TUỆ SỸ ĐẠO SƯ
Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2
Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006
Thuyền Ngược Bến Không
Tuệ Sỹ
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước
Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Viên Linh, Thủy Mộ Quan)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kếtthúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe vàhiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó, lúc nào đó, bao giờcũng hấp dẫn như chuyện cổ tích. Mà hìnhnhư đó lại là những chuyện mà tuổi con nít của tôi được nghe nhiều hơn là chuyệncổ tích. Trong gia đình tôi, thỉnh thoảngthấy vắng đi một người lớn. Rồi lại nghenhững câu chuyện thì thầm. Mấy chú, mấyanh lớn, đã từng ẵm bồng tôi, bỗng chốc họ trở thành nhân vật trong truyện cổtích. Cách mà người lớn kể chuyện, lạilàm cho không khí của chuyện cổ tích ấy càng trở thành huyền bí.
Cho đến khi lai rai đọc được tiếng nướcngoài, chuyện kể về chiến tranh bỗng thành hoài niệm; hay chỉ hình như là hoàiniệm thôi, vì đấy là quá khứ mà mình không thấy, không nghe. Có điều, hoài niệm ấy không làm sao mờ đi được. Vì nó đã trộn lẫn quá khứ với hiện tại. Quá khứ ấy, khi chợt biết, nó đã có quá nhiềumất mát. Vì những người đã đi, chưa thấyai trở lại. Rồi cả những người cùngtrang lứa cũng lần lượt ra đi. Mình thìmay mắn được ở lại. Nhìn quanh, bảng đen,lớp học, sân trường. Sự sống vẫn băng bănglôi người đi tới, với những cạnh tranh vất vả.
Chiến tranh, thù hận, và đâu đó, từ sâuthẳm của khát khao, tình yêu và sự chết là nỗi ám ảnh, và như chất liệu cho ýthức sinh tồn. Có một cõi thi ca riêngbiệt như vậy. Dành cho những tâm hồn nhạycảm. Nhìn con chim giãy chết trong tranhmà ngơ ngẩn, bàng hoàng. Nhưng ngôn ngữcủa nó cũng biến hình. Tình yêu, thất vọng,đam mê, như những con sóng nồng nhiệt trên mặt nước, mà dưới đáy sâu ai biết ẩnchứa những gì.
Nước xa cuồn cuộn ra khơi
Sâu trong tâm thể có đôi giọt gần
(Dư tập,Thủy Mộ Quan)
Những câu thơ như vậy thật hiếm hoi chomột đời bận rộn. Không bận rộn sao được,khi quanh mình những bạn bè trang lứa lần lượt ra đi. Một số người vượt suối, vô rừng. Đi theo tiếng gọi của hận thù, máu lửa, trongtrái tim đang bốc cháy bởi chủ nghĩa anh hùng. Để lại cho thành phố khúc hát: “Người đã đi, đi trên non cao...” Một sốkhác ra đi, để lại tiếng khóc nghẹn ngào, điên loạn: “Ngày mai đi nhận xác chồng. Say đi để thấy mình không là mình.” Tình yêu,thù hận, bỗng trở thành mâu thuẫn biện chứng.
Mấy chục năm sau, một thế hệ đang lớn,như nắng trưa xích đạo che lu ánh đuốc quá khứ lập lòe của mình; thỉnh thoảngtôi đi tìm lại một vài câu thơ đâu đó, mà cũng không dễ gì tìm được, để chohoài niệm quay lại một thời, trong đó mình đã sống, đã suy nghĩ, ưu phiền, và cảđến những dại dột ngông cuồng của tuổi trẻ. Trong tình trạng mà người cũ lánh xa, vì hiểm nguy rình rập mơ hồ, thìchuyện biển rộng sông dài chỉ có trong tranh, và trong trí nhớ. Lại vẫn điệp khúc hoài niệm bâng quơ.
Tôi không đoán được bạn trẻ yêu thơngày nay, nếu tình cờ đọc được bốn câu thơ dưới đây sẽ gợi lên ấn tượnggì. Nhưng người đã sinh ra và lớn lêntrong chiến tranh, mà tình yêu và thù hận là những xung đột, khắc khoải tronglòng, những câu thơ ấy gợi nhớ một thời, hay đúng hơn là một ấn tượng, có thểthoáng qua chốc lát:
Chiều về trên một nhánh sông
Bên tôi con nước đỏ lòng quanh co
Nước loang dưới đáy trời dò
Buồn tôi thánh thót trên lò nhân sinh
(Một Nhánh Sông, Dư Tập, Thủy MộQuan)
Đó là một chút hơi thở tàn sinh, nhưbóng nắng là đà trên mặt nước, không có những trầm mặc thăm thẳm trong lòng đạidương. Một nhúm cỏ xanh nhởn nhơ trêncánh đồng khô cháy. Nhưng ai có thể phêbình nhúm cỏ vô tình? Ấn tượng của một người đọc thơ từ trong hủy diệt bạo tàncủa chiến tranh là như thế.
Rồi đất nước hòa bình, dân tộc đang trởmình từ trong khói lửa, để cho hận thù hóa thân thành tình yêu. Và cũng là lúc bắt đầu một thế hệ cầm bút bịkhước từ. Vì đã không thể nhận thức tìnhyêu theo định nghĩa của biện chứng. Trong đó, tình yêu chỉ có thể trưởng thành bằng hận thù và hủy diệt. “Máu của người đem lại tình thương.”
Ngồi trên đỉnh đồi Trại Thủy, giữathành phố Nha Trang, nhìn xuống bên dưới, từ trong làng kéo ra một đoàn thiếunhi Tiểu học, hô vang khẩu hiệu chào mừng cách mạng, đả đảo văn hóa giáo dục phảnđộng, đồi trụy. Tôi biết mình đang bị chốibỏ. Và bị chối bỏ thật. Từ chỗ là thành phần ăn bám, rồi trở thành phầntử nguy hiểm, và được liệt xuống hàng cặn bã xã hội, tạm tha tội chết để đượcân huệ khoan hồng sống hết kiếp sống thừa. Lại một lần nữa, những người cũ của tôi theo nhau lần lượt ra đi. Thời chiến tranh, một lớp bạn lên rừng. Thời hòa bình, một lớp bạn xuống biển. Dân tộc chợt quay trở lại với huyền thoại mởnước. Những người con theo Mẹ, đã có lúckhinh ghét anh em mình, bỏ lên rừng. Mộtthời gian sau, những người con theo Mẹ lên rừng nay quay trở về đô thị. Lại những người anh em khác sợ hãi, vội bỏ trốntheo, tìm về biển:
Vua gặp Âu Cơ lúc thủy du
Cùng nàng rung động nước thiên thu
Duyên tan nàng bắt con về núi
Những đứa theo cha khổ đến giờ
(Viên Linh, Thủy Mộ Quan)
Ba chục năm, một nửa theo Cha, một nửatheo Mẹ. Nhưng huyền thoại của nhà thơnày vẫn còn quên một số anh em trở thành côi cút. Cha thì ở đâu không thấy, mà tự thân thì bịruồng rẫy bởi chính anh em mình ngay trên đất Mẹ. Không Cha, cũng không Mẹ, ta đi tìm dấu tíchTrường Sơn, “Quê người trên đỉnh Trường Sơn. Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” (Thơ Tuệ Sỹ).
Tôi không nói đến hận thù. Nhưng một nỗi oan khiên nào đó, khiến cho lờinói của mình như trong cơn mê sảng. Bạncũ ở quanh đây thôi, vẫn gần như những ngày nào, một thời buồn vui. Có lẽ bạn cũ ngại ngùng, ngại nghe những điềuđược giả thiết là tôi sẽ nói. Thật sự,tôi chẳng được phép nói gì cả. Vẫn đượcchỉ định phải đứng bên lề xã hội đang hội nhập văn minh. Còn những bạn khác, hãy gọi là cố nhân, bấygiờ mỗi kẻ một phương trời. Tôi chẳng biếthọ đang làm gì, đang nghĩ gì. Mỗi ngườimột phong cách, trong một thế giới mở rộng, đa văn hóa. Tôi nghe nói như vậy.
Dù ở phương này hay phương kia, dù cóhay không có hai trận tuyến văn chương cùng chung loại hình ngôn ngữ của Mẹ, vẫncòn hàng vạn nắm xương dưới lòng biển:
Lưu vực điêu tàn ở Biển Đông
Xương bầy như thú cháy rừng hoang
Nhưng rừng không cháy nào đâu thú
Người chết thân chìm Thủy Mộ Quan.
(Viên Linh, Thủy Mộ Quan)
Hận thù có thể xóa được dễ dàng thôi,nhưng u uẩn của những hồn oan đáy biển vẫn ám ảnh tâm tư. Người sống vẫn mangmãi ân tình của người đã chết, dù trên rừng hay dưới biển, vì oan nghiệt riêngtư hay vì tình chung dân tộc. XưaNguyễn Du đã làm “Văn tế thập loại chúng sinh”; không chỉ là món nợ văn chươngcho người đã chết, mà đó còn là tình tự thiết tha từ cõi chết vọng về. Tôi đọc bài “Gọi hồn” trong Thủy Mộ Quan cũngvới tâm trạng tương tợ:
Trên Huyết Hải thuyền trồi về một chiếc
Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương
Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt
Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương.
(...)
Trong rêu xanh ngân ngật bóng sơn hà
Lướt hải phận về dưới trời cố quốc.
(...)
Bài thơ không mang tiết nhịp gây cảmxúc bàng hoàng tức khắc, nhưng những ấn tượng rải rác trong cả tập Thủy Mộ Quanlàm cho bài thơ phảng phất nỗi kinh sợ, rùng mình:
Trinh nữ trầm oan nổi giữa dòng
Thân băng ngàn hải lý về sông
Xung quanh không một người than khóc
Chỉ cá trùng dương theo hộ tang.
Dù sao thì đất nước cũng đang hồisinh. Những người ra đi, lần lượt kéonhau về. Ấy thế, hờn giận giữa anh em vẫncòn là vết thương nhức nhối. Văn chươngbây giờ vẫn là một lựa chọn, hoặc một nhân cách. Thi ngôn chí. Thiên cổ văn chương thiên địa tâm. Trong tận đáy sâu tâm khảm, mỗi nhà thơ vẫn chung một tình tự nghìn đời,dù biểu hiện có hận thù cay nghiệt. Tôimong được như lời Viên Linh nói:
Sinh ở đâu mà giạt bốn phương
Trăm con cười nói tiếng trăm giòng
Ngày mai nếu trở về quê cũ
Hy vọng ta còn tiếng khóc chung.
Tuệ Sỹ,
Saigon, đông 2004