Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Phápgiới bao trùm Cực lạc đường, đến cùng biển giác sángtròn chung.Quyển Kiến Tánh Thành Phậtchủ yếu giảng về Thiền,nhưng đến đây Ngài nói về Cực lạc. Cõi Cực lạc là đíchnhắm của người tu Tịnh độ, tuy nhiên theo cái nhìn củaThiền thì "Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh độ", Cực lạc Ngàinói ở đây là lý Cực lạc, cho nên pháp giới bao trùm nhàCực lạc,Cực lạc không rờipháp giới, đến chỗ cuối cùng thì chung một giác tánh trongsáng chớ không có riêng.Nhưnhư diệu trạm không thừa thiếu, bình đẳng Di Ðà chiếumười phương.Pháp giới bao dung không thiếu không dư, tự tánh Di Ðà aicũng có, và soi sáng khắp mười phương. Như vậy theo cáinhìn của Thiền sư Chân Nguyên đứng về mặt lý tánh thìThiền và Tịnh không hai, không khác.Phápgiới bao trùm Cực lạc đường,Âm:
Ðếncùng biển giác sáng tròn chung.
Nhưnhư diệu trạm không thừa thiếu,
Bìnhđẳng Di Ðà chiếu mười phương.Phápgiới hàm dung Cực lạc đường,
Ðáođầu giác hải cộng viên quang.
Nhưnhư diệu trạm vô dư khiếm,
Bìnhđẳng Di Ðà chiếu thập phương.
Kinhnói: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng". ỨngPhật, Hóa Phật, ba mươi hai tướng, trăm ức hóa thân, chođến các duyên cảnh giới trang nghiêm, tất cả Như Lai thầnthông thị hiện, quyền bày phương tiện tiếp dẫn chúng sanh,đều chẳng phải lý thật. Bởi lý rốt ráo chân thật tứclà hư không, hư không tức là Như Lai, Như lai tức là khôngtịch, không tịch tức là Pháp thân, Pháp thân tức là Phậtthân. Ðây chính là thân Phật, người người sẵnđủ, kẻ kẻ viên thành.
Ðoạnnày có một câu có thể làm cho chúng ta hiểulầm: Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không.Lýrốt ráo chân thật là chỉ Pháp thân, Pháp thân không tướngmạo nên thường dùng hư không để ví dụ, nhưng hư khôngthì vô tri vô giác, mà Pháp thân thì linh động có giác tri,làm sao nói tức là hư không ? Ví dụ mặt trời mọc chúngta nhìn vào hư không thấy sáng, mặt trời lặn chúng ta nhìnthấy tối. Vậy sáng tối là hư khônghaykhôngphảihưkhông ? Nói là hư không hay không phải hư không cũng khôngđược, vì sáng và tối nó không tướng mạo cho nên nó lẫntrong hư không, ánh sáng rọi vào hư không thì thấy hư khôngsáng. Mặt trời khuất, bóng tối nó lẫn trong hư không thìthấy hư không tối. Vậy sáng tối đồng với hư không làđồng về mặt rỗng rang không có tướng mạo, mà không đồngở chỗ hư không không sáng tối. Nếu hư không sáng thì nókhông tối, hư không tối là do mặt trời lặn, nếu hư khôngtối thì nó không sáng, hư không sáng là do mặt trời chiếurọi. Hư không chỉ là rỗng trơn, chớ không có sáng tối,sáng tối là do mặt trời rọi hay khuất mà thôi. Vậy sángtối với hư không là một hay khác? Nếu là một thì khi tốilà hư không tối, khi sáng là hư không sáng, nhưng sáng tốilà do mặt trời hiện và khuất, còn hư không thì không hiệnkhông khuất làm sao nói là một? Như vậy sáng tối khác,nhưng thể của sáng tối nó rỗng, nó không có hình tướngvật chất cụ thể nên nói nó đồng với hư không. Cũng vậychúng ta mê thì tối, giác thì sáng, mà mê và giác cũng khôngcó tướng mạo, cho nên nó chỉ đồng với hư khôngvề thể khôngtướng mạo, nhưng nó không đồng ở chỗ hư không thì vôtri mà nó thì tri giác. Do đó nói lý rốt ráo chân thật tứclà hư không dễ khiến người hiểu lầm cho rằng: tu đếnchỗ chân thật không có gì hết.
NhưLai tức là không tịch, không tịch tức là Phápthân, Pháp thân tức là Phật thân. Ðây chính là thân Phật,người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành.Tất cả mọi người đang ngồi nghe pháp trong giảng đườngnày đều có thân Phật, song quí vị có chịu làm Phật khônghay thích làm chúng sanh ? Ai ai khi phát tâm tu cũng mong làm Phật,nhưng thực tế thì không chịu nhận, như vậy có mâu thuẫnkhông ? Ðòi làm Phật mà chỉ Phật thì khước từ, chỉ chấpnhận ông Phật tu ở núi Tuyết, thành đạo dưới cộiBồ-đề, chớ không chịu nhận ông Phật nơi mình!Phật ở núi Tuyết đã nhập Niết-bàn hơn hai ngàn năm, tìmđâu cho ra ? Vậy, phải nhận ông Phật đang hiện hữu nơimình, nhận được ông Phật nơi mình thì mới hết khổ, nếukhông nhận thì dầu chúng ta có lạy đức Phật Thích Ca, đứcPhật Di Ðà, chư Bồ-tát v.v... cũng không hết khổ, vì Phậtở ngoài không cứu được mình, chỉ có Phật nơi mình mớicứu được mình. Thế nên người nào nhận ra vị Phật nơimình thì không có gì làm phiền lụy được và cười suốtngày. Vậy quí vị có chịu nhận vị Phật nơi mình hay làbỏ quên ? Vì bỏ quên cho nên tôi bắt phạt ngồi Thiền mộtngày sáu giờ, nếu nhận ra vị Phật của mình và hằng sốngthì không cần ngồi nhiềumà đi đứng nằm ngồi gì cũng an nhiên tự tại.
Ứng,Hóa chư tôn chưa ra đời, pháp thân rỗng lặng sẵn vậy thôi.Ý nói rằng chúng ta có sẵn Phật pháp thân, nhưng công hạnhchưa viên mãn, chưa thành Phật nên Phật Ứng và Hóa thânchưa ra đời. Muốn thành Phật chúng ta phải: Tự giác giáctha gọi là Phật, từ bi thuyết pháp lợi trời người.Phậtlà tự giác giác tha,muốn giác tha thì phải mở lòng từ bi thuyết pháp độ hàngtrời người. Cho nên trọng tâm của người đi tu là tự giác,tức là nhận biết mình có sẵn tánh Phật, rồi chỉ dạycho người nhận ra tánh Phật của họ, đó là giác tha. Nhưvậy, tự giác giác tha là bổn phận của mỗi người tu hành,viên mãn hai việc trên mới được gọi là Phật.Suốttột xưa nay vốn như như, trong ánh tịch quang rực thái hư.Pháp thân suốt từ xưa tới nay vốn là như như không sanhkhông diệt, ánh sáng lặng lẽ trùm cả bầu trời.Trangtrọng vượt lên danh tướng pháp, chân không đó Phật tựan cư.Pháp thân không sanh diệt lặng lẽ sáng suốt vượttất cả tên gọi và hình tướng của tất cả pháp. Chânkhông và diệu hữu là chỗ Phật an trú. Thế nào là chânkhông, thế nào là diệu hữu ? Thể Phật lặng lẽ trong sángkhông có hình tướng nên gọi là chân không, nhưng tùy duyênứng hóa thân, thị hiện nhiều phương tiện khéo léo làmlợi ích cho chúng sanh nên biến thành diệu hữu. Vậy thìmỗi người chúng ta đã có sẵn chỗ để an cư. Nhưng an cưcó hai: là sự tướng an cư và pháp tánh an cư. Sự tướngan cư là ba tháng mùa mưa Tăng Ni tụ hội lại một chỗ đểchuyên tu học. Pháp tánh an cư là an cư ở tự tánh chân khôngcủa mình, không giới hạn thời gian nơi chốn, dù đi đâuở đâu lúc nào cũng an trú trong pháp tánh bất sanh bất diệtcủa chính mình. An cư như thế thì không có ngày giải hạtự tứ, mà an cư suốt đời. Còn chúng ta an cư có thời hạnthì ba tháng an cư tu kỹ, còn những tháng khác thì tu lai rai.An cư trong Pháp tánh thì suốt đời không phiền não khổ đau,an cư trên sự tướng có lúc đang ở trong mùa an cư mà cũngcó chuyện buồn phiền hoặc ít, hoặc nhiều, đó là an cưtạm.Ứng,Hóa chư tôn chưa ra đời,Phápthân rỗng lặng sẵn vậy thôi.Tựgiác giác tha gọi là Phật,Từbi thuyết pháp lợi trời người.Suốttột xưa nay vốn như như,Trongánh tịch quang rực thái hư.Trangtrọng vượt lên danh tướng pháp,Chânkhông đó Phật tự an cư.Âm:Ứng,Hóa chư tôn vị xuất tiền,Phápthân không tịch bổn như nhiên.Tựgiác giác tha danh viết Phật,Từbi thuyết pháp lợi nhân thiên.Cùngkim tuyên cổ bổn như như,Thườngtịch quang trung thước thái hư.Nghiễmhĩ việt siêu danh tướng pháp,Chânkhông thị Phật tự an cư.
Vìvậy trong Chứng Ðạo Ca của Ðại sư Vô Tướng ở Vĩnh Gianói:Ðếnđây Ngài dẫn bài kệ của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác:Rànhrành thấy không một vật, cũng không người, cũng không Phật.Qua cái nhìn của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác thì cái thểchân không sáng suốt nhưng không có mộtvật,cũngkhôngcóngườikhông có Phật. Người chỉ cho chúng sanh mê, Phật là giác,không có người mê kẻ giác gì cả.Cõicõi đại thiênbọt nổi trôi, tất cả Thánh hiền như điện chớp.Từ thể chân không ứng hiện ra đại thiên sa giới, hay cácbậc Thánh hiền, nhưng tướng ứng hiện chẳng khác nào bọtnổi, làn điện chớp, không thật có. Như vậy tất cả hìnhtướngthế gian, tất cả ngôn ngữ đối đãi đều là tướng giảdối. Thể chân thật thì vượt tất cả hình tướng ngônngữ đối đãi của thế gian. Do đó Ngài nói thêm:Rànhrành thấy không một vật,Cũngkhông người, cũng không Phật.Cõicõi đại thiên bọt nổi trôi,Tấtcả Thánh hiền như điện chớp.Âm:Liễuliễu kiến vô nhất vật,Dãvô nhân dã vô Phật.Ðạithiên sa giới hải trung âu, Nhấtthiết Thánh hiền như điện phất.
ChưPhật hiện ra đời là ứng hóa chẳng phải thật, chúng sanhhuyễn khởi có danh tướng đều hư dối, phổ thỉnh đạotràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sự không hoa. Thế nào làPhật sự không hoa? Dạy rằng: Tướng không là thật tướng,thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, khôngmột vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là một vật, lạichẳng trúng lý.
ChưPhật hiện ứng hóa thân để hóa độ chúng sanh cũng là giảhiện, khởi ra danh tướng chúng sanh cũng là hư dối. Do đónên phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sựkhông hoa. Thế nào là phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt? Phổ thỉnh tức là mời khắp, đạo tràng thủy nguyệt làđạo tràng trăng đáy nước. Nghĩa là xin mời mọi ngườisinh hoạt trong một cái đạo tràng hư dối như bóng mặt trănghiện trong nước. Bây giờ chúng ta đổi Thiền Viện TrúcLâm thành đạo tràng thủy nguyệt và mỗi ngày chúng ta sinhhoạt thì chắc chắn chúng ta cười hoài, không có điều gìbực bội khiến chúng ta nặng lời với nhau. Giả sử có mộtcái hồ nước, đêm rằm trăng sáng, mấy đứa nhỏ nhìn xuốnghồ thấy mặt trăng, chúng nhảy ùm xuống hồ đua nhau vớtmặt trăng, chúng quậy nước hồ chao động nhưng không vớtđược, chúng tát cạn nước thì mặt trăng cũng mất luôn.Như vậy thì chúng ta tu phải sống trong đạo tràng thủy nguyệtđó.
Thếnào là Phật sự không hoa ? Ngài khuyên chúngta làm Phật sự phảibiết Phật sự mình đang làm cũng hư dối như hoa đốm tronghư không. Sở dĩ chúng ta thấy trong hư không có hoa đốm chớpchớp là do mắt chúng ta bị bệnh. Khi mắt hết bệnh thìthấy hư không trong suốt không có hoa đốm, như vậy là hoađốm không thật. Song, ngày nay chúng ta làm Phật sự thì cóhoa, lại còn xâu thành tràng, để người nào có danh dự chúngta tặng tràng hoa đeo vào cổ. Hồi tôi đi ngoại quốc, lúcxuống phi trường Haiwayđược người ta tặng nhiều tràng hoa đeo vàocổnặng trĩu, mà lấy xuống liền thì mất lịch sự, phải đira tới phòng khách cho họ chào đón, chụp ảnh, quay phim rồimới được lấy ra, thật là mệt. Như vậy tỏngộ Phật sựđahoalàvướngbận,mà vướng bận là khổ. Ứng dụng Phật sự không hoa thìđời tu chúng ta thật sự giải thoát sung sướng vô cùng.Tuy nhiên nhiều người thích đa hoa hơn là không hoa. Như ởThiền Viện Trúc lâm này mà mỗi sáng mọi người nghe trisự phổ thỉnh, tất cả đều vui vẻ vác cuốc, mang xẻng,xách thùng đi làm việc, tâm an nhiên thanh tịnh, là chúng tađang phổ thỉnh trong đạo tràng thủy nguyệt. Chừng nào tỏngộ, đạo lực vững vàng, tôi cử đi làm Phật sự thì nhớlàm Phật sự không hoa, chớ làm Phật sự đa hoa.
Thếnào là Phật sự không hoa ? Dạy rằng: Tướng không là thậttướng, thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơtrơ, không một vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là mộtvật, lại chẳng trúng lý.Ngài dạy Phật sự không hoalà nhận ra chỗ sạch trọi trống trơn, thênh thang, nói mộtvật cũng chẳng trúng. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng từ TungSơn đến tham vấn Lục Tổ Huệ Năng ở Tào Khê, Tổ hỏi:
-Ở đâu đến ?
Ngàithưa:
-Ở Tung Sơn đến.
Tổhỏi:
-Vật gì đến ?
Ngàithưa:
-Nói in tuồng một vật tức không trúng.
-Lại có thể tu chứng chăng ?
-Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.
Ðómới là Phật sự không hoa. Chúng ta thấy người xưa mộtphen nhìn, một phen thấy trình bày đúng với lý đạo chânthật.
Cónói đều thành báng, không lời cũng chẳngdung.Nói có nói không, nói thật nói giả, nói phải nói quấy làchê bai vị Phật của mình. Chỗ chân thật nói ra thì trật,nhưng làm thinh không nói gì cả cũng không đúng. Tại sao ?Vì ngôn ngữ không thể nói đến chỗ chân thật, nhưng mượnngôn ngữ để chỉ chỗ chân thật cho người nhận ra. Nếucho rằng chỗ chân thật là chân không nên làm thinh không nóigì cả thì có lợi gì cho ai. Cho nên nói ra lời mà xác nhậnđúng sai, là chê bai Phật, còn nói rằng im lặng là đúngcũng sai luôn, do đó nói hay nín đều sai cả.Vìanh thông một lối, trời mọc núi đông hồng.Ngài vìchúng sanh vạch ra một lối. Khi ánh sáng mặt trời lên thìngọn núi phía Ðông có màu sáng hơi hồng hồng. Màu sánghồng hồng ở núi Ðông là do mặt trời mọc mà có. Khi chúngta giác ngộ rồi, mọi hiện tượng chung quanh cũng sáng nhưmặt trời lên, không phải là không ngơ. Như vậy thì đừngbảo nói là trúng hay nín là trúng, mà chỉ tùy duyên, vì mêdù nói hay nín cũng đều sai, mà ngộ thì nói gì cũng đềuđúng. Ðó là tùy duyên mê ngộ mà hiện.Cónói đều thành báng,Khônglời cũng chẳng dung.Vìanh thông một lối,Trờimọc núi đông hồng.Âm:Hữuthuyết giai thành báng,Vôngôn diệc bất dung.Vịbỉ thông nhứt tuyến,Nhậtxuất lãnh đông hồng.
ChưPhật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩnhiện. Phương tiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thươngcon trẻ, nước uống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên làPhật, là Tổ, là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không phápthân, là thật tướng vô tướng. Thật tướng vô tướng,là vượt lên tên gọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưngvì gượng nêu tên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói:Pháp thân lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng tháihư, không thiếu không dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấucả núi sông, đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗngrang mênh mông, viên dung cả pháp giới, trong lặng như như,không tướng không tên, không lời không nói, chẳng sanh chẳngdiệt, không đến không đi, ứng vật hiện hình như trăngtrong nước. Tùy duyên ứng ra hình chất, thì mượn sắc màthành hình; nương theo loại mà hóa thân, thì quán âm thanhnói rộng giáo pháp. Nói năng bày tỏ nơi lá bối, là chânngôn mà chẳng phải chân ngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen,nếu có tướng thì đâu từng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ,trị kẻ dưới mà tạm mượn tên; rất diệu rất huyền,tối thượng vô tướng; thường lạc ngã tịnh, tột lý màchứng biết; pháp thân vô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tênPhật hiệu Tổ cũng là giả danh; pháp tánh chân không, trọnkhông một vật. Người học tham Thiền thấu đến tột cùng,nên nói đã thấu đến chỗ ruộng đất cố hương, đã đượcchỗ an thân lậpmạng, chỗthường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng. Ruộngđất cố hương, là chỗ rỗng thênh bát ngát, đến ruộngđất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoài căntrần.
ChưPhật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩnhiện.Ngài nói chư Phật giáo hóa chúng sanh như bà dạy cháu. Mộthôm tôi ngồi bên thất, thấy có một chú chừng bốn chụctuổi dẫn một đứa bé khoảng bảy tám tuổi, đứa bé đòivô cái lùm rậm, có lẽ nó muốn hái hoa. Chú bèn nói: đừngvô, ông kẹ đó con. Thằng bé sợ không dám vô. Như vậy ôngkẹ không có nhưng muốn dọa thằng bé nên nói ông kẹ. Cũngthế bà già dạy cháu cũng phải nói những chuyện vu vơ đểrăn cháu. Như mẹ cháu đi chợ hoặc đi làm ngoài đồng, cháukhóc bà dỗ thì phải xí gạt: má con sắp về, sẽ cho conrất nhiều bánh, nín đi. Nói thế nhưng thật sự bà chưathấy má cháu về, nhưng vì muốn cháu nín khóc bà phải nóigạt. Cũng thế chúng sanh đang phiền não khổ đau, Phật dạyrán tu để nhập Niết-bàn hay về Cực lạc, nơi đó an vuivô cùng; nơi đó sống hoài không chết. Ðúngvới hai điều tham muốncủa người thế gian là tham vui sướng và tham sống lâu. Thếnên gặp nhau mọi người chúc tụng sống bá niên giai lão,còn vua chúa thì chúc "vạn tuế vạn vạn tuế" để đáp ứngnhững điều tham muốn cho nhau. Ðó là chúng sanh đang khổ,Phật dạy tu để hết khổ được vui. Hằng ngày nhìn thấyngười đang sống mạnh khỏe bỗng ngã bệnh chết, để lạibao nhiêu người thương nhớ khóc than. Hằng ngày trên báođều có tin chia buồn hoặc báo tang, cái chết kề ở bênai cũng sợ, nên Phật dạy tu để chứng Niết-bàn thanh tịnh,không còn sanh tử khổ đau. Nghe như thế chúng sanh ham tu đểđược an vui và bất tử. Ðó là đức Phật dùng phương tiệnđể giáo hóa chúng sanh, như bà già đem bánh dỗ con nít.
Tuynhiên chúng ta đừng hiểu lầm rằng, Phật xí gạt mình turồi cuối cùng không được gì hết, giống như bà già nóigạt để dỗ cháu nín chớ khôngcó sự thật. Ðó là một lối nói thí dụ, thật tế thìtu là bỏ tất cả để được tất cả, chớ không phải khôngđược gì hết, được tất cả là vì chân không mà diệuhữu, thể nó là không tịch mà tùy duyên ứng hiện lợi lạcquần sanh. Khi tu hành đạt được an vui cho mình rồi thấychúng sanh còn mê lầm, chúng ta bèn đi vào trong sanh tử đểgiáo hóa họ. Nhưng đi vào sanh tử mà như đi dạo vườn hoathì đâu có khổ. Chúng sanh mê lầm nên ở trong cảnh khổthì kêu trời đất than khổ, Bồ-tát giác ngộđi trong sanh tử làm lợi ích cho chúng sanh không sợ khôngchán. Vì đánh thức cho chúng sanh tỉnh cơn mê mà Bồ-tátsẵn sàng đi trong cảnh khổ sanh tử, chớ không vội vào Niết-bànđể hưởng vui một mình. Ðó là Bồ-tát ở trong đạo tràngthủy nguyệt làm Phật sự không hoa. Như vậy thì thể nhậpđược tự tánh thanh tịnh là có muôn ngàn diệu dụng tùyduyên giáo hóa chúng sanh. Ðó là được tất cả, chớ khôngphải tu rồi cuối cùng chẳng được gì.
Phươngtiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thương con trẻ, nướcuống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên là Phật, là Tổ,là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không pháp thân, là thậttướng vô tướng. Thật tướng vô tướng, là vượt lên têngọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưng vì gượng nêutên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói: Pháp thân lồlộ, thật tướng rành rành, tròn đồng thái hư, không thiếukhông dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấu cả núi sông,đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗng rang mênh mông,viên dung cả pháp giới, trong lặng như như, không tướng khôngtên, không lời không nói, chẳng sanh chẳng diệt, không đếnkhông đi, ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Tùy duyênứng ra hình chất, thì mượn sắc mà thành hình; nương theoloại mà hóa thân, thì quán âm thanh nói rộng giáo pháp. Nóinăng bày tỏ nơi lá bối, là chân ngôn mà chẳng phải chânngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen, nếu có tướng thì đâutừng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ, trị kẻ dưới mà tạmmượn tên; rất diệu rất huyền, tối thượng vô tướng;thường lạc ngã tịnh, tột lý mà chứng biết; pháp thânvô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tên Phật hiệu Tổ cũng làgiả danh; pháp tánh chân không, trọn không một vật. Ngườihọc tham Thiền thấu đến tột cùng nên nói đã thấu đếnchỗ ruộng đất cố hương, đã được chỗ an thân lập mạng,chỗ thường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng.Ruộng đất cố hương là chỗ rỗng thênh bát ngát. Ðếnruộng đất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoàicăn trần.
Ðoạnnày Ngài nói một mạch những từ ngữ để chúng ta hiểu.Vì phương tiện của Phật Tổ giống như phương tiện củabà già dạy cháu. Phật Tổ vì chúng sanh mê nên lập danh từPhật, lập danh từ Tổ, lập danh từ Thiền, lập ra chỉ thú...Còn thể chân thật là Pháp thân, là thật tướng vô tướng,nó vượt ra ngoài tên gọi hình tướng, nó không sanh diệt,nhưng gượng đặt tên, vẽ ra hình tượng, để dẫn dắtnhững người mê giống như bà già tìm phương tiện để dỗđứa cháu nín khóc. Thật ra thì Pháp thân luôn luôn hiệntiền, không lúc nào thiếu vắng nơi mỗi chúng ta. Như ởtrước tôi nói cái hay thấy không có tướng mạo, vậy cóchụp hình được cái hay thấy không ? Cái hay thấy bình hoa,chúng ta chụp hình bình hoa chớ không thể chụp hình cái haythấy được bình hoa. Vì cái có hình tướng thì người tachụp được bóng của nó, còn cái không tướng mạo thì khôngcó bóng, không có bóng nhưng mà có thấy. Cho nên hỏi cáihay thấy của thầy ra sao thì không tả được, hỏi bình hoara sao thì diễn tả được. Như vậy chúng ta thấy ngườithấy vật thì diễn tả được người vật, mà không diễntả được cái hay thấy. Không diễn tả được nhưng khôngphải không có. Nếu không làm sao thấy được người đượcvật ? Tuy nhiên, có người hiểu lầm nếu không diễn tảđược thì nói gạt sao. Như tôi nói rằng: "Tôi có Phật tánh".Có người hỏi: "Phật tánh ra sao chỉ tôi coi?". Phật tánhkhông có tướng mạo làm sao chỉ? Do đó dù có nói thật đốivới người không tin, không nhận ra họ cũng cho là nói đùa.Không phải không diễn tả chỉ bày được mà không có. Cáichân thật luôn luôn hiện tiền mà không chỉ ra được. Song,tôi nói đông nói tây, chợt có người nhận ra, như vậy ngườiđó được chỉ chưa ? Trong nhà Thiền nói người đó là ngườimắt sáng, mắt sáng là tâm sáng chớ không phải con mắt thịtsáng. Còn chúng ta, thể chân thật hiện hữu trước mắt màkhông nhận ra là tâm tối. Tâm tối nên không nhận ra cáihiện tiền, còn mắt thì nhìn thấy cảnh vật như đườngxá, cây cối, nhà cửa v.v... Người nhận ra thể chân thậtcủa mình họ tự biết chớ không diễn tả cho ai biết được.Cho nên danh từ Phật Tổ cũng là tạm đặt chớ không cóthật. Lại nói nó rất diệu, rất huyền, tối thượng, vôtướng, thường, lạc, ngã, tịnh v.v... là để cho ngườinghe thỏa mãn từ ngữ, thỏa mãn lòng khao khát, chớ thậtra dùng ngôn ngữ không nói đến chỗ tột cùng. Vì vậy ởđoạn này nói người tham Thiền thấu đến chỗ tột cùng,là trở về chỗ ruộng đất cố hương. Cố hương là quêhương cũ của mình phải không ? Là nơi chôn nhau cắt rốncủa mọi người, nơi đó có nhà cửa, có lũy tre, có đủthứ, người ngộ đạo trở về cố hương đó phải không? - Người thấu chỗ tột cùng trở về cố hương là trởvề thể chân không, nhưng chân không mà diệu hữu, nên baonhiêu hình tướng tạm bợ của thế gian đều lưu xuất từđó. Ðó là về cố hương của người ngộ đạo, nên Ngàinói ruộng đất cố hương là chỗ rỗng thênh bát ngát, đếnruộng đất ấy thì một chữ Phật cũng là Phật ở ngoàicăn trần. Như vậy cố hương là chỗ không còn đối đãiPhật và chúng sanh. Vì Phật và chúng sanh là cái đối đãiở bên ngoài của căn trần.
Nhưvậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là chân nhưPhật tánh, Bồ-đềNiết-bàn, chỗ nào có được? Thấu tột, thấu tột rànhrành không một vật, thì không phàmThánh,không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không sốkiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, khôngđược không mất, không một không hai, không phải không quấy,không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phậtkhông chúng sanh, không bờ mé khônglàmra, không tu không chứng; không thườngkhôngtrụ và chẳng không thườngtrụ, vốn không Niết-bàn, chẳngphải chẳng không Niết-bàn,vốn không thành Phậtvà chẳng không thành Phật;cũng không tỏ rõ trongcáitỏ rõ, cũng không tronglặng trong cái trong lặng,cũng không cái thể trong lặng,cũng không cái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cáitrong lặng, cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cáikhông đều không, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà mộtcũng chẳng một, nguồn trở lại nguồn.
Nhưvậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là chânnhư Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn, chỗ nào có được ?Ngài nói Chân như, Phật tánh, Bồ-đề, Niết-bàn là nhữngtừ ngữ tạm đặt, còn chỗ chân thật thì không từ ngữnào nói đến được, chỉ tự mình sống, tự mình an trú,chớ không có ngôn ngữ nào diễn đạt được chỗ đó. Vìtừ ngữ lập ra là căn cứ trên ngôn thuyết mà ngôn thuyếtlà do vọng tưởng khởi, mà vọng tưởng thì không thật làmsao diễn đạt được cái thật ?
Thấutột, thấu tột rành rành không một vật, thì không phàm Thánh,không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không sốkiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, khôngđược không mất, không một không hai, không phải không quấy,không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phật khôngchúng sanh, không bờ mé không làm ra, không tu không chứng;không thường không trụ và chẳng không thường trụ, vốnkhông Niết-bàn, chẳng phải chẳng không Niết-bàn, vốn khôngthành Phật và chẳng không thành Phật; cũng không tỏ rõ trongcáitỏrõ,cũngkhôngtrong lặngtrong cái trong lặng, cũng không cái thể trong lặng, cũng khôngcái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cái trong lặng,cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cái không đềukhông, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà một cũng chẳngmột, nguồn trở lại nguồn.
Ðoạnnày tóm lại có ba cái không. Một là không phủ định, nhưkhông phàm không Thánh, không danhtướng v.v... Hai là không vừa phủ định lại vừa khẳngđịnh, như không thường trụ và chẳng không thườngtrụ, chẳng không thường trụ tức là có, như vậy vừa phủđịnh lại vừa khẳng định chớkhông phải phủ định suông. Ba là vừa không vừa có, nghĩalà cái không nằm sẵn trong cái có, như cũng không tỏ rõtrong cái tỏ rõ, cũng không trong lặng trong cái trong lặng...Bởi vì tất cả pháp không riêng rẽ, không tách rời nhau.Cho nên cái phủ định lại ở trong cái khẳng định, dù nóicó nói không, rốt cuộc cũng chỉ ở trong vòng đối đãi.Thật sự đầy đủ ý nghĩa là vừa tịch tĩnh vừa có diệudụng, không phải tịch tĩnh rồi thầm lặng luôn. Thế nênthành Phật, thể nhập Pháp thân không hình tướng, nhưng cóđầy đủ diệu dụng để giáo hóa chúng sanh. Như vậy trongcái không hình tướng lại có hình tướng tùy duyên thị hiện,không thể lấy cái gì để đo lường, nên nói không được,mà cảm thọ cũng không được. Vì nói là còn đối đãi,thọ là còn cảm giác, có cảm giác là có hình tướng, màthể trong sáng không hình tướng, làm sao có cảm giác, cóđối đãi ?
Nênbiết trong không vốn không hoa, vì kẻ mê, quyền hiện ThíchCa.Bài kệ này nói vềPháp thân , trong không vốn không hoa là chỉ Pháp thân thanhtịnh vốn không có sắc tướng. Nhưng đức Phật Thích Cathị hiện ở Ấn Ðộ tu hành thành Phật, đó chỉ là mộthóa thân của chư Phật, không phải thật. Hóa thân đó từPháp thân hiện ra giống như hoa đốm từ hư không hiện ravậy. Cho nên nói trong không vốn chẳng hoa. Trong không chỉcho thể Pháp thân thanh tịnh vốn không có sắc tướng, bâygiờ hiện ra sắc tướng đó là vì chúng sanh mê muội, quyềnhiện ra có đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời giáo hóa. Ðólà hiện tượng báo thân, hóa thânchớ không phải Pháp thân, vì Pháp thânthì không tướng mạo, thanh tịnh không sanh diệt. Cho nên:Ðemsắc thanh cầu trọn chẳng thấy, xưa nay chân thật trọn nơita.Nếu chúng ta đem sắc tướng và âm thanh mà tìm cầuthì không bao giờ thấy Pháp thân. Vì Pháp thân xưa nay vốncó sẵn nơi mỗi người chúng ta. Nếu tìm kiếm là tìm kiếmcái ngoài mình, do đó càng tìm là càng không thấy. Kinh KimCang có bài kệ:Nênbiết trong không vốn chẳng hoa,Vìkẻ mê, quyền hiện Thích Ca.Ðemsắc thanh cầu trọn chẳng thấy,Xưanay chân thật tự nơi ta.Âm:Tutri không lý bổn vô hoa,Quyềnvị mê lưu hiện Thích Ca.Dĩsắc thanh cầu chung bất kiến,Nguyênlai chân Phật bổn phi tha.
Nghĩalà nếu dùng sắc tướng, dùng âm thanh cầu Phật, thì ngườiđó hành đạo tà, không thể nào thấy Phật. Như vậy, Phậtở sẵn nơi mình, nếu chúng ta chịu quay đầu lại, khôngchạy theo sáu trần ở bên ngoài thì nhận ra được Pháp thânPhật đầy đủ.Nhượcdĩ sắc kiến ngãDĩâm thanh cầu ngãThịnhân hành tà đạoBấtnăng kiến Như Lai.
Vốntự viên thành chẳng tạc điêu, chống trời chỏi đất mặctiêu diêu.Pháp thân vốn sẵn có, tạo hình điêu khắc chẳng thể hiệnđược Pháp thân, nó sẵn có bao trùm khắp trời đất mộtcách tự tại, nên đây nói "chống trời chỏi đất mặc tiêudiêu".Xưanay Chánh giác không một vật, toàn thân chẳng dính mảy tơhào.Từ xưa đến giờ những vị ngộ đạo đều nhậnra rằng tánh giác không có một vật, vì không một vật nênkhông dính một mảy tơ. Tổ Huệ Năng cũng nói "xưa nay khôngmột vật, chỗ nào dính bụi bặm". Vậy ai nhận ra Pháp thânthì không kẹt trên hình thức sự tướng, nếu chưa nhậnthì chúng ta dễ mắc kẹt, tưởng Phật thế này, thế nọ,làm lệch lạc ý nghĩa của Pháp thân.Vốntự nhiên thành chẳng tạc điêu,Chốngtrời chỏi đất mặc tiêu diêu.Xưanay Chánh giác không một vật,Toànthân chẳng dính mảy tơ hào.Âm:Bổntự viên thành bất giả điêu,Trúthiên trú địa nhậm tiêu diêu.Chánhgiác bản lai vô nhất vật,Thôngthân bất quải nhất ty hào.
Giơhoa niêm cú gạt người thôi, muôn pháp không hoa chẳng kéolôi.Ngài nói rằng hình ảnh Phật Thích ca cầm cành hoa sen đưalên, ngài Ca-diếp mỉm cười là lối gạt người chớ khôngthật. Tại sao? Vì tánh Phật không phải là hoa sen, tánh Phậtkhông phải là cái mỉm cười. Ðó chỉ là hình thức bênngoài, tánh Phật ở tự tâm, mình nhận ra, chớ không phảilà hình tướng. Khi muốn diễn tả cái mà mình đã lãnh hộiđược thì mượn hình tướng bên ngoài. Ðó là lối đánhlừa chớ không phải thật. Vì muôn pháp ở thế gian này nókhông có thật, giống như hoa đốm trong hư không, không dínhdáng gì với mình, đừng để nó gạt, đừng để nó lôikéo, đừng để nó can dự vào mình.Tông,giáo cùng quên đều chẳng đắm, nguồn linh tự tại mặcthảnh thơi.Tông là Thiền, giáo là Kinh, cả hai Thiềnvà Giáo đều quên. Người tu nếu không kẹt ở Thiền vàGiáo thì tự tại thảnh thơi vô cùng. Còn chấp đây là Thiền,kia là Giáo là bệnh, chớ chưa đạt đến chỗ cuối cùng. Chỗ cuối cùng không còn Thiền không còn Giáo, mà làmột nguồn trong sáng an nhàn tự tại.Giơhoa niêm cú gạt người thôi,Muônpháp không hoa chẳng kéo lôi.Tông,giáo cùng quên đều chẳng đắm,Nguồnlinh tự tại mặc thảnh thơi.Âm:Niêmhoa niêm cú cộng tha man,Vạnpháp không hoa tổng bất can.Tông,giáo lưỡng vong câu bất nịch,Linhnguyên tự tại nhậm thanh nhàn.
Theorỗng tiếp vang đều chẳng thật, không hoa mắt bệnh tùyvọng sanh.Ngài nói rằng chúng ta đuổi theo những tướng hư ảo, nhữngtiếng vang của âm thanh, những cái đó đều không thật, giốngnhư hoa đốm do bệnh mắt mà vọng sanh ra. Cũng vậy tất cảtướng thế gian đều hư giả, chúng ta mê nên chạy theo thấynghe mà phân biệt, chớ khi ngộ rồi thì những cái đó khôngcòn giá trị nữa.Cộinguồn diệu thể không chỗ trụ, chân như tự tại mặc tunghoành.Cội nguồn diệu thể chỉ cho Pháp thân, Pháp thânkhông có chỗ trụ nên không kẹt không mắc, không có gì ràngbuộc nên mặc tình dọc ngang, không có gì làm chướng ngạicội nguồn diệu thể được.Theorỗng tiếp vang đều chẳng thật,Khônghoa mắt bệnh tùy vọng sanh.Cộinguồn diệu thể không chỗ trụ,Chânnhư tự tại mặc tung hoành.Âm:Thừahư tiếp hưởng giai phi thật,Bệnhnhãn không hoa trục vọng sanh.Diệuthể bản nguyên vô sở trụ,Chânnhư tự tại nhậm tung hoành.
Trênđảnh Tỳ-lô vui quá chừ, trong ánh tịch quang không vật dư.Tỳ-lô nói đủ là Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân, Ngài nóiai đạt đến chỗ tột cùng của Pháp thân thì rất là vuivẻ thích thú. Tại sao thích thú? Vì trong ánh tịch quang khôngcó một vật, nên không có tướng sanh không có tướng diệt.Không sanh không diệt thì không còn khổ đau.Tứcsắc tức không thật rành rõ, chẳng tâm chẳng Phật tự nhưnhư.Thường thường trong lúc mê thì chúng ta thấy đâylà sắc kia là không, không ở ngoài sắc, sắc ở ngoài không,nhưng khi ngộ rồi thì sắc không chẳng hai. Như hoa đốm vàhư không nói là một hay là hai ? Nói một không được mànói hai cũng không được, vì rời hư không chúng ta không thấycó hoa đốm, vì vậy mà không phải một cũng không phải hai.Hoa đốm là cái không thật, khi mắt bệnh mới thấy, cònhư không thì thường nhiên. Cũng vậy do mê chúng ta chạy theosắc, khi giác ngộ rồi thì biết rành rõ thể sắc tức làkhông, lúc đó không nói tâm nói Phật gì cả. Tại sao vậy? Vì chúng ta còn mê nên Tổ mới nói: tức tâm tức Phật,như vậy thì có tâm có Phật; tâm ngộ gọi là Phật,tâm mê gọi là chúng sanh. Có tâm có Phật là còn mê chưangộ nên thấy có tâm riêng Phật riêng. Khi tâm là Phật thìđâu còn tâm đâu còn Phật hai thứ. Ðến chỗ đó không cònchấp tâm, không còn chấp Phật, sống một cách tự tại nhưnhư.Trênđảnh Tỳ-lô vui quá chừ,Trongánh tịch quang không vật dư.Tứcsắc tức không thật rành rõ,Chẳngtâm chẳng Phật tự như như.Âm:Tỳ-lôđảnh thượng lạc vô dư,Thườngtịch quang trung nhất vật vô.Tứcsắc tức không chân liễu liễu,Phitâm phi Phật tự như như.
ChưTôn ứng hóa thảy vọng duyên, Pháp thân thanh tịnh rộng vôbiên.Nghĩa là chư Phật Ứng thân hay Hoá thân thảy đều vì chúngsanh có duyên với các Ngài, nên các Ngài ứng hiện giáo hóa.Nhưng đó là cái duyên hư dối chớ không phải chân thật.Còn Pháp thân thì trong lặng sáng suốt không giới hạn. Nhưvậy dù cho thân Phật Thích Ca có ba mươi hai tướng tốt,tám mươi vẻ đẹp cũng là cái thân tạm bợ có giới hạntùy duyên giáo hóa chúng sanh, chớ không phải thân thật, thânthật là Pháp thân thênh thang không có giới hạn. Cho nên chúngta mang thân giả tạm thì dù đẹp cũng không tự cao, dù xấucũng không mặc cảm. Nếu thấy nó giả dối thì đẹp xấucũng đều là giả dối, có chi quan trọng, chỉ trở về vớicái thân chân thật mới là cứu cánh, là chỗ mà chúng tahướng đến.Ngànsông có nước, ngàn sông nguyệt. Muôn dặm không mây muôndặm thiên.Trên hư không có một mặt trăng, ở dướiđất có ngàn dòng sông thì có ngàn bóng trăng hiện trong nước.Và, trong bầu hư không muôn dặm không có mây thì thấy bầutrời dài muôn dặm. Như vậy mặt trăng thật thì không hai,mà bóng mặt trăng hiện trong nước thì vô số. Cũng vậy,Pháp thân thì không hai mà Ứng Hóa thân thì vô số. Và, bầutrời là dụ cho Pháp thân. Nếu không mê Pháp thân thì Phápthân thênh thang vô tận, cũng như nếu bầu trời không mâythì bầu trời thênh thang không giới hạn. Như chúng ta nhìnlên hư không nếu có mây dày thì thấy chừng năm mười câysố là tới mây chặn rồi, nếu không mây thì thấy một bầutrời trong veo không có ngằn mé. Cũng vậy khi tâm ta khôngcòn vọng tưởng thì nó trùm khắp không thiếu vắng chỗnào. Ðó là những bài kệ nói về sắc thân. Sau đây là nhữngbài kệ xem để phá sắc tướng Tam Giáo.Ngàyxưa ở Trung Hoa cũng như Việt Nam Tam Giáo là ba nền tảngđạo đức chính. Nhưng người bên Khổng Giáo thì không chấpnhận tinh thần Phật Giáo. Người bên Lão giáo thì không chấpnhận Khổng Giáo. Tam Giáo có sự chia rẽ chống đối nhaulà vì mỗi Giáo có một lý thuyết và hướng nhắm riêng,do đó mà không hòa hợp. Ðến đời Tống, bên Trung Hoa cácThiền sư chủ trương Tam Giáo đồng nguyên. Ở Việt Nam đờiTrần các Ngài cũng chủ trương Tam Giáo đồng nguyên, tứclà ba giáo đồng một nguồn gốc. Các Ngài chủ trương nhưthế là để dẹp những cái thấy sai lầm của mỗi bên. Sauđây là bài kệ của Ngài nói lên ý nghĩa siêu vượtnhững kiến chấp tầm thường của người thiển cận.ChưTôn ứng hóa thảy vọng duyên,Phápthân thanh tịnh rộng vô biên.Ngànsông có nước, ngàn sông nguyệt,Muôndặm không mây muôn dặm thiên.Âm:Ứnghoá chư Tôn đẳng vọng duyên,Phápthân thanh tịnh quảng vô biên.Thiêngiang hữu thủy, thiên giang nguyệt,Vạnlý vô vân vạn lý thiên.
Phápkệ: Xem phá sắc tướng của Tam Giáo
ChẳngNho chẳng Phật cũng chẳng Tiên,Vòlại một viên rỗng lặng tròn.Chùynhọn thân hùng thông một điểm,Kiếmsắc huơi rơi rõ tam huyền. (Phật, Nho, Tiên)Trongmơ hòn bọt chia ranh giới,Giữaluồng điện chớp bày Thánh hiền.Muônpháp ngàn tông đều là huyễn,Mộtthoi nát sạch Tổ sư Thiền.Thânđồng cõi hư không,Bàypháp bằng hư không.Khichứng được hư không,Khôngpháp không phi pháp.Âm:Phápkệ: Lãm phá Tam giáo sắc tướngPhiNho phi Phật diệc phi Tiên,Niếttựu nhất đoàn không tịch viên.Chùydĩnh hùng thân thông nhất điểm,Kiếmmang huy lạc liễu tam huyền.Phùâu mộng lý phân cương giới,Thiểmđiển quang trung liệt Thánh hiền.Vạnpháp thiên tông đô thị huyễn,Nhấtkình phá tận Tổ sư Thiền.Thânđồng hư không giới,Thịđẳng hư không pháp.Chứngđắc hư không thời,Vôthị vô phi pháp.ChẳngNho chẳng Phật cũng chẳng Tiên, vò lại một viên rỗng lặngtròn.Người theo Nho thì cho Nho là chân lý, người tu Phật thì choPhật là chân lý, người tu theo đạo Lão thì cho Tiên là chânlý. Nhưng với cái nhìn của Thiền, thì ngài Chân Nguyên chorằng Phật Nho Tiên chỉ là giả danh, giả tướng, chớ thểchân thật không hai. Chân lý thì không hai không ba, nhưng nếuai cũng nói đạo mình là chân lý thì chân lý thành ra hai ba.Vì vậy ở đây nói chẳng Nho chẳng Phật chẳng Tiên gì cả,đem ba cái đó hòa hợp lại thành một viên rỗng lặng, khôngcòn ba tướng khác nhau.Chùynhọn thân hùng thông một điểm, kiếm sắc huơi rơi rõ tamhuyền.Tam huyền ở đây không phải là tam huyền của tông Lâm Tế,mà tam huyền chỉ cho Phật Nho Tiên. Ngài Chân Nguyên nói dùngchùy nhọn đem hết sức mạnh của mình dùi cho nó thông thànhmột điểm duy nhất không có hai không có ba. Rồi dùng kiếmbén huơi lên cho rụng hết những cái một hai ba riêng rẽ,chừng đó mới thấy chỗ mầu nhiệm của Phật Nho Tiên khôngcó khác, lý tam huyền chỉ là một nguồn.Trongmơ hòn bọt chia ranh giới, giữa luồng điện chớp bày Thánhhiền.Trong mơ tức là trong lúc ngủ mê nằm mộng thì những cáimình thấy, chẳng hạn như một hòn bọt thấy như là mộtngọn núi, đó là thấy cái này riêng rẽ với cái kia, cáikia khác với cái nọ. Ðó là cái thấy của mơ của mộng.Trên tướng giả tạm phân chia cái này khác với cái kia, nhưchia đây là Nho, kia là Phật, nọ là Tiên, thấy có hiền cóThánh khác nhau, đó là tướng phân chia giả tạm không thật.Khi giác ngộ rồi thì không còn phân chia ranh giới, vì thểchân thật không có gì riêng khác.
Muônpháp ngàn tông đều là huyễn, một thoi nát sạch Tổ sư Thiền.Chia ra muôn pháp ngàn tông, nhưng đều là huyễn hóa, các vịTổ sư Thiền thoi một cái là tan nát sạch trơn mọi kiếnchấp phân chia. Như vậy các bậc Tổ sư Thiền oai quá phảikhông ? Vì với cái nhìn của Tổ sư thì những sự phân chiaranh giới là hư ảo tạm bợ, cho nên chỉ cần một tiếnghét, một cái đánh của các Ngài là ngộ, ngộ rồi thì tấtcả sự phân chia do mê lầm chấp trước đều tan nát. Tómlại, qua bài kệ này ý ngài Chân Nguyên muốn dạy rằng, vìmê lầm chấp trước nên chia ra Nho, Lão, Phật riêng biệt,chớ trên chỗ cứu cánh thì nó không hai. Do đó Ngài nói thêmbài kệ:
Thânđồng cõi hư không, bày pháp bằng hư không.Ngài nói nếu chúng ta ngộ được Pháp thân rồi thì thânnăm uẩn chúng ta đồng với hư không, vì thân năm uẩn vàPháp thân không hai, và các pháp hiện bày rỗng suốt khôngngăn ngại. Cho nên khi chứng được hư không, không phápkhông phi pháp.Nghĩa là khi chứng được Pháp thân rồithì không pháp mà cũng có pháp. Vậy thì tất cả pháp cókhông đều không còn đối đãi.