Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 5

02/02/201521:05(Xem: 7052)
Phần 5

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 5)

Pháp Sư Tịnh Không


2. Thiện Tư Duy Bồ Tát
● Biết ân báo ân


Ý nghĩa chữ Thiện quá sâu rộng, cao thâm, chúng ta rất khó hiểu, do đó cần phải hạ thấp tiêu chuẩn này để có thể thực tiễn được ngay trong cuộc sống vì hội kinh Vô Lượng Thọ này, chúng ta chú trọng ở giải, hành chứng, làm thế nào thực tiễn ngay trong cuộc sống, trong công việc đối nhân xử thế tiếp vật của mình.

Thiện Tư Duy chính là biết ân báo ân, việc này ai cũng có thể làm được. Trên kệ hồi hướng chúng ta tụng mỗi ngày: “Thượng báo tứ trọng ân”, thường nghĩ ân Tam Bảo, ân chúng sanh, ân cha mẹ, ân quốc gia. Người thường nghĩ báo ân, đức hạnh người đó càng tích càng sâu, gọi là tích công bồi đức. Trong kinh Đại Bát Nhã, Phật vừa mở ra là Bồ tát nhị địa. Bồ tát nhị địa tu học tám khóa mục, trong đó có khóa mục tri ân báo ân, nói rõ tri ân là đáng quý. Trí tuệ Bồ tát nhị địa tương đối cao, cho nên họ mới chân thật tri ân còn phàm phu không biết tri ân, không biết ân dưỡng dục của cha mẹ, không biết ân giáo hóa của thầy giáo, không biết ân hộ trì của quốc gia.

Hiện tại người không có quốc tịch thật đáng thương, làm kẻ lưu lạc trên thế giới. Do đó mới thấy, được quốc gia bảo hộ, chúng ta cầm hộ chiếu đi bất cứ nơi đâu, mọi người đều tôn kính. Còn không có quốc tịch thì ai cũng xem thường. Tất cả chúng sanh có ân đức hỗ trợ chúng ta. Quần áo chúng ta đang mặc, vải không phải chính mình dệt, bông vải không phải chính mình trồng. Mỗi ngày ăn cơm gạo không phải chính mình gieo tỉa, liền biết được trong xã hội có bao nhiêu người khổ cực cần lao cung cấp cho đời sống một ngày của chúng ta, do đó phải dùng cái gì để hồi báo? Việc đầu tiên phải chân thật hiểu bốn ân nặng, đặc biệt nhớ nghĩ ân Tam Bảo. Trong ân Tam Bảo đầy đủ bốn ân trọng, viên mãn tròn đầy.

● Nhớ nghĩ chúng sanh khổ

Nhớ nghĩ chúng sanh khổ thì lòng đại bi của chúng ta mới có thể sanh khởi. Muốn giúp đỡ họ, không thể không chăm chỉ nỗ lực tu học. Nếu không thành tựu đức hạnh, thành tựu học vấn, thành tựu năng lực của chính mình, thì làm sao giúp người? Hy vọng các vị đồng tu nhìn thấy chúng sanh khổ nạn trên toàn thế giới, vì những chúng sanh khổ nạn này mà vùi đầu kham khổ, cố gắng nỗ lực tinh tấn, sớm ngày thành tựu thì những khổ nạn của họ sớm một ngày được tiêu trừ. Chúng ta thành tựu trễ một ngày thì họ sẽ thêm một ngày khổ nạn. Có tâm như vậy mới không thể giải đãi, đó chân thật gọi là tâm Bồ tát đại từ đại bi. Hiện tại thế gian đã giác ngộ được khổ nạn của chúng sanh, của người, thế nhưng không cách gì giải quyết.

Năm trước, khi tôi giảng ở khóa thứ hai, tôi xin nghỉ phép ba ngày đến Úc Châu. Cục sự vụ dân tộc thiểu số Úc Châu thuộc cơ cấu chính phủ họ. Cục trưởng mời tôi đến giảng một lần. Tôi nhận lời ông ấy, ngày đầu tiên đi, ngày thứ hai diễn giảng, ngày thứ ba quay về. Tính chất của diễn giảng này là gì? Cục trưởng là người Úc Châu gốc Do Thái. Khi tôi gặp ông, ông đã nói với tôi vấn đề này. Hiện tại Úc Châu đã mở chính sách phóng khoáng, hoan nghênh các nơi khác di dân đến. Những người di dân đến đây cùng với người Úc Châu địa phương, dù bối cảnh văn hóa, phương thức đời sống, chủng tộc, tôn giáo tín ngưỡng không giống nhau, nhưng khi vừa đến tự khắc cùng sống với nhau. Do đó làm thế nào để xã hội được phồn vinh an định? Làm thế nào có thể tiêu trừ nhiều thành kiến ngăn cách, mà hợp tác lẫn nhau làm cho xã hội Úc Châu được phồn vinh?

Họ đã nghĩ đến vấn đề này, cho nên tổ chức một buổi luận đàm hàng tháng, đến tham gia đều là lãnh đạo các tôn giáo. Hôm đó tôi đến tham gia, tổng cộng có mười bốn vị lãnh đạo tôn giáo khác nhau. Cục trưởng đã mời tôi diễn giảng về vấn đề này. Tôi gọi mười bốn vị lãnh đạo tôn giáo đều là Bồ tát. Họ nghe rồi cảm thấy kỳ lạ. Mục sư của KiTô Giáo là Mục sư Bồ Tát, Thần Phụ Bồ tát của Thiên Chúa Giáo, A Hòng Bồ tát của I Xlam giáo,… còn Do Thái giáo, tôi không biết gọi thế nào nên tạm gọi là trưởng lão Bồ tát. Họ ngạc nhiên. Tôi liền giải thích cho họ ý nghĩa Bồ tát là người giác ngộ, có trí tuệ. Cho nên họ rất hoan hỉ, không hề có chút bài xích nào đối với tôi.

Chúng ta đem Phật pháp giới thiệu cho họ, nói rõ Phật pháp không phải là tôn giáo, Phật pháp là học thuật, Phật pháp là giáo dục. Bất cứ tôn giáo nào đều phải học Phật pháp, vì sao vậy? Chúng ta phải học trí tuệ, có trí tuệ mới có giác ngộ. Phật pháp không bảo bất cứ ai phản bội tôn giáo của mình mới đến học Phật được, đó là việc Phật giáo nhất định không chấp nhận, việc làm đó trái với đạo đức của xã hội, Phật không nhận học trò này. Bạn là tín đồ tôn giáo nào đó, bạn yêu thích tôn giáo của bạn, tôn kính Thượng Đế của bạn, Phật tán thán bạn. Bạn là con cái tốt của Thượng Đế, là học trò tốt của Phật. Bạn có thể quy y Tam Bảo, làm học trò của Phật, bạn với Thượng Đế là quan hệ cha con, bạn cùng với Thích Ca Mâu Ni Phật là quan hệ thầy trò, làm gì có chuyện xung đột, ngược lại còn rất hòa hợp.

Sau khi tôi diễn giảng xong, mọi người đều hoan hỉ nêu ra thêm nhiều vấn đề để hỏi tôi, trong đó có trưởng lão Do Thái giáo, một người thân thiện dễ gần. Ông nêu ra câu hỏi với tôi: “Trong thánh kinh nói, nhân loại tạo ra những tội ác đến sau cùng đều có thẩm phán, Phật giáo các vị có thẩm phán sau cùng hay không? Thẩm phán sau cùng do ai chủ trì?”. Nghe qua lời này, tôi nói “không sai”, “Phật giáo là giáo dục, không quan tâm thẩm phán. Trường học dạy học, khuyên thiện ngừa lỗi. Thẩm phán là sự việc của pháp quan, của Bộ tư pháp. Phật là bộ giáo dục, không phải bộ tư pháp, ai chủ trì thẩm phán này? Đó là Thượng Đế”. Họ nghe rồi cảm thấy phấn khởi. Chúng ta là giáo học, khuyên thiện ngừa lỗi, dung hợp. Tôi tôn trọng họ, họ cũng tôn trọng tôi. Hội nghị lúc đó họ đều mời tôi làm hội viên lâu dài, mặc dù tôi không thường đến Úc Châu, chỉ cần mỗi tháng gửi cho họ một bài viết là được. Mỗi tháng tôi gửi một bài cho họ, trên thực tế tôi cũng không cần phải viết. Trong “Vô Trụ Sanh Tâm” của chúng ta rất nhiều, tôi bảo đồng tu Úc Châu, mỗi lần các vị ở nơi đó phiên dịch một chương, dịch sang tiếng Anh rồi đưa cho họ, mỗi tháng đều đưa.

● Hoằng dương Phật pháp

Thời gian tôi đến Úc Châu hơi dài, hai mươi sáu ngày, tôi thăm viếng đại học Bang Đức ở bờ biển Hoàng Kim. Tiếp kiến tôi là học sinh trường đó. Tôi nghe người khác nói, viện trưởng Viện khoa học xã hội nhân văn tuổi tác không lớn, làm hành chánh, tánh tình nóng vội, không nhẫn nại. Thế nhưng hôm gặp mặt tôi, ông hòa ái thân thiện, thái độ hoàn toàn khác. Nhiều người cảm thấy kỳ lạ. Ông vừa gặp mặt tôi, nhìn thấy đây là Phật pháp mà ông rất ưa thích, duyên phận.

Ông nêu ra vấn đề với tôi, trường học họ có hơn hai ngàn học sinh đến từ hơn ba mươi quốc gia, như một Liên Hiệp Quốc nhỏ. Thế là trong đó nảy sinh một số vấn đề xã hội. Đó là viện khoa học xã hội, làm thế nào để dạy cho những người không đồng quốc gia, không đồng chủng tộc, không đồng phương thức sinh họat, không đồng tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng ở chung với nhau, có thể hòa thuận cùng sinh sống, hợp tác lẫn nhau. Cùng vấn đề này, hiện tại người giai cấp cao trong giới học thuật, giới chính trị Úc Châu cũng rất quan tâm.

Khi ông nêu ra vấn đề, tôi liền nói “Phật pháp Đại Thừa có thể giải quyết vấn đề này đặc biệt là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, có lý luận viên mãn, có đầy đủ phương pháp, phía sau còn có minh chứng. Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba lần tham học. Năm mươi ba vị Phật thị hiện ra các ngành nghề, nam nữ già trẻ, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, như Thắng Nhiệt Ba La Môn, Biến Hành Ngoại Đạo. Đó đều là tín ngưỡng tôn giáo, bối cảnh văn hóa, phương thức sinh hoạt khác nhau. Làm thế nào ở trong một xã hội có thể cùng tồn tại cùng phát triển, hợp tác lẫn nhau, há chẳng phải vấn đề mà hiện tại các vị đang mong cầu giải quyết sao?

Sau khi ông ấy nghe rồi, vô cùng vui mừng, ngay lúc đó liền chủ động biểu đạt đề xuất thành lập viện nghiên cứu Phật học trong trường ông. Nếu không thể mở được một viện nghiên cứu thì có thể mở khóa trình Phật học. Tôi liền hỏi ông, một học trò hiện tại tu học trong trường phải tốn học phí, tạp phí, ăn ở, bao nhiêu tiền/năm? Ông nói, một năm cũng gần ba mươi ngàn đô Úc. Trường học đó nổi tiếng là trường học quý tộc, không có tiền thì không cách gì có thể vào đó học. Tố chất thầy giáo rất tốt, trình độ giáo dục cũng tương đối cao, cho nên tôi liền nghĩ, nếu có thể đem Phật pháp kéo dậy trường học này, tương lai sẽ biến thành một giáo trình quan trọng nhất trong trường học. Lúc đó Phật pháp chúng ta liền sẽ bước vào đại học của toàn thế giới, sẽ là giáo trình trung tâm trong đại học, người thế gian mới chân thật có phước.

Phật pháp là pháp của trí tuệ, Phật học là học trí tuệ, có thể giải quyết tất cả vấn đề, có thể khiến tất cả chúng sanh, người người hạnh phúc, nhà nhà mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi thành công, xã hội an lành, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ thái bình. Kinh Hoa Nghiêm đích thực có thể làm đến được nhưng đáng tiếc không có người đề xướng. Cho nên nếu có được cơ hội tốt như vậy, các pháp sư trẻ tuổi hãy chăm chỉ nỗ lực. Sau khi học xong tương lai đều trở thành giáo thọ đại học. Chúng tôi không có học vị, thậm chí chưa tốt nghiệp cao trung, làm sao có thể làm giáo thọ đại học được. Tôi chỉ tốt nghiệp sơ trung, hiện tại cũng có người mời làm viện trưởng viện nghiên cứu. Do đó chúng ta phải học thật, thực tập giảng dạy ít nhất một lần trong trường, được hiệu trưởng của trường, một số lãnh đạo trường học đó, và các giáo thọ đến nghe, nghe rồi hoan hỉ, bội phục, công nhận, lúc đó ra dạy học trò còn khó khăn gì? Vấn đề là phải chân thật y theo Phật pháp tu học, đoạn phiền não, khai trí tuệ. Chỉ có trí tuệ mới có thể phục người, làm cho người tâm phục khẩu phục, không cần phải có văn bằng. Văn bằng là giả, không có tác dụng, đối chính mình phải có tín tâm, chăm chỉ nỗ lực, nhất định đoạn phiền não, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần của thế gian, xả được sạch trơn, thường nghĩ đến chúng sanh khổ, thường nghĩ chính mình nghiệp chướng sâu nặng. Phải đoạn phiền não, tiêu nghiệp chướng, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, đó mới là Thiện Tư Duy Bồ tát.

● Tổng lược ý nghĩa Thiện tư duy Bồ tát
Phần trước, chúng ta nhận định mười sáu vị Bồ tát tại gia này cần được phân vào phẩm thứ nhất mới hợp lý vì đây là chúng thành tựu. Trong chúng thành tựu có Thanh Văn, Bồ Tát. Trong chúng Bồ tát có Bồ tát xuất gia, và tại gia. Tôi đã từng đặt nghi vấn: Vì sao ngài Hạ Liên lại phân vào phẩm “Hiền Hộ Bồ Tát” này? Đây không phải đoạn nhỏ mà lại phân thành một phẩm riêng, ắt phải có đạo lý. Được mấy người có thể nhìn ra ẩn ý này? 
Vì mười sáu vị tôn giả là huyết mạch của toàn kinh. Chúng ta tu học liệu đã nắm chắc được cương lĩnh, nguyên tắc mà trong Phật pháp gọi l tổng trì pháp môn chưa?, làm sao có thể nắm vững đại tổng trì pháp môn? Mấu chốt ở chỗ này. Bất kể tại gia hay xuất gia, tu hành chứng quả thành tựu hay không hoàn toàn dựa vào khả năng khéo giữ mình. Nếu dùng cách nói hiện đại, chúng ta có yêu quí bản thân mình không, hay nói cách khác, chúng ta có tự trọng không?. 
Hiền hộ chính là tự trọng, là yêu quí bản thân. Người thật sự biết yêu quí mình, thật sự biết tự trọng, gìn giữ mình thuận buồm xuôi gió trên con đường Bồ Đề thì đâu có lý nào không thành tựu. Cho nên lo Hạ Liên phân từ chỗ này, ý nghĩa thật vô cùng sâu rộng. 
Tiếp đó “Thiện tư duy Bồ Tát”, tôi đã nêu ra vài điểm. Chúng ta phải nhớ bốn ơn nặng, thường luôn tư duy tứ trọng ân, tư duy nỗi khổ của chúng sanh trong lục đạo luân hồi đau khổ điên đảo, ngu muội vô tri, tạo nghiệp thọ báo không có ngày ra khỏi. Cái khổ tam đồ so với chúng ta nghiêm trọng gấp bao nhiêu lần. Nếu bản thân không có năng lực vượt qua tam giới, không có năng lực thoát khỏi luân hồi thì quả báo tam đồ nhất định chng ta phải chịu. Ai mà chẳng tạo nghiệp tam đồ. Người người đều tạo. Bồ tát Địa Tạng trong kinh Bổn Nguyện nói rất hay: chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm, niệm nào cũng tội lỗi. Lời nói này là sự thật, hoàn toàn không quá đáng. Khởi tâm động niệm đều tự tư tự lợi, như vậy là tổn người mà chẳng lợi cho mình. Người thế gian thường nói “Tổn người lợi mình”, nói như thế là sai. Tổn người dứt khoát không lợi cho mình. Tổn người mà lợi mình thì việc này tốt, tôi cũng muốn làm. Tổn người mà chẳng lợi mình, bản thân chỉ được chút lợi nhỏ nhưng quả báo về sau không thể tưởng tượng. Tạo ra loại nghiệp nhân ngu muội, sau đó lại nhận chịu quả báo địa ngục. 
Cho nên nghĩ đến nỗi khổ của chúng sanh, chính là quay đầu lại nhìn thấy cái khổ của chính mình. Còn không nghĩ nỗi khổ của chúng sanh thì sẽ không biết chính mình khổ. Trong thế gian, rất ít người biết chính mình, hầu như không ai thấy, nhưng thấy người khác thì rất rõ. Cũng như hai con mắt chỉ nhìn thấy bên ngoài mà không thể thấy bên trong. 
Chúng ta hãy thực tập nhìn thấy người khác liền quay đầu lại nghĩ đến mình. Họ là chúng sanh, ta cũng là chúng sanh. Ngày nay họ tạo nghiệp thọ báo, nghĩ lại ngày nay ta cũng đang tạo nghiệp, tương lai làm sao có thể tránh khỏi khổ báo. 
Kế đến, phải thường nghĩ đến nghiệp chướng sâu nặng của mình từ vô thi kiếp, đã tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Đời này giả sử chúng ta sống tại đất nước Singapore, đất phước của thế gian, điều đó có nghĩa đời trước chúng ta đã làm chút việc tốt nên ngày nay ở đây hưởng phước. Tuy nhiên khi hưởng hết phước rồi sẽ ra sao? Khoảng thời gian hưởng phước này có nên tu phước nữa không? Hưởng phước mà không tu phước, không những không tu phước mà còn tạo thêm tội nghiệp thì phước báu sẽ tiêu hết rất nhanh, tội báo cũng sẽ hiện ra rất mau. Khi tư duy, chúng ta phải thường nghĩ đến việc này. 
Trên danh hiệu của Bồ tát có một chữ “Thiện”, dạy chúng ta phải khéo tư duy. Phàm những việc tương ưng với chân như pháp tánh chính là thiện, còn đi ngược với chân như pháp tánh là bất thiện. Cái gì là chân như pháp tánh? đó chính là bộ kinh Vô Lượng Thọ. Khởi tâm động niệm, ý nghĩ, lời nói việc làm không vi phạm, không ra khỏi lời giáo huấn của bộ kinh này mới là thiện. 
● Lời dạy của tổ sư
Vừa rồi, cư sĩ Lý Mộc Nguyên muốn tôi viết cho ông mấy chữ trên bốn cột trụ của giảng đường. Tôi liền nghĩ đến đại sư An Quang dạy chúng ta “Đốn luân tận phận, nhàn tà tồn thành”. Tám chữ có thể giải cứu kiếp nạn. Sao gọi là đốn luân? Luân là đồng loại, đồng luân. Giáo dục thời xưa của Trung Quốc đặt trọng tâm ở luân thường. Luân thường bắt đầu từ vợ chồng cùng một nhà, một phòng. Bên ngoài gian phòng là nhà gồm cha con, anh em. Ngoài nhà là xã hội gồm vua tôi, bè bạn. Cho nên giáo dục của Trung Quốc từ xưa đến nay là giáo dục ngũ luân. Trong ngũ luân có một loại đặc biệt, loại của chúng ta là học Phật. Học Phật lại phân làm nhiều loại, loại của chúng ta là tu Tịnh độ tông. Thuộc về loại nào thì phải làm hết bổn phận của loại đó. Hễ trong thân phận, địa vị nào, phải làm những công việc gì thì nhất định phải làm tốt công việc đó. 
Đối với xã hội, đồng luân bao gồm cống hiến, gọi là tận phận. Chúng ta làm hết bổn phận, tự làm, khuyên người làm, chính mình dựa vào kinh điển y giáo phụng hành, sau đó khuyên bảo người khác. Thế Tôn đã nói rất nhiều lần, khuyến khích chúng ta “thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói”, ý nghĩa này rất sâu. “Thọ trì”, chúng ta hoàn toàn tiếp nhận những gì trong kinh, những lời dạy của Phật, những lý luận, những phương pháp mà Phật đã nói, những cảnh giới Phật đã diễn bày, chúng ta tiếp nhận toàn bộ, đây là thọ. “Trì” là sau khi tiếp nhận mãi mãi gìn giữ không để bị mất, bị biến chất, nhất định tuân thủ. “Diễn” là lấy mình làm tấm gương cho người xem, biểu diễn bằng đời sống của chính mình. Cũng như kinh Phật dạy “khéo giữ khẩu nghiệp, không chê lỗi người”, nếu hằng ngày chúng ta nói xấu người khác, thế là bất tương ưng với lời kinh. Như vậy không phải là “thọ trì”, không phải “vì người diễn nói”. 
Phật pháp là giáo dục không phải tôn giáo, chúng ta có tâm cung kính, chân thành cầu học nơi các bậc lão sư. Người xưa thường nói “Chỉ văn lai học, dị văn vãng giáo”, chỉ có học trò đến cầu học, không có thầy giáo lang thang tìm học trò để dạy, đó là sư đạo. Sư đạo có sự tôn nghiêm của sư đạo, chúng ta phải hiểu để cầu học. Bậc thiện tri thức là người chúng ta ngưỡng mộ, khâm phục nhất. Họ là người phàm, một người âm thầm lặng lẽ, chúng ta có thể học với họ. Hàng Phật tử nếu không cung kính Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni thì hằng ngày ở cùng với Phật, người đó cũng chẳng học được thứ gì. 
Kính ngưỡng thầy giáo, dù bản thân thầy không thành tựu cũng không quan trọng. Bản thân thầy không đúng pháp nhưng phương pháp họ dạy đúng như pháp thì hãy làm theo. Thiện tri thức chính là người mà tâm trí ta cảm thấy ngưỡng mộ, khâm phục nhất, nên tuân theo triệt để, không chút trái phạm. Đừng vâng lời theo kiểu “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, không những không thể thành tựu mà còn tạo tác tội nghiệp rất nặng. Tội lừa thầy diệt tổ. Bái họ làm thầy nhưng lại lừa dối thầy trong khi vị thầy đó đã có sự truyền thừa, tổ tổ truyền nhau, cho nên lừa dối thầy đồng nghĩa xem thường tổ sư nhiều đời. Hướng lên trên mà nói: xem thường cả Phật Bồ tát. 
Đức Phật nói, nếu thật sự tôn kính Phật Bồ tát thì người đó không bao giờ dám trái phạm. Giảng kinh cũng vậy, giảng ba hoa khoác lác đến nỗi khiến người ta tán thán nhưng lời nói việc làm của mình lại hoàn toàn đi ngược với lời trong kinh, đó là không tin Phật. Cho nên tin Phật là việc rất khó. Tôi học Phật bảy năm, sau khi xuất gia liền bắt đầu giảng kinh. Xuất gia được hai năm, tôi mới thọ giới. Như vậy tôi đã giảng kinh hai năm. Thọ giới xong, tôi đến Đài Trung thăm Lý lão sư. Vừa gặp mặt tôi, ngài liền nói “Ông phải tin Phật”. Tôi nghe bỗng ngây người ra. Thầy liền giải thích cho tôi hiểu, tin Phật không đơn giản, không phải nói hiện nay đã xuất gia, đã thọ giới, hơn nữa đã đang làm công việc hoằng pháp là thật sự tin Phật, chưa chắc đúng. Có người cả một đời xuất gia, chín mươi năm vẫn không tin Phật. Tiêu chuẩn tin Phật đó là gì? Lời Phật nói trong kinh thảy đều làm được hết mới gọi là tin Phật. Còn chưa làm được nghĩa là chưa tin. Đã tin thì đâu có lý nào không làm theo. Cho nên với tôi “tin Phật” rất khó. 
Thế Tôn trong kinh Hoa Nghiêm, phần Đại Trí Độ Luận đều nói rõ “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”, có tín tâm thì không có việc nào không thành tựu. Tu hành chứng quả, tín tâm là cội gốc. Không có tín tâm kiên cố làm sao có thể thành. Nếu có niềm tin này thì “đốn luân tận phận” nhất định làm được. 
“Nhàn tà tồn thành”. “Tà” là tà tri tà kiến, “nhàn” là ngăn chặn. Phải biết ngăn chặn phòng ngừa “tà tri tà kiến”. Phương pháp phòng ngừa, cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói rất cao minh. Hôm đó tôi nghe ông nói mấy lời với mọi người mà rất tán thành. Việc đầu tiên, không nên nghe điện thoại, ông bảo thành viên của Tịnh tông Học Hội nếu không có việc gì thì không nên nghe điện thoại, cũng không nên gọi điện để tránh những tư tưởng khái niệm không chính xác. Tôi cũng thường nói, không xem báo chí, không xem ti vi, không nghe đài phát thì tâm sẽ được thanh tịnh. 
Ngày nay trong xã hội, cư sĩ tại gia có công việc, có sự nghiệp. Trong công việc sự nghiệp cần tiếp xúc những điều cần thiết, còn những việc không cần biết thì nhất mực không nên biết. Giữ gìn tâm thật thanh tịnh, đây gọi là thiện tư duy, thành tựu “đốn luân tận phận, nhàn tà tồn thành”. Lòng dạ đối với người phải chân thành, không mảy may hư dối. Người ta dùng tâm giả dối đối xử với chúng ta, chúng ta phải lấy tâm chân thành đối xử với họ. Vì họ làm chuyện sáu cõi luân hồi, làm chuyện ba đường ác, còn ta phải đến thế giới Tây Phương Cực Lạc gặp Phật A Di Đà. Người mà Phật A Di Đà hoan nghênh là người có tâm chân thành. Người có tâm thị phi, Phật A Di Đà không tiếp nhận. Đại đức xưa trong chú giải kinh điển nói rất rõ ràng tường tận. Lời nói việc làm không hợp nhau thì niệm Phật bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh. Nếu chúng ta hạ quyết tâm, có hoằng nguyện đời này nhất định vãng sanh thì phải y giáo phụng hành. 
Cho nên pháp duyên thù thắng này, tôi nhất định giảng qua bộ kinh một lần cho thật tỏ tường thấu triệt dù thời gian ba năm hay năm năm cũng không hề gì. Thính giả đến nghe một lần thì có thọ dụng của một lần. Một lần nghe hiểu có thể thọ dụng cả đời không hết, huống hồ hội nào cũng đều đến nghe. Tuy nhiên như vậy thiện tư duy của chúng ta vẫn chưa đạt đến thật viên mãn, chẳng qua mới chỉ được bảy tám phần. Muốn viên mãn phải nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, quyết được sinh về Tịnh Độ. 
Tôi từng khuyên một số bạn đồng tu cứ dùng điện thoại, mặc dù Lý Mộc Nguyên khuyên không nghe điện thoại. Phải nghe điện thoại như thế nào? Chỉ trì một câu A Di Đà Phật trong lúc nghe họ nói chuyện. Họ nói một giờ thì ta niệm A Di Đà Phật một giờ, ngoài ra không nói thêm lời nào. Lời vớ vẩn của họ đến không ngừng, thì chúng ta cũng không ngừng đem A Di Đà Phật đổ vào A Lại Da Thức của họ. Không bận tâm đến những lời họ nói, cách này rất có tác dụng. 
Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm niệm có Phật A Di Đà, đây mới gọi là thiện tư duy viên mãn. Chúng ta phải học Bồ tát Thiện Tư Duy, áp dụng ngay trong đời sống. Chính mình là Hiền Hộ Bồ tát, là Bồ tát Thiện Tư Duy. Trong Phật pháp có rất nhiều danh hiệu chư Phật, Đại Tạng kinh có một bộ kinh Vạn Phật Danh kinh, trong đó tổng cộng hơn 12.000 danh hiệu Phật. Những vị Phật đó là ai? Đều là tánh đức của chính mình. Vậy tại sao có nhiều danh hiệu tánh đức đến như vậy? 
Tánh đức vô cùng tận, một vạn danh hiệu không thể hiện hết, thậm chí vạn ức danh hiệu cũng không nói hết. Tất cả danh hiệu Phật là tánh đức của chính mình; tất cả danh hiệu Bồ tát là đức tu của chính mình. Từ đức tu hiển hiện ra tánh đức, cho nên chúng ta niệm những danh hiệu Bồ tát là niệm chính mình. Chính mình biết gìn giữ, biết tự trọng, biết bảo vệ pháp, vậy chính mình là Hiền Hộ Bồ tát. Tư tưởng kiến giải thuần chánh thì chúng ta trở thnh Bồ tát Thiện Tư Duy. Danh hiệu Bồ tát đều đặt ở nơi ta. Bồ tát hiện thân để biểu pháp, ngài chỉ dạy chúng ta, cũng như phần trên tôi đã nêu ví dụ, Tứ Thiên Vương, Bồ tát Di Lặc của điện Thiên Vương đều là chính mình, không phải cảnh giới bên ngoài. 
Từ đó cho thấy, mười sáu vị Bồ tát này cũng không ngoại lệ, cũng đều là đức tu viên mãn. Mười sáu không phải là con số mà là tiêu biểu cho sự viên mãn, hiển tông của chúng ta. Phần lớn mọi người lấy con số bảy hoặc con số mười tiêu biểu viên mãn, trong Mật tông dùng số mười sáu hoặc hai mươi mốt, kinh Di Đà nói “mười vạn ức cõi Phật” cũng là sự viên mãn của hiển tông, tất cả đều mang ý nghĩa biểu pháp. Nếu chúng ta xem nó như con số là sai lầm, và vì sai lầm nên sẽ không thể hội được nghĩa kinh.
3. Huệ biện tài Bồ Tát
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất giữa người với người. Khổng Lão Phu Tử dạy học, điều thứ nhất là đức hạnh; điều thứ hai là ngôn ngữ. Phật pháp dạy học cũng không ngoại lệ. Hiền Hộ, Thiện Tư Duy là đức hạnh, Huệ Biện Tài chính là ngôn ngữ. Trong biện tài phải có trí tuệ thì biện tài mới tích luỹ công đức, mới không tạo nghiệp. Không có trí tuệ, tốt nhất không nên biện tài, vì biện tài trong trường hợp này sẽ tạo nghiệp rất lớn. “Năng ngôn thiện đạo”, những gì nói ra không phải chánh pháp, làm mê hoặc lòng người đều gy tội nghiệp. 
● Biện tài trong tư tưởng Khổng Lão Phu Tử
Trong Luận Ngữ, Khổng Lão Phu Tử từng có thời gian ngắn làm quan Đại Tư Khấu ở nước Lỗ. Khi vừa nhậm chức ngài liền xử trảm Thiếu Chánh Mão đương thời. Việc này vào thời hiện đại tuyệt đối không cho phép. Thiếu Chánh Mão phạm tội gì? Không thấy tội. Không ai tìm ra lỗi của ông ấy nhưng Khổng Lão Phu Tử lại giết ông. Chính là vì ông ta “năng ngôn thiện đạo”, nói lời thị phi, bày chuyện thị phi khắp nơi làm mê hoặc lòng người. Thiếu Chánh Mão có biện tài, chẳng lẽ Khổng Lão Phu Tử biện tài không lại ông nên phải giết? Tội ác của Thiếu Chánh Mão là tà tri tà kiến. Ông rất có biện tài nhưng những tri kiến ác đó sẽ ảnh hưởng xã hội. Nhiều người nghe tin theo lời ông, điều này khiến Phu Tử không còn cách nào khác. 
● Câu chuyện ở Đạo Phong Sơn
Cho nên khả năng biện tài đối với mỗi người rất quan trọng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thời kỳ mạt pháp, tà sư nói pháp nhiều như cát sông Hằng”. Tôi còn nhớ lần đầu đến Hồng Kông giảng kinh, pháp sư Thường Hoài ở Hồng Kông nói với tôi rằng Hồng Kông có một bộ phận Cơ đốc giáo, gọi là Đạo Phong Sơn. Họ chuyên tiếp đãi người xuất gia đến Hồng Kông không có chỗ nương tựa, không có chỗ ở. Họ tiếp đãi vô cùng chu đáo, cung cấp thức ăn, chỗ ở, hàng ngày đưa đi chơi, trong đó có Phật đường. Điều này khá đặc biệt, trong Cơ đốc giáo lại có Phật đường, mỗi ngày khuyên lạy Phật, đọc kinh, tiếp đãi không thể chê vào đâu được, khiến ai cũng có cảm tình. Chỉ sau vài tháng những vị xuất gia đó liền có ấn tượng rất tốt với Cơ đốc giáo, nhìn lại thấy Phật giáo không bằng, pháp sư cũng chẳng thèm đếm xỉa, đối đãi không nhiệt tâm bằng Cơ đốc giáo, dần dần bỏ đọc kinh, không lạy Phật. Rất nhiều pháp sư đã hoàn tục và gia nhập đạo của họ. 
Sau khi nghe pháp sư Thường Hoài chia sẻ, tôi nói, việc đó hiếm có, rồi đi xem thử. Tôi liền viếng thăm Đạo Phong Sơn. Đi thăm viếng, xem thấy trong đó có một số pháp sư đã mặc quần áo hoàn tục, họ khoe Cơ đốc giáo hết sức từ bi bác ái, ca ngợi vô cùng. Chủ nhân của Đạo Phong Sơn ra tiếp kiến tôi, đại khái cũng muốn khuyên tôi. Sau khi viếng thăm, tôi nói: “Cảm ơn quí vị, việc làm của quí vị rất tốt”. Họ nghe và tỏ ra bất ngờ, không hứng thú. Tôi liền nói tiếp: “Tôi thật sự cảm ơn quí vị, quý vị đã khuyên những người xuất gia này hoàn tục, tin Cơ đốc giáo, tôi chân thành cảm ơn. Đây là lòng thành, không hề giả dối”. Họ có vẻ không tin liền hỏi vì sao. Tôi nói: “Phật pháp truyền đến ngày nay đã ba ngàn năm. Trong cửa Phật cũng có tốt xấu lẫn lộn. Cơ đốc giáo của quý vị truyền đến nay cũng gần hai ngàn năm. Những phần tử trong tôn giáo các bạn cũng chưa chắc tất cả đều tốt, cũng có một số kẻ phản trắc”. Nghe đến đây họ cũng gật gù đồng ý. Tôi nói tiếp: “Số rác rưởi của nhà Phật vốn trước nay chưa có cách gì thanh lý nay đã được thanh lý sạch sẽ, chẳng phải đó là điều đáng mừng sao? Những hành giả này chỉ qua mấy lời liền dao động. Người không có tâm đạo thì không thể học đạo. Quý vị dọn sạch họ đến đây, đó là việc đáng tán thán”. Như vậy chuyến viếng thăm Đạo Phong Sơn, tôi giải quyết vấn đề trong hoan hỷ, không hủy báng ai. Họ lay chuyển thu về những người đều là rác rưởi của nhà Phật, còn tinh hoa của nhà Phật thì không ai lay chuyển được. Hy vọng họ có thể tỉnh ngộ, sau này không còn làm trạm chứa rác, không còn khuyên người xuất gia hoàn tục nữa. 
Nếu chúng ta nói thẳng rằng quý vị đang tạo tội nghiệp khi khuyên giới xuất gia hoàn tục thì có thể họ sẽ càng hứng khởi. Tôi phân tích chân thật, không hề giả dối, việc họ làm hoàn toàn không mang lại công đức. Những phần tử bị thu hút về bên đó toàn là thành phần tín tâm không kiên cố của nhà Phật; tâm đạo không kiên cố, mê hoặc điên đảo, thấy lợi quên nghĩa là những phần tử không tốt, hà tất phải thu nhận về. 
Cho nên chúng ta cần trí tuệ biện tài. Có trí tuệ thì mới có thể thấy được rõ ràng sáng suốt, lời nói mới có thể thật sự giáo dục người, khuyên người không nên tạo ác nghiệp, vì một khi ác nghiệp tạo ra, hậu quả không thể tưởng tượng nổi. Cố gắng lợi dụng khả năng biện tài. Phải chuyên tu chuyên hoằng đối với pháp môn thì không gì thù thắng bằng. Tất cả chư Phật Như Lai mười phương, không vị nào không hoằng dương bộ kinh này; không vị nào không giảng bộ kinh này, không vị nào không khuyên người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta có năng lực biện tài thì tại sao không thay Phật làm sáng tỏ thêm. Bản thân được Phật quang gia trì, đây mới là trí tuệ biện tài đích thực, cho nên phải khéo vận dụng, phải cố gắng học tập.

4. Quán Vô Trụ Bồ Tát
Những gì đã trình bày phía trước đều là điều kiện cơ bản. Chúng ta học Phật nhiều năm, đã nghe rất nhiều kinh, nhưng muốn biết công phu như thế nào? Phiền não đã giảm chưa? Trí tuệ có tăng trưởng không? Tư tưởng lời nói việc làm có giảm ác nghiệp chưa? Thiện nghiệp có tăng hay không?... Tất cả thuộc về vấn đề tu tập. 
Thành thật mà nói, công phu của người học Phật không đắc lực. Hàng ngày học Phật pháp, niệm Phật nhưng chưa chắc được vãng sanh. Chưa chắc chắn mà nói chắc chắn, đó là đại vọng ngữ, tội nghiệp đọa địa ngục A Tỳ. Người chân thật phải nói lời thành thật, chưa chắc chắn chính là công phu không đắc lực. Danh hiệu Quán Vô Trụ nhắc chúng ta nghĩ đến kinh Bát Nhã, kinh Kim Cang nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Quán Vô Trụ chính là “ưng vô sở trụ”. 
Trước đây vào đời Đường, tổ thứ sáu thiền tông đại sư Huệ Năng nhờ hai câu này trong kinh Kim Cang mà đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Cho nên “Quán” là quán sát thế gian, không phải khuyên chúng ta nghĩ. Nghĩ là còn rơi vào ý thức, trong khi quán lại không dùng ý thức. “Thiền tông tham thiền”, vì sao gọi là tham, tham cứu mà không gọi là nghiên cứu? Vì nghiên cứu chưa thoát khỏi tâm ý thức, hay nói cách khác là chưa thoát khỏi tư duy, tưởng tượng. “Tham” không dùng ý thức, “quán” cũng không dùng ý thức. 
Thế nào gọi là không dùng tâm ý thức? Điều này không phải dễ hiểu. Trước tiên chúng ta phải hiểu tướng trạng của tâm ý thức như thế nào, tác dụng của tâm ý thức ra sao, sau đó mới dần dần thể hội. Tâm này là A Lại Da Thức, gieo chủng tử, ngày nay gọi là để lại ấn tượng. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần đều để lại ấn tượng rất sâu. Để lại ấn tượng là tác dụng của A Lại Da. Chúng ta thấy sắc nghe tiếng liền phân biệt, phân biệt là tác dụng của thức thứ sáu. Do phân biệt mà chấp trước, khởi tham ái, sinh ra tình cảm, gây phiền não, liền chấp trước kiên cố. Chấp trước là Mạt Na Thức. Hiểu được điều này mới chỉ đi được một ít trong cái hiểu tổng thể. 
Những người tham thiền, nghiên cứu kinh giáo, họ không dùng tâm ý thức cũng không phân biệt, không chấp trước, không để lại ấn tượng. Như vậy mới đích thực nghiên cứu kinh giáo. Trong cuộc sống thường ngày cũng vậy, nên xử sự ứng xử với người, với công việc, với sự vật đều không phân biệt, không chấp trước, không để lại ấn tượng. Câu chuyện “trà Triệu Châu” hầu như nhiều người đã từng nghe. Hòa thượng Triệu Châu, mỗi khi có ai đến thăm, ngài đều nói “uống trà đi”. Chỉ một câu đã độ hóa tất cả chúng sanh. 
Không nên cho rằng “uống trà đi” như một lời mời chúng ta lấy tách chuẩn bị rót trà thật để uống. Câu “Uống trà đi” của ngài chính là bảo chúng ta rằng, trong cuộc sống thường ngày, trong việc ăn uống sinh hoạt không nên để lại ấn tượng, không phân biệt, không chấp trước thì có thứ nào chẳng phải là thiền, có thứ nào chẳng phải là công phu. Chỉ cần trong tất cả pháp, không phân biệt, không chấp trước, không để lại ấn tượng, chính là vô trụ. Mới có một chút phân biệt, chấp trước thì tâm liền có trụ. Có trụ sinh phiền não, khởi chướng ngại. Vô trụ mới tương ưng với pháp tánh, cho nên nhất định phải vô trụ.
Đức Phật không yêu cầu vô lý, vì vô trụ tương ưng với chân tướng sự thật, còn có trụ là trái với chân tướng sự thật. Vô trụ là Thiện Tư Duy, có trụ là bất thiện. Trong kinh Kim Cang, đức Phật nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”, ba tâm bất khả đắc. Không thể nói rõ cái tâm năng đắc, nếu cho rằng có đắc thì là giả, không phải thật. Cảnh giới bên ngoài là cái chúng ta sở đắc, kinh nói rất rõ: “Vạn pháp duyên sanh”. Ngay cả Phật pháp cũng là duyên sanh, cho nên không nên chấp trước Phật pháp. Phật nói: “Pháp còn phải buông, huống hồ phi pháp”, pháp đó là Phật pháp. Phải xả Phật pháp vì Phật pháp là pháp duyên sanh, pháp do nhân duyên sanh. Phàm là pháp do nhân duyên sanh thì ngay thể đều là không, không thể có được. Như vậy sở đắc cũng chẳng thể được, hai bên năng sở đều chẳng thể được, thì làm sao có thể trụ hay đắc?. 
Cho nên khi tâm chúng ta vừa có trụ là sai. Ngày nay đối với vạn sự vạn pháp, đức Phật dạy chúng ta phải tùy duyên. Tùy duyên là tự tại, sao cũng được, có cũng tốt, không có cũng tốt, đều đại tự tại. Tuyệt đối không chút ý niệm được mất, không chút ý niệm lấy bỏ. Đối tất cả pháp không lấy, không bỏ, không được, không mất gọi là vô trụ. Từ đó cho thấy, vô trụ chính là Niết Bàn, công phu vô trụ đạt đến cực điểm chính là cảnh giới đại Niết Bàn. Trong tam học Giới Định Huệ, đây thuộc về định công, thiền định rất sâu. Định phải có huệ, nếu định không có huệ thì định này vô dụng. Tuy sinh tâm nhưng vẫn vô trụ mới là cao minh. Sinh tâm và vô trụ phải đồng thời cùng lúc. Còn cho rằng sinh tâm làm trở ngại vô trụ, vô trụ trở ngại sinh tâm là quan niệm của người thế gian, cũng là hiện tượng thật của người thế gian. 
Ví dụ một hành giả nói rằng: “Vì công việc quá bận rộn, quá nhiều làm trở ngại tâm thanh tịnh của tôi, nên tôi phải tu tâm thanh tịnh, phải xa rời tất cả những công việc đó mới có thể đạt được tâm thanh tịnh”. Đã bận bịu đến vậy mà bảo tâm phải thanh tịnh, việc này càng làm không được. Lúc đó phải biết rằng tướng là giả, thể là không. Tướng giả có bận rộn hơn đi nữa vẫn là giả, làm gì có chướng ngại. Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại, đó chính là cảnh giới Hoa Nghiêm, cảnh giới không chướng ngại. Công phu, thọ dụng như vậy hoàn toàn đắc lực ở Quán Vô Trụ, quan sát tất cả pháp thế xuất thế gian không vô sở hữu. Đức Phật nói trong kinh “Mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện”, Phật dạy thường quán sát như vậy chính là tu Quán vô trụ, trở thành Quán Vô Trụ Bồ tát, công phu làm sao không đắc lực được. Công phu niệm Phật đắc lực dứt khoát được sinh Tịnh Độ, hơn nữa phẩm vị cũng rất cao, hơn cả bậc trung hạ phẩm. 
Có được loại công phu tu hành này có thể đạt được tổng cương lĩnh “Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác”. Ngày nay sở dĩ chúng ta không đạt được Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác vì vẫn còn tâm lo được lo mất, tâm lấy bỏ, nghiêm trọng hơn là tham, sân, si, mạn, tâm cống cao đố kỵ. Đây là chướng ngại lớn nhất cho việc tu học đời này của chúng ta. 
Trước đây tôi từng dùng thời gian bốn tháng giảng bộ kinh Kim Cang, những băng ghi âm hiện nay vẫn đang lưu thông, vì sao phải giảng bộ kinh này? Vì tôi quan sát rất nhiều bạn đồng tu niệm Phật, công phu không đắc lực, không thể buông xả. Cho nên giảng bộ kinh Kim Cang giúp mọi người biết rõ mà buông xả, hy vọng công phu niệm Phật được thành tựu, không được nhất tâm bất loạn thì chí ít phải được công phu thành khối mới có thể vãng sanh đến được cõi Phàm Thánh Đồng Cư, việc này Kim Cang Bát Nhã giúp ích rất lớn đối với chúng ta.
Trong “Quán Vô Trụ Bồ Tát” còn có một tầng ý nghĩa sâu hơn. Đó là vô trụ nhất định phải sinh tâm, nếu vô trụ không sinh tâm thì Thế Tôn quở trách hàng Nhị Thừa trốn vào Niết Bàn chỉ có tự lợi mà không thể lợi tha. Tự lợi không lợi tha tuy không sai nhưng tánh đức không được viên mãn. Nói cách khác, đem sinh tâm và vô trụ hợp lại thành một, không được phân thành hai vì phân thành hai nghĩa là hành giả chỉ chứng đắc được một nửa, không thể viên mãn. Trong kinh Hoa Nghiêm, địa vị thấp nhất là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ tát. Công phu tu chứng của các ngài đã ở vào cảnh giới không phân biệt, không chấp trước tất cả pháp thế xuất thế gian, họ ra khỏi sáu cõi luân hồi, ra khỏi mười pháp giới, thật sự nhập vô trụ “ưng vô sở trụ”, đến Nhất Chân Pháp Giới. Nhất Chân Pháp Giới chính là pháp giới vô trụ, “ưng vô sở trụ”. Sơ trụ Bồ tát, nếu chứng đến quả vị viên mãn hướng lên còn có bốn mươi mốt giai đoạn: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, đến Diệu Giác mới thành Phật. 
Nhiều vị thứ như vậy thì phải tu thế nào? Sinh tâm. Không sinh tâm không thể đạt đến Phật cứu cánh viên mãn. Sinh tâm gì? Sinh tâm hoá độ tất cả chúng sanh. Loại hoá độ đó như kinh Kim Cang đã nói: “Độ vô lượng vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được độ”. Độ vô lượng vô biên chúng sanh là sinh tâm. Thật không có chúng sanh nào được độ, là vô trụ. Một câu này chính là năm mươi ba tham học của kinh Hoa Nghiêm, gọi là trải sự luyện tâm. Cảnh giới nào cũng đều phải trải qua, phải “Hòa quang đồng trần” với tất cả chúng sanh, hòa chung với họ, không có phân chia. 
Luyện tâm là luyện cái gì? Luyện Thanh Tịnh, Bình Đẳng, Giác. Nếu hành giả không trải qua trên sự tướng thì tất cả thành tựu đều không đáng tin. Cách đây hơn ba mươi năm, tôi xem “Trúc song tùy bút” của Liên Trì đại sư, mọi chi tiết đến nay đều không nhớ rõ, duy chỉ một chuyện để lại ấn tượng sâu sắc. 
Câu chuyện về một php sư tu hành sống trên núi mấy mươi năm, công phu thành tựu, giới luật tinh nghiêm, định công rất sâu. Một lần người trong thành phố gặp được pháp sư, họ rất ngưỡng mộ giới luật, đạo hạnh của vị pháp sư này. Họ xây một giảng đường nơi khu đô thành náo nhiệt và mời pháp sư xuống núi hoằng pháp. Sau khi xuống núi không bao lâu, đời sống phồn hoa nơi thành thị đã tiêm nhiễm ngài. Tham sân si mạn đều hiện ra, đạo tâm không còn, định cũng mất sạch. Vị pháp sư liền đến thỉnh giáo đại sư Liên Trì. Đại sư Liên Trì nói, tu hành trong núi sâu, chưa trải qua sự tôi luyện ở hồng trần thì việc tu hành coi như không tính đến. Từ xưa đến nay, bao nhiêu người tu hành trong núi đạt thành tựu nhưng vừa xuống núi là hủy sạch, chúng ta thường nói “không vượt qua được khảo nghiệm”.

Đức Phật nói hoa sen không nở trong nước mà hoa sen nở trong lửa mới hiếm lạ, mới trân quí. Lửa tiêu biểu cho năm dục sáu trần, trong năm dục sáu trần mà vẫn thanh tịnh vô nhiễm mới gọi là thành công. Cho nên “vô trụ sanh tâm” là Phật pháp cao cấp trong nhà Phật. Người bình thường có thể học vô trụ nhưng không nên học sinh tâm. Chúng ta phải chia nó thành từng giai đoạn, sau khi thật sự được vô trụ, thì tiếp tục trải sự luyện tâm, còn chưa đến được cảnh giới vô trụ thì việc này làm không nổi. Trong quán vô trụ Bồ Tát hàm chứa nghĩa sâu “Vô trụ sinh tâm, sinh tâm vô trụ”, chúng ta đảo ngược chữ này ý nghĩa liền xuất hiện. Đây là chân thật có trí tuệ, đích thực có định lực, vượt qua được khảo nghiệm. Khi chưa vượt qua khảo nghiệm, chúng ta phải tránh, không nên để cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu. Nếu thật sự đã có định lực, thật sự có công phu thì không cần tránh né nữa. Chúng ta có thể chuyển cảnh giới, cảnh tùy tâm chuyển. Còn tự mình không thể chuyển cảnh giới thì nhất định phải tránh.

Người mới tu học, đức Phật đã xây dựng rất nhiều qui củ, chúng ta nhất định phải tuân theo. Cũng như ở trường, bậc tiểu học có rất nhiều quy củ, thầy giáo đôn đốc cũng rất nghiêm khắc. Lên trung học thì hơi nới một chút, lên đại học thì càng mở rộng hơn, đến nghiên cứu thì không còn ai quản lý nữa. Vì khi đó chúng ta đã trưởng thành, có trí tuệ, có thể tự chăm sóc bản thân. Càng là Phật pháp cao cấp thì càng rộng mở, Phật pháp cấp càng thấp thì càng bảo thủ. Tiểu thừa cũng giống tiểu học, qui củ quản lý rất nghiêm khắc, một chút sai lầm cũng không được phạm. Trong khi Phật pháp đại thừa lại mở rộng khá nhiều. Khi có định, có huệ thì không cần ai quản lý chúng ta như thế.

Pháp thế gian như vậy thì Phật pháp cũng như vậy. Trong nhất chân pháp giới, dứt khoát không ai quản lý, can thiệp đến chúng ta, mọi việc đều như pháp. Như Phu Tử đã nói “thất thập tùng tâm sở dục nhi bất du cũ”. Khổng Phu Tử tự mình nói ra cảnh giới của ngài, sau bảy mươi tuổi thì tùy theo tâm ý của mình, mọi cử chỉ đều hợp với phép tắc, hợp với lễ độ, vậy là cao minh. Pháp Thân Đại Sĩ chính là “tùng tâm sở dục”, hoặc “tùy tâm sở dục”, không những không trái với pháp tánh mà hoàn toàn tương ưng với tánh đức, mới gọi là pháp thân đại sĩ. Kinh Hoa Nghiêm mà đại sư Thanh Lương đã nói “cảnh giới sự sự vô ngại”. Kinh Vô Lượng Thọ không hề khác với kinh Hoa Nghiêm, nghĩa của Hoa Nghiêm đều nằm trong kinh này.

5. Thần Thông Hoa Bồ Tát

Sau khi chân thật chứng được vô trụ sinh tâm, thật sự chứng đắc vô trụ, quán vô trụ thì Thần Thông Hoa chính là sinh tâm. Đã vô trụ thì phải phát tâm phổ độ chúng sanh. Phổ độ chúng sanh hoàn toàn không trở ngại cảnh giới thanh tịnh tịch diệt của chính mình. Tuy một ngày từ sáng đến tối cùng chung sống sinh hoạt với chúng sanh, nói chuyện đời chuyện đạo, biểu diễn mọi thứ nhưng cuộc sống chính mình trải qua vẫn thanh tịnh tịch diệt, không mảy may thay đổi, đó là tự thọ dụng, là thanh tịnh.

Danh hiệu của hai vị Bồ tát này hợp lại tạo thành hình tượng mà nhà Phật chúng ta thường hay dùng là “mark”, pháp luân thường chuyển. Thần Thông Hoa là luân, nơi chuyển động không ngừng. Vô trụ là tâm của luân, vĩnh viễn bất động. Tâm vòng tròn bất động, còn vòng tròn thì luôn động, ý nghĩa rất viên mãn. Chư Phật Bồ tát cũng vậy, hành giả hôm nay muốn học cũng phải học như vậy.

Làm thế nào khiến cho thân khẩu giúp ích tất cả chúng sanh mà tâm như như bất động? Kinh Bát Nhã nói “Tam luân thể không”, không ngã tướng, không nhân tướng, không chúng sanh tướng. Kinh Kim Cang nói, không dính tướng ta, không dính tướng người, không dính vào tất cả các tướng của sự nghiệp mà mình đã làm, gọi là không chúng sanh tướng, tức là đạt đến được vô trụ. Mỗi ngày thực hành không hề ngừng nghỉ, đó là sinh tâm. Thần Thông Hoa biểu hiện ở chỗ này.

Đoạn kinh thứ hai có câu “Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện” có thể dùng để giải thích ý nghĩa những việc đã làm của Thần Thông Hoa Bồ tát. Ngày nay xã hội đại chúng rất nhiều người hiểu lầm hai chữ “thần thông”, cho rằng những sự việc kỳ quái gọi là thần thông, giải thích vậy là sai. “Thông” là thông đạt, là trí tuệ, tất cả sự việc thế xuất thế gian không có gì không hiểu rõ. “Thần” là tỉ dụ, tỉ dụ năng lực này vượt hẳn người bình thường, thần kỳ khôn lường, người khác không thông đạt bằng, cho nên gọi là thần thông. “Hoa” là tỉ dụ tu nhân, thực vật trước nở hoa, sau kết quả. Nếu hoa nở tốt, nhân tốt thì tương lai sẽ kết quả tốt.

Kinh Phật thường dùng hoa đại biểu cho Lục Độ Vạn Hạnh của Bồ tát. Bồ tát phải tu Lục Độ Vạn Hạnh, ứng hoá, chứng Phật quả đại Niết Bàn, “du bộ thập phương, hành quyền phương tiện”. Vô điều kiện, không phân biệt, không chấp trước mà phổ độ tất cả chúng sanh. Bồ tát tùy loại hoá thân như trong “phẩm Phổ Môn” đã nói, cần dùng thân gì để độ thì ngài liền hiện thân đó; cần nói pháp gì cho chúng sanh thì ngài liền nói pháp đó. Tuyệt nhiên không có pháp cố định dùng để nói, cũng không có thân phận cố định để dựa vào. Tùy loại hiện thân, tùy theo ý niệm của chúng sanh mà thuyết pháp, gọi là Thần Thông Hoa. Chư Phật Bồ tát vì tất cả chúng sanh mà diễn nói đủ thứ nhưng mục tiêu phương hướng chỉ có một, đó là giúp tất cả chúng sanh giác ngộ. Nhà Phật thường nói, giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, đây là tổng phương hướng, tổng mục tiêu.

Hành giả phát tâm, sau khi được tâm thanh tịnh lại giúp đỡ tất cả chúng sanh bằng phương pháp tối ưu là trở thành tấm gương tốt cho người ta xem. “Vì người diễn thuyết”, diễn không phải đi hát tuồng mà biểu diễn ngay trong đời sống thường ngày, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm đều dựa vào kinh. Phải đem bộ kinh này bao gồm đạo lý, phương pháp, cảnh giới biểu diễn ra đời sống của mình, hay nói cách khác, đời sống của hành giả chính là kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta hợp với kinh Vô Lượng Thọ thành một, gọi là diễn. Diễn không chút tạo tác, không chút dấu vết, nói cách khác, hành giả trải qua đời sống của Phật Vô Lượng Thọ, như vậy đương nhiên đã thành Phật. Từng câu từng chữ trong kinh đều tương ưng với khởi tâm động niệm trong đời sống thường ngày của chính mình, như vậy mới chân thật khế nhập vào biển nguyện Di Đà, đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh với Phật A Di Đà, vãng sanh là kết quả tất yếu. Người người đều làm được, mọi người phải nỗ lực, phải thật sự chịu làm, không nên bỏ lỡ cơ duyên quá tốt trước mắt của đời này, thế thật đáng tiếc.

6. Quang Anh Bồ Tát

● Sắc diện của người tu học Phật

Đây là quang minh ánh phát. Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán Phật A Di Đà là “quang trung chi vương”. Trong lúc giảng giải, tôi cũng thường khích lệ đồng tu, chúng ta học Phật, biểu hiện bên ngoài rất quan trọng. Tướng này chính là biểu hiện. Nói Phật pháp tốt, nhưng người nói lại mang mặt mày tối thui thì làm sao người ta có thể tin được. Biểu hiện của người học Phật, toàn thân phóng quang, tinh thần sung mãn, người ta vừa thấy liền có thiện cảm. Do đó, không tiếp xúc chúng sanh thì hình tượng chẳng quan trọng, nhưng tiếp xúc với quần chúng rộng lớn thì hình tượng quan trọng hơn hết. Người ta vừa tiếp xúc hình tượng của chúng ta liền có ấn tượng tốt. Kinh Phật dạy đối nhân xử thế tiếp vật phải “hòa nhan ái ngữ”, tạo ấn tượng tốt thì làm việc gì cũng đều thuận lợi, có nhiều quí nhân. Quí nhân đến từ hình tượng tốt của chúng ta. Hình tượng không tốt, người ta vừa thấy liền ngoảnh mặt làm lơ. Hình tượng đó xuất phát từ sự tu trì đích thực, không phải giả vờ.

Một kênh truyền hình tại Đài Loan mời tôi đến giảng để ghi hình, họ yêu cầu tôi dùng chút phấn trang điểm, tôi không đồng ý. Họ nói, rất nhiều pháp sư lên bục giảng đều phải trang điểm. Tôi vẫn dứt khoát không trang điểm. Nếu bảo tôi trang điểm thì tôi thà không lên giảng. Chúng ta biết trên màn ảnh ti vi, mọi người đều đeo mặt nạ. Sau khi lấy đi mặt nạ đó, họ liều xấu xí. Chúng ta phải phát ra từ nội tâm một cách tự nhiên. Chính chúng ta cũng được hưởng thụ chân thật, ngoài ra không mang tội lừa dối chúng sanh. Trang điểm lên màn ảnh là có tội lừa dối chúng sanh. Việc này không nên làm. Bồ tát Quang Anh biểu thị ý nghĩa sâu sắc ở điểm này.

● Tầm ảnh hưởng từ hình tượng tiếp xúc

Hình tượng cá nhân, hình tượng đoàn thể phải tốt mới gây thiện cảm với người tiếp xúc. Đoàn thể đây ám chỉ tăng đoàn bốn chúng đệ tử. Ngày nay vừa nghe nói tăng đoàn, người ta liền nghĩ đến người xuất gia, không hề nghĩ người tại gia. “Tăng” trong tiếng Phạn là tăng già, nghĩa gốc của tăng già hòa hợp chúng. “Chúng” trong cách nói hiện đại chính là đoàn thể, hội quần chúng. Trong xã hội, quần chúng rất nhiều. Hội quần chúng này có thể tuân thủ lời giáo huấn của Phật, tu sáu giới điều phép hòa thì đoàn thể này gọi là hòa hợp chúng, hay tăng già, tăng đoàn. Cho nên, tăng đoàn không nhất thiết chỉ người xuất gia. Kinh Phật nói, nhóm bốn người trở lên dù là tại gia nếu tu sáu phép hòa kính thì nhóm này chính là tăng đoàn. Buôn bán mở tiệm, ông chủ và nhân viên tổng cộng từ bốn người trở lên đều tuân thủ lời giáo huấn của Phật, tu sáu phép hòa kính thì cửa tiệm này cũng là tăng đoàn.

Trong đã là hòa hợp chúng thì căn nhà hay cửa tiệm đó chính là đạo tràng, chư Phật hộ niệm, long thiên ủng hộ. Cho nên hòa hợp chúng hoàn toàn không chỉ dành riêng cho người xuất gia. Tuy không dành riêng cho người xuất gia, nhưng người xuất gia phải cùng tất cả đoàn thể khác thậm chí tất cả hội quần chúng hòa hợp, phải mẫu mực làm tấm gương tốt để những hội quần chúng khác đều bắt chước học tập theo. Trong nhà Phật những hình tượng này, chúng ta phải thật sự xem trọng. Vì ngày nay hầu như bất cứ nơi nào trên thế giới đều hiểu lầm nghiêm trọng đối với Phật giáo. Sự hiểu lầm dẫn đến thái độ coi thường. Họ xem chúng ta là tôn giáo, thậm chí tôn giáo thấp. Họ nghĩ chúng ta là đa thần giáo, thần gì cũng lạy, phiếm thần giáo, hay tôn giáo cấp thấp, trong khi tôn giáo cấp cao chỉ có một thần, thần minh vô thượng chỉ có một. Tôn giáo cấp thấp không biết, cái gì cũng lạy. Quan niệm đó thật oan uổng. Ai đã tạo nên hiện tượng xã hội này? Chính chúng ta tạo nên, không nên trách người khác. Vì chúng ta chưa làm hết trách nhiệm của người đệ tử Phật, chưa giải thích rõ ràng, diễn thuyết sáng tỏ với mọi người về chân tướng của Phật pháp. Cho nên dẫn đến sự hiểu lầm. Tội lỗi ở chính mình, không ở người khác. Chúng ta cần sám hối, rửa sạch tội lỗi của mình, phải nghiêm chỉnh nỗ lực tu hành, đem chân tướng sự thật của Phật pháp nói minh bạch với tất cả đại chúng. Hơn nữa bản thân phải làm tấm gương tốt để người đời nhìn thấy. Đây chính là biểu hiện của chúng ta, là điều mà Quang Anh Bồ Tát muốn đại biểu.

● Chọn môi trường sống và tu học

Đạo tràng tu học là chuẩn mực của hội quần chúng toàn thế giới. Hội quần chúng nhỏ nhất là gia đình, hội quần chúng lớn nhất là quốc gia. Chúng ta ở trong tất cả hội quần chúng tạo nên môi trường mô phạm. Trong hội quần chúng này không có danh vọng lợi dưỡng, không có nhân ngã thị phi, không có lợi hại được mất, một hội quần chúng hoàn toàn thanh tịnh. Thân tâm hành giả thanh tịnh không nhiễm một trần, ý nghĩ việc làm đều vì lợi ích xã hội. Không nên nói suông mà phải thật sự nỗ lực thực hành, khiến chư Phật Như Lai đích thực là biểu hiện chữ vàng, chiếu sáng khắp nơi. Lúc đó chúng ta mới không hổ thẹn là đệ tử Phật. “Đốn luân tận phận” xem như thành công.

Hiện nay, đạo tràng Tịnh Tông Học Hội của Cư sĩ Lâm làm được rất tốt, tôi cũng có ghé thăm các đạo tràng khác, mỗi ngày đều có người niệm Phật, đều có người giảng kinh. Nếu ba năm không gián đoạn việc giảng kinh thì sẽ có ảnh hưởng nhất định đối với xã hội. Mặc dù mỗi ngày giảng hai giờ là không đủ, thế nhưng đối với xã hội hiện nay, hai giờ rất cần thiết. Chúng ta đã và đang hướng đến khoa học kỹ thuật cao, ghi hình tại hiện trường, phát sóng lên truyền hình vệ tinh đến rất nhiều quốc gia khu vực trên thế giới, đã lưu thông trên mạng internet. Cho nên chúng ta chỉ thấy giảng đường này hiện nay rất đông thính chúng, khoảng một vài ngàn người, nhưng trên thực tế số người tham gia pháp hội với chúng ta không biết gấp bao nhiêu lần, bao nhiêu người đang lên mạng, bao nhiêu người đang ngồi trước màn hình ti vi đều nhìn thấy hiện trường của chúng ta.

Cũng như pháp hội của Thế Tôn, Bồ tát mười phương thế giới tham dự, số người mà mắt thường chúng ta không nhìn thấy so với số người mà mắt thường chúng ta nhìn thấy không biết nhiều gấp bao nhiêu lần. Thật sự là đệ tử Phật thì chúng ta phải xây dựng đạo tràng đúng pháp. Khi Thế tôn còn tại thế đã làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta. Nơi đạo tràng thành Vương Xá, đạo tràng Tịnh Xá Kỳ Viên, Phật giảng kinh tương đối nhiều. Vì chủ nhân của những đạo tràng này đều là quốc vương, đại thần, trưởng giả giàu có. Họ quản lý đạo tràng, thỉnh Phật đến giảng kinh thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Tăng đoàn chỉ làm việc đạo, dạy học. Khi không giảng kinh thuyết pháp cho đại chúng thì nội bộ có thể nghiên cứu thảo luận, tiêu trừ tất cả nghi hoặc, và nâng cao cảnh giới của mình.

● Không sợ không có chùa

Tôi vô cùng kính ngưỡng cách làm của Thế Tôn. Cần giao cư sĩ quản lý đạo tràng. Người xuất gia tiếp nhận sự lễ thỉnh của cư sĩ, tứ sự cúng dường để hoằng pháp lợi sinh. Tuyệt đối không nên can thiệp vào những việc linh tinh. Hiện nay một số tu sĩ xuất gia luôn sống trong trạng thái bất an, sợ mình không có chủ quyền trong đạo tràng, chẳng may một ngày nào đó sẽ bị đuổi đi. Đó là suy nghĩ của người không có tín tâm, không có đạo. Xưa nay tổ sư thường nói: “Chỉ sợ không có đạo, không sợ không có chùa”. Nếu người thật sự có đạo, thì đạo tràng nào cũng muốn cầu. Nơi này không cần thì nơi kia cũng chắp tay quỳ lạy để cầu chúng ta. Thế thì còn sợ cái gì? Chỉ sợ không có đạo. Người không có đạo, đạo tràng này không cần thì đạo tràng kia cũng không cần, người đó sẽ cùng đường. Nếu bản thân xây đạo tràng, đạt quyền sở hữu đạo tràng, thử hỏi: “Quý vị còn là xuất gia không?”. Thực chất đó là sự hồi gia. Vừa ra khỏi cái nhà nhỏ liền đeo gông nơi cái nhà lớn. Sai lầm nghiêm trọng!.

Chúng ta không nên cần đạo tràng, không cần nơi chốn. Nếu quả thật không có người thỉnh lễ, thì ngày tháng này càng thoải mái, vốn an vui nay càng vui hơn. Bây giờ lều trại dã ngoại rất lý tưởng, phía dưới đều có tấm lót, côn trùng không vào được, dây kéo khóa rất kín. Chỉ cần một cái lều trại nhỏ đến nơi cảnh núi sông hữu tình, tối ngủ ở đó, thoải mái dường nào. Cần đạo tràng để làm gì nữa. Ngày xưa Phật Thích Ca Mâu Ni ngủ gốc cây, không có chăn màn đắp, nửa ngày ăn một bữa. Đời sống thần tiên như vậy, tại sao chúng ta không noi theo? Tại sao lại tạo ra gông cùm khóa chặt nhiều đến vậy, khiến chúng ta vĩnh viễn không thoát khỏi sáu cõi luân hồi?. Người làm chuyện ngu dốt còn hô to đắc ý, há chẳng phải mê hoặc điên đảo sao?. Cho nên trong tâm phải buông bỏ cho thật sạch sẽ.

Tôi luôn chủ trương đạo tràng để người tại gia quản lý. Người xuất gia dù danh cũng không dính, buông sạch sẽ, không chút phiền phức nào, cũng không tạo tội nghiệp. Tịnh Tông Học Hội và Cư sĩ Lâm chính là tấm gương tốt. Những người thật sự có tài, có đức thì người phát tâm cũng sẽ cung kính, chân thành đến cúng dường, không muốn để chúng ta đi. Đạo là quan trọng, đừng sợ không có chùa. Đạo quan trọng hơn chùa rất nhiều. Những lời này của cổ nhân là danh ngôn chí lí, phải luôn khắc ghi trong lòng, cố gắng y giáo phụng hành. Hy vọng có cư sĩ Hiền Hộ, cư sĩ Thiện Tư Duy sẽ xây đạo tràng, thỉnh lễ, cúng dường người xuất gia đến tu hành và hoằng đạo. Công đức hoằng hộ được phát huy hết mức, bốn chúng một nhà, hào quang muôn trượng chiếu khắp đất trời. Được như vậy là chúng ta đã dán vàng lên mặt cho đức Phật, công đức vô lượng vô biên.

Tôi khích lệ các đồng tu tại gia xây đạo tràng. Một người có khả năng thì một người xây. Một người không có khả năng thì tập hợp những người có cùng chí hướng lại mà xây. Căn cứ theo qui tắc pháp lệnh bình thường trong xã hội hiện tại, cố gắng kinh doanh, làm tốt công việc hoằng pháp lợi sanh.

● Xem nhẹ đồng tiền

Người hiện đại hầu như mê tít vào chuyện tiền bạc. Bất kể làm việc gì, điều đầu tiên đều nghĩ đến tiền: tiền đâu để xây đạo tràng? xây xong rồi, chi phí để gìn giữ. Thật đáng thương. Vừa qua có năm vị đại biểu ở Tịnh Tông Học Hội Malaysia đến thăm tôi. Họ kể về một số tình hình của hội ở bên đó, đặc biệt nói rõ một điều, trong chương trình hiện tại của họ đã cắt bỏ hội phí của hội viên. Họ nói từ những băng ghi âm giảng kinh của tôi, họ hiểu ra sự việc này, nhất định không tạo mảy may áp lực nào lên tín đồ. Đạo tràng chỉ tiếp nhận quyên góp, tuyệt đối không hạn chế mỗi tháng phải đóng bao nhiêu tiền. Tôi rất tán thành. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói rất hay, chúng ta không có tiền, không có phước báu, nhưng Phật A Di Đà có đại phước báu trở thành chỗ dựa chắc chắn cho chúng ta. Vấn đề còn lại là mỗi người phải biết dựa thật chắc bằng cách y giáo phụng hành. Thực tập rốt ráo theo kinh, Phật A Di Đà sẽ mang đến nguồn tiền làm phương tiện trong việc hoằng pháp lợi sinh. Không cần bận tâm lo nghĩ kinh doanh, hoạch định kiếm tiền. Nhà Phật thường nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”.

Thời gian đầu tiếp xúc Phật giáo, tôi được đại sư Chương Gia truyền thụ. Là một học sinh chuẩn mực, những lời chỉ dạy của thầy, tôi phục tùng triệt để, tuyệt đối không phụ lòng. Nếu đến nay tôi có tà tri tà kiến, làm một việc gì đó không tốt, tôi liền cảm thấy có lỗi với thầy. Rất nhiều đồng học đồng tu nhìn thấy hình ảnh của thầy treo khắp nơi tôi ở. Rời xa thầy mấy mươi năm nhưng tinh thần chúng tôi vẫn mãi bên nhau. Thầy dạy tôi phải giữ tâm báo ơn, hoằng pháp lợi sanh, tôi cũng không dám có suy nghĩ xằng bậy, không dám trái phạm những việc lão sư đã dạy. Không trái lời lão sư đương nhiên sẽ không trái với chư Phật Bồ tát, vì chư Phật Bồ tát là tổ sư của lão sư. Còn làm ra vẻ phục tùng đối với lão sư, đó chẳng phải là khinh sư diệt tổ sao? Diệt tổ là xem thường Phật Bồ tát. Lý lão sư nói, đó không phải là học Phật mà là đùa giỡn Phật pháp, tội lỗi vô lượng vô biên, nhất định đọa địa ngục A Tỳ.

Cư sĩ tại gia phát tâm, chỉ cần phát chân tâm, chân thật vì sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, vì hóa độ chúng sanh, vì an định xã hội, vì lợi ích quần sanh, Phật Bồ tát đương nhiên bảo hộ, nhất định “hữu cầu tất ứng”. Đại sư Chương Gia dạy, cả đời chúng ta đều do Phật Bồ tát an bày, chúng ta không cần phải lo lắng. Tôi nghe và hoan hỉ đến tận bây giờ. Hơn bốn mươi năm, tôi thật có cảm ứng này, không cần lo lắng, chờ đợi, có cầu ắt có ứng, có nguyện ắt thành. Lão sư nói, có nguyện có cầu mà vẫn chưa cảm ứng hiện tiền, lúc đó phải nên biết chính mình vẫn còn nhiều nghiệp chướng, cần mau tiêu trừ thì mọi việc mới thông, cảm ứng liền hiện tiền.

● Tiêu trừ nghiệp chướng

Nhận biết, sửa đổi lỗi lầm của chính mình gọi là sám hối. Ý nghĩa của sám hối là không bao giờ tái phạm nữa. Chân thật phát tâm sám hối luôn được chư Phật Bồ tát tán thán. Thánh nhân thế gian nói “Nhân phi thánh hiền, thục năng vô quá, quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên”, sửa lỗi là đại thiện. Cho nên cư sĩ tại gia xây dựng đạo tràng cũng như xây dựng trường học, Phật giáo là giáo dục, người tại gia xây dựng trường học, quản lý trường học, người xuất gia là giáo viên được thỉnh mời về giảng dạy. Tự viện cũng vậy, mời thỉnh một người đến làm trụ trì, một số người đến chấp sự, một số khác đến tu hành, làm đạo, hoằng pháp lợi sanh, sự nghiệp này là sự nghiệp tu hành hoằng đạo đúng pháp.

Thời gian trước khi Phật giáo truyền đến Trung quốc, đạo tràng là tài sản của quốc gia, do quốc gia xây dựng. Pháp sư cũng do quốc gia mời. Cho nên pháp sư chỉ tu hành và hoằng pháp lợi sanh. Vì đang nói đến Bồ tát Quang Anh, chúng ta mới bàn đến hình tướng trong Phật pháp. Nếu hình tướng không tốt, việc hoằng truyền Phật pháp sẽ sanh ra chướng ngại nghiêm trọng. Cho nên Quang Anh ám chỉ việc xây dựng hình tượng Phật pháp hào quang vạn trượng chiếu khắp đại thiên. Cá nhân là hình tượng học Phật; cư sĩ tại gia, gia đình là hình tượng của Phật pháp. Gia đình người học Phật rối bời lộn xộn, người xem liền chướng ngại không dám học Phật nữa. Đó không phải là hoằng pháp, mà là diệt pháp. Học Phật nhất định phải có hình tướng tốt, điều này vô cùng quan trọng. Ví như trong làm ăn, ông chủ là người học Phật, cửa hàng chính là đạo tràng Phật pháp, là hình tượng tốt nhất. Không luận từ ngành nghề nào, người học Phật nên biểu hiện hình tượng tốt nhất trong xã hội. Đó là ý nghĩa của Bồ tát Quang Anh.

7. Bảo Tràng Bồ Tát

Ngài biểu thị lưu thông Phật pháp, ngày nay gọi là phát triển Phật pháp. Cái gì là bảo? Truyền hình vệ tinh, đường truyền internet là bảo. Chúng ta lợi dụng cái bảo này đem Phật pháp lưu truyền khắp thế giới. Ngày nay, nếu không có nhân duyên không thể xây đạo tràng lớn. Mô hình như đạo tràng Cư Sĩ Lâm Singapore này rất hiếm. Không phải tôi đặc biệt tán thán với đại chúng, mà bởi vì cơ cấu xã hội hiện tại thay đổi, đang đi vào thời đại công nghiệp, khoa học kỹ thuật cao, cuộc sống con người đều khẩn trương, bận rộn không còn thời gian để ngồi suốt hai tiếng đồng hồ nghe kinh. Người nước Mỹ phần lớn hoan nghênh việc giảng kinh ba ngày, nhưng nếu giảng kinh năm ngày hoặc nhiều hơn, chưa hẳn họ đến nghe. Cho nên cơ hội chúng sanh nghe pháp càng ngày càng ít, phước của chúng sanh cũng ít theo. Singapore nhờ có đại phước báu nên nhiều người mới được nghe kinh mỗi ngày.

Trong xã hội phương Tây, đạo tràng không cần xây lớn, quan trọng phải có thiết bị kỹ thuật và phòng thu âm nhỏ. Sau khi thu xong, lợi dụng đường truyền truyền hình vệ tinh phát ra trên toàn thế giới. Đây chính là ý nghĩa đại biểu của Bảo Tràng Bồ tát. Khoa học kỹ thuật là “bảo”, “tràng” là cao huyền. Chúng ta lợi dụng khoa học hiện đại đem Phật pháp lưu thông đến mười phương thế giới. Những CD, VCD có thể được bảo tồn lâu dài qua hai trăm năm. Bảo Tràng ở điểm này khởi được tác dụng. Chúng ta hãy tận tâm tận lực đem Phật pháp qua phương pháp kỹ thuật cao giới thiệu với mọi người. Như vậy chúng ta chính là Bảo Tràng Bồ tát.

8. Trí Thượng Bồ Tát

Ngài đại biểu trí tuệ cao độ, trí tuệ viên mãn, diệu trí vô thượng. Thử quan sát xã hội này, bất kể người nào không luận giàu sang bần tiện, mỗi mỗi đều có phiền não. Người sang có phiền não của người sang, người giàu có phiền não của người giàu, người bần cùng có phiền não của người bần cùng. Không chỉ ngay đời này mà vô lượng kiếp đến nay đời đời kiếp kiếp đều như vậy, đúng như người thế gian thường nói “việc không vừa ý thường đến tám chín”, ngày tháng khổ như vậy, đến lúc nào mới có thể ngóc đầu? Do đó duyên phận gặp được Phật pháp phải có ba điều kiện mới có thể viên mãn, kinh Di Đà nói: “không thể thiếu thiện căn, nhân duyên, phước đức” có nhân duyên gặp được Phật pháp, gặp được đại thừa, nhất là kinh Vô Lượng Thọ là việc hy hữu không gì bằng. Sau khi đầy đủ duyên, ngay đời này hành giả có thể thay đổi được đời sống của mình hay không còn phụ thuộc vào thiện căn phước đức. Nếu có thiện căn phước đức, đời sống lập tức liền thay đổi, Phật pháp gọi là “lìa khổ được vui”, hiện tại liền lìa tất cả khổ, được vui viên mãn, tự tại vô cùng.

Cái gì gọi là thiện căn? Thiện căn là thật tín, thật thông suốt, lý giải. Tín Giải thuộc về thiện căn, Nguyện Hạnh thuộc về phước đức. Có nguyện, chịu làm theo mới là người đại phước báu, không còn trải qua ngày tháng của phiền não mà trải qua đời sống trí tuệ cao độ, Phật pháp thường gọi là “chuyển phiền não thành bồ đề”, đó chính là Trí Thượng Bồ Tát. Chúng ta chuyển đời sống phiền não trở thành đời sống trí tuệ cao độ, vậy đời sống chúng ta cùng với chư Phật Bồ tát, pháp thân đại sĩ không hề khác biệt. Nói đến đây, có lẽ một số đồng tu liền thắc mắc “Vậy chúng tôi có thể chuyển từ bần cùng thành giàu sang được không?”. Không. Bần cùng vẫn là bần cùng. Tuy nhiên bần cùng nhưng không khổ, không phiền não. Xem “Hư Vân Lão Hòa Thượng Niên Phổ”, hòa thượng Hư Vân đi viếng Ngũ Đài Sơn, phát tâm chân thành, ba bước một lạy suốt lộ trình mấy ngàn dặm, ba năm mới lạy đến nơi. Trên đường đi ngài gặp rất nhiều gian khổ, khi thì đại nạn, khi thì trọng bệnh, khi không có người giúp đỡ. Có lần, một người xin ăn tên Hóa tử đến giúp đỡ ngài, lão hòa thượng rất cảm kích hỏi ông ấy tên gọi là gì. Người xin ăn trả lời tên Văn Kiết, văn là văn chương, kiết là kiết tường. Hỏi ông ở đâu thì ông trả lời dưới núi Ngũ Đài Sơn. Sau đó lão hòa thượng lạy đến Ngũ Đài Sơn, hỏi thăm dân chúng về người xin ăn tên Văn Kiết. Dân chúng đều cho biết đó là Bồ tát Văn Thù. Bồ Tát Văn Thù dù làm người ăn mày vẫn vui vẻ không gì bằng.

Chư Phật không bao giờ giúp chúng ta tăng tham sân si, cho nên lạy Phật liền có nhiều tiền, thăng quan tiến chức là việc hoang đường. Chư Phật Bồ tát chỉ giúp đỡ chúng sanh giác ngộ, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh, khi đã giác ngộ liền được an vui. Đó là đời sống trí tuệ cao đẳng, siêu việt hơn sự giàu sang bần tiện của thế gian. Giàu nghèo thuộc về quan hệ nhân quả, đời trước không tu nhân bố thí thì đời này không thể hưởng thọ của giàu sang. Giả sử Phật có thể giúp được há chẳng phải là phá vỡ định luật của nhân quả. Những lý lẽ sâu sắc với sự tướng phức tạp này chỉ có Phật tường tận, thấu đáo, cho nên Phật được gọi là thánh nhân.

Thánh là thâm minh nghĩa lý, đối với sự lý của vũ trụ nhân sanh, thông đạt thấu hiểu triệt để. Nhân như thế nào thì quả báo như thế. Phật dạy, nếu muốn giàu sang, tuổi thọ dài lâu thì phải tu nhân, quả báo sẽ hiện tiền. Nỗ lực, dũng mãnh tu nhân thì quả báo đó không đợi đến đời sau mà sẽ có ngay trong đời này, cho nên chúng ta nhất định phải dũng mãnh tinh tấn chuyển biến nhân quả của chính mình. Phật đã dạy bảo thì chúng ta nhất định tự mình phải làm. Không y theo lời Phật dạy thì không còn cách nào chuyển được nghiệp lực. Mặc dù không thể chuyển được nghiệp lực nhưng nếu chân thật thông hiểu Phật pháp, chúng ta vẫn có thể tự tại an lạc, trải qua đời sống của Phật Bồ tát thay vì sống đời phàm phu. Trí tuệ từ Quang Anh Bảo Tràng có được từ việc nghe pháp tu trì.

Vì sao người có trí tuệ, có phước báu nhưng vẫn tạo tác những việc hồ đồ? Đó là do nghiệp lực sai khiến. Thời nhà Đường, Đường Thái Tông ngay trong đế vương nhiều đời Trung Quốc, một vị vua anh minh. Thế nhưng việc đáng tiếc lớn nhất trong đời ông là đã ra tay giết chết anh và em của mình. Đó là vết nhơ trong lịch sử khiến không ai bội phục những thành tích đóng góp của ông. Lại xem một ví dụ triều nhà Thanh, hoàng đế Ung Chánh, con trai Khang Hy, đã giết sạch anh em của mình, không chừa một ai. Phải chăng ông không có trí tuệ, không có phước báu hay không hiểu Phật pháp? Hoàng đế nhà Thanh là tín đồ Phật giáo thuần thành, có rất nhiều quốc sư hướng dẫn. Do đó nghiệp lực là yếu tố không thể nghĩ bàn.

Ngày nay, con người không còn xem trọng giáo dục đạo nghĩa. Phong tục phương Tây ngấm vào khiến người Trung Quốc dần phá bỏ hết truyền thống cổ xưa. Nếu ngày trước, người Trung Quốc từ nhỏ được tiếp nhận giáo dục Trung Hiếu Nhân Ái, Tín Nghĩa Hòa Bình, thì xã hội phương Tây ngày nay thường nói đến lợi hại. Vừa có lợi thì lập tức đổi tâm, đạo nghĩa không còn, hiện tượng này vô cùng phổ biến. Rõ ràng nhất, trong các công ty ở Mỹ có rất nhiều nhân tài chuyên nghiệp. Tuy nhiên chỉ cần công ty khác lôi kéo với lời hứa hẹn nhiều đãi ngộ hơn, người ta thấy lợi liền quên nghĩa. Việc này Trung Quốc ngày xưa không hề có. Dù đãi ngộ cao hơn, người ngày xưa cũng không dễ dàng thay đổi, vì họ có đạo nghĩa nên không thể làm như vậy. Giáo dục của phương Tây cho rằng đó là việc bình thường. Bản thân chúng ta cũng đã thấy nhiều nên cũng cảm giác bình thường. Dễ dàng biến chất, đổi tâm, thử hỏi xã hội làm sao không loạn?

Nói đến đây, chúng ta không thể không bội phục người Nhật Bản. Người Nhật Bản ngày nay phần lớn vẫn còn đạo nghĩa. Tuy công ty đang trong tình trạng suy thoái, công nhân cũng không đành bỏ đi, họ vẫn ở lại hỗ trợ công ty, gốc này chính là văn hóa Trung Quốc. Công nhân dù không vừa lòng ông chủ, họ cũng chỉ kháng nghị chứ không bãi công. Nhìn thấy trên đầu công nhân đeo miếng vải trắng, ông chủ liền hiểu ý, vội vàng triệu tập hội nghị để giải quyết ôn hòa. Không như nước ngoài, người ngoại quốc khi không vừa lòng lập tức bãi công. Việc bãi công chỉ khiến đôi bên đều tổn thất một cách vô ích. Biết loại đạo nghĩa này mới chân thật biết được tri ân báo ân. Thế nhưng giáo dục phương Tây không biết cái gì là ân, cái gì là nghĩa. Vậy nên hoàn toàn không thể nói báo ân báo nghĩa.

Giáo dục Phật pháp tuy tốt nhưng nếu không đủ thiện căn phước đức, người nghe cũng chỉ tạm thời tin tưởng, đến khi bị người khác khích vài câu, họ lại lập tức quay lưng. Kinh Lăng Nghiêm nói “tà sư nói pháp như cát sông Hằng”, người không có trí tuệ cao độ luôn bị mê hoặc năm dục sáu trần. Tôi thường nói với các đồng tu trong nội bộ “Quý vị chính là Bồ tát tái sanh, không phải người phàm”, vì không phải người phàm nên chúng ta mới không thể động tâm, không bị mê hoặc. Cho nên động tâm hay bị mê hoặc là hiện tượng bình thường, thế xuất thế gian pháp đều như vậy. Chúng ta nhận được giáo dục ở hiện tại, xem thấy lối sống của xã hội hiện tại, tự nhiên chúng ta liền bị ảnh hưởng, bị sắp đặt. Do đó chỉ có một phương pháp, đó là Hiền Hộ. Phải hiểu nên làm thế nào để bảo hộ chính mình, thành tựu đạo nghiệp trong một đời này, nhất định phải trải qua đời sống trí tuệ cao độ, quyết không dùng cảm tình thế gian mà làm việc.

9. Tịch Căn Bồ Tát

Chỉ có trí tuệ cao độ mới có thể vào được thiền định sâu, vị Bồ tát này đại biểu tịch diệt cảnh trí, đại định như trên quả địa Như Lai chứng được. “Thủ Lăng Nghiêm Đại Định”, “Hoa Nghiêm Tam Muội”, “Sư Tử Phấn Tốc Tam Muội” đều là đại định của quả địa Như Lai. “Căn” ý nói sáu căn, “tịch” là thanh tịnh tịch diệt. Định tịch diệt còn cao sâu hơn nếu đem so với định của vô sanh pháp nhẫn. Định Vô sanh trong kinh Nhân Vương đã rất sâu, Bồ tát Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa chứng được định này. Bồ tát Thất Địa chứng được hạ phẩm vô sanh pháp nhẫn, Bát Địa chứng trung phẩm, Cửu Địa chứng thượng phẩm. Trong khi đó định Tịch diệt là Bồ tát Pháp Vân địa. Bồ tát Thập Địa chứng hạ phẩm, Bồ tát Đẳng Giác chứng trung phẩm, quả địa Như Lai là thượng phẩm. Đương nhiên những Bồ tát này đều là Đẳng Giác Bồ tát tại gia, không phải phàm phu. Cho nên định Tịch diệt của họ, như Chí Thiếu An trên kinh Nhân Vương nói, cũng là trung phẩm đạt đến đỉnh cao nhất của Bồ tát. Còn thành Phật mới là thượng phẩm.

Định do đâu mà ra? Định từ huệ, nếu không có Diệu Trí Vô Thượng thì làm sao có thể chứng được tịch diệt cảnh trí. Định và huệ hỗ trợ lẫn nhau. Huệ là khả năng nhìn thấu, hiểu rõ chân tướng sự thật. Định là dù chúng ta ở trong hiện tượng thực tế thế nào vẫn có thể như như bất động, kinh Kim Cang nói: “Bất thủ ư tướng như như bất động”, ngoài không chấp tướng, trong không động tâm, đó là thiền định. Công phu thiền định sâu, hành giả có thể nhìn thấu chân tướng sự thật ngày càng rõ ràng tường tận; càng thấy thấu triệt, sức định sẽ ngày càng sâu. Trên nguyên lý mà nói, phàm phu thành Phật chính là định hợp cùng huệ. Bình thường nếu nói “định huệ”, mọi người có thể hiểu là cái gì đó thần bí, phàm phu không thể học. Cho nên chúng ta đổi cách nói thành “nhìn thấu, buông bỏ” để mọi người dể hiểu. Nhìn thấu là huệ, buông bỏ là định. Nhìn thấu chân tướng sự thật và buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, bao gồm tất cả căn gốc của nghiệp tập phiền não. Thiền tông thường nói: “Tu từ căn bản, giáo hạ cũng không ngoại lệ”, chúng ta phải tu từ căn bản, chính là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Phải đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông bỏ, khi đó sẽ liền thành Bồ tát, thành Phật. Nếu để vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mỗi ngày thêm lớn thì rất nguy hiểm vì khi đó không thể không tạo nghiệp, tạo nghiệp rồi thì không thể không thọ báo. Trong kinh, đức Phật đã hết lời khuyên bảo chúng ta không nên xem nó như trò đùa.

Đức Phật dùng giới luật tinh nghiêm răn dạy người mới tu học, cũng giống như trẻ nhỏ buộc phải tuân theo rất nhiều quy củ do cô giáo đặt ra và giám sát. Đến khi tập thành thói quen, không phạm lỗi lầm, cô giáo lại tiếp tục bồi dưỡng căn cơ cho trò. Phật pháp cũng không ngoại lệ, người sơ học nhất định phải vâng giữ lời răn dạy của Phật, đến khi đã có định huệ thì tự nhiên có thể tự làm chủ, Phật không cần phải chăm lo nữa. Cho nên trong danh hiệu những Bồ tát này hàm chứa nghĩa lý vô lượng vô biên. Mười sáu vị Bồ tát, đều là tấm gương tốt cho thế gian. Học Phật, chúng ta phải hướng đến họ mà học. Danh hiệu Bồ tát là tổng cương lĩnh của toàn kinh, sau khi đọc quen thuộc, vừa nhìn thấy danh hiệu Bồ tát, chúng ta liền nắm được cương lĩnh, liền biết được ngay cuộc sống thường ngày phải trải qua như thế nào, làm việc ra sao, đối nhân xử thế tiếp vật sao cho đúng, tránh được tất cả lỗi lầm, thành tựu vô lượng vô biên công đức thù thắng, đó là chân thật trang nghiêm tự thân, trang nghiêm hoàn cảnh đời sống của chính mình như Tỳ Lô Giá Na Như Lai trong kinh Hoa Nghiêm, như thế giới Tây Phương Cực Lạc trong kinh Di Đà. Hiểu được làm thế nào để tu nhân thì có quả báo như thế, “nhân duyên quả báo, không sót mảy trần”. Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng ta phải có trách nhiệm đối với xã hội. Chúng ta khởi lên một ý niệm, toàn thể xã hội đều sẽ học như thế. Xã hội này liệu có an định không, đó mới là ảnh hưởng chánh diện.

Giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, danh ngôn chí lý. Giáo huấn của Phật pháp không giống giáo huấn thế gian. Ví dụ nói, “thù giết cha không đội trời chung”, đó là pháp thế gian, nhất định phải báo thù, không báo thù sẽ bị xã hội cho là bất hiếu. Nhưng giáo dục của thánh nhân thế gian dạy rằng, báo thù tuy không sai, đó là việc đương nhiên ở thế gian pháp. Nhưng nếu người này làm quan đang còn tại chức thì chúng ta không thể báo thù, vì họ đang phục vụ đại chúng xã hội, nếu chúng ta báo thù, xã hội sẽ không có người phục vụ. Hãy đợi đến ngày họ bãi chức, lúc đó mới có thể báo thù. Mỗi niệm vì xã hội, vì lợi ích của đại chúng, đó là phương pháp thánh nhân thế gian dạy mọi người.

Thế nhưng Phật pháp dạy nhất định không được báo thù. Vì sao? Đời này chúng ta báo thù họ, đời sau họ lại báo thù chúng ta. Đời đời kiếp kiếp báo tới báo lui không hề ngừng dứt, oán cừu càng kết càng sâu. Cho nên Phật dạy không nên báo thù. Phật cũng chứng minh cho chúng ta xem việc Ca Lợi vương cắt xẻo thân thể trong kinh Kim Cang; hoặc một số chuyện nhân quả được tỉ mỉ ghi chép lại trong kinh Đại Niết Bàn. Ca Lợi vương, Ca Lợi là tiếng Phạn, nghĩa Trung Quốc là bạo quân, hôn quân vô đạo. Ông gặp một người tu hành trên núi là Nhẫn Nhục tiên nhân liền đem xử tử lăng trì một cách vô cớ, dùng dao nhỏ cắt từng miếng thịt trên thân thể cho đến khi chết. Tuy nhiên Nhẫn Nhục tiên nhân không hề có ý niệm oán hận hay báo thù. Ngài chính là Thích Ca Mâu Ni khi còn là Bồ tát, chưa thành Phật, đang tu nhẫn nhục ba la mật.

Phật dạy chúng ta không nên khởi chút oán hận, không mang tâm báo thù. Khởi tâm báo thù chứng tỏ mình còn là phàm phu, nhất định đọa lạc. Oan gia nên giải không nên kết, họ báo thù ta, ta hiểu rõ mình đang trả nợ, gút kết từ đây coi như trả xong, đời sau nếu có gặp lại cũng hân hoan vui mừng. Ý nghĩ mình đang trả nợ sẽ giúp chúng ta thanh tịnh được tâm, mãi mãi tự tại. “Thanh tịnh – Bình đẳng – Giác” là nguyên tắc tu của Tịch Căn, thành tựu pháp môn bất nhị của Tịch Căn. Người khác hủy báng, chúng nghe rồi hoan hỉ; người khác nhục mạ, hãm hại, chúng ta hoan hỉ tiếp nhận. Đại sư Ấn Quang nói “Hại đến nhà tan người chết,hại đến ngũ mã phân thây, chúng ta đều không oán trời trách người, quyết không oán hận người đã hại chúng ta”.

Chính mạng chúng ta phải gánh chịu việc này, ý nghĩ đó giúp tâm liền định. Đem tâm niệm Phật để được vãng sanh, dù bị hãm hại chết vẫn phải vãng sanh. Từ Phật Bồ tát xuống thiên địa quỷ thần thảy đều tán thán tôn kính. Phật nói, chúng ta học Phật, thánh nhân xuất thế gian khác với thánh nhân thế gian. Thánh nhân thế gian không rời khỏi tình chấp, trong khi thánh nhân xuất thế gian không còn tình chấp nữa, hoàn toàn đem tình chuyển biến thành trí tuệ vô thượng. Cho nên đời sống của họ là trí tuệ cao độ, định lực cao độ, Tịch Căn hiển thị định lực cao độ.

Nói đến đây Phật pháp đại thừa đã tương đối viên mãn, đã đến được cảnh giới Như Lai quả địa. Nếu nói phước huệ thì Trí Thượng đại biểu trí tuệ, Tịch Căn đại biểu phước. Nhưng phải biết, định mới chân thật là phước, tâm thanh tịnh là đại phước báu. Một vị Bồ tát thông thường muốn đạt đến cảnh giới như vậy không phải dễ dàng. Kinh Hoa Nghiêm, Trí Thượng cùng Tịch Căn Pháp Thân Đại Sĩ đều đã chứng được Viên Giáo Sơ Trụ, phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, trí tuệ phước đức. Trong cái nhìn của chúng ta, từ mười pháp giới họ đều đạt viên mãn, tuy viên mãn nhưng không phải cứu cánh viên mãn. Cho nên ở Thế Giới Hoa Tạng, trong Pháp Giới Nhất Chân còn có Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Bốn mươi mốt ngôi thứ này, Phật nói phải tu từ viên mãn đến cứu cánh viên mãn mất ba A Tăng kỳ kiếp. Pháp Thân Đại Sĩ tu hành phải trải qua ba A Tăng kỳ kiếp, nhưng ở đây, đức Phật đại từ đại bi dạy những Pháp Thân Đại Sĩ này lập tức thành Phật, không cần lãng phí nhiều thời gian đến như vậy. Cách duy nhất để thành Phật là vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Cho nên trên hội Hoa Nghiêm, sau cùng Bồ tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương cầu sanh Cực Lạc, các vị Bồ tát sau đó cũng biểu thị ra cầu sanh Cực Lạc. Pháp Thân Đại Sĩ sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là vãng sanh thượng thượng phẩm cõi Thất Bảo, đến nơi đó liền thành tựu, rút ngắn ba A Tăng Kỳ kiếp thành một niệm, thù thắng không thể nghĩ bàn.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com