- Phần 1
- Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
- Phần 5
- Phần 6
- Phần 7
- Phần 8
- Phần 9
- Phần 11
- Phần 12
- Phần 13
- Phần 14
- Phần 15
- Phần 16
- Phần 17
- Phần 18
- Phần19
- Phần 20
- Phần 21
- Phần 22
- Phần 23
- Phần 24
- Phần 25
- Phần 26
- Phần 27
- Phần 28
- Phần 29
- Phần 30
- Phần 31
- Phần 32
- Phần 33
- Phần 34
- Phần 35
- Phần 36
- Phần 37
- Phần 38
- Phần 39
- Phần 40
- Phần 41
- Phần 42
- Phần 43
- Phần 44
- Phần 45
- Phần 46
- Phần 47
- Phần 48
- Phần 49
- Phần 50
- Phần 51
- Phần 52
- Phần 53
- Phần 54
- Phần 55
- Phần 56
- Phần 57
- Phần 58
- Phần 59
- Phần 61
- Phần 62
- Phần 63
- Phần 64
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 36)
Pháp Sư Tịnh Không
“Ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc”
Cái lý này rất sâu rộng, nói đến bất sanh bất diệt. Tôi sẽ giảng tỉ mỉ ở kinh Hoa Nghiêm. “Tướng” là hư vọng, là pháp duyên sanh. Kinh đại thừa Phật dạy “tuỳ duyên chúng sanh mà hiện tướng”. Nói cách khác, tướng hiện hành đều có nhân duyên rất phức tạp. Tướng hiện ra nhất định không có tự tánh nên gọi là “duyên khởi tánh không”, không có một tự thể chân thật nào. Kinh Bát Nhã cũng nêu: “không sở hữu, bất khả đắc”, thực tế là vô khả đắc. Trong tất cả cảnh giới, tướng thứ nhất là thân tướng của chính chúng ta, gọi là chánh báo. Còn sắc tướng ngoài thân và hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta, gọi là y báo. Vì sao nói “tướng là hư vọng, tánh là không tịch”?. Bởi vì trong sự thật này không có năng sở. Nếu có năng sở thì cái tướng này không hư vọng, cảnh giới cũng sẽ thật có. Cho nên không có năng sở tuy nói có năng hiện sở hiện.
Kinh Hoa Nghiêm có câu: “duy tâm sở hiện”. Tâm năng hiện. Tướng là sở hiện. Kinh Phật cũng nói năng sở, thế nhưng nói đến sau cùng thì năng sở là một, không phải hai. Năng hiện tức là sở hiện, sở hiện là năng hiện, việc này thật không dễ hiểu. Phật trên kinh luận thường bảo: “Toàn vọng tức chân”. Vọng là tướng, toàn thể vọng tướng chính là chân tướng, toàn thể chân tánh chính là vọng tánh. Phật nói rõ ràng tường tận, nhưng người sơ học chúng ta vẫn rơi vào mù mịt. Cho nên Phật mới thường lâý giấc mộng làm thí dụ. Ở đây dùng “huyễn sư” để thí dụ.
Khi chúng ta nằm mộng, trong mộng có cảnh giới. Nếu lúc đó tôi hỏi bạn, tâm bạn chỗ nào? tâm bạn giống cái gì? Thì cả thảy cảnh mộng chính là hiện tướng của tâm biến hiện. Tâm không có tướng nhưng có thể hiện tướng. Lúc đó, bạn liền biết tâm của bạn như thế nào. Bạn liền thấu suốt, năng biến là tâm, sở biến là vọng tướng, “toàn chân tức vọng, toàn vọng tức chân”. Cả thảy cảnh mộng chính là tâm của bạn. Chúng ta đều có kinh nghiệm nằm mộng. Từ trong mộng vừa tỉnh dậy mới thấy lời Phật dạy tràn đầy đạo lý. Có bao nhiêu người thể hội được ý nghĩa này, bao nhiêu người lấy đây làm thí dụ để quay đầu nhìn lại vào nhân sanh hiện thực của chúng ta. Nhân sanh hiện thực cùng cảnh mộng không hề khác nhau. Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán”. Tất cả pháp hữu vi chỉ cảnh giới lớn đến như vậy. Mười pháp giới đều là pháp hữu vi, không chỉ sáu cõi. Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật. Phật của Thông giáo, Phật của Biệt giáo đều thuộc về pháp hữu vi. Trong pháp hữu vi cũng nói, mười pháp giới y chánh trang nghiêm toàn là mộng huyễn bào ảnh.
Vì sao người phàm phu xem cảnh mộng như thật? Đó là bởi vì tất cả chúng sanh biến kế chấp tạo thành. Tướng phần này y theo nó mà khởi lên, chân thật mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện, một chút không sai. Bạn đem nó xem thành chân thật rồi khởi lên vô số cảm thọ, đây thuộc về biến kế sở chấp. Tâm bệnh xảy ra ngay chỗ này. Người ngộ thì biến kế sở chấp của họ không còn. Xả biến kế sở chấp, họ liền thấy viên thành thật, thấy được chân tướng của mười pháp giới y chánh trang nghiêm. Nói cách khác, rời khỏi vọng bạn liền thấy được chân thật. Bạn muốn chấp trước vọng, đích thực ở ngay trước mắt mà bạn không phát hiện ra. Phật Bồ Tát dạy, bạn cũng không thể tin tưởng, cho nên không luận cảnh giới phàm phu hay cảnh giới của chư Phật Như Lai thị hiện, tóm lại đều bất khả đắc, đều vô sở hữu.
Câu “Ư bỉ tướng trung, thật vô khả đắc” là sự thật ngàn vạn lần chính xác. Ngay trong những hư huyễn này, bạn có thể thọ dụng. Tuy nhiên, bạn không thể có được nó. Khi dùng nó, bạn sẽ rất tự tại, nhất định bất khả đắc. Kinh Bát Nhã nói: “ba tâm bất khả đắc”, có nghĩa bạn năng đắc bất khả đắc. Bạn sở đắc là cảnh giới bên ngoài, bao gồm tất cả người sự vật. Cảnh giới bên ngoài là “nhân duyên sanh pháp, duyên khởi tánh không”, đương nhiên cũng là bất khả đắc. Tương tự với câu của Phật: “Duyên sanh chi pháp, một hữu tự tánh, đương thể giai không, liễu bất khả đắc”. Cho nên năng đắc sở đắc đều bất khả đắc. Nếu các vị chân thật hiểu chân tướng này thì tâm liền định, vọng niệm không còn. Còn bạn vẫn có vọng tưởng, vẫn vọng niệm thì bạn không hề biết gì đối với chân tướng sự thật. Tuy ngày ngày đọc kinh nghe giảng nhưng không hề nghe hiểu, không hề tường tận. Dù đọc mấy ngàn biến vẫn khởi vọng tưởng; ở trong cảnh giới vẫn có được mất, thị phi, nhân ngã. Hoặc bạn có đọc nhiều hơn, nghiên cứu sâu hơn, nói được rõ ràng đạo lý nhưng bạn chưa thể vào cảnh giới này. Điều đó có nghĩa, bạn không cách nào đạt chánh thọ, tức thọ dụng chân thật của chư Phật Bồ Tát. Chúng ta nêu tiêu đề “tự tại tuỳ duyên”. Tự tại tuỳ duyên là thọ dụng chân thật, tự tại chân thật, tùy duyên chân thật, một niệm không sanh.
“Thử chư Bồ Tát, diệc phục như thị”
“Thử chư Bồ Tát” là những vị Bồ Tát dự hội. Đại chúng tham dự pháp hội này gồm hơn hai vạn người, trong đó chúng tỳ kheo xuất gia là một vạn hai ngàn người, chúng tỳ kheo ni là năm trăm người, chúng cư sĩ tại gia bảy ngàn người, nữ chúng tại gia năm trăm người. Đó là số lượng chúng ta có thể nhìn thấy, còn mắt thịt không nhìn thấy được thì nhiều vô kể. Trong đạo tràng còn có thiên thần, quỷ thần, rất nhiều Bồ Tát ở thế giới phương khác không hề thị hiện sắc tướng. Thỉnh thoảng có mấy vị đại biểu thị hiện sắc thân.
Ý nghĩa câu “thử chư Bồ Tát” là bao gồm mỗi vị đồng tu chúng ta. Bạn là chúng xuất gia thì chỗ này nói tỳ kheo, tỳ kheo ni; bạn là chúng tại gia thì chỗ này gọi là thanh tín sĩ. Do đây mà biết quan hệ của kinh Vô Lượng Thọ với chúng ta rất mật thiết. Chúng ta gặp được pháp môn này thật hoan hỉ.
“THÔNG CHƯ PHÁP TÁNH, ĐẠT CHÚNG SANH TƯỚNG”
Kinh văn tuy không dài nhưng càng nói càng sâu, càng nói càng diệu. “Thông” là hoàn toàn không chướng ngại, hợp lại với chữ “đạt” phía sau, phản ánh sự thông suốt triệt để. Nếu bạn không biết mười pháp giới y chánh trang nghiêm thật vô khả đắc thì bạn không thể đoạn vọng tưởng, không thể thành nhất tâm. Chúng ta niệm Phật mục đích phải đạt đến nhất tâm bất loạn, nhưng vì sao bạn không hiểu chân tướng sự thật, không thể đạt nhất tâm bất loạn? Vì bạn không buông bỏ. Chỉ có người hiểu tường tận, thông suốt chân tướng sự thật mới buông bỏ. Trong tất cả cảnh giới, đích thực như kinh Kim Cang đã nói “bất thủ ư tướng, như như bất động”, không còn dính mắc tướng bên ngoài, vì sao? Thật vô khả đắc, không còn chấp trước đối với tất cả tướng cảnh giới. Có thể phân biệt nhưng quyết không chấp trước. Sau khi buông bỏ chấp trước bạn liền định, liền vào tam muội, được chánh thọ, khai trí tuệ. Cho nên hai câu này là huệ khai.
Câu “thông chư pháp tánh” ý nghĩa thế nào? Như thiền tông có câu: “Minh tâm kiến tánh”, thì câu này cũng là kiến tánh. Phật pháp đại thừa nói “đạt căn bản trí”, ở đây: “đạt chúng sanh tướng”. Vậy “chúng sanh tướng” là gì? Chúng sanh bao gồm tất cả hiện tượng đều là chúng duyên hoà hợp mà sanh khởi. Vạn nhất không nên xem thấy đó là người, động vật, nói chung chúng sanh hữu tình chín pháp giới. Như thế là bạn hoàn toàn sai lầm. Chúng sanh là hiện tượng do các duyên hợp lại mà sanh khởi. Hiện tượng này không chỉ mười pháp giới y chánh trang nghiêm mà pháp giới nhất chân cũng bao gồm trong đó. Thế giới Tây Cực Lạc trong kinh này, thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật trong kinh Hoa Nghiêm đều gọi là chúng sanh tướng, ý nói những hiện tượng này do đâu mà sanh khởi; ngõ ngách ngọn nguồn, nhân quả lý sự. Bạn rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo gọi là hậu đắc trí.
Hậu đắc trí có nghĩa không gì không biết. “Thông chư pháp tánh” là Bát Nhã Vô Tri, “đạt chúng sanh tướng” là vô sở bất tri. Đó là thành tựu trí tuệ viên mãn. Thực tế, trí tuệ viên mãn là tự tánh vốn đầy đủ, hoàn toàn thoát khỏi chướng ngại, gọi là thành tựu trí tuệ viên mãn, không phải rời khỏi tự tánh riêng có thành tựu. Cổ đức vì chúng ta cho biết Phật đà có ba ý nghĩa, ba loại trí, hay ba loại giác. Ý của Phật là trí giác. Trí là thể, giác là tác dụng. Ba loại trí này gồm nhất thiết trí, đạo chủng trí, nhất thiết chủng trí.
“Nhất thiết trí” là thông chư pháp tánh, hay căn bản trí, biết được vạn pháp giai không, biết tất cả pháp vô sở hữu bất khả đắc.
“Đạo chủng trí”, “chủng” là trùng trùng, có nghĩa rất nhiều chúng. “Đạo” là đạo lý. Hiện tượng chúng nhiều do đạo lý gì sanh khởi. Thông đạt loại trí tuệ này thì gọi là đạo chủng trí. Cái “chủng” bao gồm pháp giới nhất chân, mười pháp giới, tận hư không khắp pháp giới, tất cả cõi nước chư Phật y chánh trang nghiêm, chính là “Đạt chúng sanh bổn”.
“Nhất thiết chủng trí” ý nói nhất thiết trí cùng đạo chủng trí là một, không phải hai. Bạn đem nó phân thành hai sự việc thì sai lầm. Nó là một sự việc, như vậy bạn mới vào được pháp môn không hai, chứng pháp giới nhất chân. Do đây mà biết Phật pháp quyết không cho phép chúng ta rơi vào bên nào. Căn bản trí, hậu đắc trí là hai bên; nhất thiết trí, đạo chủng trí cũng là hai bên, không cho phép bạn rơi vào bên nào mà phải biết nó như một chỉnh thể viên mãn. Đây thực tế là trí tuệ chân thật. Sau khi trí tuệ khai mở, họ liền được đại thọ dụng. Thọ dụng thế nào? Xem tiếp hai câu sau
“CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT, KHAI ĐẠO QUẦN SANH”
Cũng như “thượng cúng chư Phật, hạ hóa chúng sanh”. Nếu chính mình không có tam học Giới Định Huệ thì bạn không thể cúng Phật, cũng không thể lợi sanh. Bốn chúng đồng tu chúng ta, không luận tại gia xuất gia, nhất định phải chân tu tam học. Giới Định Huệ vừa triển khai chính là từng việc nhỏ nhất ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
Ví dụ, giặt quần áo, nấu cơm là việc hàng ngày của người phụ nữ. Giặt quần áo là tu Giới Định Huệ, nấu cơm cũng vậy. Nếu bạn thông đạt tường tận, từ sớm đến tối khởi tâm động niệm không hề rời khỏi Bồ Tát hạnh thì bạn đang tu Bồ Tát đạo. Còn không hiểu rõ, không thông đạt, tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi thì khác biệt sẽ lớn. Truy cứu căn nguyên của khác biệt ở ngay một niệm, giác hay mê. Một niệm giác, chúng ta giặt quần áo theo trình tự, có phương pháp. Đó là trì giới. Giặt quần áo phải có một khoảng thời gian mấy mươi phút nhẫn nại chờ. Đó là tu định. Quần áo giặt sạch sẽ, ủi thẳng đẹp. Đó là trí tuệ.
Tất cả việc lớn việc nhỏ đều luôn tương ưng với tam vô lậu học. Tương ưng với tam vô lậu học thì tương ưng với lục độ, tương ưng với mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền. Nếu triển khai ra liền viên mãn tương ưng với Bồ Tát lục độ vạn hạnh. Cho nên Bồ Tát đạo tu ở ngay cuộc sống thường ngày. Mọi nơi mọi chỗ đều viên mãn Bồ Tát hạnh. Chúng ta dùng loại tâm tình này cúng dường chư Phật, phải thực tiễn bổn phận của mình vào hiện tiền.
Làm thế nào “cúng dường chư Phật”? Niệm Phật chính là cúng dường. Phải biết niệm, phải “phát tâm bồ đề, một lòng chuyên niệm”. Tám chữ này cúng dường chư Phật, cũng đồng thời tự độ. Cho nên khi phát nguyện vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni hoan hỉ tán thán, Phật A Di Đà hoan hỉ tiếp dẫn mà mười phương ba đời tất cả chư Như Lai đều đồng âm đến khuyên bảo chúng ta. Trên kinh A Di Đà, vì sao chư Phật Như Lai lại tán thán? Vì các ngài chỉ có một nguyện, một tâm “phổ độ chúng sanh, sớm ngày thành Phật”. Phật Bồ Tát sẽ không hài lòng khi thấy chúng ta trễ một ngày. Pháp môn niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là pháp môn ngay đời này thành Phật, là pháp môn đệ nhất tất cả chư Phật tiếp dẫn chúng sanh, không hề quanh co uyển chuyển, dạy bạn ngay một đời chứng được cứu cánh viên mãn. Bạn nghĩ xem pháp môn này thù thắng dường nào.
Tuy nhiên pháp môn này nhất định chỉ độ chúng sanh căn tánh chín muồi. Làm sao biết chúng sanh căn tánh chín muồi? Sau khi nghe dạy, họ tin tưởng, tuyệt nhiên không hoài nghi, liền có thể phát nguyện không thoái chuyển. Họ dõng mãnh tinh tấn thành thật niệm Phật, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Bổn tông gọi họ là chúng sanh căn tánh chín muồi, nói cách khác, duyên của họ làm Phật hiện tại đã chín muồi. Rất không dễ dàng. Họ không làm Bồ Tát, A La Hán mà làm Phật. Kinh Di Đà nói “không thể thiếu thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước kia”. Họ là thiện căn, phước đức, nhân duyên. Ba điều kiện chủ yếu đồng thời đầy đủ nên nhất định được sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc bất thoái thành Phật. Cứ hễ sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền làm Phật, dù hạ hạ phẩm vãng sanh. Trong 48 nguyện của kinh này, Phật A Di Đà cho biết, người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Thực ra A Duy Việt Trí chính là Phật, không phải Bồ Tát thông thường.
Cho nên chư Phật Như Lai nói pháp môn này khó tin. Đương nhiên khó tin vì duyên làm Phật chưa chín muồi nên họ không tin tưởng. Chỉ có người làm Phật tin tưởng, còn không phải người làm Phật thì không tin tưởng. Đạo lý là như vậy. Người căn tánh Bồ tát không tin tưởng, người căn tánh Thanh Văn, Duyên giác đương nhiên càng không tin tưởng. Chỉ người căn tánh nhất Phật thừa mới tin sâu không hoài nghi. Họ cúng dường chư Phật qua việc xưng niệm một danh hiệu này, “một niệm tương ưng một niệm Phật”. Niệm này cúng dường hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả chư Phật, gọi là pháp môn bình đẳng phổ cúng tất cả chư Phật Như Lai.
Ngày mai là quốc khánh của Singapore. Tối nay, các vị phát tâm cần ở đây niệm hai ngày hai đêm thì phước báu cúng dường không cần phải nói. Chúng ta cũng không cách gì tính được. Bạn cúng dường chư Phật có hiệu quả chân thật hay không? Bạn niệm Phật thành tâm hay không? Bạn niệm được tương ưng hay không? Nếu dùng tâm chân thành mà tương ưng thì công đức đó không thể nghĩ bàn. Niệm Phật là nhân trí tuệ, thành Phật là quả.
“Khai đạo quần sanh” là độ người. Chúng ta có thể đem pháp môn thù thắng như vậy, dùng phương tiện khéo léo rộng vì tất cả đại chúng mà giới thiệu. “Khai” là khai mở bế tắc cho họ bằng ngôn giáo. Trong “đạo” thì dùng thân giáo, làm gương cho họ xem. Thân giáo thù thắng hơn nhiều so với ngôn giáo. Chúng ta khuyên người niệm Phật, nói đến lở da miệng, họ vẫn không hoàn toàn tin tưởng, vẫn khó tiếp nhận, bán tín bán nghi. Hôm nay niệm Phật đường xây dựng, chúng ta bảo họ đích thân đến đây niệm Phật một ngày thì họ sẽ liền tường tận, vì chính mình được thể nghiệm.
Niệm Phật đường này hoàn toàn khác với các niệm Phật đường khác. Đạo tràng này thanh tịnh trang nghiêm, không làm pháp hội, không làm kinh sám Phật sự. Ngoài điển tích của tịnh tông ra, không xen tạp bất cứ kinh điển nào. Có nhiều pháp sư dẫn chúng, bạn đến đâu cũng không tìm được. Nhóm tỳ kheo thanh tịnh. Ngày trước họ thanh tịnh hay không không liên quan, chỉ cần đến Singapore hai tháng liền được thanh tịnh. Thanh tịnh tỳ kheo nơi đây không cần danh vọng lợi dưỡng, không cần bạn cung kính cúng dường, không cần bất cứ thứ gì. Họ đều phát khởi được tâm thanh tịnh nhất. Mọi người cùng nhau niệm Phật, cảm ứng không thể nghĩ bàn. Tôi tin các vị đồng tu, đầu óc thanh tịnh, bình lặng một chút cũng có thể biết đạo tràng này đang có Phật Bồ Tát niệm Phật. Chúng ta ở trong đạo tràng cùng niệm với Phật Bồ Tát. Thử nghĩ xem thù thắng dường nào. Vậy ai là Phật Bồ Tát? Bạn cố tìm cũng không thể tìm ra. Nếu bạn tìm thì Phật hiệu của bạn niệm sẽ không tương ưng vì xen tạp, phá hư mất công phu. Niệm Phật nhất định không được xen tạp. Người xưa ghi chép rất nhiều về việc xen tạp.
Chẳng hạn triều nhà Minh, Thích Kế Quang là một vị tướng quân cũng là Phật giáo đồ kiền thành. Bình thường ông tụng kinh Kim Cang rất có lực. Một hôm ông mộng thấy một binh sĩ trận vong là thuộc hạ của ông, xin ông đọc quyển kinh Kim Cang để siêu độ cho anh ấy. Khi tỉnh dậy, ông liền cung kính đọc kinh, hồi hướng cho vị binh sĩ này. Tối hôm sau, ông lại mộng thấy binh sĩ này đến cảm tạ và nói rằng: “Cảm tạ tướng quân, nhưng tôi chỉ nhận nửa bộ kinh Kim Cang”. Ông hỏi vì sao. Binh sĩ trả lời: “Vì khi ngài đọc kinh Kim Cang ngay giữa xen tạp hai chữ ‘không dùng’, cho nên hiệu quả chỉ được phân nửa”. Ông nhớ mình không nói “không dùng” khi đọc kinh. Lát sau, bỗng nhiên ông nghĩ ra. Khi ông đọc kinh, người hầu của ông bưng đến một tách trà. Ông tuy không nói, chỉ xua tay, nhưng trong lòng đã khởi lên ý niệm “không dùng”. Vậy mà hiệu quả liền mất đi phân nửa. Có thể thấy xen tạp là việc hư hại. Hôm sau, Thích tướng quân cung kính tụng lại một bộ nữa. Buổi tối lại mộng thấy người binh sĩ đến cảm tạ ông. Anh ấy đã nhận toàn bộ thọ dụng và siêu sanh.
Do đó niệm Phật tụng kinh không nên xen tạp. Nếu bạn nghe tôi nói Phật đường này có Phật đang ở, bạn liền tìm kiếm, như vậy bạn xen tạp và phá hư toàn bộ công phu niệm Phật của chính mình. Phải làm thế nào quán tưởng, ngoài mình ra, mỗi người đều là Phật, người người đều là chư Phật Như Lai hoá thân, thì công phu của bạn không thể nghĩ bàn, vì tâm bạn rất chân thành. Niệm Phật với nhiều Phật, không khí càng thịnh. Hai mươi bốn giờ nhất định sẽ không mệt mỏi, càng niệm càng hoan hỉ, vì ở chung với nhiều chư Phật Như Lai. Thông thường, người gặp việc vui tinh thần thoải mái, cùng ở với một vị Phật đã thấy vinh dự rồi, còn ở chung với nhiều Phật càng thù thắng hơn. Phải xem mỗi mỗi là Phật thật, không phải Phật giả. Nhất định không tưởng tượng họ là Phật mà họ chính là Phật thật. Những vị Phật này đến giúp ta niệm Phật.
Niệm Phật đường này rất thù thắng, công đức niệm Phật vô hạn. Ở đây còn có một tầng ý nghĩa sâu, chính là những vị Bồ Tát đã chứng “pháp tánh không”, “pháp tướng vô sở hữu”, vì sao phải cầu vãng sanh? Vì sao còn khuyến hoá chúng sanh? Có phải vì họ nhiều chuyện? Không phải. Sau khi chứng được pháp không, tường tận thông đạt tất cả pháp thế xuất thế gian; sau khi bất khả đắc vô sở hữu, lòng từ bi trong tự tánh tự nhiên sanh khởi. Phát tâm đó không phải miễn cưỡng, không do người khác khuyên mà trong tự nhiên sanh khởi ra. Pháp vốn như vậy.
Kinh Duy Ma nói, những vị Bồ Tát này “tuy chí chư Phật quốc, tức chúng sanh không”, họ thông đạt tường tận tất cả pháp thế xuất thế gian, pháp giới nhất chân cùng mười pháp giới, “mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện”, thế nhưng họ vẫn thường tu tịnh độ, giáo hoá chúng sanh, niệm Phật cầu sanh A Di Đà Phật quốc độ. Họ làm như vậy vì muốn thị hiện tấm gương cho những người chưa được độ thấy. Đó là từ bi chân thật. Tại sao phải độ những chúng sanh này? Mình và người không hai. Xin nói với các vị, chúng sanh chưa độ hết thì tự giác không thể viên mãn. Cũng như thân thể này của chúng ta có rất nhiều tế bào. Chỗ nào trên thân nổi lên u nhọt, tế bào ở chỗ đó có bệnh. Nếu ta không chữa hết thì thân thể chúng ta sẽ không khoẻ mạnh tròn đầy. Mười phương thế giới còn những chúng sanh mê hoặc điên đảo, còn những chúng sanh luân hồi sáu cõi, thì cũng giống u nhọt nổi trên thân vậy. Trong cái nhìn của chư Phật Bồ Tát, tình dữ vô tình đồng một pháp thân, đồng một lý thể, đồng một tâm tánh, gọi là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”.
Ngày nay thế giới có tai nạn, người thông thường nhận nỗi thống khổ. Còn người chân thật thông đạt chân tướng sự thật liền biết đó là một bộ phận trên toàn thân thể chúng ta. Chúng ta sẽ không nề hà giúp họ. Hiện tại có cấp nạn trước phải cứu cấp. Cứu cấp đương nhiên thuộc về tài bố thí. Đầu tiên phải lấy tài bố thí làm nhân duyên, cùng kết duyên với những chúng sanh này. Sau khi có duyên với họ, chúng ta dùng pháp bố thí khuyến hoá họ vĩnh trừ ác nghiệp, đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, liền cải thiện hoàn cảnh đời sống, vĩnh viễn không bị tai hại. Đến đây nhất định dựa vào chỉ đạo của Phật pháp.
“HÓA HIỆN KỲ THÂN, DO NHƯ ĐIỆN QUANG”
Câu này hoàn toàn chiếu ứng với câu trước “chư Phật sát trung, giai năng thị hiện”. “Hoá hiện kỳ thân” chính là thị hiện, tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp. Tuy hóa hiện kỳ thân nhưng chính mình rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. “Do như điện quang”, biết tất cả những hoá hiện đều là mộng huyễn bào ảnh. Bạn thấy họ thành tựu Phật pháp, thành tựu sự nghiệp độ chúng sanh, vô lượng vô biên công đức, nhưng chính mình tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần. Điểm này rất then chốt.
“Điện quang” ý nói sanh diệt đồng thời, hiển thị chân tướng sự thật hóa hiện. Sanh diệt đồng thời chính là “không sanh không diệt” trong Phật pháp.
“LIỆT MA KIẾN VÕNG, GIẢI CHƯ TRIỀN PHƯỢC”
Đoạn phía trước là tự thọ dụng của Bồ Tát, “hoá hiện kỳ thân, do như điện quang” là trí tuệ chân thật. Không có trí tuệ chân thật thì không thể giúp đỡ chúng sanh. Còn có trí tuệ, giúp đỡ chúng sanh thì không những chính mình không mệt mỏi, trái lại còn tăng thêm định huệ. Rất nhiều trường hợp không vào được cảnh giới này để giáo hoá chúng sanh nên bị chúng sanh dẫn đi mất. Thậm chí từ thời Thích Ca Mâu Ni Phật, nhiều người không hiểu rõ chân tướng sự thật, không thấu triệt tường tận. Họ “ngã pháp” hai chấp không buông bỏ, nói cách khác trong lòng họ vẫn phải quấy nhân ngã, phiền não tập khí rất nồng hậu chưa đoạn; gặp duyên bên ngoài, họ liền khởi hiện hành, sanh phiền não, rồi tạo ác nghiệp, và đọa lạc luân hồi. Nguyên nhân do họ chưa triệt để tường tận.
Nếu mang theo một ít tập khí vẫn không hề gì, đó là A La Hán Bồ Tát, luôn có loại thị hiện này. Theo kinh Phật, Xá Lợi Phất là vị đệ tử trí tuệ trong hàng đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni nhưng vẫn còn tập khí sân hận. Ca Diếp tôn giả là vị có sức định rất sâu, truyền nhân của thiền tông. Năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật đem thiền tông truyền cho Ca Diếp. Ca Diếp trở thành tổ thứ nhất của thiền. Mặc dù thiền định sâu nhưng khi nghe thiên nhân tấu lên loại âm nhạc mỹ miều, Ca Diếp bất tri bất giác liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhảy múa khiêu vũ theo. Bản thân ông cũng không kìm chế nổi. Việc này cho thấy tập khí sâu nặng, nhưng họ nhờ công phu vẫn không đến nỗi rơi vào sáu cõi luân hồi.
Kinh Phật nêu lên một số câu chuyện của A La Hán, Bồ tát Quyền Giáo để chúng ta cảnh giác. Họ giác ngộ quay đầu rất nhanh nên không chướng ngại, còn phàm phu chúng ta ở trong mê hoặc không biết quay đầu thì phiền phức to. Không biết quay đầu, ác nghiệp càng tạo càng nặng.
Họ quay đầu nhanh, giác ngộ mau, độ hoá chúng sanh là “liệt ma kiến võng, giải chư triền phược”. Phía trước chúng ta đã từng đọc qua, dùng sức định huệ phá sở tri chướng và phiền não chướng. “Ma kiến” chính là sở tri chướng, “triền phược” là phiền não chướng. Chính mình phải có định huệ, phải có phương tiện khéo léo thuộc về giới sở nhiếp. Do đây mà biết không được rời khởi tam học. Tự độ, độ người đều phải tương ưng với tam học. Chúng ta ở trong sáu cõi ba đường, Phật pháp thường gọi là hiểm đạo, biết giữ lấy tự thân không ô nhiễm, không bị đọa lạc. Được cái bản lĩnh này, có công phu thì chính mình vĩnh viễn ở nơi chánh định, không luận cảnh duyên thế nào, trong lòng vĩnh viễn thanh tịnh, tường tận, không mê hoặc, bạn mới có năng lực giúp người khác phá tà tri tà kiến.
“Kiến” ví dụ cho cái lưới, “ma kiến” chính là tri kiến sai lầm, tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm. Phật pháp dạy chánh tri chánh kiến, hoàn toàn tương phản với ma kiến. Làm thế nào điều chỉnh quan niệm sai lầm của họ? Đối với thế gian chúng ta, biện pháp tốt nhất là giảng kinh nói pháp. Sự việc này không chỉ bằng thời gian ngắn mà là thời gian dài. Mục đích giảng kinh nói pháp phải giúp người khai ngộ. Nếu họ không khai ngộ thì dù nghe một trăm năm cũng uổng công, thậm chí còn đem kinh điển của Phật biến thành ma kiến. Chỗ này chúng ta thường nói “không hiểu Như Lai chân thật nghĩa”. Hoặc hiểu lầm, hiểu sai ý nghĩa của Như Lai, người xưa gọi là “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan”, đem Phật kinh biến thành tư tưởng và kiến giải sai lầm. Cho nên kinh Hoa Nghiêm “Đại Trí độ luận” thường nói “Phật pháp vô nhân thuyết, tùy trí mạc năng giải”. Người thế gian thông minh trí thức liệu có thể xem hiểu được Phật kinh không? Không hiểu, vì kinh điển Phật, ý nghĩa từng câu từng chữ ở ngoài lời, đó là chỗ khó của Phật pháp. Nếu bạn ở trong văn tự, trong thanh âm mà cầu, thì nhất định không cầu được Phật pháp. Phải hiểu tường tận định nghĩa hai chữ Phật pháp.
Phật pháp là pháp giác ngộ, nếu bạn ở trong văn tự âm thanh mà cầu thì quyết không thể khai ngộ, vì chấp tướng. Lìa tướng mới có thể khai ngộ. Còn chấp tướng bạn chưa lìa khỏi phân biệt chấp trước. Phải buông bỏ phân biệt chấp trước mới có thể khai ngộ. Phật trên kinh thường tán thán “người khéo nói, nói mà không nói, không nói mà nói. Người khéo nghe, nghe mà không nghe, không nghe mà nghe”, họ có chỗ ngộ. Kinh Kim Cang Phật nói rất hay, Phật không có định pháp để nói. Phật đã không có pháp có thể nói, thì Phật pháp còn có ý nghĩa gì? Nếu chúng ta cứ muốn nghĩ trong kinh có đạo lý gì, ý nghĩa gì, thì chúng ta sai. Kinh điển của Phật bốn mươi chín năm không có ý nghĩa. Nếu có ý nghĩa, thì Phật thật có nói pháp. Bốn mươi chín năm, Phật không hề xen tạp một chút ý kiến của mình. Cho nên Ngài tự nhận, Ngài không hề nói gì. Không nói nhưng vì sao lại nói suốt bốn mươi chín năm? Sự việc này như thế nào? Thực ra những gì Phật nói đều không phải chính mình, không hề có chút ý kiến của chính mình. Những gì Ngài nói đều là của cổ Phật. Thái độ của Ngài giống y Khổng lão phu tử “thuật nhi bất tác”, đều thuật lại từ người khác, không hề có chút ý kiến của chính mình.
Lại nói với các vị, người khác là ai? Là tất cả chư Phật Như Lai. Tất cả chư Phật Như Lai là một vị nào? Đó chân thật là chân như bổn tánh. Tự tánh cảm ứng tương thông với tất cả chúng sanh, trong tự nhiên lưu xuất ra, pháp vốn như vậy. Kinh Hoa Nghiêm mới nói “trần thuyết sát thuyết, vô gián đoạn thuyết”. Chúng ta đem những đại kinh này hợp lại liền thể hội được ý nghĩa, đó mới là chân thật nói pháp, mới đem hết thảy những tri kiến sai lầm của chúng ta chân thật phá trừ. Do đó nói pháp phải chú trọng “thiện xảo”. “Xảo” là phương pháp xảo diệu, “thiện” là khiến cho người nghe ngộ nhập. Xảo mà không thiện thì người nghe không thể ngộ nhập.
Vậy làm thế nào mới có thể ngộ nhập? Có cần phải tìm một người chân thật cao minh để nói pháp? Ngày xưa rất nhiều tình huống, người nói pháp chưa khai ngộ, người nghe pháp đã khai ngộ rồi. Đúng như câu nói “biết nói không bằng biết nghe”. Các vị đồng tu nghe kinh đã nhiều năm, tại sao không thể ngộ nhập? Vì bạn không biết nghe. Tại sao không biết nghe? Vì tâm của bạn không định.
Hiện tại chúng ta có phương tiện khéo léo, chúng ta niệm trong niệm Phật đường thêm vài ngày thì tâm liền được định. Khi nghe lại kinh sẽ không như nhau, sẽ có chỗ ngộ. Từ chỗ này, tôi nghĩ một số đồng tu ắt có chút thể ngộ. Tại sao người thời xưa xem kinh nghe giảng lại rất dễ dàng thể hội? Còn người hiện đại dường như thông minh hơn, nhưng nghe kinh mấy mươi năm, vẫn cả đời mơ mơ hồ hồ không thể khai ngộ? Điểm này chúng ta phải hiểu. Người xưa học Phật không luận tại gia xuất gia đều qua quá trình năm năm học giáo. Năm năm không phải học giới luật, mà chỉ tuân thủ lời răn dạy của thầy. Ngày trước nếu muốn học Phật, năm năm đầu đến đạo tràng làm tạp vụ. Hàng ngày bị sai bảo việc nặng nhọc, mục đích tạo điều kiện cho bạn tu phước. Không có phước không được.
Năm năm tu phước tu huệ. Huệ tu như thế nào? Huệ tu căn bản trí, dạy bạn vô tri, làm cho tâm bạn hoàn toàn định lại. Ở thiền tông thì tham cứu, làm vắng bặt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong thiền đường, mỗi ngày bạn phải ngồi thiền. Đường chủ cầm trên tay một cây hương bản để đánh những ai ngồi vọng động, vọng tưởng. Thậm chí thấy bạn không vọng tưởng cũng đánh, vì không có vọng tưởng thì bạn hôn trầm.
Thầy ở thiền đường rất khéo. Ngày ngày đánh hương bản thực tế cũng không dễ dàng. Bạn phải đánh cho họ khai ngộ mới được. Dùng hương bản đó đánh chết người mà không khai ngộ được, thì họ có tội. Cho nên khi đánh tức là giúp bạn khai ngộ. Nếu đánh mà không khai ngộ thì không đánh. Cái đánh đó coi như sai.
Giáo hạ là dạy bạn đọc kinh. Mỗi tông phái, mỗi đạo tràng có cách học không như nhau. Giống như Thiên Thai trong năm năm phải thuộc ba bộ kinh lớn. Thứ nhất, kinh Pháp Hoa văn cú, trước tác của đại sư Trí Giả, ngay đến chú giải theo kinh cũng phải thuộc; thứ hai, kinh Pháp Hoa huyền nghĩa thích sám, ba cuốn đóng bìa cứng rất dày; ngoài ra còn có phương pháp tu hành của ngài “Ma Ha Chỉ Quán”. Đó là ba bộ kinh lớn của Thiên Thai, trong năm năm phải thuộc nhuần nhuyễn. Ngày ngày làm việc, làm việc xong thì phải mau học thuộc kinh. Bạn không có chỗ ngồi trong giảng đường để nghe kinh, trong thiền đường cũng không có chỗ. Suốt năm năm chỉ phục vụ đại chúng. Đó là khoảng thời gian tu phước tu huệ. Chăm sóc đi lại sinh hoạt của đại chúng là tu phước. Học thuộc kinh điển là tu huệ.
Tam học giới định huệ hoàn thành, tâm bạn liền định lại, bạn sẽ không vọng tưởng. Nếu có vọng tưởng thì không thể thuộc được. Dùng phương pháp này để tu căn bản trí. Sau năm năm nền tảng như vậy, tiếp tục năm năm vào giảng đường nghe giảng kinh thì làm sao không khai ngộ. Nhiều ít cũng sẽ có chỗ ngộ. Tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ, luôn có chỗ ngộ, nên đối với tu học của họ pháp hỉ sung mãn, rất có đạo lý. Còn người hiện tại chúng ta thường bỏ mất đi nền tảng. Hơn nữa vừa tiếp xúc Phật pháp, xem qua rất nhiều tư liệu, nghe rất nhiều người giảng, nhưng đầu óc bị rối tung, hồ đồ, mê hoặc. Cho nên hiện tại không có người khai ngộ. Tuy chúng ta không phải là “liệt ma kiến võng”, nhưng đã đọa vào lưới của ma không thể ra khỏi.
Thế nên niệm Phật đường này có công đức hy hữu. Mọi người đến niệm Phật mỗi ngày, từ ba đến năm năm, lại nghe tôi giảng kinh, có chỗ ngộ, đem tất cả phiền não tri kiến thảy đều niệm tiêu, chỉ có một niệm “A Di Đà Phật”. Niệm Phật đường của chúng ta hoàn toàn khác với các niệm Phật đường khác. Bốn bề đều là Phật tượng của Phật A Di Đà. Tôi từng nói, nhiều tượng Phật đến như vậy thì các vị chính là đại chúng trong Hải hội Liên Trì. Sẽ có một vị Phật chính là bạn. Bạn hiện thân nơi tượng Phật, giống y Phật A Di Đà. Cái niệm Phật đường này rất thân thiết, đó là hoàn cảnh y báo tu học thù thắng của chúng ta, cũng là tăng thượng duyên tốt nhất. Chúng ta hoan nghênh đồng tu niệm Phật các nơi trên toàn thế giới đến niệm Phật đường này. Chính các vị sẽ cảm thấy mà không cần tôi nói, bạn ở đây một tuần thì ngay trong đời, không luận tham gia bất cứ đạo tràng nào, dự Phật thất niệm Phật sẽ thấy không thù thắng như ở đây. Bạn ở đây một tuần, cảm thụ nhất định không giống các nơi khác. Niệm Phật đường này đã niệm được mấy năm, kết hợp nghe giảng kinh, đó là phương pháp ép bất đắc dĩ. Nếu mỗi ngày niệm Phật, còn có hai giờ ngồi nói chuyện xen tạp thì mọi người thoái tâm, cho nên hiện tại mỗi ngày giảng kinh hai giờ đồng hồ, mục đích bơm hơi cho bạn, phòng bạn thoái tâm. Mỗi ngày giảng kinh nhằm giúp bạn phá sở tri chướng, phiền não chướng, đưa bạn khế nhập cảnh giới minh tâm kiến tánh.
Cụ thể làm thế nào? Trước tiên niệm Phật đường cố gắng niệm tốt ba năm, sau đó mới nghe giảng kinh. Đó là ta chiếu theo qui củ mà làm. Tuy nhiên, sau ba năm niệm, e rằng mọi người đều chạy hết, nên chúng ta lại ngày ngày khuyên nhủ, đem công đức lợi ích thù thắng giải thích tường tận, khiến mọi người hoan hỉ niệm Phật. Thực tế chỉ cần niệm trên nửa năm, bạn liền sanh tâm hoan hỉ, liền dần dần khế nhập cảnh giới, kinh này có nghe hay không cũng không hề gì, bạn chân thật được thọ dụng. Cho nên ở giai đoạn mở đầu, giảng kinh rất cần thiết.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên