại người đó có đáng thương hay không? Kinh Phật thường dùng cụm từ “kẻ đáng thương”, chúng ta phải nghĩ nhiều đến ý nghĩa cụm từ này.
Căn thân của Như Lai, một là ba, ba là một. Ba là ba thân: pháp thân, báo thân, ứng thân, nên tướng của các Ngài đại viên mãn. Đoạn mở đầu kinh Địa Tạng, chúng ta thấy “đại quang minh vân”, phía sau lại nêu lên mười loại, thứ nhất là “đại viên mãn”. Căn thân của Phật triển hiện đại viên mãn. Nếu chúng ta niệm Phật vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, bốn câu này mỗi người chúng ta đều có phần: “Năng ư niệm khoảnh, trụ vô lượng ức kiếp, thân cập chư căn, vô hữu tăng giảm”. A Di Đà Phật như vậy, thế giới Tây Phương Cực Lạc mỗi người vãng sanh cũng đều như vậy. Thật không thể nghĩ bàn!
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên