- Phần 1
- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 11
- Phần 12
- Phần 13
- Phần 14
- Phần 15
- Phần 16
- Phần 17
- Phần 18
- Phần19
- Phần 20
- Phần 21
- Phần 22
- Phần 23
- Phần 24
- Phần 25
- Phần 26
- Phần 27
- Phần 28
- Phần 29
- Phần 30
- Phần 31
- Phần 32
- Phần 33
- Phần 34
- Phần 35
- Phần 36
- Phần 37
- Phần 38
- Phần 39
- Phần 40
- Phần 41
- Phần 42
- Phần 43
- Phần 44
- Phần 45
- Phần 46
- Phần 47
- Phần 48
- Phần 49
- Phần 50
- Phần 51
- Phần 52
- Phần 53
- Phần 54
- Phần 55
- Phần 56
- Phần 57
- Phần 58
- Phần 59
- Phần 61
- Phần 62
- Phần 63
- Phần 64
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 37)
Pháp Sư Tịnh Không
Nguyện thứ năm, “Tùy hỷ công đức”
Trước tiên phải nhận biết “công đức” là gì. Chỗ này không thể hàm hồ được. Chúng ta thấy tại rất nhiều đạo tràng có một thùng bên trên viết “Thùng công đức”, liền cho rằng mình chỉ cần để tiền vào đó sẽ có công đức. Vậy là sai, không hề có công đức nào cả. Lương Võ Đế trong lịch sử Trung Quốc nổi tiếng là một Phật giáo đồ kiền thành, là đại hộ pháp của nhà Phật. Khi còn đương chức, ông đã tạo dựng bốn trăm tám mươi đạo tràng, ngày nay chúng ta gọi là tự viện, quy mô đều rất lớn. Ông luôn khích lệ nhân dân xuất gia, xem thấy người xuất gia thì rất hoan hỉ. Cho nên ông độ chúng mấy trăm ngàn người, chính ông cũng cảm thấy kiêu ngạo khi làm được công đức lớn như vậy. Lúc này, Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư thiền tông, đến Trung Quốc. Ngài nghe nói quốc vương của Trung Quốc nhiệt tâm hộ pháp nên đương nhiên phải bái kiến. Lương Võ Đế cũng rất vui mừng tiếp kiến vị cao tăng từ Ấn Độ. Khi gặp mặt, Lương Võ Đế kể với Đạt Ma tổ sư về công đức hộ pháp của mình. Sau khi nói xong, ông thỉnh giáo Đạt Ma tổ sư: “Công đức của tôi có lớn không?”. Đạt Ma tổ sư thành thật trả lời: “Không có công đức gì”. Lương Võ Đế nghe rồi, lòng rất không vui. Sau đó Lương Võ Đế không hộ pháp cho ngài, làm cho ngài phải đến chùa Thiếu Lâm quay mặt vào vách chín năm, để đợi Huệ Khả.
Lời của Đạt Ma tổ sư có đúng không? Đúng. Công đức cùng phước đức không như nhau. Giả như Lương Võ Đế hỏi: “Phước đức của tôi có lớn không?”, thì Đạt Ma tổ sư nhất định trả lời: “Thật lớn! thật lớn! Ông tu phước báu thật quá lớn”. Phước đức cùng công đức rõ ràng có khác biệt. Công đức phải do chính mình tu hành. Chúng ta nêu một thí dụ đơn giản, trì giới có công, cái công mà bạn trì giới là công phu, bạn trì giới có công phu. Được định chính là đức. Cho nên công là tu nhân, đức là chứng quả, bạn được định mới gọi là công đức. Nếu bạn giữ giới luật rất tốt, rất nghiêm, nhưng không thể được định, thì trì giới của bạn chỉ là phước, không phải công. Bạn trì giới chưa có công phu thì chỉ có được phước báu. Nhân giới quả định thì giới luật này mới gọi là có công phu.
Vì sao có người trì giới được định, còn một số người trì giới không thể được định? Do đúng pháp hay không đúng pháp. Tu học đúng pháp có công, tu học không đúng pháp không có công. Điểm này các vị đồng tu, không luận tại gia xuất gia, đều phải tường tận. Vì vậy nhất định phải thủ pháp, vì thủ pháp mới tương ưng.
Lục tổ Đại sư Huệ Năng đặc biệt dạy người trì giới, một mực dặn bảo chúng ta: “Nếu là người chân chánh tu hành thì không thấy lỗi thế gian”. Giới luật của ta trì rất tốt, xem thấy người khác không trì giới liền sanh tâm khinh mạn, xem thường, còn chính mình lại cống cao ngã mạn. Trì giới như thế được kết quả gì? Người ta trì giới thì được định, từ định khai huệ; ta trì giới ra cống cao ngã mạn thì làm gì có được công phu.
Thế nhưng sự trì giới đó có tốt không? Tốt. Sự trì giới đó mang lại phước đức, chính là tu phước hữu lậu trong tam giới sáu đường. Tôi không nói phước báu nhân thiên, tôi nói phước báu hữu lậu trong sáu đường. Vì sao? Dù họ không được thân người mà chỉ được thân súc sanh, thân ngạ quỷ thì cũng đều hưởng phước. Bạn thấy đường súc sanh, nếu có phước báu lớn vẫn được cưng chiều chăm sóc chu đáo, con người chúng ta làm sao có thể sánh bằng. Có những con vật cưng được người cả nhà hầu hạ, xem nó như bảo bối, trong khi chúng ta thì chẳng ai quan tâm. Loại súc sanh đó đời trước đã từng tu phước nên mới được như vậy.
Phước báu trong cõi quỷ cũng không nhỏ. Chúng ta xem thấy rất nhiều ở nhân gian Trung Quốc cúng bái những quỷ thần này. Cạnh Cư Sĩ Lâm dường như có một cái miếu Đại Bá Công, đó chính là cõi quỷ có phước báu. Sơn thần, thổ địa, thành hoàng đều là cõi ngạ quỷ đã tu phước nên ở trong cõi quỷ hưởng phước.
Cho nên Phật dạy chúng ta nhất định phải tu tích công đức. Trong công đức tự nhiên có phước đức. Trong phước đức không có công đức. Công đức phải tu bằng cách nào? Kinh này đích thực là đệ nhất kinh mà Thế Tôn đã nói suốt bốn mươi chín năm. Kinh Hoa Nghiêm vẫn là hàng kế sau kinh này. Đề kinh nêu rõ: “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”, hay nói cách khác, việc tu học của chúng ta phải tương ưng với “Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác”, đó chính là công đức. Chúng ta trì giới, ngay trong giới được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, thì giới của chúng ta liền có công. Tâm thanh tịnh là định, tu định có công, khai trí tuệ chính là đức. Tu định nếu không thể khai trí tuệ thì cái định đó chỉ là phước báu. Thế nhưng các vị nên biết, phước của định cùng phước của giới không như nhau. Phước của định lớn hơn rất nhiều.
Phước của giới trong ba đường đều được hưởng, chỉ có địa ngục không được hưởng. Còn phước của định thì không ở ác đạo, chí ít phải từ trời Dạ Ma trở lên. Bạn tu định, trong định không thể khai trí tuệ, thì phước báu từ trời Dạ Ma mãi đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là phước báu của định. Đó là tu định mà được phước báu, không phải công đức. Tu định muốn được công đức phải khai trí tuệ. Khai trí tuệ chắc chắn siêu việt tam giới, vĩnh thoát luân hồi, đó là tu định có công. Cho nên chúng ta phải hiểu công đức một cách rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo.
Chúng ta xem thấy người ta tu tích công đức thường khởi lên ý niệm đố kỵ; thấy người khác tốt hơn mình liền khó chịu, bực bội, nghĩ mọi cách chướng ngại, thậm chí còn nghĩ cách phá hoại, tội lỗi này rất lớn.
Bồ tát tu tích công đức
Bồ tát thị hiện ngay trong quần chúng xã hội, nam nữ già trẻ. Việc họ làm chúng ta thường gọi là việc từ thiện xã hội. Thế nhưng Bồ tát cùng người thế gian chúng ta làm việc từ thiện xã hội lại có chút khác biệt. Các vị tỉ mỉ quan sát mới có thể thấu hiểu. Bồ tát tu tích làm những việc từ thiện, sau cùng nhất định còn giúp họ phá mê khai ngộ, đó chính là đã làm công đức. Nếu chỉ làm việc từ thiện xã hội, không dạy họ phá mê khai ngộ, thì là thuộc về phước đức.
Vì sao đối với chúng sanh, trước tiên phải dùng từ thiện cứu tế để giúp đỡ? Đó là Tứ Nhiếp pháp, một phương tiện nhiếp thọ chúng sanh của Phật. Trên kinh, Phật cũng tường tận dạy chúng ta “Tiên dĩ lợi dục câu, hậu linh nhập Phật trí”. Bạn thấy Phật thật từ bi đến tột đỉnh. Bạn cứ thử bảo người thế gian đến học Phật, họ sẽ lắc đầu không đến; nhưng bạn mời họ đến ăn cơm thì họ rất vui mừng lập tức liền nhận lời. Ăn cơm xong bạn mới bảo họ học Phật, như thế dễ dàng hơn, vì đã nhận ân huệ rồi, không nghe sẽ rất khó coi. Cho nên nhà Phật dùng loại từ thiện này: bố thí, ái ngữ, đồng sự, lợi hành đều là để nhiếp thọ chúng sanh. Sau đó nói rõ cho họ chân tướng của vũ trụ nhân sanh, chân tướng chính chúng ta cùng hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Khi hiểu rõ chân tướng thì họ sẽ quay đầu là bờ.
Nếu chấp tướng mà làm, như thế vẫn là tu phước. Còn nếu rời tướng, không chấp tướng, tam luân thể không, đó là lấy lợi ích chúng sanh làm công đức. Do nhân giới được định, là công đức tu học của chính mình. Hai loại công đức này đều sẽ bị người đố kỵ, chướng ngại. Cho nên khi chúng ta tu tích phải có trí tuệ cao độ, phải có phương tiện khéo léo. Địa vị của chúng ta càng thấp càng tốt, đối đãi với bất cứ người nào cho dù là người phê bình, hủy báng, phá hoại chúng ta, chúng ta cũng phải dùng tâm chân thành cung kính đối đãi với họ, làm cho họ dần dần cảm động, có thể giác ngộ quay đầu. Chúng ta đem những ác duyên chuyển biến thành thiện duyên, đem những việc ác chuyển thành công đức chân thật, đó gọi là tùy hỉ. Chúng ta nhất định phải làm từ chính bản thân mình; trở thành tấm gương tốt mới có thể giáo hóa chúng sanh.
Ngày nay trên toàn thế giới, ở bất cứ nơi nào hoằng dương Phật pháp, chúng ta đều có một tổng mục tiêu, tổng phương hướng, “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Cả thảy Phật pháp Đại thừa đều không ngoài hai câu này. Sư là gương mẫu, tuyệt nhiên không phải nói về người xuất gia. Mỗi vị đồng tu tại gia đều phải tác sư, tác phạm. Ngay trong cương vị công tác hiện tại, ngay trong đời sống hiện tiền phải làm tấm gương tốt cho đại chúng, đó chính là tác sư tác phạm. Chư Phật Bồ tát là tấm gương tốt nhất cho tất cả chúng sanh chín pháp giới. Chúng ta phải hiểu được ý này.
Ngày trước tôi đã nói qua, có người hỏi tôi, cha mẹ hiện tại rất khó quản giáo con cái. Con cái không nghe lời cha mẹ, học trò không nghe lời thầy giáo, công nhân không nghe lời ông chủ, đó là một vấn đề nghiêm trọng trong xã hội. Toàn thế giới có rất nhiều nhà lãnh đạo thông minh, rất nhiều nhà học thuật, các lãnh đạo tôn giáo đều đang tìm cầu phương pháp giải quyết vấn đề xã hội ngày nay. Rốt cuộc lỗi lầm do đâu? Năm trước, tôi đến Đại học Sư Phạm Bắc Kinh, xem thấy trong trường học có đề tám chữ: “Học vi nhân sư, thân vi thế phạm”, vì thời gian ở trường không lâu nên lúc tiếp đón, tôi đã nói qua. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc dạy bảo chúng ta “tác thân, tác quân, tác sư”, cho nên khi tôi xem thấy tám chữ này liền liên tưởng đến. Nhà Nho giáo huấn chúng ta “tác chi quân, tác chi thân, tác chi sư”, chúng ta không thể hiểu bằng nghĩa hẹp. Với câu nói này, nghĩ rằng Khổng Tử kỳ vọng người lãnh đạo quốc gia, không liên quan đến dân chúng thông thường như chúng ta, vậy thì sai. Giáo học của Nho và Phật dành cho tất cả chúng sanh, không phân giai cấp, nam nữ, già trẻ; cũng không phân nghề nghiệp.
Quân là gì? Là người lãnh đạo tốt, nhân từ; đối với cấp dưới mình phải chân thành quan tâm, chân thành thương yêu, chân thành chỉ đạo họ. Bạn là người lãnh đạo tốt, đồng thời phải là người thân. Dùng cái tâm của cha mẹ thương yêu cấp dưới. Trung Quốc thời xưa, thủ trưởng chính phủ địa phương gọi là quan phụ mẫu. Hiện tại làm quan, thời đại dân chủ gọi là người đầy tớ của dân. Bá tánh là chủ, quan là người hầu. Quan hệ chủ bộc, người hầu có lúc cũng gạt chủ. Cách gọi này không thể hiện được sự chân thật hiếu trung với bạn. Nhưng cha mẹ thương yêu con cái thì không hề có điều kiện. Cho nên chúng ta vẫn hy vọng người làm quan là cha mẹ của chúng ta, không nên là người hầu trong nhà chúng ta. Người hầu thật không đáng tin, cha mẹ vẫn đáng tin hơn nhiều so với người hầu. Lãnh đạo phải làm người thân, mang cái tâm của cha mẹ. Ngoài ra còn phải mang cái tâm của thầy giáo thương yêu học trò.
Không luận thân phận ngày nay của chúng ta như thế nào, dù là một công nhân cấp thấp cũng phải làm được ba điều kiện này. Tuy không có chức vụ, không có địa vị cũng phải có ba loại tâm này để làm sức ảnh hưởng đến đồng liêu đồng sự của chính chúng ta, ảnh hưởng đến bạn bè, người quen, sau đó mở rộng ảnh hưởng xã hội, người người đều có thể phát tâm “tác thân, tác sư, tác quân”, đây gọi là chân thật tùy hỉ công đức. Lợi ích cho người, việc công đức lợi ích đó làm gì có chướng ngại? Không những không có chướng ngại, mà còn quyết tâm toàn lực tán thán giúp đỡ đại chúng xã hội cùng nhau phát triển, mang đến xã hội lợi ích chân thật.
Việc thiện ác thế gian quá nhiều, vì sao Phật đặc biệt nêu ra “tuỳ hỷ công đức”? Vì Phật biết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh tích lũy từ vô lượng kiếp. Mỗi một chúng sanh đều có tập khí tham sân si mạn từ lúc mới sinh, không cần người dạy. Bạn cứ tỉ mỉ mà quan sát trẻ nhỏ. Trẻ thơ mấy tháng tuổi chưa biết nói, đặt hai đứa trẻ bằng tuổi cạnh nhau. Một đứa trẻ có kẹo ăn, đứa kia không có, tâm đố kỵ liền nổi lên, chúng liền tranh giành lẫn nhau. Bạn xem, ai dạy chúng? Tùy hỷ công đức chính là đối trị tâm ngạo mạn, đố kỵ, mà đặc biệt là đố kỵ. Đố kỵ ngạo mạn tạo tội nghiệp cực trọng, nhưng nếu giữa khoảng một niệm chuyển đổi, liền biến thành vô lượng công đức. Phật cùng phàm phu khác biệt ở chỗ này. Chúng sanh thì không thể chuyển được, tùy theo phiền não trôi lăn trong sanh tử sáu cõi. Còn chư Phật Bồ tát trong khoảng một niệm chuyển đổi, thành tựu vô lượng vô biên công đức. Cho nên chúng ta phải học cách chuyển, chuyển được rất mau. Sau khi chuyển rồi, người ta tu tích công đức bao lớn thì bạn tuỳ hỉ công đức bấy nhiêu, nhất định không khác biệt. Tuyệt đối không thể nói con người này tu tích công đức thì công đức của họ lớn, ta tùy hỉ nên công đức nhỏ. Không hề có việc như vậy.
Người ta tu tích thật khổ sở, bạn vừa tùy hỉ thì công đức cũng lớn như họ. Vậy bạn thấy bạn chiếm được bao nhiêu lợi ích? Phật dạy chúng ta đem công đức của A Di Đà Phật chuyển biến thành công đức của chính mình. Cách chuyển thế nào? Y theo bộ kinh này mà tu học. Phật dạy chúng ta thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói. Bạn chỉ cần làm được ba câu này thì liền chuyển công đức từ vô lượng kiếp của Phật A Di Đà thành công đức của chính mình. Ngay trong lúc giảng dạy chúng ta cũng thường nói, đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh với Phật A Di Đà Phật thì công đức của Ngài chuyển biến thành công đức của chính mình, đó mới là người thông minh bậc nhất. Nếu bạn tu hành công đức của Phật A Di Đà mà chỉ dựa vào chính mình thì bạn phải tu đến kiếp nào? Chúng ta ở mấy mươi năm ngắn ngủi của cuộc đời, chỉ cần hiểu đạo lý, hiểu được phương pháp này, tu hành mấy mươi năm bằng Phật A Di Đà tu hành vô lượng kiếp. Kinh Hoa Nghiêm nói “niệm kiếp viên dung”, chúng ta chân thật có thể làm đến. Cho nên các vị không được xem thường bỏ lỡ cơ hội, nhất định phải nắm lấy cơ hội này, ngay một đời thành tựu công đức cứu cánh viên mãn.
Cư sĩ Lý Mộc Nguyên xây dựng đạo tràng, mời pháp sư đã tốn biết bao hơi sức. Đó là công đức của ông ấy. Hôm nay chúng ta đến đây tùy hỷ, vậy công đức viên mãn của ông ấy, chúng ta thảy đều có được. Bạn giới thiệu bạn bè thân thích đến đây nghe kinh, cũng chính là bạn lợi dụng cái đạo tràng, lợi dụng cơ duyên này của cư sĩ Lý Mộc Nguyên mà độ được mấy người làm Phật, bạn nói xem công đức của bạn lớn hay không? Họ ngay một đời có thể y giáo tu hành, có thể vãng sanh hay không, đó lại là chuyện khác, không hề gì, chỉ cần họ đến đạo tràng, thấy được Phật tượng, nghe một hai câu kinh văn, “một khi nghe qua tai, mãi đã trồng thiện căn”. Hạt giống kim cang vĩnh viễn không hư hoại, sẽ có ngày gặp được duyên khởi hiện hành, tương lai họ niệm Phật sẽ vãng sanh làm Phật.
Nguyện thứ sáu, “Thỉnh chuyển pháp luân”
Rất nhiều đồng tu sâu sắc cảm nhận nghiệp chướng của mình sâu nặng, tai nạn liên tiếp. Không người nào không nghĩ cách để tiêu nghiệp chướng? làm thế nào tránh khỏi những tai nạn? Thế là đến cửa Phật, miếu thần thắp hương lễ bái, mong cầu Phật và thần minh bảo hộ. Có thể cầu được hay không? Chúng ta phải bình lặng quan sát. Có mấy người cầu được? Dù cầu không được, người ta vẫn đến cầu tấp nập không ngớt. Thậm chí biết rõ ràng cầu không được nhưng vẫn đi mong cầu, còn tốt hơn không cầu. Họ cứ khư khư ôm tâm lý cầu may.
Lời của Phật nói không vọng ngữ, rằng “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, đó là sự thật không phải giả, có cầu ắt có ứng. Bạn thấy cầu làm Phật đều có thể đạt đến được, đây là việc khó nhất của thế xuất thế gian. Làm Phật mà còn được thì những thứ khác chỉ là chuyện không đáng kể, có thứ nào mà cầu không được. Thế nhưng Phật dạy chúng ta cầu là dạy chúng ta như lý như pháp mà cầu, bạn mới có thể đạt được. Cái mong cầu của bạn phải hợp lý hợp pháp. Nếu không hợp lý, không hợp pháp, bạn nhất định không cầu được. Pháp tắc của nhân quả chính là điều Phật dạy chúng ta. Bạn phải tu nhân, sau đó quả báo mới hiện tiền. Thỉnh chuyển pháp luân để hóa giải những quan điểm này.
Việc diễn giảng của chúng ta không chỉ có những thính chúng ngồi đây. Người ngồi trước màn hình tivi không biết bao nhiêu, bởi vì những băng ghi hình này đều được mang đến đài truyền hình vệ tinh để phát sóng. Đài truyền hình yêu cầu nội dung ghi hình của chúng ta phải đẹp. Họ đã nói qua với tôi rất nhiều lần, phải tìm chuyên gia nghệ thuật vẽ những bối cảnh màn hình. Tôi nghĩ phía sau chúng ta chỉ để một ít cây cối hoa cỏ, cảnh như vậy chẳng phải quá tốt hay sao. Sáng hôm nay, tôi đến tiệm bán hoa xem và chọn mấy loại cây này. Ý nghĩa biểu pháp của cây rất sâu. Thọ là kiến thọ, kiến lập. Thọ lập đạo tràng, thọ lập Phật pháp, thọ lập nhân sanh vũ trụ quan. Hoa, tôi đặc biệt chọn quốc hoa của Singapore. Quả, tôi chọn thạch lựu. Thạch lựu tốt, nhiều hạt, đều là biểu pháp. Có cây, có hoa, có quả, phía sau treo bức các ngôi sao một cách tình cờ. Rất tốt. Có Phật, có kinh sách, đầy đủ Tam Bảo, chúng ta không cần phải tốn nhiều hơi sức, phải nhờ người đến vẽ bối cảnh. Người bán hoa cũng rất nhiệt tình, mỗi tuần họ sẽ đổi một lần trong khoảng năm năm. Khi máy lạnh thổi đến, những cây lá này còn có thể động, sinh động hơn nhiều so với tranh sơn dầu.
Mắt thường chúng ta không thấy được thính chúng, không biết được có bao nhiêu. Khi phát sóng ở Hoa Kỳ, đồng tu ở Hoa Kỳ nói với tôi, có đến hai mươi ngàn người bắt tín hiệu xem. Con số này không ngừng tăng thêm. Cho nên đài truyền hình yêu cầu chúng ta dùng máy móc tối tân để phát ra dữ liệu đẹp nhất. Mọi thứ chúng ta đều đáp ứng, hy vọng làm đến được tiêu chuẩn của họ. Lầu năm hiện tại đang lắp đặt, bốn mặt đều cách âm, dưới nền lót thảm. Lý cư sĩ luôn hy vọng mỗi một đồng tu đến giảng đường ngồi hai giờ đồng hồ để hưởng thụ, để thư thích thoải mái mà thảo luận Phật pháp và giảng kinh.
Tóm lại, “Thỉnh chuyển pháp luân” là phương pháp tiêu tai giải nạn thù thắng nhất. Làm bất cứ công đức nào để tiêu tai khỏi nạn đều không bằng mời pháp sư giảng kinh, diễn nói Phật pháp. Người nghe sanh tâm hoan hỉ, sanh tâm giác ngộ. Giác ngộ rồi, tai nạn mới chân thật có thể tiêu trừ. Bất giác thì liền có tai nạn. Nghiệp chướng tai nạn từ đâu mà ra? từ mê hoặc, điên đảo mà ra; từ tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm, hành vi sai lầm của chúng ta phát sanh ra. Cho nên bạn phải đem ý niệm chuyển đổi lại thành chánh tri chánh kiến thì nghiệp chướng tai nạn từ vô thỉ kiếp đều có thể hoá giải được, có như vậy công đức “thỉnh chuyển pháp luân” sẽ rất lớn, ý nghĩa rất sâu. Nếu một mình không đủ sức thỉnh pháp sư giảng kinh, chúng ta có thể liên kết một số đồng tu tập hợp lực lượng, mọi người cùng nhau thỉnh, thì công đức đều như nhau, đều thù thắng không gì bằng. Giảng kinh thuyết pháp ảnh hưởng càng lớn, công đức cũng sẽ càng lớn theo; ảnh hưởng càng sâu, công đức cũng càng sâu.
Ngày nay ở trong xã hội, mỗi một khu vực, đô thị, hương trấn, có rất nhiều người cư ngụ đều xem Phật giáo thành tôn giáo, đó là một hiểu lầm to lớn. Chúng ta cùng đại chúng, đặc biệt đối với những người vừa tiếp xúc Phật pháp, trước tiên phải chỉnh sửa quan niệm sai lầm này, sau đó mới có thể giới thiệu Phật pháp cho họ. Nếu không chỉnh sửa thì khi bạn vừa mở đầu đã sai, sau đó tiếp tục sai đến cùng. Việc này chúng ta không thể không biết. Cho nên chuyển đổi sai lầm của mọi người là công đức vô biên, chúng ta nhất định phải suy nghĩ đến sức ảnh hưởng sâu rộng của nó. Nơi nào có được sự ảnh hưởng lớn? Đạo tràng trong nhà Phật, thính chúng càng nhiều thì sức ảnh hưởng của những quan niệm sai lầm càng không còn đủ mạnh.
Nơi nơi vì Phật pháp mà nghĩ, vì tất cả chúng sanh mà lo, tâm lượng của chúng ta sẽ lớn. Thế Tôn đặc biệt vì chúng ta hiển thị trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Một tuần nữa chúng ta sẽ khởi giảng bộ kinh này. Kinh này không phải giảng cho hàng Bồ tát, mặc dù tham dự pháp hội Hoa Nghiêm là bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ, hay nói cách khác, không phải là chúng sanh trong mười pháp giới, thậm chí không phải hàng Phật Bồ tát trong mười pháp giới. Phật trong mười pháp giới, nếu theo cách nói của Thiên Thai, là Phật của tạng giáo, Phật của thông giáo, không hề ra khỏi mười pháp giới. Viên giáo, biệt giáo siêu việt cũng không vì Bồ tát, không vì thanh văn duyên giác mà giảng, vậy vì ai? Vì phàm phu và vì chúng sanh.
Chúng ta là phàm phu, là chúng sanh nên chúng ta có phần. Tuy nhiên phải đáp ứng một điều kiện, đó là đại tâm phàm phu. Phàm phu tâm lượng không được nhỏ mà phải lớn. Lớn đến mức nào? Đương nhiên tốt nhất phải lớn y như Phật, tâm Phật trùm hư không lượng khắp pháp giới. Nếu chúng ta có tâm lượng lớn như vậy, thì kinh Hoa Nghiêm vừa tiếp xúc liền được viên mãn, chân thật không chút kém khuyết nào. Kinh Hoa Nghiêm dạy đại tâm phàm phu hiện tiền trải qua đời sống của Phật Bồ tát, một đời sống cứu cánh viên mãn, cũng chính là ba loại chân thật mà kinh Vô Lượng Thọ đã nói: “chân thật chi tế”, “trụ chân thật huệ”, “huệ dĩ chân thật chi lợi”. Ba loại chân thật hiện tiền liền đối hiện không phải đợi đến lúc nào, đó mới là lợi ích chân thật.
Do đây có thể biết, mời pháp sư giảng kinh là việc vô cùng quan trọng. Xã hội ngày nay, vì mọi người không nhận biết Phật pháp, không hiểu rõ Phật pháp, cho rằng có rất nhiều loại kinh sám Phật sự có thể giúp tiêu tai khỏi nạn, đó là hiểu lầm nghiêm trọng. Những kinh sám nghi thức của nhà Phật liệu có hiệu quả hay không? Có, thế nhưng bạn phải hiểu biết ý nghĩa của nó mới có thể nhận được hiệu quả. Không hiểu được ý nghĩa của nó thì chỉ trên hình thức chứ không nhận được hiệu quả gì. Y theo hình thức để làm thì không được. Ví dụ thiền tông, những tổ sư đại đức ngày trước thật cao minh, khi người học đến tham cứu, thỉnh giáo, lão hoà thượng không nói câu nào, chỉ đưa ra một ngón tay. Người đến học vừa nhìn thấy liền khai ngộ, chứng quả. Hiện nay, nếu người khác đến hỏi, chúng ta đưa ra một ngón tay có được không? Họ có thể khai ngộ không? Không những không khai ngộ mà còn mê hoặc điên đảo. Cho nên không thể chỉ có động tác, mà phải xem họ thuộc loại người nào.
Ngày trước, nghi quy của họ có hiệu quả, hiện tại chúng ta chiếu theo những nghi quy này thì không hiệu quả. Cho nên tịnh tông chúng ta trong nghi quy Phật sự chỉ đề xướng hai thời khóa tụng sớm tối, khóa Phật thất, cùng tam thời hệ niệm. Làm tam thời hệ niệm, trước tiên phải tỉ mỉ giảng qua một lần. Lạy Lương Hoàng Sám tốt nhất cũng phải giảng tỉ mỉ Lương Hoàng Sám một lần. Người tham gia đều phải nỗ lực đến nghe, sau đó ở trong nghi thức mà tùy văn nhập quán. Bạn không biết chút gì với nghi thức thì không được, như thế chẳng khác nào vẽ hồ lô, dù vẽ có giống đến đâu cũng không có nội hàm. Cho nên nhất định phải thỉnh pháp sư giảng kinh, đó mới là chân thật tiêu nghiệp chướng, chân thật miễn trừ tất cả tai nạn.
Thực tế không thỉnh được pháp sư giảng kinh thì vẫn còn một phương pháp, niệm Phật. Tìm mấy người chí đồng đạo hợp, nhiều ít không quan trọng. Chúng ta tìm một kỳ nghỉ để mọi người đều có thời gian, sau đó tìm nơi chốn thanh tịnh có thể niệm một ngày một đêm, hai ngày hai đêm, hoặc đến mười ngày. Công đức đó chân thật là vô lượng vô biên, có hiệu quả hơn bất cứ sám nghi nào. Không nên cho rằng, một câu Phật hiệu dễ niệm thì làm gì có công đức. Thực chất, Phật hiệu công đức không thể nghĩ bàn.
Nguyện thứ bảy, “Thỉnh Phật trụ thế”
Điều này cũng vô cùng quan trọng. Hiện tại Phật không còn ở thế gian cho nên chúng ta chỉ có thể đắp nắn tượng Phật để cúng dường, tượng trưng cho Phật pháp thường trụ thế gian. Những vị pháp sư đại đức thay Phật nói pháp, chúng ta phải mời họ lưu lại nơi này để giảng kinh nói pháp lâu dài thì chúng ta mới nhận được lợi ích chân thật. Các vị thử nghĩ xem, có mấy người nghe một bộ kinh liền khai ngộ? Không hề có, vậy phải làm sao? Ngày ngày phải nghe. Chúng ta ngày nay, phước báu không bằng người xưa. Thời xưa ở tòng lâm tự viện của Trung Quốc, mỗi ngày giảng kinh không hề gián đoạn. Tự viện luôn có giảng đường.
Lịch sử ghi chép, đại sư Thanh Lương năm xưa giảng kinh Hoa Nghiêm, có thể nói trước đó và sau đó không ai giảng bằng ngài. Cả đời đại sư giảng qua năm mươi lần. Người thân cận với đại sư Thanh Lương nếu có lòng nhẫn nại nghe qua năm mươi lần thì có lý nào không thành tựu. Một biến giảng qua chí ít là một năm. Nghe năm mươi biến phải mất năm mươi năm. Năm mươi năm, ngày ngày huân tập thì có lý nào mà không khai ngộ.
Chúng ta ngày nay nghe kinh khó khăn là do đâu? Một ngày nóng, đến mười ngày lạnh, mỗi ngày giảng kinh, huân tập không quá hai giờ đồng hồ. Hai mươi bốn giờ chỉ hai giờ nghe kinh, vẫn còn hai mươi hai giờ khởi vọng tưởng, bạn nói xem làm gì có thành tựu. Pháp sư tòng lâm thời xưa mỗi ngày giảng kinh tám giờ đồng hồ. Một bộ kinh Hoa Nghiêm giảng tám giờ mỗi ngày, một năm giảng được viên mãn cả bộ. Chúng ta mỗi ngày giảng hai giờ thì phải bốn năm mới được viên mãn. Đại sư Thanh Lương quả thật hơn người, ngài sống trên trăm tuổi, người thời đó gọi là Bồ tát Hoa Nghiêm. Ngoài ra, ngài và đại chúng còn ở niệm Phật đường niệm Phật tám giờ, làm gì còn thời gian để khởi vọng tưởng. Họ ở trong loại đạo tràng này ba năm hiệu quả hơn chúng ta ngày nay tu hành ba mươi năm, đây gọi là “trường kỳ huân tu”, sức huân tập quá lớn.
Vào đầu năm dân quốc, đạo tràng Trung Quốc đại khái chỉ còn một nơi, đó là đạo tràng niệm Phật của Đại sư Ấn Quang ở Chùa Linh Nham, Sơn Tô Châu. Đạo tràng ngài không giảng kinh, không có pháp hội, không có kinh sám pháp sự, nhưng Phật thất suốt năm, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Mỗi ngày sáu cây hương, mỗi cây hương một tiếng rưỡi. Sáu cây hương là chín giờ đồng hồ. Mỗi ngày niệm Phật chín giờ. Ngày đêm không gián đoạn, buối tối thay phiên. Suốt năm tinh tấn Phật thất. Tinh tấn Phật thất của ngài là bảy lần bảy liên kết lại với nhau, thêm chín thời hương niệm Phật. Cho nên phàm hễ ở trong niệm Phật đường Ấn tổ niệm Phật vài năm, không luận tại gia xuất gia đều vãng sanh có tướng tốt lạ. Sau khi Ấn tổ vãng sanh, những lão pháp sư Diệu Chân, Đức Sâm kế thừa quy củ, duy trì được một khoảng thời gian. Sau năm kháng chiến, đạo tràng suy vi. Hiện tại nếu chúng ta muốn xây dựng một đạo tràng mới đều không đủ cơ duyên. Chỉ có đạo tràng như vậy mới có thể rèn luyện được chúng sanh, mới chân thật thành tựu chúng sanh.
Cho nên xây dựng đạo tràng công đức vô lượng vô biên. Phải xây dựng một đạo tràng chân thật tu học, chân thật có người ở đó thành Phật, vãng sanh bất thoái thành Phật, thì công đức của đạo tràng đó sẽ rất lớn, thu hút đông đảo thiện tri thức quan tâm và sẽ làm theo. Làm thế nào để thiện tri thức lưu lại nơi đây? Người chân thật học Phật tu hành không có tình riêng, không nói nhân tình, cho nên không dùng cách tiếp đãi tốt để giữ họ lại. Chúng ta dùng phương pháp y giáo phụng hành. Chúng ta thật muốn học, thật muốn tu, mọi người cùng phát thật tâm, cho dù không tìm được thiện hữu thì Phật Bồ tát cũng sẽ hoá thân đến đây. Nhà Phật thường nói “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân”, vậy người đó là người thế nào? Chân thật muốn học, chân thật muốn tu, chân thật muốn ngay đời này thành Phật. Đây chính là đại tâm phàm phu mà Hoa Nghiêm đã nói. Đã đại tâm phàm phu thì làm gì có chuyện chư Phật Như Lai không chiếu cố, vấn đề là chúng ta có phát ra chân tâm không, như vậy mới có thể cảm động thiện tri thức thường trụ khu vực này, để chúng ta có cơ duyên huân tu lâu dài, mới có thể được lợi ích chân thật.
Thành lập kênh truyền hình Phật pháp
Ngày nay khoa học phát triển, người ta hiểu hộ pháp quá ít. Hộ pháp là Bồ tát, không phải người thường. Hiện tại người thật có đại trí tuệ, đại phước báu, không cần xây đạo tràng, mà nên xây đài truyền hình vệ tinh, giảng kinh hai mươi bốn giờ không ngừng nghỉ để người trên toàn thế giới đều xem được. Họ không cần đến đạo tràng mà chỉ ở nhà mở truyền hình. Nếu họ chân thật muốn học Phật, mỗi ngày có thể nghe kinh tám giờ đồng hồ.
Bồi dưỡng một số pháp sư cũng giống như tổ chức một đoàn hoằng pháp. Chỉ cần mười mấy, hai mươi vị là đủ. Những vị pháp sư này ngày ngày trong phòng thu âm, giảng kinh ghi hình. Sau đó băng ghi hình được mang đến đài truyền hình vệ tinh phát sóng. Đó là đại đạo tràng khoa học kỹ thuật cao. Chúng ta phải xây dựng như vậy. Không nên tốn nhiều tiền xây chùa, đem tiền chôn xuống đất thật đáng tiếc, không có tác dụng lớn. Chúng ta phải đem số tiền đó dùng vào nơi hữu dụng. Quan trọng nhất là bồi dưỡng giảng sư, thu âm giảng kinh ghi hình. Thiết bị phòng thu âm phải chuyên nghiệp. Ngoài ra, ngày thường chúng ta cũng cúng dường những vị pháp sư này trên đời sống vật chất để họ không hề lo lắng, tâm có thể an định mà nghiên cứu Phật pháp Đại thừa, giảng từng bộ đều ghi hình thu âm, tương lai sẽ là một bộ Đại Tạng kinh sống. Bạn nghĩ xem ý nghĩa đến dường nào! Bất cứ nơi nào, chúng sanh thích nghe kinh gì thì chúng ta liền phát ra kinh luận đó.
Ngoài giảng kinh nói pháp, chúng ta còn giúp người niệm Phật. Hai mươi bốn giờ Phật hiệu không gián đoạn, tượng Phật trang nghiêm nhất hiển thị trên màn hình tivi. Khán giả xem thấy Phật A Di Đà, nghe được Phật hiệu của A Di Đà liền theo đó mà niệm. Ở nhà cũng có thể tu Phật thất, cũng có thể một ngày nghe kinh tám giờ, niệm Phật tám giờ. Bạn thấy phước báu của chúng ta không hề khác biệt người xưa. Người xưa tốn nhiều sức lực xây dựng rất nhiều đạo tràng mới có thể phổ độ chúng sanh. Ngày nay chúng ta dùng một đài truyền hình vệ tinh là đủ. Không mua kênh của người khác, vì sẽ phải bị người ta khống chế thời gian. Nếu các vị chân thật có tài lực, có loại trí tuệ này thì nên làm một kênh chuyên nghiệp, truyền thanh truyền hình vệ tinh của Phật giáo, phát sóng trên toàn thế giới.
Ngày nay chúng ta chưa đủ sức thì cũng đem cách nghĩ cấu tưởng này truyền đạt cho mỗi vị đồng tu. Mọi người đều có chung ý niệm, mỗi người thường hay nghĩ thì sự việc sẽ thành công, tâm tưởng sự thành. Nếu chỉ có một người nghĩ thì sức mạnh rất yếu kém. Mọi người cùng nghĩ đến thì Phật sẽ giúp. Lý cư sĩ thường nói, tuy chúng ta không có phước báu nhưng Phật A Di Đà có phước báu. Xây dựng một đạo tràng lớn như vậy cần tốn bao nhiêu tài lực? Dù không dám nghĩ đến tài lực nhưng chúng ta vẫn cứ tiếp tục nghĩ. Phật A Di Đà sẽ đưa tiền đến, cần bao nhiêu ngài sẽ đưa đến bấy nhiêu, nhất định sẽ thành tựu. Đó là mục đích “thỉnh Phật trụ thế”, một việc vô cùng quan trọng.
Thành lập viện dịch kinh
Thế giới hiện tại do vì giao thông thuận tiện, các mặt đời sống mở rộng, mỗi khu vực đều cần phải có Phật pháp. Chúng ta làm gì có nhiều giảng sư đến các nơi để giảng kinh nói pháp. Việc đó vô cùng khó khăn. Cho nên nhờ vào khoa học kỹ thuật, số ít giảng sư cũng có thể đem Phật pháp phổ biến đến toàn thế giới. Nếu có cơ duyên hơn nữa, chúng ta có thể phiên dịch hoa ngữ thành mấy loại ngôn ngữ cần thiết để hoằng pháp trên toàn cầu, để mọi người đều được lợi ích thù thắng của Phật pháp, giá trị ý nghĩa này sẽ càng sâu rộng. Hiện tại nhờ khoa học nên thuận tiện hơn ngày trước rất nhiều.
Ngày nay chúng ta thiếu kém chính là thiếu kém hộ pháp, không có người phát tâm hộ trì. Vì không có người phát tâm hộ trì, nên công trình phiên dịch tương đối gian nan. Dịch kinh phải theo qui củ xưa, nhất định không thể một hai người độc lập dịch một bộ kinh. Ngày trước Trung Quốc dịch kinh đều do tập thể cùng nhau làm. Phàm hễ tham gia dịch kinh, đó là một pháp hội. Thỉnh giảng sư đến giảng bộ kinh này, người dịch kinh thảy đều tham gia nghe giảng, chân thật nghe hiểu, tường tận rồi mới khởi bản thảo. Có nghi hoặc lập tức phải hỏi. Sau khi dịch xong bản thảo, phải đọc cho mọi người nghe, xem đại chúng có ý kiến gì không, có từ ý hay hơn không để nhuận văn, tu đính, làm cho bản dịch được tận thiện tận mỹ, mọi người tiếp xúc quyển kinh đều có thể sanh tâm hoan hỉ. Cho nên bản dịch không nên do một người làm mà là sáng tác của tập thể. Chúng ta xem thấy kinh Phật đều có tên người phiên dịch trên đề kinh. Người trên đề kinh là chủ biên trong đạo tràng dịch kinh đó, không nhất định do ông ấy dịch. Phải nêu tên tuổi ông ấy để gánh trách nhiệm đối với bản dịch này, cũng nhằm chứng minh bản dịch này không sai, có thể lưu thông, được họ hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Lịch sử ghi chép, dịch trường của đại sư La Thập hơn bốn trăm người, dịch trường của đại sư Huyền Trang hơn sáu trăm người, đều là chuyên chức. Ngày trước cư sĩ Thẩm Gia Trinh ở Hoa Kỳ, một người có tâm, đã mời không ít người dịch kinh điển chữ Hoa thành chữ Anh, tốn kém khá nhiều tiền. Số lượng dịch ra cũng tương đối khả quan. Khi tôi đến New York, ông dẫn tôi tham quan thư viện của đại học New York. Ông đã mượn mấy căn phòng trong thư viện làm thành thư viện Phật giáo. Ông nói với tôi, nhiều năm nay ông đã mời người đến phiên dịch kinh Phật sang tiếng Anh, được một đống lớn bản thảo nhưng đều không thể dùng. Tôi gật đầu, đích thực không thể dùng, vì sao? Chỉ tìm một số người biết Trung văn lẫn Anh văn để phiên dịch. Người phiên dịch không hiểu Phật pháp nên chỉ dịch ý nghĩa, cũng giống như cuốn Anh Văn Phật học Từ Điển của người nước ngoài phiên dịch.
Trước đây lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói với tôi, có một học giả Phật học Hoa Kỳ đến Đài Loan tham quan du lịch. Nghe nói Đài Trung có một lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam là đại đức Phật học, ông liền đến thỉnh giáo lão cư sĩ và đưa ra một số câu hỏi. Lão sư Lý giải thích cho ông ấy, nhưng con người này rất không hài lòng, lắc đầu tỏ ra không vừa ý. Lão sư Lý liền thỉnh giáo với ông ấy thông qua phiên dịch, sau đó lão sư Lý cũng lắc đầu không đồng ý. Cuộc trao đổi rất khó khăn, may mắn ông ấy có mang theo một quyển sách Phật Học Từ Điển dịch ra tiếng Anh. Lão sư Lý đề nghị ông tra thử “nhị túc tôn” là gì. Chúng ta đã biết quy y Phật nhị túc tôn, nhưng tra thử xem cách giải thích “nhị túc tôn” trong từ điển Phật học tiếng Anh như thế nào? Ông ấy liền dịch lại, “nhị túc tôn” là hai cái chân tôn quý nhất. Không sai. “Nhị” là hai, “túc” là chân, “tôn” là tôn quý. Lão sư Lý nghe rồi liền cười, không nói nữa. Cuối cùng [ngài nói] “ông đi được rồi, Phật pháp nước ngoài của các ông tôi hiểu rồi”. Đó là biết Hoa lẫn Anh nhưng không biết Phật pháp, hoàn toàn dựa trên mặt chữ để dịch. Thật đúng như Phật đã nói “Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan”, ba đời chư Phật đều bị hàm oan. Trong kệ khai kinh đã giảng “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, thật không dễ dàng.
Ngay lúc đó tôi liền kiến nghị với cư sĩ Thẩm Gia Trinh rằng ông đã làm sai, phiên dịch rất quan trọng. Bạn muốn dịch một bộ kinh thì trước tiên phải tìm đại đức có tu có học đối với bộ kinh này; mời ông ấy đến giảng; đồng thời mời người tham gia công tác dịch kinh đến nghe. Phải nghe qua một cách tường tận thông suốt; có bất cứ nghi vấn nào phải hỏi ngay, sau đó mới có thể hạ bút khởi bản thảo. Khi bản thảo thành tựu vẫn phải tiếp tục thảo luận tu đính lại. Tốt nhất phát tặng bản thảo cho những đại đức có nghiên cứu có tu có học xem. Mời họ đến đính chính, sau đó mới làm thành một quyển hoàn thiện, có vậy thì việc lưu thông sẽ không gặp vấn đề.
Dịch kinh rất khó và rất quan trọng, dịch kinh Hoa Nghiêm lại càng khó hơn. Trong mỗi câu mỗi chữ của Hoa Nghiêm đều mang ý nghĩa biểu pháp sâu sắc. Nếu bạn không hiểu nó thì toàn văn lại biến thành “hai chân cao quý”, chẳng ra thứ gì. Cho nên phiên dịch quyết không được vài người ngồi trong gian phòng nhỏ mà nhất định phải như Trung Quốc ngày xưa. Tức là công khai tổ chức thành viện dịch kinh, chuyên môn bồi dưỡng nhân tài dịch kinh, mời cao tăng đại đức chuyên nghiên cứu kinh đó đến giảng, mọi người cùng đến nghe, cùng học tập, sau đó mới có thể hạ bút viết bản thảo. Không thể khinh xuất tốn một ít tiền mời người đến phiên dịch là được.
Tôi không biết tiếng Anh, nên tôi rất khó tin tưởng quyển kinh dịch sang tiếng Anh, vì thế tôi luôn phân vân chọn lựa. Một lần, tôi đề nghị cư sĩ Thẩm Gia Trinh rằng tôi nhận thấy thiên Niệm Phật Luận của Đàm Hư lão pháp sư đại khái có lẽ không đến nỗi vấn đề gì lớn. Đó không phải là kinh. Thiên khai thị này là ghi chép của pháp sư Ấn Quang, rất dễ hiểu. Bên Thẩm cư sĩ lại sẵn có bản tiếng Anh, tôi đề nghị lấy thiên tiếng Anh này. Năm đầu in kinh Vô Lượng Thọ số lượng không nhiều, rất mỏng, tôi liền đem Niệm Phật luận, bản Trung Anh, để vào phía sau kinh Vô Lượng Thọ, cùng lưu thông một lúc. Khi đó tôi in mười ngàn cuốn truyền đến các nước. Một thời gian sau, tôi đi giảng kinh ở Vancouver, Canada, có một bác sĩ người Cannada đến nói với tôi rằng không nên in phần sách phía sau nữa. Tôi hỏi vì sao. Ông ấy nói: “Phần tiếng Anh này, người nước Anh xem không hiểu, người Trung Quốc xem cũng không hiểu”. Tôi nghe thật đau lòng. Về sau hễ là bản dịch tiếng Anh, tôi đều không dám in, hãy cứ để người ngoại quốc tự lưu thông, còn tôi không dám in nữa.
Do đó chúng ta cần bồi dưỡng nhân tài dịch kinh, họ phải chân thật vừa có tu học nơi Phật pháp vừa thông đạt hai loại ngôn ngữ mới có thể đảm nhiệm công tác này. Nếu không thông đạt Phật pháp và kinh luận thì dù cơ bản văn học tốt đến đâu cũng đều không thể đảm nhiệm công tác này. Kinh Hoa Nghiêm đã nói “Phật pháp không người nói, tuy có trí cũng không thể hiểu”. Người thế gian dù thông minh trí tuệ cỡ nào cũng không cách gì hiểu được Phật pháp, bởi vì kinh điển của Phật luôn luôn là ý ở ngoài lời, mỗi một chữ trong một câu nói đều bao hàm rất nhiều ý nghĩa.
Ba nguyện sau cùng
Mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền thực ra chỉ có bảy: lễ kính, xưng tán, cúng dường, sám hối, tuỳ hỉ, thỉnh chuyển pháp luân, và thỉnh Phật trụ thế. Ba nguyện sau cùng là hồi hướng. “Thường tuỳ Phật học” là hồi hướng chánh giác, “Hằng thuận chúng sanh” là hồi hướng chúng sanh, “Phổ giai hồi hướng” là hồi hướng pháp giới. Hồi hướng chánh giác, hồi hướng chúng sanh, hồi hướng pháp giới là hồi hướng tự tánh, hồi hướng chân như. Do đó, chân như, tự tánh, và pháp giới có cùng một ý nghĩa.
Cái gì gọi là pháp giới? Nhất tâm chính là pháp giới. Giới gồm hai ý nghĩa: một là phần, một là tánh. Phần là giới tuyến, ví dụ quốc gia với quốc gia có giới tuyến; tỉnh với tỉnh, hay huyện với huyện cũng có giới tuyến. Tánh là tự tánh, nhà Phật gọi là nhất chân pháp giới, cũng chính là chân như.
Tóm lại, chúng ta thành tựu chính mình, vô biên công đức, quyết không tạo tội nghiệp. Đó là cách phá bỏ tập khí đố kỵ ngạo mạn từ vô thỉ kiếp. Thỉnh giảng sư giảng kinh và thỉnh pháp sư thường trụ vẫn phải dùng đến khoa học kỹ thuật cao mới có thể đem Phật pháp phát triển đến toàn thế giới. Từng bước bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp, bồi dưỡng nhân tài phiên dịch, số người không cần nhiều nhưng đó đích thực là viện nghiên cứu mô hình nhỏ. Những người tham gia phải chân thật chịu phát tâm, chân thật tu hành. Kinh Hoa Nghiêm nói tiêu chuẩn phải là đại tâm phàm phu.
Vì sao phàm phu học Phật không thể thành tựu? Không phải bạn không phát tâm, không phải bạn không phát nguyện, cũng không phải do bạn không có dụng công. Mỗi ngày bạn phát nguyện trước Phật Bồ tát một cách rất nỗ lực, rất dụng công, nhưng vì sao không hiệu quả? Vì tâm lượng quá nhỏ. Tâm lượng của bạn không cách gì đột phá được sáu cõi luân hồi. Sáu cõi luân hồi là một giới tuyến. Tâm lượng bạn nhỏ trong giới hạn của nó nên bị nó bao lấy, làm cho bạn không thể đột phá ra.
Chúng ta tu hành vô lượng kiếp, đời đời kiếp kiếp đến nay vẫn rơi vào bước này, phải hiểu rõ lỗi lầm cuối cùng do đâu? Chính do tâm lượng quá nhỏ, nên nhất định phải phát đại tâm. Đại tâm mới phá vỡ sáu cõi. Đã phá vỡ chẳng phải vượt khỏi sao? Ta lớn hơn so với nó thì ta sẽ vượt qua dễ dàng. A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ tát vì sao có thể vượt ra khỏi tam giới? Vì tâm lượng các ngài còn lớn hơn tam giới sáu cõi nên các ngài có thể vượt qua.
Phương pháp vi diệu là đoạn phiền não vượt tam giới. Tuy nhiên, phương pháp này vừa khổ, lại rất khó tu. Phật dạy chúng ta, tâm lượng vừa mở rộng thì liền đột phá. Dù bên ngoài vẫn còn một ải là mười pháp giới nhưng tâm lượng vẫn cứ mở rộng, chúng ta cũng có thể vượt hơn. Cho nên Phật cùng pháp thân đại sĩ, tâm bao thái hư lượng khắp pháp giới. Mười pháp giới ở trong tâm lượng của họ, vậy là họ siêu việt, bao gồm tất cả phiền não tập khí không dừng tự nhiên biến mất, vì sao? Phiền não tập khí đều từ tâm lượng nhỏ hẹp mà biến hiện ra. Khi tâm lượng lớn, phiền não tập khí từ vô lượng kiếp đến nay không cần phá, tự nhiên liền không còn. Phương pháp này thật xảo diệu.
Từ đó chúng ta mới chân thật tin tưởng, thế tôn vì chúng sanh thế giới của chúng ta nói pháp, “chỉ có pháp nhất thừa, không hai cũng không ba”. Lời nói này của Phật không hề sai, Phật vì chúng ta nói pháp chính là dạy chúng ta ở ngay cuộc sống này viên mãn làm Phật. Bạn làm Bồ tát, Phật đều lắc đầu vì như thế chưa đủ. Không những muốn bạn làm Phật mà còn muốn bạn phải làm Phật cứu cánh viên mãn. Bốn giáo của tông Thiên thai, Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật, Biệt Giáo Phật đều không làm. Trở thành Viên Giáo Phật mới là mục đích chân thật để thế tôn xuất hiện ở thế gian. Ngài giáo huấn tất cả chúng sanh, nếu chúng ta không thông hiểu ý nghĩa, không thể đạt đến trình độ này thì chúng ta không phải là đệ tử của thế tôn. Đã là học trò thì nhất định không phụ lòng kỳ vọng của thầy giáo, ngay một đời nhất định phải làm Phật. Nếu y theo Hoa Nghiêm và kinh Vô Lượng Thọ thì chắc chắn sẽ không có vấn đề. Hai bộ kinh này chính là bảo bối, là pháp bảo vô thượng. Hy vọng đồng tu chúng ta người người đều trân trọng.
Mười nguyện của Phổ Hiền, trong đó bảy điều phía trước từ lễ kính, xưng tán, cúng dường, sám hối, tuỳ hỉ, cho đến thỉnh chuyển pháp luân và thỉnh Phật trụ thế đều là nguyện. Hơn nữa trong mỗi điều đều đầy đủ những điều khác, đó mới là giáo nghĩa của Hoa Nghiêm. Ba nguyện phía sau thuộc về hồi hướng.
Nguyện thứ tám, “Thường tùy Phật học”
“Thường tùy Phật học” là hồi hướng Bồ Đề, hay nói cách khác là học Phật. Buổi chiều hôm nay Lý cư sĩ giới thiệu hai vị đồng tu đến thăm tôi. Hiện tại họ đang làm công tác phúc lợi xã hội, thế nhưng lại ít nghe nói đến Phật pháp hoá đời sống. Đến khi nghe tôi giảng kinh, họ thấy dường như Phật pháp đều có thể áp dụng ngay trong đời sống nên rất hoan hỉ, tán thán. Tôi nói với họ rằng, việc Phật pháp hoá đời sống không phải do tôi mà do Thích Ca Mâu Ni Phật vốn dĩ đã nói như vậy. Chúng ta làm sao có thể đoạt lấy công đức của Phật làm của riêng mình.
Người thế gian thông thường nghĩ đến học Phật đều cảm thấy kỳ lạ, con người vì sao phải học Phật, cứ làm người tốt, thì tại sao phải học Phật? Từ đó, học Phật gần như là việc không bình thường, rồi họ sanh ra hiểu lầm to lớn đối với Phật pháp, họ không biết Phật là gì?
Phật là trí tuệ, học Phật là học trí tuệ, học giác ngộ; nói cách khác, học Phật chính là học tập một đời sống trí tuệ cao độ chân thật giác ngộ. Đây là việc rất bình thường. Thực ra, xã hội hiểu lầm đối với Phật pháp do chúng ta chưa đem giáo nghĩa và nguyên ý của Phật pháp nói cho mọi người nghe. Vậy phải làm thế nào để tuyên dương? Nhất định phải “Tuân tu Phổ Hiền Đại sĩ chi đức”. Tuân là tuân thủ, tu là học tập. Bồ tát Phổ Hiền chính là mô phạm tốt cho chúng ta.
Trong Phật pháp Đại thừa, các vị cần biết, ba vị Bồ tát đại diện tổng cương lĩnh tu học Phật pháp gồm ngài Phổ Hiền, Quán Âm, Văn Thù. Bồ tát Phổ Hiền đại biểu thực tiễn, nói được phải làm được, thấy được phải làm được. Văn Thù biểu thị trí tuệ, Quan Âm biểu thị từ bi. Thế Tôn trong kinh Đại thừa nói, “Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai đều nhờ tu học ba pháp môn này mới thành tựu được Phật quả vô thượng”. Phật quả vô thượng là trí tuệ cứu cánh viên mãn. Chúng ta dùng cụm từ “Phật quả vô thượng”, người thông thường nghe không thể lý giải nổi. Họ không thể biết được hàm nghĩa chính xác trong cụm từ này, nên cứ hiểu sai cho rằng nó là thành tựu trong tôn giáo. Họ không biết được đó là học vấn của chính mình. Cho nên những danh từ thuật ngữ chuyên môn trong nhà Phật cần được trình bày rõ hơn để phù hợp với cách nói của người hiện tại và tránh bị hiểu lầm.
Tóm lại, ở nguyện thứ tám, hồi hướng chính là mong cầu, hồi hướng Bồ Đề. Chúng ta phải truy cầu trí tuệ cao độ cứu cánh viên mãn.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên