- Phần 1
- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 11
- Phần 12
- Phần 13
- Phần 14
- Phần 15
- Phần 16
- Phần 17
- Phần 18
- Phần19
- Phần 20
- Phần 21
- Phần 22
- Phần 23
- Phần 24
- Phần 25
- Phần 26
- Phần 27
- Phần 28
- Phần 29
- Phần 30
- Phần 31
- Phần 32
- Phần 33
- Phần 34
- Phần 35
- Phần 36
- Phần 37
- Phần 38
- Phần 39
- Phần 40
- Phần 41
- Phần 42
- Phần 43
- Phần 44
- Phần 45
- Phần 46
- Phần 47
- Phần 48
- Phần 49
- Phần 50
- Phần 51
- Phần 52
- Phần 53
- Phần 54
- Phần 55
- Phần 56
- Phần 57
- Phần 58
- Phần 59
- Phần 61
- Phần 62
- Phần 63
- Phần 64
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 48)
Pháp Sư Tịnh Không
PHẨNIII
“ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI”
Phẩm này phát khởi tựa đề bổn kinh, nói rõ nhân duyên của pháp hội. Trong chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có vận dụng năm loại nguyên bản dịch, chúng ta có thể tham khảo đối chiếu.
“NHĨ THỜI THẾ TÔN, OAI QUANG HÁCH DỊCH, NHƯ DUNG KIM TỤ. HỰU NHƯ MINH KÍNH, ẢNH SƯỚNG BIỂU LÝ. HIỆN ĐẠI QUANG MINH, SỐ THIÊN BÁCH BIẾN”.
Đoạn này, Thế Tôn phóng quang hiện tướng lành, dẫn khởi nhân duyên thù thắng của pháp hội.
“Nhĩ thời” là khi giới thiệu phần chứng tín xong thì bắt đầu đại chúng tụ hội pháp hội, giống như chúng ta đến tham dự pháp hội đầy đủ ngày hôm nay. Phần tựa chứng tín tán thán trí tuệ đức năng của Bồ Tát dự hội, tôi cũng đã từng nói qua rất tỉ mỉ với các đồng tu.
Thế Tôn “oai quang hách dịch”. “Oai” là oai đức, “Quang” là quang minh, “Hách” là tường tận, “Dịch” là ý nghĩa tốt. Dáng vẻ của Thích Ca Mâu Ni Phật hiển lộ thù thắng khác thường, mỗi đại chúng dự hội đều nhận thấy rõ ràng. Câu sau còn nêu một hình ảnh khá hay: “Như dung kim tụ”. Chúng ta đọc kinh đều biết sắc tướng của Phật thường dùng sắc vàng. Vàng thuộc bảy báu, sở dĩ được người thông thường quí trọng bởi vì vàng ở bất cứ tình huống nào cũng không biến sắc. Màu sắc của nó vĩnh viễn tươi đẹp, nhất là khi vàng ròng tan chảy ở nhiệt độ cao, màu sắc càng đẹp hơn. Màu sắc này thí dụ cho vẻ mặt của Phật, thậm chí vẻ mặt của Phật còn thù thắng và đẹp hơn, không chút kém khuyết.
“Hựu như minh kính”, “minh kính” là trong ngoài phát sáng.
“Ảnh sướng biểu lý”. “Ảnh” là quang ảnh, biểu thị bên ngoài của Phật. “Sướng” là không chút chướng ngại. Từ biểu thị bên ngoài có thể thấy bên trong. Chúng ta thường nói sắc tướng của Phật trong suốt, thân thể trong suốt, đích thực như vậy. Nếu dùng lời thông thường mà nói, đó là hình tướng khoẻ mạnh.
Phàm phu vì sao trong ngoài không thấu suốt? Bởi vì phàm phu có vọng tưởng, phiền não, lo lắng, vướng bận, nên trong sắc tướng của phàm phu tối tăm, mờ mịt; ngoài ra không có năng lực thấy được người khác. Còn chư Phật Bồ Tát đã đoạn hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên trong ngoài của các Ngài trong suốt. Thế gian có một số người tu hành, đạt chút định lực. Chúng ta cho rằng họ có năng lực hàng phục phiền não chứ chưa đoạn, gọi là công phu thành khối. Loại người này tâm thanh tịnh, phiền não ít. Họ có năng lực xem thấy tất cả sắc thân của chúng sanh, cũng có thể xem thấy bên trong của sắc thân hiện tại chúng ta. Người công năng đặc biệt hoặc người có cặp mắt X-quang đều thuộc về loại này. Phật pháp gọi là thiên nhãn thông, tức năng lực xem thấy bên trong con người. Cho nên thân thể của bạn có trong suốt hay không, họ vừa nhìn liền biết được. Nếu trong suốt thì công phu tu hành rất cao, chí ít phiền não không còn khởi hiện hành. Thân tâm trong suốt nhất định không phải là người phàm, vì phàm phu không làm được.
Năm xưa tôi giảng kinh ở Maine Hoa Kỳ, từng gặp một người Mỹ có thiên nhãn. Khi tôi giảng kinh, ông ấy cũng đến nghe. Ông xem thấy Vô Lương Thọ Kinh Chú Giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, phía trước in một tấm hình lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Ông nói, thân thể của lão cư sĩ Hạ Liên Cư trong suốt, con người này không phải là người bình thường. Chúng tôi cảm thấy lạ, nếu ông ấy thấy thân thể trong suốt thì còn nói thông, nhưng chỉ xem một tấm hình mà nói người trong hình trong suốt thì thật khó hiểu. Ông ấy còn cho biết từ trước đến giờ, ông chưa từng thấy mặt hay nghe nói đến lão Hạ Liên, nhưng khi ông nói sơ qua trên tổng thể thì rất chính xác. Ông ấy nói, con người này hiện tại không còn ở đời, là người tái sanh, năm xưa khi ở đời cũng gặp không ít khó khăn,… tất cả các chi tiết đều rất gần với sự thật. Cho nên, chúng ta có thể phán đoán lời ông người Mỹ đáng tin.
Đến “ảnh sướng biểu lý”, công phu tương đối thì ta có thể hình dung thân thể Thích Ca Mâu Ni Phật trong ngoài trong suốt, ánh sáng phát ra, “oai quang hách dịch”. Bên ngoài thì biến chiếu pháp giới, bên trong chiếu đến tự tánh, đó là ý nghĩa biểu thị của “ảnh sướng”. “Ảnh” là biểu, “sướng” là lý, ý nói bên trong.
“Hiện đại quang minh, số thiên bách biến”, ngay trong quang minh biến hóa vô lượng. Nghĩa là, Phật quang phổ chiếu pháp giới, không hề khác với cảnh giới kinh Hoa Nghiêm, “biến chiếu pháp giới”. Pháp giới, thể tánh, hiện tướng, sự lý, nhân quả, chuyển biến vô lượng vô biên. Cảnh giới này trong “đại quang minh” hiển lộ. Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Phật hiện ra loại cảnh giới này nhất định không ngẫu nhiên mà phải có đại nhân duyên, nếu không thì Phật sẽ không hiện ra cảnh giới thù thắng như vậy. Năm xưa trong hội, tôn giả A Nan từng nhìn thấy.
“TÔN GIẢ A NAN, TỨC TỰ TƯ DUY: KIM NHẬT THẾ TÔN, SẮC THÂN CHƯ CĂN, DUYỆT DỰ THANH TỊNH, QUANG NHAN NGUY NGUY, BẢO SÁT TRANG NGHIÊM, TÙNG TÍCH DĨ LAI, SỞ VỊ TẰNG KIẾN. HỈ ĐẮC CHIÊM NGƯỠNG, SANH HI HỮU TÂM”
Tôn giả A Nan là thị giả của Thế Tôn, thường hay bên cạnh Thế Tôn nhiều năm nhưng chưa từng thấy dung nhan Thế Tôn thị hiện như hôm nay. A Nan liền nghĩ tưởng: “Sắc thân chư căn, duyệt do thanh tịnh”, hai câu khiến người người ngưỡng mộ. “Sắc thân” là thân tướng của Thế Tôn, “chư căn” là sáu căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Toàn thân Thế Tôn đều an vui, đến lỗ chân lông cũng mỉm cười, thanh tịnh không gì bằng. Cái “thanh tịnh” này là tâm thanh tịnh, “căn thân duyệt do”.
“Quang nhan nguy nguy, bảo sát trang nghiêm”. “Nhan” là dung nhan, diện mạo, dáng vẻ của đức tướng Thế Tôn. “Nguy nguy” là thù thắng. “Bảo sát trang nghiêm” là “hiện đại quang minh, số thiên bách biến”. Phật phóng quang, trong hào quang hiển thị mười phương tất cả cõi nước chư Phật, là việc hi hữu.
“Tùng tích dĩ lai, sở vị tằng kiến”. A Nan nghĩ lại, từ lúc xuất gia theo Phật làm thị giả nhiều năm đến nay, chưa từng thấy Thế Tôn có tướng lạ như vậy. Kinh điển ghi chép, hôm đó Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành đạo ở dưới cội Bồ Đề, đêm nhìn sao sáng, đại triệt đại ngộ. Chính vào lúc này, A Nan mới sanh ra đời. Tin tức thông báo đến vua Tịnh Phạn rằng em trai vua sanh một con trai, lại nghe nói hôm nay thái tử thành Phật, song hỉ lâm môn, vua liền đặt tên cho con trai của người em là A Nan. “A Nan” dịch thành Trung văn là khánh hỉ, song hỉ lâm môn. Năm hai mươi tuổi, A Nan xuất gia. Như vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh nói pháp bốn mươi chín năm, nhưng A Nan chỉ nghe pháp hai mươi chín năm, còn hai mươi năm đầu không nghe được. Sau khi xuất gia làm thị giả của Phật, hai mươi chín năm tôn giả A Nan không bỏ sót một pháp hội nào. Ngài được gọi là đa văn đệ nhất vì sức ghi nhớ siêu phàm của mình, nghe qua một lần vĩnh viễn không quên. Khi xuất gia, A Nan thỉnh cầu Thế Tôn trùng tuyên giảng lại những lần giảng kinh của hai mươi năm trước mà ông không nghe được. Thế Tôn đồng ý. Do đó pháp mà Thế Tôn giảng trong bốn mươi chín năm, A Nan đều nghe đủ, không sót hội nào.
Sau khi Thế Tôn diệt độ, A Nan trở thành nhân vật quan trọng trong công tác kết tập kinh điển. Tất cả kinh điển đều do A Nan giảng lại. Khi giảng, phía dưới có đồng tu ghi chép. Thế Tôn năm xưa giảng kinh nói pháp tuyệt nhiên không ghi chép. Vậy A Nan giảng lại liệu có sai không? Điểm này chúng ta không cần hoài nghi. Thế Tôn sớm biết rõ nên khi A Nan trùng tuyên giảng lại, đã có năm trăm vị A La Hán làm tác chứng. Năm trăm vị ngồi nghe A Nan giảng, sau đó thông qua, nên việc giảng không hề sai. Thế Tôn nói, như vậy mới có thể ghi chép lại. Nếu chỉ một người đưa ý kiến thì câu giảng này không thể ghi chép. Cho nên, kết tập kinh tạng không phải số ít phục tùng số nhiều, mà chỉ cần một người nêu ra ý khác thì không được ghi chép lời giảng đó. Nhất định phải được năm trăm vị A La Hán gật đầu đồng ý, đều khẳng định Thế Tôn giảng đúng như vậy, lúc đó mới ghi chép. Đó là chánh tín, để người sau đọc kinh điển đều có thể đoạn nghi sanh tín. A Nan trùng tuyên so với Thế Tôn năm xưa đã giảng không hề khác biệt. Ngày trước kết tập kinh tạng nghiêm túc, thận trọng như vậy, thật không thể nghĩ bàn.
A Nan thực tế mà nói cũng là Pháp Thân Đại Sĩ thừa nguyện tái lai thị hiện. Ngay những đệ tử của Phật, đặc biệt trong kinh điển đại thừa, đều là đại A La Hán. Chữ “đại” là đại thừa. “A La Hán” là tiếng Phạn, dịch sang Trung văn là “vô học”, tức đã tốt nghiệp. Tiểu thừa A La Hán là tốt nghiệp trong tiểu thừa. Cái họ học đều đã học xong, không còn thứ gì để học nữa mới gọi là quả A La Hán. Trong pháp đại thừa, “A La Hán” cũng là đã tốt nghiệp, đó là quả vị Bồ Tát Pháp Vân Địa, Bồ Tát thập địa. Kinh thường nói, “ba A Tăng Kỳ kiếp viên mãn thành Phật”. “Ba A Tăng Kỳ kiếp” gồm Bồ Tát Thập Địa, Bồ Tát Pháp Vân Địa. Nếu kinh nói những người này đều là A La Hán, hay nói cách khác, vị thứ của họ thấp nhất là Bồ Tát đại thừa Pháp Vân Địa thì đó là ở vết tích mà nói. Bổn lai diện mục của họ bộc lộ cho chúng ta, họ biểu diễn một tiểu thừa sơ quả Tu Đà Hoàn. Tôn giả A Nan vào lúc này ở địa vị như vậy, còn trên thực tế thì là Pháp Thân Đại Sĩ. Chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật thì đối với việc kết tập kinh điển mới không hoài nghi.
Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn rất nhiều người khó tin tưởng. Chúng ta chẳng thể trách họ. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện cũng báo trước, chúng sanh cõi Ta Bà, đặc biệt thời mạt pháp “cứng đầu khó dạy”, dễ gì họ tin tưởng. Người chân thật tin tưởng có hai loại. Một là căn tánh thông minh lanh lợi, bạn vừa nói thì họ liền thông hiểu, tin sâu không nghi. Hai là người trong đời quá khứ thiện căn phước đức sâu dày, bạn giảng cho họ nghe, họ có thể tiếp nhận. Khi vừa nhắc đến thì dẫn khởi thiện căn, phước đức trong đời quá khứ, họ liền tin tưởng không hoài nghi. Hai loại người này có thể đạt lợi ích, Phật pháp gọi là chúng sanh căn tánh chín muồi. Căn tánh chín muồi có thể được độ. Đã không phải thượng căn lợi trí, lại không phải thiện căn phước đức chín muồi thì làm sao họ không hoài nghi? Nhất định sẽ hoài nghi.
Loại hoài nghi này Phật pháp nói đến rất nhiều. Nghi là chướng ngại lớn nhất của Bồ Tát, là đại phiền não. Theo sau tham sân si mạn cũng là nghi. Không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận là phiền não chướng. Cái nghi này chướng ngại rất lớn. Bởi vì nghi nên tri kiến của họ không phải là chánh tri, chánh kiến, mà là tri kiến sai lầm. Chấp trước tri kiến sai lầm của mình thì liền biến thành thiên kiến. Phật pháp quy nạp được năm loại kiến hoặc.
- Thân kiến, chấp trước cái thân này là ta.
- Biên kiến, chính là thiên kiến.
- Kiến thủ kiến.
- Giới thủ kiến.
- Tà kiến.
Phàm hễ không thuộc về kiến giải sai lầm của bốn loại trước thì gọi là tà kiến. Tà kiến là kiến giải sai lầm. Thế giới ngày nay vì sao loạn? Ngày trước nói thế giới đại loạn chúng ta rất khó thể hội, nhưng hiện tại nói thế giới đại loạn thì ai cũng biết. Người người đều xem thấy, mỗi người đều đích thân cảm nhận loạn thế. Do đâu mà loạn? Từ thiên kiến ra.
Phật dạy chúng ta phải đoạn trừ thiên kiến, phải viên mãn kiến giải. Phật pháp nói viên, tức là tín phải viên tín, giải phải viên giải, hành phải viên hành, chứng phải viên chứng, giác ngộ phải viên giác, tu hành phải viên tu, đều phải viên, không thiên vì thiên thì hỏng. Người đời ngày nay chú trọng thiên kiến. Thiên ở khoa học kỹ thuật, thiên ở tài phú nên cả thảy văn hóa, đời sống không quân bình. Nghiêng một bên thì tâm bệnh xảy ra. Chúng ta nên xem lại giáo huấn của Phật Bồ Tát, các cổ thánh tiên hiền so với người hiện tại đã dạy và học đích thực không giống nhau. Nho Phật chú trọng toàn diện. Chỉnh thể của vũ trụ nhân sanh không nghiêng trọng ở bộ phận nào. Mất đi sự cân bằng cũng giống như địa cầu hiện tại mất cân bằng, có nguy cơ tai nạn. Đạo lý này rất sâu, không dễ gì thể hội. Hiện tại chúng ta trước mắt đã và đang nhận chịu.
Trong hội này, tôn giả A Nan cũng vậy, từ trước đến giờ chưa từng thấy Thế Tôn có tướng lạ đặc biệt đến thế. “Hỉ đắc chiêm ngưỡng”, sau khi xem thấy rất hoan hỉ, “sanh hi hữu tâm”. Tướng lạ hi hữu thì Thế Tôn nhất định sẽ nói pháp môn hi hữu. Ngài hiện tướng lạ cùng giáo học của Ngài luôn có liên quan. Thời gian A Nan theo Phật rất lâu. Mỗi lần Phật giảng kinh nói pháp đều phóng quang hiện tướng, cho nên mọi người vừa nhìn thấy Phật có tướng lạ liền biết Phật sắp nói pháp. Nhưng tướng lạ hôm nay hi hữu không gì bằng.
“TỨC TÙNG TỌA KHỞI, THIÊN ĐẢN HỮU KIÊN, TRƯỜNG QUỲ HIỆP CHƯỞNG”.
Đó là lễ tiết, “lễ tán trần từ” mà hiện tại chúng ta gọi là thỉnh pháp. Trước khi thỉnh pháp nhất định phải hành lễ, đại biểu chính mình trọng pháp, người Trung Quốc gọi là tôn sư trọng đạo, nên không thể phế bỏ lễ. Hiện tại tuy không nói lễ nhưng khi gặp người lễ phép, mọi người đều hoan hỉ. Lễ thuận theo tánh người, nên người có lễ mạo luôn hoan hỉ. Vì vậy, nhất định phải học lễ.
Ngày xưa tôi ở Đài Trung thân cận lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy giảng cho chúng tôi nghe Lễ Ký. Biên độ của Lễ Ký rất rộng. Vừa mở đầu, thầy nói lý do thầy giảng Lễ Ký không phải muốn chúng tôi học lễ, vì học lễ rất khó, mà dạy chúng tôi hiểu thường thức của lễ, hy vọng tương lai đối nhân xử thế tiếp vật đừng để người khác chán ghét. Bài khóa này rất có ý nghĩa, chúng tôi liền thành tựu. Yêu cầu không quá cao, dù trình độ thấp nhưng bạn ra ngoài tiếp xúc với đại chúng, người ta sẽ không chán ghét bạn. Lão sư Lý dạy chúng tôi Lễ Ký là nhằm mục đích này. Người xưa nói: “Bất học lễ vô dĩ lập”, không hiểu lễ mạo thì bạn sẽ không có chỗ đứng trong xã hội, vì Trung Quốc từ xưa đến nay rất chú trọng lễ nghĩa.
Giáo học của Lễ vào thời xưa là khóa trình từ khi còn trẻ thơ cần phải học. Bắt đầu học từ lúc bảy tuổi đến trường. Thời gian tiểu học tập trung học lễ, dạy bạn qui củ đối nhân xử thế tiếp vật. Đến đầu năm Dân quốc còn một môn học mà tôi chưa học qua, phải lớn hơn tôi năm tuổi mới học. Đến tuổi tác như tôi khi đi đọc thì môn học này không còn. Môn học này dạy tu thân. Tôi xem qua sách khóa trình học tu thân trong tiểu học, nhưng khi đi học thì bài khóa này đã bị phế bỏ, đổi thành môn công dân, nội dung giống chút ít. Hiện tại e rằng trường học không còn môn này, nhất là thời hiện tại đề xướng dân chủ, tự do, mở rộng, nhân quyền. Những thứ này thuộc thời cuộc nên nhất định không thể phản đối. Nhưng kỳ thực đó là thiên kiến, nó tuyệt nhiên không thể mang an định hòa bình cho cả thế giới. Tỉ mỉ suy nghĩ thì những khẩu hiệu này dường như còn mang đến tai nạn. Chúng ta vẫn không phản tỉnh, không giác ngộ hay sao? Những khẩu hiệu này là chân lý sao? Rất đáng được chúng ta sâu sắc phản tỉnh từ phương diện lễ tiết.
“Tức tùng tọa khởi”, khi nghe kinh mỗi người chúng ta ngồi tại chỗ, nếu muốn thỉnh giáo, thưa hỏi, chỉ cần đưa tay lên xin nêu vấn đề. Thời trước qui củ hơn, thính chúng phải từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước mặt Phật hành lễ “thiên đản hữu kiên”. “Thiên đản” là vai phải.
Áo cà sa hiện tại đã cải tiến. Cà sa đúng cách mà năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật ở đời chính là cà sa mà hiện tại tiểu thừa đang mặc. Đó là một tấm vải quấn trên thân. Thông thường không lộ hai vai. Khi hành lễ mới để lộ vai phải. Cà sa hiện tại của tiểu thừa màu sắc cũng không đúng, người này mặc màu vàng, người kia mặc màu đỏ. Phải là nhiễm sắc mới đúng.
Trung Quốc nằm ở phía bắc Ấn Độ, khí hậu lạnh hơn so với Ấn Độ nên ba y nhất định không đủ dùng. Cho nên Phật giáo truyền đến Trung Quốc thì y phục, ăn uống đều phải Trung Quốc hóa. Việc này tương tự bổn thổ hóa, tuyệt nhiên không thể giữ nguyên. Áo tràng hiện tại của chúng ta là y phục người thời Hán. Khác biệt giữa tại gia và xuất gia ở chỗ trên áo tràng người xuất gia không thêu hoa, còn áo tràng người tại gia có thêu hoa, ít nhất là trên cổ và ống tay áo. Người giàu sang có địa vị thì toàn thân áo đều thêu hoa. Hoa văn cũng có nhiều loại, không phải tùy tiện mà thêu, đó gọi là chương phục. Thân phận của bạn như thế nào, sĩ, nông, công, thương phân ra rõ ràng. Từ đó, y phục cũng không thể mặc sai, để khi bạn đi ra ngoài tiện cho việc hành lễ. Người dưới chí kính trước với người trên. Mão cũng vậy, hoa văn mỗi loại đều có tiêu chí của địa vị và thân phận.
Người xuất gia thì thuần sắc, hoàn toàn không thêu hoa văn. Thế nhưng, ba y của Phật chỉ mặc khi ở trong pháp hội. Giảng kinh, nghe kinh phải đắp y. Y không cần lớn như nguyên gốc, đắp bên ngoài rất phiền phức. Chúng ta có thể cắt bớt phân nửa, chỉ còn lại phân nửa so với nguyên gốc. Ngày trước, y không có móc mà chỉ buộc dây. Về sau không biết ai đã phát minh ra móc thuận tiện hơn nhiều so với buộc. Đây là ý của “thiên đản hữu kiên”.
Phật giáo truyền đến Nhật Bản, người Nhật Bản còn giỏi hơn chúng ta, cà sa của họ rút gọn chỉ còn ba tấc. Bạn thấy pháp sư Nhật Bản mặc tây phục, không mặc áo tràng. Bình thường cà sa của họ cất trong túi áo. Khi làm pháp hội, họ mới mang nó ra. Y của họ có một sợi dây màu đỏ quàng phía sau cổ, miếng ba tấc thì ở phía trước, đơn giản hơn chúng ta nhiều. Đó chỉ là tấm y biểu tượng của y thời đức Phật. Chúng ta đắp y là kỷ niệm Thích Ca Mâu Ni Phật, kỷ niệm pháp hội thời xưa, khiến chúng ta mỗi niệm không quên ân đức của Phật Đà. Ý nghĩa này thuộc về tri ân, báo ân, niệm niệm không quên ân đức lão sư.
Khi hành lễ không quên hầu hạ lão sư. Lão sư dặn bảo điều gì, động tác của bạn phải nhanh nhẹn, thừa sự cúng dường. Vì vậy khi hành lễ không phải ở một chỗ mà chí kính, còn phải tùy thời nghe dặn bảo, tùy thời phục vụ, cho nên “trường qùy”. “Trường qùy” thông thường là qùy một chân, khi đứng dậy dễ dàng và nhanh hơn. Người Trung Quốc đều qùy hai đầu gối xuống, Phật kinh cũng dùng chữ “hồ qùy”. “Hồ” là người nước ngoài. Cách quỳ của người nước ngoài và cách quỳ của người Trung Quốc không như nhau. Người Trung Quốc quỳ hai đầu gối, còn người nước ngoài quỳ một đầu gối. “Hồ quỳ” là một đầu gối chấm đất, đứng dậy nhanh; vai trái lộ ra phong thái làm việc cũng nhanh. Đó là những tư thế chuẩn bị hầu hạ trưởng giả, một phép rất lễ kính. “Hiệp chưởng” cũng biểu thị một lòng chí kính.
Mười ngón tay biểu thị tán loạn. Tâm bình thường hay tán loạn, nghĩ tưởng xằng bậy. Khi hành lễ, ta biểu thị một lòng cung kính, đem tất cả vọng niệm buông bỏ, chuyên tâm chí kính, chuyên tâm nghe giáo huấn của tôn trưởng. Chắp tay để biểu thị ý này. Hiểu ý nghĩa cái chắp tay thì khi chắp tay, chúng ta phải chắp khít lại. Nếu chắp tay mà ở giữa phồng ra thì cái chắp tay đó vẫn là hai chứ chưa phải một. Chắp tay biểu thị nhất, nhất tâm nên khép tay khít chặt lại.
“NHI BẠCH PHẬT NGÔN: THẾ TÔN KIM NHẬT, NHẬP ĐẠI TỊCH ĐỊNH, TRỤ KỲ ĐẶC PHÁP, TRỤ CHƯ PHẬT SỞ TRỤ, ĐẠO SƯ CHI HẠNH, TỐI THẮNG CHI ĐẠO”.
“Đại tịch định” là thiền định sâu thẳm. Các vị nên biết, định không phải ngồi xếp bằng quay mặt vào vách. Phần lớn chúng ta đều xem hình thức này là thiền định, thực chất, loại nhập định này chỉ là tiểu định chứ không phải đại định. Tiểu định sau khi vào định sẽ không khởi tác dụng, còn đại định thì đi đứng nằm ngồi đều định. Thích Ca Mâu Ni Phật vì mọi người giảng kinh nói pháp đều đang ở trong định. Ý nghĩa của định là “ngoài không dính mắc, trong không động tâm”, chứ không phải sáu căn tránh tiếp xúc cảnh giới bên ngoài. Thích Ca Mâu Ni Phật mắt cũng thấy, tai cũng nghe, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần nhưng tâm như như bất động, không bị cảnh giới bên ngoài nhiễu loạn. Còn phàm phu chúng ta thấy sắc nghe tiếng thường bị cảnh giới bên ngoài nhiễu loạn, xoay chuyển, rất khổ. Phật và đại Bồ Tát có công phu, định lực, các Ngài có thể thấy như không thấy. Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần cùng với tâm thanh tịnh của các Ngài không hề ô nhiễm. Loại định này gọi là Đại Tịch Định. Trong định có thể thành tựu tất cả sự nghiệp.
Ngoài “thiền định” còn một danh từ tiếng Phạn gọi là “Tam muội”. Tam muội cũng là tịch định. Đại tịch định này người xưa thường gọi là Bảo Vương Tam Muội hoặc Phổ Đẳng Tam Muội. “Phổ” là phổ biến, “đẳng” là bình đẳng. Tất cả các pháp mà Phật Bồ Tát chứng được đều bình đẳng, không những trên lý bình đẳng, trên tánh bình đẳng mà trên sự cũng bình đẳng, khi ứng dụng cũng bình đẳng. Cảnh giới này rất sâu. Chúng ta nghe nói lý bình đẳng, tánh bình đẳng thì gật đầu, còn nói trên tướng bình đẳng, sự bình đẳng thì không đồng ý. Năm ngón tay đưa ra dài ngắn không đều nhau thì làm sao bình đẳng? Mỗi người dáng dấp cao thấp không như nhau, mặt mũi không như nhau thì làm sao bình đẳng? Sự bình đẳng chỉ có ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Sanh đến thế giới Cực Lạc, dáng dấp mỗi người cao như nhau, tướng mạo hoàn toàn giống nhau. Kinh Vô Lượng Thọ nói, thân tướng mỗi người đều giống Phật A Di Đà. Đó là thế giới bình đẳng.
Thế giới này được cho là bình đẳng nhưng mọi người vẫn khó tiếp nhận. Trên thực tế vẫn bình đẳng, tuy chúng ta chưa phát hiện ra. Tại sao bình đẳng? Kinh Bát Nhã có câu: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”. Hảo tướng là hư vọng, ác tướng cũng là hư vọng. Hư vọng cùng hư vọng chẳng phải bình đẳng hay sao. “Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh”. Tất cả pháp đều như mộng, như mộng thì bình đẳng. Cho nên nói tướng thật bình đẳng, sự cũng bình đẳng. Vào cảnh giới bình đẳng thì tâm của bạn định, trong tất cả pháp tuyệt đối sẽ không khởi tâm động niệm, quyết không có tốt xấu, không sanh phân biệt chấp trước. Vì sao? Biết tất cả pháp không thể được, biết tất cả hiện tượng không sở hữu. Sự thật này đang được các nhà khoa học hiện đại dần dần chứng thực. Họ sẽ phát hiện, chứng thực điều kinh Phật nói. Chúng ta vào phần sau kinh Hoa Nghiêm sẽ giảng rõ hơn chân tướng sự thật này.
Tâm của Phật vì sao định? Vì Phật hiểu rõ chân tướng tất cả pháp. Tuy tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp nhưng vẫn như như bất động, chân thật “nói mà không nói, không nói mà nói”, đó chính là tướng của đại tịch định. Hiện tướng bao gồm tất cả hoạt động đều đang ở trong định. Kinh đại thừa viết: “Na Già thường tại định, vô hữu bất định thời”. “Na Già” là tiếng Phạn, ý nghĩa là “rồng voi”. Chúng ta chưa thấy rồng nhưng đã thấy voi. Voi to lớn, dáng vẻ một ngày từ sớm đến tối dường như đang ở trong định, đi đứng rất chậm rãi, không vội vã khẩn trương. Hình ảnh ví dụ cho đời sống của Phật Bồ Tát đang trong định. Dù động tác nhanh nhẹn nhưng bạn tỉ mỉ quan sát vẫn thấy họ trong định, vì tâm các ngài thanh tịnh, không hề dao động.
“Đại tịch định” quy về bổn kinh mà nói chính là niệm Phật tam muội. Chúng ta phải học bằng cách nào? Học nhìn thấu buông bỏ. Sau khi buông bỏ, tâm liền định. Vì sao? Vì tất cả đều giả, không có thứ nào thật, bao gồm tất cả pháp thế gian. Buông bỏ bằng cách tuyệt đối không để trong lòng. Bạn còn để trong lòng thì bạn vẫn là phàm phu, bạn liền có vướng bận, lo lắng, phiền não. Bạn nói bạn thật lòng không thể buông bỏ là giả. Nếu hiện tại bạn chết thì có buông hay không? Đại sư Ấn Quang thường nhắc nhở chúng ta mỗi giờ mỗi phút dán chữ “chết” trên trán để cái gì bạn cũng đều buông. Còn thứ gì đáng nghĩ ngợi? Bạn si mê, chấp trước, không thể buông sẽ phải sanh tử luân hồi trong sáu cõi. Không thể buông bỏ là không thể buông bỏ sanh tử luân hồi. Nếu tất cả thảy đều buông thì tôi chúc mừng bạn đã siêu việt sáu cõi. Pháp đơn giản như vậy, bạn có bằng lòng làm không?
Không chỉ thế gian pháp phải buông, mà Phật pháp cũng phải buông. Kinh Kim Cang chẳng phải đã nói: “Pháp còn nên xả, huống hồ phi pháp”. “Pháp” là Phật pháp. Vì sao Phật pháp cũng phải buông bỏ? Thực ra làm gì có Phật pháp? Phật pháp do nhân duyên sanh, không phải thật. Trên kinh Phật cho biết: “Chúng sanh có bệnh, Phật pháp là thuốc”. Bạn hết bệnh thì thuốc cũng không cần. Bệnh hết rồi mà còn uống thuốc sẽ thành ra bệnh. Tôi đưa ví dụ này để mọi người dễ hiểu.
Hiện tại chúng ta có bệnh cần phải có Phật pháp thông qua các bài giảng kinh. Đến khi bạn vào được cảnh giới thì Phật pháp sẽ không cần. Cần nữa thì bạn lại bệnh, lại không bình thường. Cho nên các vị phải biết, sau khi giác ngộ, bạn sẽ giống như người xưa đã nói là Thích Ca Mâu Ni Phật bốn mươi chín năm nói pháp chỉ là lời thừa, bộ Đại Tạng là một đống giấy vụn. Khi chưa vào được cảnh giới thì còn có lợi ích, ngộ nhập rồi sẽ không cần nữa. Mục đích dạy chúng ta đối với tất cả pháp thế xuất thế gian không nên phân biệt, không nên chấp trước thì bạn liền tự tại. Pháp không phải không có chỗ dùng, đời sống của bạn được tự tại, an vui, vô lo, không phiền não, không vướng bận, không vọng tưởng.
“Trụ kỳ đặc pháp”, “kỳ” là kỳ diệu, “đặc” là đặc thù. “Kỳ đặc pháp” nói về “trụ chư Phật sở trụ, đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo”. Ba câu này đều là chỗ chúng ta phải học tập.
“Trụ Phật sở trụ”. Giảng kinh Hoa Nghiêm, tôi đã nói qua thập trụ, thập hạnh, hiện tại đang bắt đầu giảng đến thập hồi hướng. Kinh văn nêu biểu pháp lộ ra một thông điệp, đệ tử Phật phải biết “trụ Phật sở trụ, hành Phật sở hành”. Cái “trụ” và “hành” chính là áp dụng tâm Bồ Đề.
Bổn kinh dạy bảo chúng ta tu hành quan trọng nhất ở tám chữ “Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”, đây là cương lĩnh tu hành của bổn kinh. Tám chữ hợp lại là viên tu viên chứng, không thể thiên về một phía. Nếu bạn thiên ở “phát tâm Bồ Đề”, không có “một lòng chuyên niệm”, vậy không đúng. “Một lòng chuyên niệm” mà không có “tâm Bồ Đề” cũng không thể vãng sanh. Cho nên “phát tâm Bồ Đề” cùng “một lòng chuyên niệm” phải kết hợp lại mới nhất định sanh Tịnh Độ.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ định nghĩa “tâm Bồ Đề” là chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm. Trong Khởi Tín Luận định nghĩa là trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm.
Trực tâm chính là tâm chí thành, chân thành đến tột đỉnh. Thế nào gọi là chân thành? Không có vọng niệm nào. Trước nhà Thanh, tiên sinh Tăng Quốc Phiên trong Đọc Thư Bút Ký đã giải thích chữ “thành” rất hay: “Một niệm không sanh gọi là thành”. Giải thích của ông gần với định nghĩa của Phật. Bạn có một niệm thì không thành. Một niệm không sanh mới là chân thành đến cùng tột, đó chính là trực tâm. “Đại tịch định” là chân thành tột đỉnh, thực tiễn ngay ở “trụ Phật sở trụ”. Cho nên tâm chí thành trong tâm Bồ Đề chính là trụ Phật sở trụ.
“Thâm tâm” là “hành Phật sở hành”. Người xưa giảng giải, thâm tâm là hiếu thiện, hiếu đức. Thiện và đức đều tương ưng với chân thành gọi là thâm. Hiếu thiện, hiếu đức, thiện đức và chân thành không tương ưng thì đó là giả, không phải thật. Đại sư Thiện Đạo nói: “Nhất thiết giai tùng, chân thật tâm trung tác”. Khởi tâm động niệm đối nhân xử thế tiếp vật, tất cả phải từ tâm chân thật mà làm, không chút hư ngụy, hoàn toàn hiếu thiện, hiếu đức. Đó là tự hành, tự thọ dụng, và tự thành tựu.
“Hồi hướng phát nguyện tâm” là tâm đại bi nhằm lợi tha. Chân tâm đối với chính mình là thâm tâm, còn chân tâm đối với người khác là đại từ bi tâm hoặc tâm hồi hướng phát nguyện. Chỗ này ý nghĩa “tối thắng chi đạo”.
Như vậy,“trụ Phật chi sở trụ” là tâm chí thành, “đạo sư chi hạnh” là thâm tâm, “tối thắng chi đạo” là tâm đại bi, tâm hồi hướng phát nguyện, khởi tâm động niệm đều vì lợi ích tất cả chúng sanh. Chúng ta hợp lại trên tâm Bồ Đề mà thực tiễn. Nếu chỉ trên sự tướng mà nói, chúng ta đều phải dụng tâm học tập. Phật trụ ở đâu? Phật trụ ở chân thành. Chân thành chính là A Di Đà Phật!
Danh hiệu A Di Đà Phật là danh từ của tánh đức, là đức hiệu của chân như bổn tánh, nên gọi là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Trong tâm có A Di Đà Phật chính là “trụ Phật sở trụ”. Mười phương tất cả chư Phật Như Lai, không vị nào không niệm A Di Đà Phật. Quý vị lưu ý, không phải niệm trong miệng. Niệm trong miệng thì không xem là niệm. Cái gì mới gọi là niệm? Tâm tương ưng. Danh hiệu A Di Đà Phật là tiếng Phạn, ý nghĩa là Vô Lượng Giác. “A”dịch thành Trung văn là “Vô”, “Di Đà” là “Lượng”, “Phật” là “Giác”. Các vị thử nghĩ xem, có vị Phật nào không tương ưng với Vô Lượng Giác? Chúng ta cũng vậy, tương ưng với Vô Lượng Giác, không lìa khỏi Vô Lượng Giác thì gọi là niệm Phật. Bạn phải hiểu đạo lý này, nếu không thì bạn vừa nghe nói tất cả chư Phật đều niệm A Di Đà Phật liền cảm thấy kỳ lạ, vì sao phải niệm A Di Đà Phật. Khi đã hiểu tường tận, bạn mới thấy tất cả chư Phật chân thật niệm A Di Đà Phật, chưa từng gián đoạn bao giờ.
Ngày nay chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật tức là chúng ta đang học tập, chúng ta đang chân thật học Phật. Đối với các đồng tu từ nơi khác, tôi nhất định khuyên họ đến niệm Phật đường niệm Phật. Nếu họ không đến thì tôi cũng không hề ngần ngại nói với họ rằng họ đã uổng một chuyến đi Singapore.
Cư sĩ Khang Quốc Thái Đạt La Tư tối hôm nay quay về. Sáng sớm ăn cơm sáng, tôi hỏi ông có đến niệm Phật đường niệm Phật hay không? Ông trả lời không. Tôi nói: “Ông đã uổng phí khi đến đây rồi”. Ăn cơm trưa xong, ông liền đến niệm Phật hai giờ đồng hồ. Sau khi niệm, ông hân hoan nói với tôi rằng đích thực khác thường. Ông bảo khi quay về, ông muốn học làm theo, hoặc mang máy niệm Phật ở đây về. Không thể, máy niệm Phật dù được ghi âm ở đây nhưng hoàn toàn không giống ở đây. Tại sao không giống nhau? Vì từ trường không như nhau. Nơi đây có Phật Bồ Tát niệm Phật, còn đạo tràng của bạn không tìm được Phật Bồ Tát đến niệm Phật, đó là chỗ không giống nhau.
Bạn ở nơi đây chỉ cần đem tâm định lại, niệm Phật không nghĩ tưởng xằng bậy, niệm một khoảng thời gian liền cảm thọ. Tôi giảng thế nào đi nữa cũng không tác dụng, mà nhất định phải đích thân bạn thể nghiệm. Cảnh giới nơi đây bạn không thể thể hội như ở nơi khác. Chủ nhân của niệm Phật đường này là cư sĩ Lý Mộc Nguyên, một vị Bồ Tát hoàn toàn không có lòng riêng tư, hoàn toàn vì lợi ích chúng sanh. Đạo tràng của bạn có thể tìm được người như Lý Mộc Nguyên không? Bồ Tát Lý là thiên hạ hiếm có, đó là “Kỳ Đặc Pháp”. Ông thật nhìn thấu, thật buông bỏ, mỗi niệm vì chúng sanh, mỗi niệm vì Phật pháp, không chút tư riêng, nên xây dựng đạo tràng liền cảm động Phật Bồ Tát đến gia trì. Đó là sự tương ưng với tâm Phật, nguyện của Phật, và hạnh của Phật.
Trong số đồng tu tham gia niệm Phật, rất nhiều đồng tu đích thực có tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng ở niệm Phật đường. Bạn đến nơi đây niệm Phật vài ngày, nhờ vào lực của họ, tiếp nhận từ trường của họ thì cảm thọ không giống nơi khác. Niệm Phật đường khác có đông người niệm Phật hơn nhưng tâm họ không thanh tịnh, không có người chân thật phát tâm niệm Phật thì từ trường đó sẽ không cảm ứng. Tôi cảm nhận khá rõ ràng tình hình của niệm Phật đường được Phật Bồ Tát, thần hộ pháp tham dự, hơn nữa thần hộ pháp rất đông, họ xếp thành hàng. Cho nên người thông thường thế gian chúng ta mới thấy “không khí không giống nơi khác”. Đích thực từ trường không như nhau. Hy vọng bạn đến đây cũng có thể cảm thọ.
Có thời gian đến niệm Phật đường này thì niệm càng lâu càng tốt. Đó là nhân duyên cả đời hi hữu khó gặp. Bạn đến nơi khác, tâm bạn tán loạn, tạp loạn, còn ở nơi đây tâm thanh tịnh, vô cùng đáng quý. Chỉ cần bạn chân thật hiểu rõ thì mới biết trân trọng. Cho nên kinh văn này nói: “Trụ chư Phật chi sở trụ” chính là “trụ Di Đà chi sở trụ”. “Đạo sư chi hạnh” là “hành Di Đà chi hạnh”.
Pháp môn niệm Phật Tam muội, thân tâm thế giới vạn duyên buông bỏ, một lòng niệm Phật. Bạn niệm Phật chính là tự hành hóa tha, hai thứ thảy đều đầy đủ. Ở đây niệm Phật là tự hành, đồng thời biểu diễn chính là hóa tha. Bạn làm cho các đồng tu đến từ nhiều nơi đích thân nhận cảm thụ. Bạn bảo họ đến tiếp nhận sự huân đào của từ trường này, khiến họ chân thật cảm động. Cảm động sâu cạn tùy thuộc căn tánh mỗi người, nói cách khác, thiện căn, phước đức, nhân duyên khác nhau. Thiện căn, phước đức dày thì cảm thọ sâu; thiện căn, phước đức mỏng thì cảm thọ cạn. Thế nhưng, người thiện căn phước đức mỏng cũng không nên sợ, chỉ cần dành thời gian niệm dài là được. Lực huân tu của đạo tràng này rất mạnh. Chúng ta ở nơi đây liên tục không ngừng niệm ba tháng, thiện căn mỏng cũng biến thành dày, nhân duyên ít cũng biến thành đầy đủ, không thể nghĩ bàn.
Giảng kinh ở đây hai giờ cũng bằng ở niệm Phật đường giảng khai thị. Vì vậy không nên giảng khai thị ở niệm Phật đường, mà đem thời gian khai thị tập trung vào việc nói rõ công đức lợi ích của niệm Phật. Như vậy, tín-giải-hành-chứng đều đang thực hiện ở niệm Phật đường. Việc này rất không dễ dàng, chân thật là “Đặc kỳ pháp”. Đặc kỳ pháp chính là pháp môn này. Ý nghĩa của “Di Đà chi sở hạnh” kinh thường nói, đó là phương pháp khiến người ngũ thừa bình đẳng đồng vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, bình đẳng thành Phật. Nhưng ngũ thừa thì không bình đẳng. Ngũ thừa gồm nhân thừa, thiên thừa, thanh văn thừa, duyên giác thừa, Bồ Tát thừa, không bình đẳng về phương pháp và thành tựu quả báo, nhưng bạn niệm Phật sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì bình đẳng, người người đều là Pháp Thân Đại Sĩ, đều là Bồ Tát Đẳng Giác.
Trên kinh Thế Tôn thường nói, trong phẩm thứ sáu, A Di Đà Phật cũng đích thân nói là sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A Duy Việt Chí Bồ Tát. A Duy Việt Chí là gì? Viên Chứng Tam Bất Thoái. Đại đức xưa chú giải, A Duy Việt Chí là từ Thất Địa trở lên.
Có đồng tu đến hỏi, Quán Vô Lượng Thọ kinh nói hạ hạ phẩm vãng sanh phải mười hai đại kiếp mới hoa nở thấy Phật, chúng ta sanh đến cõi Phàm Thánh Đồng Cư phẩm vị đều không cao vì nghiệp chướng quá nặng, vậy sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc còn phải ở trong hoa sen đợi mười hai đại kiếp? Các vị tu Tịnh Độ nhất định phải hiểu, bốn mươi tám nguyện là pháp cơ bản của Tịnh Độ. Bất cứ cách nói nào đều không thể so được, có so cũng không thể bằng. Bốn mươi tám nguyện là tối thắng. Vậy Quán Vô Lượng Thọ kinh nói có sai không? Không sai, thực tế không hề xung đột. Nói hạ hạ phẩm vãng sanh phải mười hai đại kiếp mới hoa nở thấy Phật là không nói Phật lực gia trì, còn bốn mươi tám nguyện là A Di Đà Phật oai thần bổn nguyện gia trì.
“Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” thuộc địa vị gì? Là Đăng Địa và Bồ Tát Sơ Địa. “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh” là cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Thế nhưng trên thực tế, mỗi người hạ hạ phẩm vãng sanh, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Điểm đặc biệt của Tây Phương Tịnh Độ là “Kỳ Đặc Pháp”, bốn độ đồng một chỗ. Cõi Đồng Cư, cõi Phương Tiện, cõi Thật Báo, cõi Tịch Quang ở một nơi, không như các thế giới chư Phật khác bốn cõi không chung nhau. Cũng như hiện tại chúng ta ở thế gian này là cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Tuy Phàm Thánh Đồng Cư nhưng người phàm chúng ta không thể thấy thánh nhân. Ví dụ, Bồ Tát Văn Thù là thánh nhân đang ở núi Ngũ Đài, nhưng bạn đến núi Ngũ Đài để tìm Bồ Tát Văn Thù sẽ không thể tìm ra. Thời xưa, pháp sư Pháp Chiếu may mắn tìm được đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù bảy báu trang nghiêm ở núi Ngũ Đài. Ngài còn vào trong đạo tràng tham bái và nghe Bồ Tát Văn Thù giảng kinh. Khi Ngài rời khỏi, đi đến đâu cũng đều làm ký hiệu vì sợ lần sau quên mất đường. Đi không bao xa, quay đầu nhìn lại thì không thấy gì nữa, chỉ thấy một mảng núi hoang, muốn nhìn lại cũng không nhìn thấy. Mặc dù cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng phàm phu vẫn không thể thấy được thánh nhân.
Trong Tam Muội Thuỷ Sám, quốc sư Ngộ Đạt gặp Ca Nặc Ca tôn giả ở Tứ Xuyên, đó là đạo tràng của A La Hán. Sau khi rời khỏi đạo tràng, ông quay đầu lại nhìn cũng không thấy gì, chỉ thấy một mảng núi hoang. Cõi Đồng Cư mà còn như vậy thì cõi Hữu Dư, cõi Thật Báo, chúng ta làm sao thấy được. Thế nhưng, thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không như vậy. Bốn cõi cùng một nơi, “ngũ thừa cùng vào báo độ”. Báo Độ chính là cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Bạn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền thấy Bồ Tát Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền. Những vị Bồ Tát Đẳng Giác ngày ngày cùng ở với mọi người, cùng sinh hoạt, cùng nghe Phật thuyết pháp. Bạn vào được đoàn thể này của các Ngài, đó là oai thần A Di Đà Phật gia trì, bạn mới vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm.
Vậy cách nói trong Quán Kinh có ý nghĩa gì? Đời sống của bạn từ kiếp thứ mười hai, bổn nguyện của A Di Đà Phật không gia trì bạn cũng vào được. Hay nói cách khác, trước mười hai kiếp, bạn và những vị Đại Bồ Tát này một ngày từ sớm đến tối cùng đứng cùng ngồi, nắm tay mà đi đều nhờ Phật lực gia trì. Nếu dựa vào chính bạn thì sau mười hai kiếp mới có thể vào được cảnh giới này. Từ mười hai kiếp bạn liền cảm thấy kinh ngạc vì quá nhanh. Chiếu theo thông thường đại thừa mà nói, bạn muốn vào cảnh giới này chí ít phải mất một A Tăng Kỳ kiếp, tu xong Tam Hiền Vị. A Tăng Kỳ kiếp thứ hai mới vào sơ địa. Tu hành ở thế giới Tây Phương Cực Lạc chỉ cần mười kiếp, bạn ở các thế giới phương khác tu hành phải qua một A Tăng Kỳ kiếp. Do ở thế giới phương khác có thoái chuyển, còn thế giới Tây Phương không thoái chuyển, viên chứng Tam Bất Thoái. Cho nên thế giới Tây Phương Cực Lạc thù thắng không gì bằng. Đây là ý nghĩa “Đạo sư chi hạnh” mà A Di Đà Phật chính là đạo sư.
“Tối thắng chi đạo”, khiến cho tất cả chúng sanh vãng sanh bất thoái thành Phật. Vậy “Đạo” là chỉ pháp môn Tịnh Độ. Bạn tu học bất cứ pháp môn nào nếu chưa đoạn kiến tư phiền não thì không thể chứng quả A La Hán. Viên Giáo Đại Thừa,Tịnh Tông cũng là Viên Giáo Đại Thừa, nói pháp môn này là đại thừa ngay trong đại thừa, nhất thừa ngay trong nhất Thừa, là Phật pháp cứu cánh viên mãn.
Trong Hoa Nghiêm, Bồ Tát Sơ Tín Vị là quả vị thấp nhất của Thập Tín Vị. Công phu đoạn phiền não của Bồ Tát Sơ Tín Vị bằng Tu Đà Hoàn của tiểu thừa. Nếu bạn chứng Bồ Tát Sơ Tín Vị thì bạn nhất định sẽ không còn thoái chuyển trở lại phàm phu. Thế nhưng kinh nói rõ, kiến tư phiền não có tám mươi tám phẩm kiến hoặc đoạn tận thì bạn mới chứng được. Trí tuệ của Bồ Tát Viên Sơ Tín Vị cao hơn so với Tu Đà Hoàn sơ quả tiểu thừa, thần thông đạo lực cũng cao hơn, chỉ có việc đoạn phiền não là bằng nhau. Bồ Tát Sơ Tín vị và Tu Đà Hoàn đều đoạn tám mươi tám phẩm kiến hoặc. Điểm này bình đẳng, còn trí tuệ của thánh giả tiểu thừa không thể so được với trí tuệ của Bồ Tát.
Kiến tư phiền não thảy đều đoạn tận sẽ chứng tứ quả tiểu thừa A La Hán, thoát khỏi sáu cõi, siêu việt sáu cõi luân hồi, tương đương Bồ Tát Thất Tín Vị của Viên giáo. Thất Tín Vị công phu đoạn chứng giống y A La Hán, nhưng trí tuệ, thần thông, đức năng, đạo lực siêu việt hơn rất nhiều so với A La Hán. A La Hán không thể so sánh với họ. Chúng ta ở sơ quả Tu Đà Hoàn còn không cách gì đạt được, vì năng lực đoạn phiền não không có. Cho nên thời kỳ mạt pháp ngoài pháp môn này, không còn pháp môn nào có thể độ được người. Pháp môn này như thế nào?
Pháp môn một phẩm phiền não cũng không cần phải đoạn, nhưng phải phục phiền não. Điểm này rất quan trọng, phiền não chưa đoạn nhưng bạn có năng lực khống chế nó, làm cho phiền não không khởi tác dụng, vậy thì đạt. Đây là ý nghĩa của “tối thắng chi đạo”. Tịnh Tông chỉ cần phục phiền não có thể đới nghiệp vãng sanh, sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Cõi Phàm Thánh Đồng Cư hạ hạ phẩm vãng sanh cùng đứng ngồi với Văn Thù, Phổ Hiền và những vị Bồ Tát Đẳng Giác. Đại sư Ngẫu Ích cho rằng, họ không phải là Bồ Tát vì một phẩm phiền não vẫn chưa đoạn, nhưng họ cũng chẳng là phàm phu vì họ cùng đứng ngồi với các Bồ Tát Đẳng Giác, thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Đây là “Kỳ Đặc pháp” và “tối thắng chi đạo”. Đời này chúng ta may mắn gặp, nhưng sau khi gặp thì có thể thành tựu không? Rất khó đoán biết. Bao nhiêu người trong đời này gặp được nhưng kết quả vẫn luống qua, vẫn phải sanh tử luân hồi. Thật đáng tiếc! Vô lượng kiếp khó gặp một lần, cơ duyên cực kỳ hiếm.
Chúng ta may mắn ở đại vận gặp Bồ Tát Lý Mộc Nguyên xây dựng niệm Phật đường, thôn Di Đà. Chỉ cần có đạo tràng như vậy thì người thành tựu sẽ đông. Phàm hễ bước vào đạo tràng, thân tâm thế giới thảy buông bỏ, ba năm nhất định vãng sanh. Xem Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ở vãng sanh truyện, ba năm công phu thành tựu. Không phải họ mạng chung mà thọ mạng của họ vẫn còn dài, nhưng họ không muốn ở lại chịu khổ. Họ muốn sớm di dân đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đến Cực Lạc, không gian hoạt động tận hư không khắp pháp giới, đời sống an vui.
Tôi giảng kinh nhiều năm, ngày ngày luôn mộng tưởng về một đạo tràng như vậy nhưng không dám nghĩ đến tương lai sẽ thành sự thật. Đến nơi đây, tôi mới cảm nhận chân thật có thể gặp không thể cầu. Chư Phật Bồ Tát an bày cho chúng ta. Mọi người chúng ta thiện căn, phước đức, nhân duyên ngay lúc này chín muồi nên chư Phật Bồ Tát đến. Rất nhiều đồng tu hỏi tôi, thôn Di Đà lúc nào mới xây xong? Tôi nghĩ, cư sĩ Lý làm việc tốc độ rất nhanh, khoảng hai ba năm nữa ông sẽ làm xong. Năng lực của ông rất mạnh. Từ lúc niệm Phật đường khai trương đến nay, ông ngày đêm nghĩ đến thôn Di Đà. Ngoài thôn Di Đà ra, ông không có vọng niệm nào khác. Kiền thành chuyên chú tất được chư Phật Bồ Tát gia trì, cho nên cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn.
Chúng ta phải từ chỗ này mà xây dựng tín tâm, nguyện tâm.
“KHỨ LAI HIỆN TẠI PHẬT PHẬT TƯƠNG NIỆM. VI NIỆM QUÁ KHỨ VỊ LAI CHƯ PHẬT DA. VI NIỆM HIỆN TẠI THA PHƯƠNG CHƯ PHẬT DA. HÀ CỐ OAI THẦN HIỂN DIỆU, QUANG THỤY THÙ DIỆU NÃI NHĨ, NGUYỆN VI TUYÊN THUYẾT”
Đoạn kinh văn này tiếp theo đoạn trước ở phần A Nan tôn giả thay chúng ta thỉnh pháp. Ngôn từ thỉnh pháp trước tiên là xưng tán Thế Tôn. Về xưng tán, chúng ta đã học rất nhiều. Hôm nay đọc đoạn văn thấy tôn giả A Nan đang phán đoán trước hình tướng hi hữu của Thích Ca Mâu Ni Phật. A Nan là thị giả thường ở bên cạnh Thế Tôn. Theo kinh nghiệm của A Nan, từ trước đến giờ chưa từng thấy Thích Ca Mâu Ni Phật có loại quang sắc thù thắng đặc biệt này. Cho nên trong lời xưng tán, A Nan nói: “Thế Tôn kim nhật, nhập đại tịch định, trụ kỳ đặc pháp, trụ chư Phật sở, trụ đạo sư chi hạnh, tối thắng chi đạo”.
“Trụ” là tâm an trụ, chúng ta thường gọi là tâm tư ý niệm. Tâm niệm của ngài thù thắng, ý niệm tốt nên hiện ra tướng đặc thù. Người thế gian thường nói “tướng tùy tâm chuyển”. Vì sao tướng thay đổi? Quyết không phải do đi làm đẹp hay hóa trang, vì nó có tác dụng phụ, mang đến rất nhiều phiền não. “Tướng tùy tâm chuyển” là tâm của bạn đổi, tướng liền đổi. Không những tướng thay đổi mà thể chất cũng thay đổi. Ở Trung Quốc, chúng ta vẫn nghe về một số công năng đặc dị, đó là sự thật. Tôi cũng từng thấy qua ở Mỹ. Họ có năng lực thấy vận khí trên con người, chúng ta gọi là khí công, Phật pháp gọi là quang, khoa học gia gọi là năng lượng, trên thực tế đều nói lên một sự việc. Có thể thấy ánh sáng trên thân mình hoặc thấy khí lực, tuyệt nhiên không phải việc khó làm, chỉ cần nhẫn nại, công phu một hai tháng thì bạn liền đạt năng lực này. Mạnh hơn thì bạn có thể thấy ánh sáng trên thân người khác phát ra, hoặc thấy khí lực của người khác. Phạm vi lớn nhỏ, màu sắc không như nhau, hoàn toàn từ tâm niệm của bạn. Nguyên lý này chính là chấn động của ý niệm sanh ra hiện tượng sóng động. Thông thường người tâm ý thô thiển sẽ không thấy, nhưng hơi tinh tế một chút, tâm thanh tịnh một chút sẽ không khó phát hiện.
Tôn giả A Nan xem thấy quang sắc của Thích Ca Mâu Ni Phật hôm nay kỳ diệu, thù thắng nên tán thán mấy câu trên. Phần này tôi đã giải thích với các vị. Hôm nay tiến thêm một bước nữa. Ý niệm tư tưởng thù thắng nhất, viên mãn nhất cũng không thể vượt qua niệm Phật. Trong lòng ông nghĩ Thế Tôn hôm nay, “oai quang hách dịch, như dung kim tụ”, có phải Phật đang niệm Phật? Nếu không thì làm sao hiện tướng lạ đến như vậy? Từ hiện tướng này mà thấy tư tưởng của một người. Cho nên sóng động của tư tưởng có thể thấy được. Tướng tốt nhất định do sóng động tư tưởng tốt. Tốt đến tột đỉnh không gì hơn niệm Phật.
Các vị thường đến niệm Phật đường để niệm Phật, người ta hỏi niệm Phật có cái gì tốt? Bạn phải biểu hiện cho họ xem. Thích Ca Mâu Ni Phật niệm Phật thì “oai quang hách dịch, như dung kim tụ, hữu như minh cảnh, ảnh sướng biểu lý”. Còn bạn ở niệm Phật đường niệm như thế nào? Nếu bạn niệm được dung nhan phát sáng, quang sắc hơn người, làm cho người vừa thấy bạn liền sanh tâm hoan hỉ; công phu niệm Phật của bạn biểu hiện bên ngoài, càng niệm càng trẻ trung, càng niệm thân thể càng khoẻ mạnh; vốn dĩ thân thể nhiều bệnh tật, khi vừa niệm, bất cứ bệnh gì cũng tiêu tan thì bạn thành công.
Bệnh của bạn từ đâu mà ra? Từ vọng tưởng. Phật trên kinh nói, tham-sân-si là ba độc hoặc bệnh độc. Trong lòng có bệnh độc thì hoàn cảnh bên ngoài trược ác. Trược là ô nhiễm, do ý niệm không tốt, khởi tâm động niệm không phải thiện niệm. Ngoài có trược ác, trong có ba độc, trong ngoài giao cảm thì bạn làm sao không bị bệnh? Mức độ phát bệnh cùng với mức độ giao cảm trong ngoài của bạn thành ra vấn đề. Nếu bạn hiểu rõ thì bên trong tẩy sạch hết bệnh độc, trừ bỏ tham-sân-si. Trong tâm trừ tham-sân-si, tôi xin nói với các vị, hoàn cảnh bên ngoài lập tức thay đổi. Chúng ta cần phải khẳng định, tâm địa thanh tịnh quang minh thì bạn sẽ không bị ô nhiễm, cũng sẽ không tiếp nhận ô nhiễm, tuyệt đối không gặp phải những độc hại này. Nhà Phật dạy người sanh tâm đại từ bi. Tâm đại từ bi có thể hóa giải hết thảy độc tố. Đạo lý này rất sâu. Cho nên chân thật niệm Phật thì công phu có lực.
Trên giảng đường tôi đã trình bày nhiều lần, niệm Phật quan trọng nhất là tâm miệng phải tương ưng. Chữ “niệm” theo văn tự Trung Quốc chắc chắn toàn thế giới không quốc gia dân tộc nào có. Văn tự Trung Quốc là loại chữ phù hiệu. Lão tổ tông chúng ta thông minh tuyệt đỉnh, thương yêu con cháu đời sau cùng tột. Họ nghĩ ra công cụ truyền đạt trí tuệ, kinh nghiệm của họ cho con cháu đời sau. Công cụ này chính là văn tự, đặc biệt phát minh “Văn Ngôn Văn”. Những đại đức xưa nay đoán biết, ngôn ngữ sẽ tùy thời mà thay đổi, nếu ngữ cùng văn như nhau thì sau khi thời đại thay đổi, loại văn tự này không ai hiểu nổi. Thế giới phương Tây đã phạm phải lỗi như vậy. Văn La Tinh của châu Âu hiện tại không có người xem hiểu, Phạn văn của Ấn Độ cũng thế. Còn lão tổ tông chúng ta thông minh, biết trước tình hình nên phát minh ra Văn Ngôn Văn; chính là văn cùng ngữ phân khai. Ngôn ngữ sẽ thay đổi nhưng văn vĩnh viễn không thay đổi. Khổng Lão Phu Tử cách chúng ta hơn hai ngàn năm trăm năm, nhưng ngày nay chúng ta đọc Luận Ngữ vẫn y như mặt đối mặt nói chuyện với Khổng Lão Phu Tử, chúng ta có thể xem hiểu, có thể lý giải ý nghĩa của Ngài. Đây chính là ưu điểm của Ngữ cùng Văn phân ra, một ưu điểm không thể tìm thấy ở bất cứ quốc gia dân tộc nào trên toàn thế giới. Như vậy chúng ta mới thể hội được tổ tiên yêu thương, quan tâm thế nào đối với hậu thế. Chân thật trí tuệ, văn tự cũng tràn đầy trí tuệ.
Chữ “Niệm” có ý nghĩa gì? Bên trên là “kim”, phía dưới là “tâm”, có thể thấy “niệm” không phải miệng niệm. Trong tâm hiện tại chân thật có gọi là niệm. Nếu tâm hiện tại của bạn không có, chỉ ngoài miệng niệm A Di Đà Phật, người xưa phán: “Đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Bạn xem rất nhiều bà cụ thương yêu con cháu, trong lòng họ thật có, họ cũng không cần một ngày từ sớm đến tối gọi ngoài miệng “cháu ơi! cháu ơi!”. Không luận bất cứ lúc nào, họ luôn nghĩ đến con cháu, đó gọi là niệm. Nếu đem niệm này chuyển đổi thành “A Di Đà Phật” thì tốt, vấn đề sẽ liền được giải quyết.
Mấy năm trước, một bà cụ đến thăm tôi và kể rằng công phu niệm Phật của bà rất ổn. Bà nói: “Sư phụ! Con thứ gì cũng đều buông bỏ, chỉ không thể buông bỏ được đứa cháu nội, vậy phải làm sao?”. Tôi liền dạy bà nên đem đứa cháu đổi thành A Di Đà Phật thì vấn đề của bà liền được giải quyết. Cho nên niệm là trong tâm thật có.
Tôn giả A Nan nghĩ ngay đến mười pháp giới, Phật thù thắng không gì bằng. Công phu tu hành của Phật viên mãn, phước huệ nhị túc tôn, tức trí tuệ viên mãn, phước đức cũng viên mãn. “Túc” là đầy đủ, không chút kém khuyết, đó là người trí tuệ, có phước đức tối tôn tối quý, chân thật đáng được người tôn kính. Bồ tát có phước, có huệ, thế nhưng chưa viên mãn, chỉ Phật mới đạt đến cứu cánh viên mãn.
Có phải Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đang niệm Phật hay không? Đích thực Ngài đang niệm Phật, cho nên Ngài nói “khứ lai hiện tại Phật Phật tương niệm”. Chỗ này ý nói ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai tất cả chư Phật đều là “Phật Phật nhớ nhau”, hay nói cách khác, Phật thường hay nhớ tất cả chư Phật. Phật dạy chúng ta niệm Phật có đạo lý rõ ràng, bởi vì chính Ngài niệm Phật. Ai là Phật? Phật niệm Phật. Niệm Phật quá khứ chúng ta dễ dàng hiểu. Niệm Phật hiện tại, hiện tại mười phương thế giới chư Phật Như Lai, số lượng đó không thể tính đếm.
Ngày nay, chúng ta nhờ vào thiết bị khoa học, thăm dò tinh cầu cách ngoài trăm vạn năm ánh sáng, đã cảm nhận được không gian lớn vô hạn. Trên thực tế, không luận khoa học kỹ thuật phát triển đến thế nào, không luận thăm dò ra sao, cũng chỉ mới thăm dò một bộ phận rất nhỏ trong thái hư không. Khoa học gia hiện tại cũng hiểu vấn đề này. Chúng ta chỉ có thể quan sát, thăm dò đồng một không gian với chúng ta, gọi là không gian ba độ, nhiều nhất đạt đến không gian bốn độ. Còn không gian năm độ, sáu độ trở lên thì thiết bị khoa học không cách gì đạt đến.
Vậy không gian rốt cuộc có bao nhiêu độ? Trên lý luận mà nói là vô lượng. Phật pháp nói mười pháp giới là mười không gian duy thứ khác nhau. Cách nói của Phật pháp rất khác biệt. Mười không phải là chữ số. Chỗ này lão đồng tu đều biết, “mười” đại biểu vô lượng, không gian vô lượng. Không gian làm thế nào có thể đột phá? Kinh Hoa Nghiêm nói rất rõ ràng. Khoa học gia hiện tại đã chứng minh, có mười độ không gian tồn tại. Đó là số học cao thâm suy tính phát hiện ra, thế nhưng họ không tìm được cách đột phá.
Theo đức Phật, hình thành của không gian duy thứ khác nhau là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà biến hiện cảnh giới. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của mỗi người khác nhau, cho nên không gian duy thứ vô lượng vô biên. Làm thế nào đột phá? Bạn đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông bỏ thì liền đột phá. Sau khi đột phá, Phật pháp gọi là Pháp Giới Nhất Chân. Pháp Giới Nhất Chân trình hiện vô lượng vô biên không gian đời sống của chúng sanh. Bạn đối với tình hình sinh hoạt của tất cả chúng sanh tận hư không khắp pháp giới, chân tướng của sự thật hoàn toàn thông đạt tường tận, thấu hiểu rõ ràng, sau đó có năng lực giải quyết vấn đề.
Ngày nay chúng ta có rất nhiều vấn đề không thể giải quyết do mê hoặc không biết nó vì sao xảy ra, cũng không biết tương lai nó thay đổi thế nào. Dựa vào ý thức, phán đoán của chính mình mà xử lý sự việc thì làm gì không phạm sai lầm. Phật pháp dạy chúng ta trí tuệ cao độ. Chỉ có trí tuệ cao độ, bạn mới có thể trải qua hạnh phúc mỹ mãn. Trí tuệ triển hiện ngay trong cuộc sống, công việc của bạn, ngay trong thường ngày bạn đối nhân xử thế tiếp vật.
Chúng ta nghĩ xem, thông thường chúng ta dùng tâm gì? Tâm của chư Phật Như Lai là tâm niệm Phật. Chữ “Phật” dịch từ tiếng Phạn, ý nghĩa là trí tuệ, giác ngộ. Hay nói cách khác, niệm Phật là niệm trí tuệ, niệm giác ngộ. Vì sao người xưa không dịch như vậy? Họ không dịch vì có đạo lý của họ. Thể lệ ngày xưa dịch kinh lưu ý năm loại không dịch, loại này là tôn trọng không dịch. Chúng ta tôn trọng chữ “Phật” mà không dịch, chỉ dịch âm. Trí tuệ là không gì không biết, giác ngộ là không gì không hiểu. Trong khái niệm thông thường của chúng ta, phạm vi của trí tuệ và giác ngộ không lớn và sâu đến như vậy. Các Ngài là trí tuệ cứu cánh viên mãn, giác ngộ cứu cánh viên mãn, đó là Phật. Nói cách khác, “Phật Phật nhớ nhau” phải thực tiễn ngay đời sống của chúng ta. Mỗi niệm không mê chính là chánh giác.
Đồng tu học Phật, trước tiên phải tiếp nhận truyền thụ Tam Quy. Ý nghĩa quan trọng nhất của Tam Quy là truyền thụ ba cương lĩnh giáo học của Phật pháp. Thứ nhất, giác mà không mê. Thứ hai, chánh mà không tà. Thứ ba, tịnh mà không nhiễm. Đó gọi là Tam Bảo, Phật Pháp Tăng. Chúng ta trong cuộc sống, mỗi ngày từ sớm đến tối tiếp xúc với tất cả mọi người, mọi vật, mọi việc, có làm đến được “giác mà không mê”, “chánh mà không tà” (chánh chính là tư tưởng chuẩn xác, tư duy chính xác, tà là sai lầm) và có làm đến được “tịnh mà không nhiễm” không? Có giữ gìn tâm thanh tịnh không hề bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm không? Chúng ta mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, người phàm phu thuận theo tâm ý của mình khởi lên tham ái, bị ô nhiễm, không hợp với ý mình thì chán ghét. Chán ghét cũng là ô nhiễm. Khởi tâm động niệm đều bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm.
Phật dạy chúng ta tịnh mà không nhiễm. Thấy rõ ràng là trí tuệ. “Như như bất động” thì không nhiễm trước, tâm phải đạt thật thanh tịnh. Thật thanh tịnh, trong tất cả pháp không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm. Đó là lời Phật dạy. Vậy con người này có biến thành gỗ đá hay không? Người ta cười cũng trơ trơ, người ta khóc cũng trơ trơ, giống y như gỗ, vậy coi như bạn học Phật sai rồi. Người ta cười mình cũng cười, người ta khóc mình cũng khóc, đó là hằng thuận chúng sanh. Họ cười, họ khóc do xúc động tình cảm; còn cái khóc, cái cười của ta là trí tuệ, không phải tình cảm. Họ có cười, có khóc là họ bị ô nhiễm; ta khóc cười mà không ô nhiễm, vẫn giúp đỡ họ vượt qua ô nhiễm, đó là Phật Bồ tát. Đại sư Vĩnh Gia nói: “Phân biệt cũng không phải ý”. Ý thì ô nhiễm. Phật Bồ tát phân biệt là trí tuệ, không phải ý. Cao minh của người ở chỗ này. Đó là “Phật Phật nhớ nhau”.
Chúng ta muốn học phải đại học vấn và thật công phu. Cách nói này e rằng nhiều đồng tu chưa hiểu. Nếu bạn không tường tận thì bạn không có chỗ nào bắt tay vào để học. “Chư Phật nhớ nhau” chính là “trí quang hỗ chiếu”. Tất cả chư Phật chỉ nghĩ đến một sự việc phổ độ chúng sanh, chúng ta nên học tập. Cái gì là phổ độ chúng sanh? Quan tâm, thương yêu tất cả chúng sanh, tùy lúc tùy nơi tận tâm tận lực giúp đỡ. “Phật thị môn trung bất xả nhất nhân” là cương lĩnh mà chúng ta nên ghi nhớ. Chúng ta giúp đỡ người, nhưng người khác không chịu tiếp nhận sự giúp đỡ, vậy phải làm sao? Không cần giúp đỡ họ. Nhà Phật thường nói “Phật không độ người vô duyên”. Thế nào gọi là vô duyên? Họ không tin tưởng, không có lòng tin đối với bạn, thậm chí còn hoài nghi, không bằng lòng tiếp nhận bạn, vậy không nên miễn cưỡng. Phật độ người có duyên. Người có duyên chịu tin tưởng, chịu thân cận, chịu học tập. Đó là môn đại học vấn.
Các vị đồng tu phải nhớ, Phật giáo không phải tôn giáo. Người xưa Trung Quốc thích đơn giản, ngôn ngữ văn tự đều giản lược. Do mọi người ưa thích nên gọi Phật giáo. Người xưa giải thích ý nghĩa hai chữ “Phật giáo” là giáo dục của Phật Đà, tuyệt đối không xem thành tôn giáo. Vào thời xưa, không có danh từ tôn giáo. Danh từ tôn giáo là từ phương tây truyền đến Trung Quốc vào đầu nhà Thanh, cuối nhà Minh. Thế là họ đem Phật giáo liệt vào tôn giáo, thật oan uổng. Phật giáo liệt vào tôn giáo mới gần đây, nhiều nhất cũng không hơn hai trăm năm. Đầu nhà Thanh không có cách nói này.
Bản thân nhà Phật nói tông giáo nhưng so với định nghĩa tôn giáo hiện tại của chúng ta không như nhau. Chúng ta gọi “tông” là chỉ Thiền tông, gọi “giáo” là ngoài thiền tông còn bao gồm những hệ phái khác, gọi là “tông môn giáo hạ”, giản lược thành “Tông giáo”, hoàn toàn khác với cách gọi tôn giáo hiện nay. Tại sao nhà Phật phải phân tông môn giáo hạ? Vì phương pháp giáo học của họ hoàn toàn không như nhau. Giáo học của thiền tông không dùng giáo trình, sách vở, quyển kinh; vừa mở đầu liền dạy bạn ngồi thiền, dạy bạn minh tâm kiến tánh. Sau khi khai ngộ mới đọc kinh. Đương nhiên phương pháp đó đến nhanh, chưa khai ngộ nhất định không được tiếp xúc kinh sách. Đây là một phương pháp giáo học đặc thù. Tuy nhiên, ngoài thiền tông không luận đại thừa hay tiểu thừa, không luận tông phái nào đều phải có giáo trình thông qua kinh điển, từ cạn vào sâu, theo bộ mà xếp lớp để học tập. Cũng giống như các bạn lên lớp học, từ năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba dần dần hướng lên cao, cái này gọi là giáo hạ. Cho nên “tông môn giáo hạ” là chỉ phương thức giáo học khác nhau.
Phật là ai? Phật là chân như bổn tánh. Chân tâm của bạn gọi là Phật. Nhà Phật gọi ma, ma là vọng tâm của chính mình. Cho nên nói ma - Phật không hai. Bạn dùng chân tâm thì gọi bạn là Phật, bạn dùng vọng tâm thì gọi bạn là ma. Dày vò chính mình thì bạn khổ não, do nơi vọng tâm sanh ra. Phật là tánh đức, tất cả chư Phật đều là đức hiệu của tự tánh chính mình. Tất cả Bồ tát là tên gọi tu đức của chính mình. Ngoài chính mình ra, không pháp nào có thể được, đó là Phật Phật nhớ nhau. Thế nhưng, duyên tương đối không dễ dàng. Duyên của mỗi người đều khác nhau, chúng ta quyết không xem thường. Người gặp duyên cũng có sớm, có muộn. Chúng ta sớm gặp duyên nhưng chưa thành tựu. Có người gặp duyên rất trễ, nhưng vừa gặp thì liền thành tựu, chúng ta làm sao có thể xem thường họ. Cho nên Phật dạy phải dùng tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, tâm chân thành mà tiếp xúc với người, nhất định có cái tốt đối với chính mình. Chúng ta cần học tập, mỗi niệm quan tâm, thương yêu chúng sanh, còn phải tận tâm tận lực giúp đỡ tất cả chúng sanh. Vậy mới gọi là chân thật học Phật, học làm Phật, học đời sống của Phật, học đối nhân xử thế tiếp vật của Phật.
Câu kinh văn phía sau nói: “Vi niệm quá khứ vị lai chư Phật da”. Vào lúc này, Thích Ca Mâu Ni Phật đang niệm “chư Phật quá khứ” hay “chư Phật vị lai” hay “niệm hiện tại tha phương chư Phật?” Nếu niệm Phật hiện tại, đương nhiên Phật hiện tại tuyệt đối không phải Phật ở thế giới này của chúng ta. Mọi người đều biết, một thế giới chỉ có một vị Phật, giống như một trường học chỉ có một hiệu trưởng. Phật là đạo sư, mỗi thế giới chỉ có một vị. Thế giới vô lượng vô biên, nên hiện tại chư Phật cũng vô lượng vô biên. Phật phải niệm Phật, nếu niệm Phật hiện tại thì nhất định niệm chư Phật thế giới phương khác.
“Hà cố oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu nãi nhĩ”. Tại sao oai đức của ngài hôm nay kỳ diệu đến cùng tột? Hôm nay Ngài phát ra tướng mạo sáng lạng, ánh sáng đặc biệt rõ, gọi là quang thụy. “Thụy” là tướng lạ, tướng tốt; “thù diệu” là thù thắng, vi diệu. Mỗi ngày A Nan thân cận với Phật, theo Phật thời gian lâu như vậy, nhưng từ trước đến giờ chưa từng thấy tướng lạ như hôm nay. Tôn giả A Nan nói và nghĩ không sai, nhưng Ngài không hề nghĩ hiện tại Thích Ca Mâu Ni Phật đang nhớ đến A Di Đà Phật nên mới hiện ra tướng tốt như vậy.
Vừa rồi tôi nhắc các vị ngày ngày ở niệm Phật đường niệm A Di Đà Phật, tướng hảo quang minh của các vị có thể so sánh với Thích Ca Mâu Ni Phật hay không? Phải học với Thích Ca Mâu Ni Phật. Vì sao tướng hảo của các vị và Thích Ca Mâu Ni Phật không như nhau? Vì Thích Ca Mâu Ni Phật thật niệm, bạn ở đây giả niệm, khác biệt chính chỗ này. Thích Ca Mâu Ni Phật niệm A Di Đà Phật, một vọng tưởng cũng không có. Bạn ở đây niệm A Di Đà Phật nhưng vẫn xen tạp rất nhiều vọng tưởng, nên tướng lạ của bạn không như Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu giống Thích Ca Mâu Ni Phật dùng tâm niệm A Di Đà Phật thì tướng lạ mà bạn hiện ra quyết định giống Thích Ca Mâu Ni Phật, làm gì có sự khác biệt? Khi chúng ta niệm Phật không thể niệm được dung nhan phát sáng, thì chính mình phải sám hối, đọc kinh này phải hổ thẹn, Thích Ca Mâu Ni Phật niệm được loại tướng lạ, còn hiện tại chúng ta vì sao mà ra thế này? Phải thường phản tỉnh, nhắc nhở chính mình dõng mãnh tinh tấn.
Sau cùng A Nan thỉnh cầu với Thích Ca Mâu Ni Phật “nguyện vi tuyên thuyết”, hy vọng Thế Tôn vì đại chúng nói ra vì sao tướng mạo của Ngài hôm nay có quang sắc đẹp? Ngôn từ thỉnh giáo của Ngài đến đây là hết một đoạn. Phần sau, Thích Ca Mâu Ni Phật vì Ngài nói rõ tán thỉnh hứa thuyết.
“Ư THỊ THẾ TÔN, CÁO A NAN NGÔN: THIỆN TAI! THIỆN TAI! NHỮ VỊ AI MẪN LỢI LẠC CHƯ CHÚNG SANH CỐ, NĂNG VẤN NHƯ THỊ, VI DIỆU CHI NGHĨA”.
Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Nan trước khi trả lời Ngài. “Cáo A Nan Ngôn”, “cáo” là trên đối với hạ, Lão sư đối với học trò thì dùng chữ “cáo”, học trò đối với lão sư thì dùng chữ “bạch”. Bạn thấy phía trước là “nhi bạch Phật ngôn”, đó là kính từ, một ngữ khí tôn kính.
“Thiện tai! Thiện tai!”, dùng hai lần “thiện tai” ý khen A Nan hỏi rất hay, rất ý nghĩa, nên Phật liên tục tán thán. Hai lần tán thán đều có thâm ý. Một là bạn có thể thể hội ý của lão sư, thấy được tâm tư của lão sư, cho nên tán thán bạn “thiện tai”. Hai là, cơ duyên chúng sanh chín muồi, câu hỏi này rất hợp thời, Phật phải đem pháp môn vi diệu tuyên giảng với đại chúng.
“Nhữ vị ai mẫn lợi lạc chúng sanh cố”, A Nan đã hỏi xứng cơ. Thứ hai, cơ duyên của chúng sanh đã chín muồi, pháp môn này đến lúc phải giảng cho chúng sanh nghe. Thứ ba là khế hợp thời cơ, thời tiết nhân duyên. Ba điều kiện đầy đủ, Phật mới tán thán ông vì lòng “ai mẫn”. “Ai mẫn” là chỉ chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay quên sự việc, xem thường bỏ qua, mê mất chính mình. Người giác ngộ thấu suốt, cho nên sanh khởi tâm đồng cảm vô hạn, gọi là ai mẫn.
“Lợi lạc” chính là giúp đỡ chúng sanh lợi ích viên mãn nhất, thù thắng nhất, phải giúp họ lìa khổ được vui. Giáo học và tông chỉ mục tiêu của Phật pháp có tám chữ “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”, như vậy thì Phật giáo làm gì mê tín! Phật pháp phá trừ mê tín, dạy bạn trí tuệ hiện tiền, giúp bạn khai ngộ. Đó là nhân, còn quả thì lìa khổ được vui. Phật biết khổ từ mê mà ra. Bạn không hiểu chân tướng đối với vũ trụ nhân sanh nên bạn mới khổ. Vũ trụ là hoàn cảnh đời sống của chúng ta, nhân sanh chính là bản thân ta, không phải đại chúng. Đại chúng bên ngoài đều là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta. Trong hoàn cảnh có hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất. Tất cả chúng sanh hữu tình là hoàn cảnh nhân sự. Ý nghĩa chân thật của từ ngữ chữ nghĩa kinh, chúng ta phải hiểu rõ. Cho nên nói vũ trụ nhân sanh chính là nói chân tướng chúng ta và hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta. Bạn mê không hiểu rõ nên mới khổ. Sau khi hiểu rõ thì bạn liền vui. Lìa khổ được vui là việc của chúng ta, lão sư có thể giúp.
Phật, Bồ tát là lão sư. Qua cách xưng hô, các vị cũng có thể thể hội là Phật giáo không phải tôn giáo, quan hệ của chúng ta với Phật Bồ tát là quan hệ thầy trò trong giáo dục. Chúng ta gọi Ngài là lão sư hoặc bổn sư. Hiện tại người thông thường gọi người xuất gia là Hòa Thượng, kỳ thật là sai. “Hòa Thượng” là cách gọi cung kính vượt quá mức. Họ căn bản không phải là hòa thượng của bạn thì làm sao gọi họ là hòa thượng. Đây đều do không hiểu rõ ý nghĩa danh từ. “Hòa thượng” từ tiếng Phạn Ấn Độ dịch âm ra, ý nghĩa là thân giáo sư, người trực tiếp dạy bảo chúng ta. Trong trường đại học thì đó là giáo thọ trực tiếp chỉ đạo ta, ta mới gọi họ là hòa thượng. Lão sư dạy học trong trường rất nhiều, nhưng không trực tiếp chỉ đạo ta thì không gọi là hòa thượng. Ngoài ra, còn một danh từ “A Xà Lê” dùng trong trường hợp không chỉ đạo trực tiếp. Hòa thượng là cách xưng hô tôn kính nhất, với mối quan hệ rất mật thiết. Chúng ta không có quan hệ này với họ thì làm sao gọi họ là Hòa thượng. Từ chỗ này các vị có thể thể hội, Phật pháp đích thực là giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật, nhất định không phải là tôn giáo.
Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở đời vì mọi người giảng kinh nói pháp, đó là giáo học. Thân phận Ngài làm công tác giáo dục xã hội, hơn nữa hoàn toàn là giáo học nghĩa vụ, tuyệt nhiên không lấy của học trò một xu học phí. Phật tiếp nhận cúng dường của học trò rất đơn giản, ba y một bát. Mỗi ngày Ngài chỉ ăn một bữa sau khi ra ngoài khất thực. Ngài chân thật làm công tác giáo dục nghĩa vụ. Mục đích giáo dục của Ngài là chỉ rõ chân tướng vũ trụ nhân sanh, nói cách khác, chỉ rõ về chúng ta cùng chân tướng hoàn cảnh đời sống của chính mình. Ngày nay lưu lại nhiều kinh điển nhưng không phải năm xưa Thế Tôn viết sách giáo trình. Ngài chỉ giảng nói. Sau khi Phật diệt độ, học trò của Ngài từ ký ức chỉnh lý viết ra, đó mới gọi là kinh điển. Cả đời Ngài giảng quá nhiều, nên những gì lưu lại rất phong phú. Hiện tại thế gian không một đại học nào, khoa hệ nào hoàn bị hơn, thậm chí tập hợp tất cả khoa hệ của các trường học trên thế giới vẫn không thể viên mãn như kinh Phật.
Tôi thường đi lại rất nhiều nơi trên thế giới, và rất thích đến thăm trường học. Mỗi lần đến một địa phương nào, tôi nhất định đến thăm trường học tốt nhất của khu vực đó. Tôi đến Bắc Kinh, trước tiên liền đi thăm Đại học Bắc Kinh, Đaị học Sư Phạm Bắc Kinh, gần Bắc Kinh là Đại học Nam Khai Thiên Tân. Ở nước ngoài cũng vậy, những trường đại học nổi tiếng tôi thường thăm viếng.
Ngày nay chân thật có thể giải quyết vấn đề, đích thực chỉ là Phật pháp đại thừa. Trong Phật pháp đại thừa, tinh hoa nhất chính là kinh Vô Lượng Thọ cùng kinh Hoa Nghiêm, giúp đỡ chúng sanh lìa khổ được vui. Lìa khổ được vui phải từ phá mê khai ngộ mà bắt tay vào.
Vậy hôm nay A Nan hỏi, mục đích vì chúng sanh mà hỏi, không phải vì chính mình. Phật vì mọi người nói rõ, cũng không phải vì chính mình mà vì chúng sanh. Cho nên phía sau tán thán Ngài “năng vấn như thị vi diệu chi nghĩa”. “Như thị vi diệu chi nghĩa” tương đương câu phía trước: “Phật Phật nhớ nhau”. Phật Phật nhớ nhau là nhớ bộ kinh Vô Lượng Thọ. Nếu triển khai kinh Vô Lượng Thọ thì chính là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Hiện tại tôi giảng kinh Hoa Nghiêm rất tường tận nhưng không dễ dàng.
Kinh Vô Lượng Thọ khai giảng lần này tôi giảng tỉ mỉ vì hiện tại chúng ta không bị hạn chế thời gian. Năm xưa mỗi lần tôi đến Singapore, đại khái đều một tháng. Trong một tháng phải giảng xong một bộ kinh nên không thể giảng tỉ mỉ. Lần này không bị hạn chế thời gian, tôi mới giảng tỉ mỉ. Giảng tỉ mỉ thì thời gian sẽ rất dài, tôi phối hợp giảng kinh Hoa Nghiêm. Thế nhưng, trước mắt theo cách giảng kinh Hoa Nghiêm, tôi đang lo lắng. Ban đầu tôi nghĩ trong năm năm phải giảng xong, nhưng xem cách giảng hiện tại thì mười năm chưa chắc xong. Tôi thử hỏi ý kiến các đồng tu nghe kinh, họ đều thích cách này của tôi. Vậy tốt rồi, các vị đều là Vô Lượng Thọ. Còn chiếu theo cách giảng hiện tại, nhất định phải vượt qua mười năm.
Tuy nhiên, giảng tỉ mỉ có cái tốt của tỉ mỉ. Chúng ta mê đã quá lâu, nếu không tường tận giải thích mà hàm hồ qua loa giảng thì không đạt lợi ích; ý niệm của chúng ta vẫn không thể chuyển đổi. Nói cách khác, việc chuyển đổi từ mê đến ngộ, từ tà đến chánh, từ nhiễm đến tịnh, gọi là chuyển đổi. Ngày trước chúng ta Mê-Tà-Nhiễm, trải qua đời sống Mê-Tà-Nhiễm, hiện tại thật chuyển đổi, chúng ta trải qua đời sống Giác-Chánh-Tịnh. Giác-Chánh-Tịnh chính là đời sống của Phật Bồ tát. Mê-Tà-Nhiễm là phàm phu, tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, chuyển đổi lại thành Phật Bồ tát, siêu phàm nhập thánh. Câu hỏi của A Nan rất vi diệu chi nghĩa.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên