Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 6

27/06/201101:54(Xem: 2425)
III. Kệ Kiến Tánh Đoạn 6

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT
Biên Soạn: Thiền Sư Chân Nguyên
Dịch Giải: Hòa Thượng Thích Thanh Từ

B. GIẢNG GIẢI
III-KỆ KIẾN TÁNH(Ðoạn 6)

Phápgiới bao trùm Cực lạc đường,
Ðếncùng biển giác sáng tròn chung.

Nhưnhư diệu trạm không thừa thiếu,

Bìnhđẳng Di Ðà chiếu mười phương.
Âm:
Phápgiới hàm dung Cực lạc đường,
Ðáođầu giác hải cộng viên quang.

Nhưnhư diệu trạm vô dư khiếm,

Bìnhđẳng Di Ðà chiếu thập phương.
Phápgiới bao trùm Cực lạc đường, đến cùng biển giác sángtròn chung.Quyển Kiến Tánh Thành Phậtchủ yếu giảng về Thiền,nhưng đến đây Ngài nói về Cực lạc. Cõi Cực lạc là đíchnhắm của người tu Tịnh độ, tuy nhiên theo cái nhìn củaThiền thì "Tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh độ", Cực lạc Ngàinói ở đây là lý Cực lạc, cho nên pháp giới bao trùm nhàCực lạc,Cực lạc không rờipháp giới, đến chỗ cuối cùng thì chung một giác tánh trongsáng chớ không có riêng.Nhưnhư diệu trạm không thừa thiếu, bình đẳng Di Ðà chiếumười phương.Pháp giới bao dung không thiếu không dư, tự tánh Di Ðà aicũng có, và soi sáng khắp mười phương. Như vậy theo cáinhìn của Thiền sư Chân Nguyên đứng về mặt lý tánh thìThiền và Tịnh không hai, không khác.

Kinhnói: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng". ỨngPhật, Hóa Phật, ba mươi hai tướng, trăm ức hóa thân, chođến các duyên cảnh giới trang nghiêm, tất cả Như Lai thầnthông thị hiện, quyền bày phương tiện tiếp dẫn chúng sanh,đều chẳng phải lý thật. Bởi lý rốt ráo chân thật tứclà hư không, hư không tức là Như Lai, Như lai tức là khôngtịch, không tịch tức là Pháp thân, Pháp thân tức là Phậtthân. Ðây chính là thân Phật, người người sẵnđủ, kẻ kẻ viên thành.

Ðoạnnày có một câu có thể làm cho chúng ta hiểulầm: Bởi lý rốt ráo chân thật tức là hư không.Lýrốt ráo chân thật là chỉ Pháp thân, Pháp thân không tướngmạo nên thường dùng hư không để ví dụ, nhưng hư khôngthì vô tri vô giác, mà Pháp thân thì linh động có giác tri,làm sao nói tức là hư không ? Ví dụ mặt trời mọc chúngta nhìn vào hư không thấy sáng, mặt trời lặn chúng ta nhìnthấy tối. Vậy sáng tối là hư khônghaykhôngphảihưkhông ? Nói là hư không hay không phải hư không cũng khôngđược, vì sáng và tối nó không tướng mạo cho nên nó lẫntrong hư không, ánh sáng rọi vào hư không thì thấy hư khôngsáng. Mặt trời khuất, bóng tối nó lẫn trong hư không thìthấy hư không tối. Vậy sáng tối đồng với hư không làđồng về mặt rỗng rang không có tướng mạo, mà không đồngở chỗ hư không không sáng tối. Nếu hư không sáng thì nókhông tối, hư không tối là do mặt trời lặn, nếu hư khôngtối thì nó không sáng, hư không sáng là do mặt trời chiếurọi. Hư không chỉ là rỗng trơn, chớ không có sáng tối,sáng tối là do mặt trời rọi hay khuất mà thôi. Vậy sángtối với hư không là một hay khác? Nếu là một thì khi tốilà hư không tối, khi sáng là hư không sáng, nhưng sáng tốilà do mặt trời hiện và khuất, còn hư không thì không hiệnkhông khuất làm sao nói là một? Như vậy sáng tối khác,nhưng thể của sáng tối nó rỗng, nó không có hình tướngvật chất cụ thể nên nói nó đồng với hư không. Cũng vậychúng ta mê thì tối, giác thì sáng, mà mê và giác cũng khôngcó tướng mạo, cho nên nó chỉ đồng với hư khôngvề thể khôngtướng mạo, nhưng nó không đồng ở chỗ hư không thì vôtri mà nó thì tri giác. Do đó nói lý rốt ráo chân thật tứclà hư không dễ khiến người hiểu lầm cho rằng: tu đếnchỗ chân thật không có gì hết.

NhưLai tức là không tịch, không tịch tức là Phápthân, Pháp thân tức là Phật thân. Ðây chính là thân Phật,người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành.Tất cả mọi người đang ngồi nghe pháp trong giảng đườngnày đều có thân Phật, song quí vị có chịu làm Phật khônghay thích làm chúng sanh ? Ai ai khi phát tâm tu cũng mong làm Phật,nhưng thực tế thì không chịu nhận, như vậy có mâu thuẫnkhông ? Ðòi làm Phật mà chỉ Phật thì khước từ, chỉ chấpnhận ông Phật tu ở núi Tuyết, thành đạo dưới cộiBồ-đề, chớ không chịu nhận ông Phật nơi mình!Phật ở núi Tuyết đã nhập Niết-bàn hơn hai ngàn năm, tìmđâu cho ra ? Vậy, phải nhận ông Phật đang hiện hữu nơimình, nhận được ông Phật nơi mình thì mới hết khổ, nếukhông nhận thì dầu chúng ta có lạy đức Phật Thích Ca, đứcPhật Di Ðà, chư Bồ-tát v.v... cũng không hết khổ, vì Phậtở ngoài không cứu được mình, chỉ có Phật nơi mình mớicứu được mình. Thế nên người nào nhận ra vị Phật nơimình thì không có gì làm phiền lụy được và cười suốtngày. Vậy quí vị có chịu nhận vị Phật nơi mình hay làbỏ quên ? Vì bỏ quên cho nên tôi bắt phạt ngồi Thiền mộtngày sáu giờ, nếu nhận ra vị Phật của mình và hằng sốngthì không cần ngồi nhiềumà đi đứng nằm ngồi gì cũng an nhiên tự tại.

Ứng,Hóa chư tôn chưa ra đời,
Phápthân rỗng lặng sẵn vậy thôi.
Tựgiác giác tha gọi là Phật,
Từbi thuyết pháp lợi trời người.
Suốttột xưa nay vốn như như,
Trongánh tịch quang rực thái hư.
Trangtrọng vượt lên danh tướng pháp,
Chânkhông đó Phật tự an cư.
Âm:
Ứng,Hóa chư tôn vị xuất tiền,
Phápthân không tịch bổn như nhiên.
Tựgiác giác tha danh viết Phật,
Từbi thuyết pháp lợi nhân thiên.
Cùngkim tuyên cổ bổn như như,
Thườngtịch quang trung thước thái hư.
Nghiễmhĩ việt siêu danh tướng pháp,
Chânkhông thị Phật tự an cư.
Ứng,Hóa chư tôn chưa ra đời, pháp thân rỗng lặng sẵn vậy thôi.Ý nói rằng chúng ta có sẵn Phật pháp thân, nhưng công hạnhchưa viên mãn, chưa thành Phật nên Phật Ứng và Hóa thânchưa ra đời. Muốn thành Phật chúng ta phải: Tự giác giáctha gọi là Phật, từ bi thuyết pháp lợi trời người.Phậtlà tự giác giác tha,muốn giác tha thì phải mở lòng từ bi thuyết pháp độ hàngtrời người. Cho nên trọng tâm của người đi tu là tự giác,tức là nhận biết mình có sẵn tánh Phật, rồi chỉ dạycho người nhận ra tánh Phật của họ, đó là giác tha. Nhưvậy, tự giác giác tha là bổn phận của mỗi người tu hành,viên mãn hai việc trên mới được gọi là Phật.Suốttột xưa nay vốn như như, trong ánh tịch quang rực thái hư.Pháp thân suốt từ xưa tới nay vốn là như như không sanhkhông diệt, ánh sáng lặng lẽ trùm cả bầu trời.Trangtrọng vượt lên danh tướng pháp, chân không đó Phật tựan cư.Pháp thân không sanh diệt lặng lẽ sáng suốt vượttất cả tên gọi và hình tướng của tất cả pháp. Chânkhông và diệu hữu là chỗ Phật an trú. Thế nào là chânkhông, thế nào là diệu hữu ? Thể Phật lặng lẽ trong sángkhông có hình tướng nên gọi là chân không, nhưng tùy duyênứng hóa thân, thị hiện nhiều phương tiện khéo léo làmlợi ích cho chúng sanh nên biến thành diệu hữu. Vậy thìmỗi người chúng ta đã có sẵn chỗ để an cư. Nhưng an cưcó hai: là sự tướng an cư và pháp tánh an cư. Sự tướngan cư là ba tháng mùa mưa Tăng Ni tụ hội lại một chỗ đểchuyên tu học. Pháp tánh an cư là an cư ở tự tánh chân khôngcủa mình, không giới hạn thời gian nơi chốn, dù đi đâuở đâu lúc nào cũng an trú trong pháp tánh bất sanh bất diệtcủa chính mình. An cư như thế thì không có ngày giải hạtự tứ, mà an cư suốt đời. Còn chúng ta an cư có thời hạnthì ba tháng an cư tu kỹ, còn những tháng khác thì tu lai rai.An cư trong Pháp tánh thì suốt đời không phiền não khổ đau,an cư trên sự tướng có lúc đang ở trong mùa an cư mà cũngcó chuyện buồn phiền hoặc ít, hoặc nhiều, đó là an cưtạm.
Vìvậy trong Chứng Ðạo Ca của Ðại sư Vô Tướng ở Vĩnh Gianói:
Rànhrành thấy không một vật,
Cũngkhông người, cũng không Phật.
Cõicõi đại thiên bọt nổi trôi,
Tấtcả Thánh hiền như điện chớp.
Âm:
Liễuliễu kiến vô nhất vật,
Dãvô nhân dã vô Phật.
Ðạithiên sa giới hải trung âu,
Nhấtthiết Thánh hiền như điện phất.
Ðếnđây Ngài dẫn bài kệ của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác:Rànhrành thấy không một vật, cũng không người, cũng không Phật.Qua cái nhìn của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác thì cái thểchân không sáng suốt nhưng không có mộtvật,cũngkhôngcóngườikhông có Phật. Người chỉ cho chúng sanh mê, Phật là giác,không có người mê kẻ giác gì cả.Cõicõi đại thiênbọt nổi trôi, tất cả Thánh hiền như điện chớp.Từ thể chân không ứng hiện ra đại thiên sa giới, hay cácbậc Thánh hiền, nhưng tướng ứng hiện chẳng khác nào bọtnổi, làn điện chớp, không thật có. Như vậy tất cả hìnhtướngthế gian, tất cả ngôn ngữ đối đãi đều là tướng giảdối. Thể chân thật thì vượt tất cả hình tướng ngônngữ đối đãi của thế gian. Do đó Ngài nói thêm:

ChưPhật hiện ra đời là ứng hóa chẳng phải thật, chúng sanhhuyễn khởi có danh tướng đều hư dối, phổ thỉnh đạotràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sự không hoa. Thế nào làPhật sự không hoa? Dạy rằng: Tướng không là thật tướng,thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, khôngmột vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là một vật, lạichẳng trúng lý.

ChưPhật hiện ứng hóa thân để hóa độ chúng sanh cũng là giảhiện, khởi ra danh tướng chúng sanh cũng là hư dối. Do đónên phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt, tỏ ngộ Phật sựkhông hoa. Thế nào là phổ thỉnh đạo tràng thủy nguyệt? Phổ thỉnh tức là mời khắp, đạo tràng thủy nguyệt làđạo tràng trăng đáy nước. Nghĩa là xin mời mọi ngườisinh hoạt trong một cái đạo tràng hư dối như bóng mặt trănghiện trong nước. Bây giờ chúng ta đổi Thiền Viện TrúcLâm thành đạo tràng thủy nguyệt và mỗi ngày chúng ta sinhhoạt thì chắc chắn chúng ta cười hoài, không có điều gìbực bội khiến chúng ta nặng lời với nhau. Giả sử có mộtcái hồ nước, đêm rằm trăng sáng, mấy đứa nhỏ nhìn xuốnghồ thấy mặt trăng, chúng nhảy ùm xuống hồ đua nhau vớtmặt trăng, chúng quậy nước hồ chao động nhưng không vớtđược, chúng tát cạn nước thì mặt trăng cũng mất luôn.Như vậy thì chúng ta tu phải sống trong đạo tràng thủy nguyệtđó.

Thếnào là Phật sự không hoa ? Ngài khuyên chúngta làm Phật sự phảibiết Phật sự mình đang làm cũng hư dối như hoa đốm tronghư không. Sở dĩ chúng ta thấy trong hư không có hoa đốm chớpchớp là do mắt chúng ta bị bệnh. Khi mắt hết bệnh thìthấy hư không trong suốt không có hoa đốm, như vậy là hoađốm không thật. Song, ngày nay chúng ta làm Phật sự thì cóhoa, lại còn xâu thành tràng, để người nào có danh dự chúngta tặng tràng hoa đeo vào cổ. Hồi tôi đi ngoại quốc, lúcxuống phi trường Haiwayđược người ta tặng nhiều tràng hoa đeo vàocổnặng trĩu, mà lấy xuống liền thì mất lịch sự, phải đira tới phòng khách cho họ chào đón, chụp ảnh, quay phim rồimới được lấy ra, thật là mệt. Như vậy tỏngộ Phật sựđahoalàvướngbận,mà vướng bận là khổ. Ứng dụng Phật sự không hoa thìđời tu chúng ta thật sự giải thoát sung sướng vô cùng.Tuy nhiên nhiều người thích đa hoa hơn là không hoa. Như ởThiền Viện Trúc lâm này mà mỗi sáng mọi người nghe trisự phổ thỉnh, tất cả đều vui vẻ vác cuốc, mang xẻng,xách thùng đi làm việc, tâm an nhiên thanh tịnh, là chúng tađang phổ thỉnh trong đạo tràng thủy nguyệt. Chừng nào tỏngộ, đạo lực vững vàng, tôi cử đi làm Phật sự thì nhớlàm Phật sự không hoa, chớ làm Phật sự đa hoa.

Thếnào là Phật sự không hoa ? Dạy rằng: Tướng không là thậttướng, thân không tức Pháp thân, sạch trọi trơn, bày trơtrơ, không một vật, không thể nắm bắt, nếu gọi là mộtvật, lại chẳng trúng lý.Ngài dạy Phật sự không hoalà nhận ra chỗ sạch trọi trống trơn, thênh thang, nói mộtvật cũng chẳng trúng. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng từ TungSơn đến tham vấn Lục Tổ Huệ Năng ở Tào Khê, Tổ hỏi:

-Ở đâu đến ?

Ngàithưa:

-Ở Tung Sơn đến.

Tổhỏi:

-Vật gì đến ?

Ngàithưa:

-Nói in tuồng một vật tức không trúng.

-Lại có thể tu chứng chăng ?

-Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được.

Ðómới là Phật sự không hoa. Chúng ta thấy người xưa mộtphen nhìn, một phen thấy trình bày đúng với lý đạo chânthật.

Cónói đều thành báng,
Khônglời cũng chẳng dung.
Vìanh thông một lối,
Trờimọc núi đông hồng.
Âm:
Hữuthuyết giai thành báng,
Vôngôn diệc bất dung.
Vịbỉ thông nhứt tuyến,
Nhậtxuất lãnh đông hồng.
Cónói đều thành báng, không lời cũng chẳngdung.Nói có nói không, nói thật nói giả, nói phải nói quấy làchê bai vị Phật của mình. Chỗ chân thật nói ra thì trật,nhưng làm thinh không nói gì cả cũng không đúng. Tại sao ?Vì ngôn ngữ không thể nói đến chỗ chân thật, nhưng mượnngôn ngữ để chỉ chỗ chân thật cho người nhận ra. Nếucho rằng chỗ chân thật là chân không nên làm thinh không nóigì cả thì có lợi gì cho ai. Cho nên nói ra lời mà xác nhậnđúng sai, là chê bai Phật, còn nói rằng im lặng là đúngcũng sai luôn, do đó nói hay nín đều sai cả.Vìanh thông một lối, trời mọc núi đông hồng.Ngài vìchúng sanh vạch ra một lối. Khi ánh sáng mặt trời lên thìngọn núi phía Ðông có màu sáng hơi hồng hồng. Màu sánghồng hồng ở núi Ðông là do mặt trời mọc mà có. Khi chúngta giác ngộ rồi, mọi hiện tượng chung quanh cũng sáng nhưmặt trời lên, không phải là không ngơ. Như vậy thì đừngbảo nói là trúng hay nín là trúng, mà chỉ tùy duyên, vì mêdù nói hay nín cũng đều sai, mà ngộ thì nói gì cũng đềuđúng. Ðó là tùy duyên mê ngộ mà hiện.

ChưPhật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩnhiện. Phương tiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thươngcon trẻ, nước uống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên làPhật, là Tổ, là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không phápthân, là thật tướng vô tướng. Thật tướng vô tướng,là vượt lên tên gọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưngvì gượng nêu tên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói:Pháp thân lồ lộ, thật tướng rành rành, tròn đồng tháihư, không thiếu không dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấucả núi sông, đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗngrang mênh mông, viên dung cả pháp giới, trong lặng như như,không tướng không tên, không lời không nói, chẳng sanh chẳngdiệt, không đến không đi, ứng vật hiện hình như trăngtrong nước. Tùy duyên ứng ra hình chất, thì mượn sắc màthành hình; nương theo loại mà hóa thân, thì quán âm thanhnói rộng giáo pháp. Nói năng bày tỏ nơi lá bối, là chânngôn mà chẳng phải chân ngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen,nếu có tướng thì đâu từng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ,trị kẻ dưới mà tạm mượn tên; rất diệu rất huyền,tối thượng vô tướng; thường lạc ngã tịnh, tột lý màchứng biết; pháp thân vô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tênPhật hiệu Tổ cũng là giả danh; pháp tánh chân không, trọnkhông một vật. Người học tham Thiền thấu đến tột cùng,nên nói đã thấu đến chỗ ruộng đất cố hương, đã đượcchỗ an thân lậpmạng, chỗthường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng. Ruộngđất cố hương, là chỗ rỗng thênh bát ngát, đến ruộngđất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoài căntrần.

ChưPhật giáo hóa chúng sanh, ví như bà dạy cháu, tùy cơ mà ẩnhiện.Ngài nói chư Phật giáo hóa chúng sanh như bà dạy cháu. Mộthôm tôi ngồi bên thất, thấy có một chú chừng bốn chụctuổi dẫn một đứa bé khoảng bảy tám tuổi, đứa bé đòivô cái lùm rậm, có lẽ nó muốn hái hoa. Chú bèn nói: đừngvô, ông kẹ đó con. Thằng bé sợ không dám vô. Như vậy ôngkẹ không có nhưng muốn dọa thằng bé nên nói ông kẹ. Cũngthế bà già dạy cháu cũng phải nói những chuyện vu vơ đểrăn cháu. Như mẹ cháu đi chợ hoặc đi làm ngoài đồng, cháukhóc bà dỗ thì phải xí gạt: má con sắp về, sẽ cho conrất nhiều bánh, nín đi. Nói thế nhưng thật sự bà chưathấy má cháu về, nhưng vì muốn cháu nín khóc bà phải nóigạt. Cũng thế chúng sanh đang phiền não khổ đau, Phật dạyrán tu để nhập Niết-bàn hay về Cực lạc, nơi đó an vuivô cùng; nơi đó sống hoài không chết. Ðúngvới hai điều tham muốncủa người thế gian là tham vui sướng và tham sống lâu. Thếnên gặp nhau mọi người chúc tụng sống bá niên giai lão,còn vua chúa thì chúc "vạn tuế vạn vạn tuế" để đáp ứngnhững điều tham muốn cho nhau. Ðó là chúng sanh đang khổ,Phật dạy tu để hết khổ được vui. Hằng ngày nhìn thấyngười đang sống mạnh khỏe bỗng ngã bệnh chết, để lạibao nhiêu người thương nhớ khóc than. Hằng ngày trên báođều có tin chia buồn hoặc báo tang, cái chết kề ở bênai cũng sợ, nên Phật dạy tu để chứng Niết-bàn thanh tịnh,không còn sanh tử khổ đau. Nghe như thế chúng sanh ham tu đểđược an vui và bất tử. Ðó là đức Phật dùng phương tiệnđể giáo hóa chúng sanh, như bà già đem bánh dỗ con nít.

Tuynhiên chúng ta đừng hiểu lầm rằng, Phật xí gạt mình turồi cuối cùng không được gì hết, giống như bà già nóigạt để dỗ cháu nín chớ khôngcó sự thật. Ðó là một lối nói thí dụ, thật tế thìtu là bỏ tất cả để được tất cả, chớ không phải khôngđược gì hết, được tất cả là vì chân không mà diệuhữu, thể nó là không tịch mà tùy duyên ứng hiện lợi lạcquần sanh. Khi tu hành đạt được an vui cho mình rồi thấychúng sanh còn mê lầm, chúng ta bèn đi vào trong sanh tử đểgiáo hóa họ. Nhưng đi vào sanh tử mà như đi dạo vườn hoathì đâu có khổ. Chúng sanh mê lầm nên ở trong cảnh khổthì kêu trời đất than khổ, Bồ-tát giác ngộđi trong sanh tử làm lợi ích cho chúng sanh không sợ khôngchán. Vì đánh thức cho chúng sanh tỉnh cơn mê mà Bồ-tátsẵn sàng đi trong cảnh khổ sanh tử, chớ không vội vào Niết-bànđể hưởng vui một mình. Ðó là Bồ-tát ở trong đạo tràngthủy nguyệt làm Phật sự không hoa. Như vậy thì thể nhậpđược tự tánh thanh tịnh là có muôn ngàn diệu dụng tùyduyên giáo hóa chúng sanh. Ðó là được tất cả, chớ khôngphải tu rồi cuối cùng chẳng được gì.

Phươngtiện có nhiều thứ. Cho nên nuôi cơm là thương con trẻ, nướcuống là ngừa nó khát. Gượng gọi tên là Phật, là Tổ,là Thiền tông, là chỉ thú, là hư không pháp thân, là thậttướng vô tướng. Thật tướng vô tướng, là vượt lên têngọi và hình tượng, thể vốn vô sanh, nhưng vì gượng nêutên để chỉ bày cho người sau. Vì vậy nói: Pháp thân lồlộ, thật tướng rành rành, tròn đồng thái hư, không thiếukhông dư, bao gồm cả trời đất, suốt thấu cả núi sông,đối diện ngay trước mặt, chân thật rỗng rang mênh mông,viên dung cả pháp giới, trong lặng như như, không tướng khôngtên, không lời không nói, chẳng sanh chẳng diệt, không đếnkhông đi, ứng vật hiện hình như trăng trong nước. Tùy duyênứng ra hình chất, thì mượn sắc mà thành hình; nương theoloại mà hóa thân, thì quán âm thanh nói rộng giáo pháp. Nóinăng bày tỏ nơi lá bối, là chân ngôn mà chẳng phải chânngôn; tướng hiển hiện nơi hoa sen, nếu có tướng thì đâutừng có tướng. Xưng Phật xưng Tổ, trị kẻ dưới mà tạmmượn tên; rất diệu rất huyền, tối thượng vô tướng;thường lạc ngã tịnh, tột lý mà chứng biết; pháp thânvô vi, vượt lên trên Phật Tổ; tên Phật hiệu Tổ cũng làgiả danh; pháp tánh chân không, trọn không một vật. Ngườihọc tham Thiền thấu đến tột cùng nên nói đã thấu đếnchỗ ruộng đất cố hương, đã được chỗ an thân lập mạng,chỗ thường lạc ngã tịnh, chỗ sanh tử chẳng dính dáng.Ruộng đất cố hương là chỗ rỗng thênh bát ngát. Ðếnruộng đất ấy, thì một chữ Phật cũng là vật ở bên ngoàicăn trần.

Ðoạnnày Ngài nói một mạch những từ ngữ để chúng ta hiểu.Vì phương tiện của Phật Tổ giống như phương tiện củabà già dạy cháu. Phật Tổ vì chúng sanh mê nên lập danh từPhật, lập danh từ Tổ, lập danh từ Thiền, lập ra chỉ thú...Còn thể chân thật là Pháp thân, là thật tướng vô tướng,nó vượt ra ngoài tên gọi hình tướng, nó không sanh diệt,nhưng gượng đặt tên, vẽ ra hình tượng, để dẫn dắtnhững người mê giống như bà già tìm phương tiện để dỗđứa cháu nín khóc. Thật ra thì Pháp thân luôn luôn hiệntiền, không lúc nào thiếu vắng nơi mỗi chúng ta. Như ởtrước tôi nói cái hay thấy không có tướng mạo, vậy cóchụp hình được cái hay thấy không ? Cái hay thấy bình hoa,chúng ta chụp hình bình hoa chớ không thể chụp hình cái haythấy được bình hoa. Vì cái có hình tướng thì người tachụp được bóng của nó, còn cái không tướng mạo thì khôngcó bóng, không có bóng nhưng mà có thấy. Cho nên hỏi cáihay thấy của thầy ra sao thì không tả được, hỏi bình hoara sao thì diễn tả được. Như vậy chúng ta thấy ngườithấy vật thì diễn tả được người vật, mà không diễntả được cái hay thấy. Không diễn tả được nhưng khôngphải không có. Nếu không làm sao thấy được người đượcvật ? Tuy nhiên, có người hiểu lầm nếu không diễn tảđược thì nói gạt sao. Như tôi nói rằng: "Tôi có Phật tánh".Có người hỏi: "Phật tánh ra sao chỉ tôi coi?". Phật tánhkhông có tướng mạo làm sao chỉ? Do đó dù có nói thật đốivới người không tin, không nhận ra họ cũng cho là nói đùa.Không phải không diễn tả chỉ bày được mà không có. Cáichân thật luôn luôn hiện tiền mà không chỉ ra được. Song,tôi nói đông nói tây, chợt có người nhận ra, như vậy ngườiđó được chỉ chưa ? Trong nhà Thiền nói người đó là ngườimắt sáng, mắt sáng là tâm sáng chớ không phải con mắt thịtsáng. Còn chúng ta, thể chân thật hiện hữu trước mắt màkhông nhận ra là tâm tối. Tâm tối nên không nhận ra cáihiện tiền, còn mắt thì nhìn thấy cảnh vật như đườngxá, cây cối, nhà cửa v.v... Người nhận ra thể chân thậtcủa mình họ tự biết chớ không diễn tả cho ai biết được.Cho nên danh từ Phật Tổ cũng là tạm đặt chớ không cóthật. Lại nói nó rất diệu, rất huyền, tối thượng, vôtướng, thường, lạc, ngã, tịnh v.v... là để cho ngườinghe thỏa mãn từ ngữ, thỏa mãn lòng khao khát, chớ thậtra dùng ngôn ngữ không nói đến chỗ tột cùng. Vì vậy ởđoạn này nói người tham Thiền thấu đến chỗ tột cùng,là trở về chỗ ruộng đất cố hương. Cố hương là quêhương cũ của mình phải không ? Là nơi chôn nhau cắt rốncủa mọi người, nơi đó có nhà cửa, có lũy tre, có đủthứ, người ngộ đạo trở về cố hương đó phải không? - Người thấu chỗ tột cùng trở về cố hương là trởvề thể chân không, nhưng chân không mà diệu hữu, nên baonhiêu hình tướng tạm bợ của thế gian đều lưu xuất từđó. Ðó là về cố hương của người ngộ đạo, nên Ngàinói ruộng đất cố hương là chỗ rỗng thênh bát ngát, đếnruộng đất ấy thì một chữ Phật cũng là Phật ở ngoàicăn trần. Như vậy cố hương là chỗ không còn đối đãiPhật và chúng sanh. Vì Phật và chúng sanh là cái đối đãiở bên ngoài của căn trần.

Nhưvậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là chân nhưPhật tánh, Bồ-đềNiết-bàn, chỗ nào có được? Thấu tột, thấu tột rànhrành không một vật, thì không phàmThánh,không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không sốkiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, khôngđược không mất, không một không hai, không phải không quấy,không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phậtkhông chúng sanh, không bờ mé khônglàmra, không tu không chứng; không thườngkhôngtrụ và chẳng không thườngtrụ, vốn không Niết-bàn, chẳngphải chẳng không Niết-bàn,vốn không thành Phậtvà chẳng không thành Phật;cũng không tỏ rõ trongcáitỏ rõ, cũng không tronglặng trong cái trong lặng,cũng không cái thể trong lặng,cũng không cái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cáitrong lặng, cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cáikhông đều không, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà mộtcũng chẳng một, nguồn trở lại nguồn.

Nhưvậy, Phật còn không đắm trước, huống nữa là chânnhư Phật tánh, Bồ-đề Niết-bàn, chỗ nào có được ?Ngài nói Chân như, Phật tánh, Bồ-đề, Niết-bàn là nhữngtừ ngữ tạm đặt, còn chỗ chân thật thì không từ ngữnào nói đến được, chỉ tự mình sống, tự mình an trú,chớ không có ngôn ngữ nào diễn đạt được chỗ đó. Vìtừ ngữ lập ra là căn cứ trên ngôn thuyết mà ngôn thuyếtlà do vọng tưởng khởi, mà vọng tưởng thì không thật làmsao diễn đạt được cái thật ?

Thấutột, thấu tột rành rành không một vật, thì không phàm Thánh,không thứ lớp, không danh tướng, không thềm bực, không sốkiếp, không giờ khắc, không tôn ti, không xưa không nay, khôngđược không mất, không một không hai, không phải không quấy,không tịnh không loạn, không sanh không tử, không Phật khôngchúng sanh, không bờ mé không làm ra, không tu không chứng;không thường không trụ và chẳng không thường trụ, vốnkhông Niết-bàn, chẳng phải chẳng không Niết-bàn, vốn khôngthành Phật và chẳng không thành Phật; cũng không tỏ rõ trongcáitỏrõ,cũngkhôngtrong lặngtrong cái trong lặng, cũng không cái thể trong lặng, cũng khôngcái dụng trong lặng; cũng không thế ấy nói cái trong lặng,cũng không thế ấy thọ cái trong lặng; ba cái không đềukhông, chỉ một cái trong lặng tròn đầy, mà một cũng chẳngmột, nguồn trở lại nguồn.

Ðoạnnày tóm lại có ba cái không. Một là không phủ định, nhưkhông phàm không Thánh, không danhtướng v.v... Hai là không vừa phủ định lại vừa khẳngđịnh, như không thường trụ và chẳng không thườngtrụ, chẳng không thường trụ tức là có, như vậy vừa phủđịnh lại vừa khẳng định chớkhông phải phủ định suông. Ba là vừa không vừa có, nghĩalà cái không nằm sẵn trong cái có, như cũng không tỏ rõtrong cái tỏ rõ, cũng không trong lặng trong cái trong lặng...Bởi vì tất cả pháp không riêng rẽ, không tách rời nhau.Cho nên cái phủ định lại ở trong cái khẳng định, dù nóicó nói không, rốt cuộc cũng chỉ ở trong vòng đối đãi.Thật sự đầy đủ ý nghĩa là vừa tịch tĩnh vừa có diệudụng, không phải tịch tĩnh rồi thầm lặng luôn. Thế nênthành Phật, thể nhập Pháp thân không hình tướng, nhưng cóđầy đủ diệu dụng để giáo hóa chúng sanh. Như vậy trongcái không hình tướng lại có hình tướng tùy duyên thị hiện,không thể lấy cái gì để đo lường, nên nói không được,mà cảm thọ cũng không được. Vì nói là còn đối đãi,thọ là còn cảm giác, có cảm giác là có hình tướng, màthể trong sáng không hình tướng, làm sao có cảm giác, cóđối đãi ?

Nênbiết trong không vốn chẳng hoa,
Vìkẻ mê, quyền hiện Thích Ca.
Ðemsắc thanh cầu trọn chẳng thấy,
Xưanay chân thật tự nơi ta.
Âm:
Tutri không lý bổn vô hoa,
Quyềnvị mê lưu hiện Thích Ca.
Dĩsắc thanh cầu chung bất kiến,
Nguyênlai chân Phật bổn phi tha.
Nênbiết trong không vốn không hoa, vì kẻ mê, quyền hiện ThíchCa.Bài kệ này nói vềPháp thân , trong không vốn không hoa là chỉ Pháp thân thanhtịnh vốn không có sắc tướng. Nhưng đức Phật Thích Cathị hiện ở Ấn Ðộ tu hành thành Phật, đó chỉ là mộthóa thân của chư Phật, không phải thật. Hóa thân đó từPháp thân hiện ra giống như hoa đốm từ hư không hiện ravậy. Cho nên nói trong không vốn chẳng hoa. Trong không chỉcho thể Pháp thân thanh tịnh vốn không có sắc tướng, bâygiờ hiện ra sắc tướng đó là vì chúng sanh mê muội, quyềnhiện ra có đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời giáo hóa. Ðólà hiện tượng báo thân, hóa thânchớ không phải Pháp thân, vì Pháp thânthì không tướng mạo, thanh tịnh không sanh diệt. Cho nên:Ðemsắc thanh cầu trọn chẳng thấy, xưa nay chân thật trọn nơita.Nếu chúng ta đem sắc tướng và âm thanh mà tìm cầuthì không bao giờ thấy Pháp thân. Vì Pháp thân xưa nay vốncó sẵn nơi mỗi người chúng ta. Nếu tìm kiếm là tìm kiếmcái ngoài mình, do đó càng tìm là càng không thấy. Kinh KimCang có bài kệ:
Nhượcdĩ sắc kiến ngã
Dĩâm thanh cầu ngã
Thịnhân hành tà đạo
Bấtnăng kiến Như Lai.
Nghĩalà nếu dùng sắc tướng, dùng âm thanh cầu Phật, thì ngườiđó hành đạo tà, không thể nào thấy Phật. Như vậy, Phậtở sẵn nơi mình, nếu chúng ta chịu quay đầu lại, khôngchạy theo sáu trần ở bên ngoài thì nhận ra được Pháp thânPhật đầy đủ.
Vốntự nhiên thành chẳng tạc điêu,
Chốngtrời chỏi đất mặc tiêu diêu.
Xưanay Chánh giác không một vật,
Toànthân chẳng dính mảy tơ hào.
Âm:
Bổntự viên thành bất giả điêu,
Trúthiên trú địa nhậm tiêu diêu.
Chánhgiác bản lai vô nhất vật,
Thôngthân bất quải nhất ty hào.
Vốntự viên thành chẳng tạc điêu, chống trời chỏi đất mặctiêu diêu.Pháp thân vốn sẵn có, tạo hình điêu khắc chẳng thể hiệnđược Pháp thân, nó sẵn có bao trùm khắp trời đất mộtcách tự tại, nên đây nói "chống trời chỏi đất mặc tiêudiêu".Xưanay Chánh giác không một vật, toàn thân chẳng dính mảy tơhào.Từ xưa đến giờ những vị ngộ đạo đều nhậnra rằng tánh giác không có một vật, vì không một vật nênkhông dính một mảy tơ. Tổ Huệ Năng cũng nói "xưa nay khôngmột vật, chỗ nào dính bụi bặm". Vậy ai nhận ra Pháp thânthì không kẹt trên hình thức sự tướng, nếu chưa nhậnthì chúng ta dễ mắc kẹt, tưởng Phật thế này, thế nọ,làm lệch lạc ý nghĩa của Pháp thân.
Giơhoa niêm cú gạt người thôi,
Muônpháp không hoa chẳng kéo lôi.
Tông,giáo cùng quên đều chẳng đắm,
Nguồnlinh tự tại mặc thảnh thơi.
Âm:
Niêmhoa niêm cú cộng tha man,
Vạnpháp không hoa tổng bất can.
Tông,giáo lưỡng vong câu bất nịch,
Linhnguyên tự tại nhậm thanh nhàn.
Giơhoa niêm cú gạt người thôi, muôn pháp không hoa chẳng kéolôi.Ngài nói rằng hình ảnh Phật Thích ca cầm cành hoa sen đưalên, ngài Ca-diếp mỉm cười là lối gạt người chớ khôngthật. Tại sao? Vì tánh Phật không phải là hoa sen, tánh Phậtkhông phải là cái mỉm cười. Ðó chỉ là hình thức bênngoài, tánh Phật ở tự tâm, mình nhận ra, chớ không phảilà hình tướng. Khi muốn diễn tả cái mà mình đã lãnh hộiđược thì mượn hình tướng bên ngoài. Ðó là lối đánhlừa chớ không phải thật. Vì muôn pháp ở thế gian này nókhông có thật, giống như hoa đốm trong hư không, không dínhdáng gì với mình, đừng để nó gạt, đừng để nó lôikéo, đừng để nó can dự vào mình.Tông,giáo cùng quên đều chẳng đắm, nguồn linh tự tại mặcthảnh thơi.Tông là Thiền, giáo là Kinh, cả hai Thiềnvà Giáo đều quên. Người tu nếu không kẹt ở Thiền vàGiáo thì tự tại thảnh thơi vô cùng. Còn chấp đây là Thiền,kia là Giáo là bệnh, chớ chưa đạt đến chỗ cuối cùng. Chỗ cuối cùng không còn Thiền không còn Giáo, mà làmột nguồn trong sáng an nhàn tự tại.
Theorỗng tiếp vang đều chẳng thật,
Khônghoa mắt bệnh tùy vọng sanh.
Cộinguồn diệu thể không chỗ trụ,
Chânnhư tự tại mặc tung hoành.
Âm:
Thừahư tiếp hưởng giai phi thật,
Bệnhnhãn không hoa trục vọng sanh.
Diệuthể bản nguyên vô sở trụ,
Chânnhư tự tại nhậm tung hoành.
Theorỗng tiếp vang đều chẳng thật, không hoa mắt bệnh tùyvọng sanh.Ngài nói rằng chúng ta đuổi theo những tướng hư ảo, nhữngtiếng vang của âm thanh, những cái đó đều không thật, giốngnhư hoa đốm do bệnh mắt mà vọng sanh ra. Cũng vậy tất cảtướng thế gian đều hư giả, chúng ta mê nên chạy theo thấynghe mà phân biệt, chớ khi ngộ rồi thì những cái đó khôngcòn giá trị nữa.Cộinguồn diệu thể không chỗ trụ, chân như tự tại mặc tunghoành.Cội nguồn diệu thể chỉ cho Pháp thân, Pháp thânkhông có chỗ trụ nên không kẹt không mắc, không có gì ràngbuộc nên mặc tình dọc ngang, không có gì làm chướng ngạicội nguồn diệu thể được.
Trênđảnh Tỳ-lô vui quá chừ,
Trongánh tịch quang không vật dư.
Tứcsắc tức không thật rành rõ,
Chẳngtâm chẳng Phật tự như như.
Âm:
Tỳ-lôđảnh thượng lạc vô dư,
Thườngtịch quang trung nhất vật vô.
Tứcsắc tức không chân liễu liễu,
Phitâm phi Phật tự như như.
Trênđảnh Tỳ-lô vui quá chừ, trong ánh tịch quang không vật dư.Tỳ-lô nói đủ là Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân, Ngài nóiai đạt đến chỗ tột cùng của Pháp thân thì rất là vuivẻ thích thú. Tại sao thích thú? Vì trong ánh tịch quang khôngcó một vật, nên không có tướng sanh không có tướng diệt.Không sanh không diệt thì không còn khổ đau.Tứcsắc tức không thật rành rõ, chẳng tâm chẳng Phật tự nhưnhư.Thường thường trong lúc mê thì chúng ta thấy đâylà sắc kia là không, không ở ngoài sắc, sắc ở ngoài không,nhưng khi ngộ rồi thì sắc không chẳng hai. Như hoa đốm vàhư không nói là một hay là hai ? Nói một không được mànói hai cũng không được, vì rời hư không chúng ta không thấycó hoa đốm, vì vậy mà không phải một cũng không phải hai.Hoa đốm là cái không thật, khi mắt bệnh mới thấy, cònhư không thì thường nhiên. Cũng vậy do mê chúng ta chạy theosắc, khi giác ngộ rồi thì biết rành rõ thể sắc tức làkhông, lúc đó không nói tâm nói Phật gì cả. Tại sao vậy? Vì chúng ta còn mê nên Tổ mới nói: tức tâm tức Phật,như vậy thì có tâm có Phật; tâm ngộ gọi là Phật,tâm mê gọi là chúng sanh. Có tâm có Phật là còn mê chưangộ nên thấy có tâm riêng Phật riêng. Khi tâm là Phật thìđâu còn tâm đâu còn Phật hai thứ. Ðến chỗ đó không cònchấp tâm, không còn chấp Phật, sống một cách tự tại nhưnhư.
ChưTôn ứng hóa thảy vọng duyên,
Phápthân thanh tịnh rộng vô biên.
Ngànsông có nước, ngàn sông nguyệt,
Muôndặm không mây muôn dặm thiên.
Âm:
Ứnghoá chư Tôn đẳng vọng duyên,
Phápthân thanh tịnh quảng vô biên.
Thiêngiang hữu thủy, thiên giang nguyệt,
Vạnlý vô vân vạn lý thiên.
ChưTôn ứng hóa thảy vọng duyên, Pháp thân thanh tịnh rộng vôbiên.Nghĩa là chư Phật Ứng thân hay Hoá thân thảy đều vì chúngsanh có duyên với các Ngài, nên các Ngài ứng hiện giáo hóa.Nhưng đó là cái duyên hư dối chớ không phải chân thật.Còn Pháp thân thì trong lặng sáng suốt không giới hạn. Nhưvậy dù cho thân Phật Thích Ca có ba mươi hai tướng tốt,tám mươi vẻ đẹp cũng là cái thân tạm bợ có giới hạntùy duyên giáo hóa chúng sanh, chớ không phải thân thật, thânthật là Pháp thân thênh thang không có giới hạn. Cho nên chúngta mang thân giả tạm thì dù đẹp cũng không tự cao, dù xấucũng không mặc cảm. Nếu thấy nó giả dối thì đẹp xấucũng đều là giả dối, có chi quan trọng, chỉ trở về vớicái thân chân thật mới là cứu cánh, là chỗ mà chúng tahướng đến.Ngànsông có nước, ngàn sông nguyệt. Muôn dặm không mây muôndặm thiên.Trên hư không có một mặt trăng, ở dướiđất có ngàn dòng sông thì có ngàn bóng trăng hiện trong nước.Và, trong bầu hư không muôn dặm không có mây thì thấy bầutrời dài muôn dặm. Như vậy mặt trăng thật thì không hai,mà bóng mặt trăng hiện trong nước thì vô số. Cũng vậy,Pháp thân thì không hai mà Ứng Hóa thân thì vô số. Và, bầutrời là dụ cho Pháp thân. Nếu không mê Pháp thân thì Phápthân thênh thang vô tận, cũng như nếu bầu trời không mâythì bầu trời thênh thang không giới hạn. Như chúng ta nhìnlên hư không nếu có mây dày thì thấy chừng năm mười câysố là tới mây chặn rồi, nếu không mây thì thấy một bầutrời trong veo không có ngằn mé. Cũng vậy khi tâm ta khôngcòn vọng tưởng thì nó trùm khắp không thiếu vắng chỗnào. Ðó là những bài kệ nói về sắc thân. Sau đây là nhữngbài kệ xem để phá sắc tướng Tam Giáo.Ngàyxưa ở Trung Hoa cũng như Việt Nam Tam Giáo là ba nền tảngđạo đức chính. Nhưng người bên Khổng Giáo thì không chấpnhận tinh thần Phật Giáo. Người bên Lão giáo thì không chấpnhận Khổng Giáo. Tam Giáo có sự chia rẽ chống đối nhaulà vì mỗi Giáo có một lý thuyết và hướng nhắm riêng,do đó mà không hòa hợp. Ðến đời Tống, bên Trung Hoa cácThiền sư chủ trương Tam Giáo đồng nguyên. Ở Việt Nam đờiTrần các Ngài cũng chủ trương Tam Giáo đồng nguyên, tứclà ba giáo đồng một nguồn gốc. Các Ngài chủ trương nhưthế là để dẹp những cái thấy sai lầm của mỗi bên. Sauđây là bài kệ của Ngài nói lên ý nghĩa siêu vượtnhững kiến chấp tầm thường của người thiển cận.

Phápkệ: Xem phá sắc tướng của Tam Giáo

ChẳngNho chẳng Phật cũng chẳng Tiên,
Vòlại một viên rỗng lặng tròn.
Chùynhọn thân hùng thông một điểm,
Kiếmsắc huơi rơi rõ tam huyền. (Phật, Nho, Tiên)
Trongmơ hòn bọt chia ranh giới,
Giữaluồng điện chớp bày Thánh hiền.
Muônpháp ngàn tông đều là huyễn,
Mộtthoi nát sạch Tổ sư Thiền.
Thânđồng cõi hư không,
Bàypháp bằng hư không.
Khichứng được hư không,
Khôngpháp không phi pháp.
Âm:
Phápkệ: Lãm phá Tam giáo sắc tướng
PhiNho phi Phật diệc phi Tiên,
Niếttựu nhất đoàn không tịch viên.
Chùydĩnh hùng thân thông nhất điểm,
Kiếmmang huy lạc liễu tam huyền.
Phùâu mộng lý phân cương giới,
Thiểmđiển quang trung liệt Thánh hiền.
Vạnpháp thiên tông đô thị huyễn,
Nhấtkình phá tận Tổ sư Thiền.
Thânđồng hư không giới,
Thịđẳng hư không pháp.
Chứngđắc hư không thời,
Vôthị vô phi pháp.
ChẳngNho chẳng Phật cũng chẳng Tiên, vò lại một viên rỗng lặngtròn.Người theo Nho thì cho Nho là chân lý, người tu Phật thì choPhật là chân lý, người tu theo đạo Lão thì cho Tiên là chânlý. Nhưng với cái nhìn của Thiền, thì ngài Chân Nguyên chorằng Phật Nho Tiên chỉ là giả danh, giả tướng, chớ thểchân thật không hai. Chân lý thì không hai không ba, nhưng nếuai cũng nói đạo mình là chân lý thì chân lý thành ra hai ba.Vì vậy ở đây nói chẳng Nho chẳng Phật chẳng Tiên gì cả,đem ba cái đó hòa hợp lại thành một viên rỗng lặng, khôngcòn ba tướng khác nhau.Chùynhọn thân hùng thông một điểm, kiếm sắc huơi rơi rõ tamhuyền.Tam huyền ở đây không phải là tam huyền của tông Lâm Tế,mà tam huyền chỉ cho Phật Nho Tiên. Ngài Chân Nguyên nói dùngchùy nhọn đem hết sức mạnh của mình dùi cho nó thông thànhmột điểm duy nhất không có hai không có ba. Rồi dùng kiếmbén huơi lên cho rụng hết những cái một hai ba riêng rẽ,chừng đó mới thấy chỗ mầu nhiệm của Phật Nho Tiên khôngcó khác, lý tam huyền chỉ là một nguồn.Trongmơ hòn bọt chia ranh giới, giữa luồng điện chớp bày Thánhhiền.Trong mơ tức là trong lúc ngủ mê nằm mộng thì những cáimình thấy, chẳng hạn như một hòn bọt thấy như là mộtngọn núi, đó là thấy cái này riêng rẽ với cái kia, cáikia khác với cái nọ. Ðó là cái thấy của mơ của mộng.Trên tướng giả tạm phân chia cái này khác với cái kia, nhưchia đây là Nho, kia là Phật, nọ là Tiên, thấy có hiền cóThánh khác nhau, đó là tướng phân chia giả tạm không thật.Khi giác ngộ rồi thì không còn phân chia ranh giới, vì thểchân thật không có gì riêng khác.

Muônpháp ngàn tông đều là huyễn, một thoi nát sạch Tổ sư Thiền.Chia ra muôn pháp ngàn tông, nhưng đều là huyễn hóa, các vịTổ sư Thiền thoi một cái là tan nát sạch trơn mọi kiếnchấp phân chia. Như vậy các bậc Tổ sư Thiền oai quá phảikhông ? Vì với cái nhìn của Tổ sư thì những sự phân chiaranh giới là hư ảo tạm bợ, cho nên chỉ cần một tiếnghét, một cái đánh của các Ngài là ngộ, ngộ rồi thì tấtcả sự phân chia do mê lầm chấp trước đều tan nát. Tómlại, qua bài kệ này ý ngài Chân Nguyên muốn dạy rằng, vìmê lầm chấp trước nên chia ra Nho, Lão, Phật riêng biệt,chớ trên chỗ cứu cánh thì nó không hai. Do đó Ngài nói thêmbài kệ:

Thânđồng cõi hư không, bày pháp bằng hư không.Ngài nói nếu chúng ta ngộ được Pháp thân rồi thì thânnăm uẩn chúng ta đồng với hư không, vì thân năm uẩn vàPháp thân không hai, và các pháp hiện bày rỗng suốt khôngngăn ngại. Cho nên khi chứng được hư không, không phápkhông phi pháp.Nghĩa là khi chứng được Pháp thân rồithì không pháp mà cũng có pháp. Vậy thì tất cả pháp cókhông đều không còn đối đãi.
III-KỆ KIẾN TÁNH(Ðoạn3)

VI-

Ðạt-maTây đến một chữ không,
Toàny tâm địa để dụng công.

Chínnăm ngó vách không lời nói,

Mộtsớm truyền tâm Huệ Khả thông.

Âm:

Ðạt-maTây lai nhất tự vô,
Toànbằng tâm địa dụng công phu.
Cửuniên diện bích vô ngôn thuyết,
Nhấtđán truyền tâm Huệ Khả sư.
Ðạt-maTây đến một chữ không, toàn y tâm địa để dụng công.Chínnăm ngó vách không lời nói, mộtsớm truyền tâmHuệ Khả thông.Tổ Ðạt-ma từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa không truyền dạy mộtchữ, nên nói một chữ không, Ngài chỉ nương nơi pháp môntâm địa để chỉ dạy người dụng công tu. Trong nhà Phậtthường nói tâm địa, tâm là tâm con người, địa là đất.Tâm địa chỉ cho tâm chân thật của chúng ta giống như mặtđất, tất cả người vật trên thế gian đều nương nơiđất mà đứng vững sanh tồn. Cũng thế tất cả những điềuthấy nghe, hiểu biết cũng đều lưu xuất từtâm, tâm tạo thành tất cả cho nên nói là tâm điạ.Suốt chín năm ở chùa Thiếu Lâm Tổ ngồi ngó vách khôngnói một lời, một hôm ngài Thần Quang tìm tới cầu chỉdạy, Tổ truyền cho pháp an tâm, Ngài ngộ cho nên được đổitên là Huệ Khả, nên nói Huệ Khả thông. Thần Quang trướckhi gặp Tổ đã dụng công tu hành đáng kể, nhưng chưa ngộ.Nghe Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Ðộ sang ở tại chùa ThiếuLâm, bèn đến yết kiến. Thần Quang đã đủ lễ nghi mà Tổvẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Ngàitự nghĩ: "Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nayta chưa được một trong muôn phần của các Ngài". Hôm ấynhằm tiết Ðông nên tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứngyên ngoài tuyết chấp tayhướng về Tổ ? Ðến sáng tuyết ngập đến đầu gối màgương mặt Ngài vẫn thản nhiên. Tổ thấy thế thương tình,xoay ra hỏi:-Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ý muốn cầu việc gì ?

NgàiThần Quang thưa:

-Cúi xin Tổ từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.

Tổquở:

- Diệu đạo vô thượng của chưPhật,dù nhiều kiếptinh tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn điều khó nhẫn,còn không thể được, huống là dùng một chút khó nhọc nàymà cầu được sao ?

ThầnQuang nghe dạy lén lấy con dao chặt cánh tay để trước Tổtỏ lòng thiết tha cầu đạo của mình. Tổ khen:

-Chư Phật xưa vì pháp quên thân mạng, nay ngươi chặt cánhtay để cầu pháp, tâm cầu đạo như thế cũng khá đó. Tổnhận làm đệ tử và đặt tên là Huệ Khả.

Câuchuyện Thần Quang chặt tay cầu đạo thực hư chúng ta chưakiểm chứng được. Nhưng hình ảnh đứng trong tuyết lạnhthấu xương, quên thân cầu đạo của Ngài là tấm gươngsáng cho kẻ hậu sanh như chúng ta noi theo. Ngài quên thân cầuđạo mới ngộ, do đó mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâmấn cho Ngài làm Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa. Câucuối bài kệ là muốn nhắc lại lịch sử truyền thừa Tổvị này.

VII-

Mộtđiểm đèn tâm đuốc tuệ sanh,
Truyềnnhau bốn mắt đã phân rành.
Nốihương tiếp lửa luôn sáng mãi,
Soikhắp đất trời độ hữu tình.
Âm:
Nhấtđiểm tâm đăng tuệ cự sanh,
Tươngtruyền tứ mục thái phân minh.
Liênphương tục diệm quang vô tận,
Phổchiếu càn khôn độ hữu tình.
Mộtđiểm đèn tâm đuốc tuệ sanh, truyền nhau bốn mắt đã phânrành.một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh.Nốihương tiếp lửa luôn sáng mãi, soi khắp đất trời độ hữutình.VIII-Ở trên nói Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấncho ngài Huệ Khả làm vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa, cho nênkhi được truyền tâm ấn ngài Huệ Khả suy tôn Tổ Ðạt-malà Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Sự truyền tâm đó tượngtrưng bằng ngọn đèn hay cây đuốc. Ðèn tâm, đuốc trí tuệcho nên câu đầu nói Tuy nhiên người nào ngộ cũng được thắp sáng đèn tâm,đuốc tuệ chớ không riêng gì ngài Huệ Khả. Ðèn tâm đuốctuệ được truyền bằng bốn mắt nhìn nhau. Khi xưa, ở hộiLinh Sơn Phật đưa cành hoa sen lên nhìn khắp đại chúng, nhìntới Ma-ha-ca-diếp, Ma-ha-ca-diếp nhìn Phật mỉm cười, liềnđược truyền tâm, sau này Thiền sư Chân Nguyên hỏi "Bao nămdồn chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào,là sao ?". Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn thẳng vào Ngài,Ngài nhìn lại, liền cảm ngộ, được truyền tâm. Còn bâygiờ thầy trò nhìn nhau hoài sao chẳng được truyền tâm ?Lỗi đó tại đâu ? Tại cây đuốc của chúng ta chưa cháy,tại tâm nghĩ suy của chúng ta chưa dừng.Người ngộ được bản tâm rồi đem cái thấy cáingộ của mình tiếp nối chỉ dạy cho người sau, cho nên gọilà nối hương tiếp lửa. Bởi vì đạo đức ví như mùi hương,mùi hươngđạođứckhông bị gió thổi cuốn theo chiều gió. Cho nên trong kinh nóimùi hương của thế gian thì theo gió thổi đi, còn mùi hươngcủa đạo đức thì gió hướng nào cũng không ngại hết,mùi hương đức hạnh dù ngược gió mà vẫn bay khắp cảmuôn phương. Như vậy chỉ có hương đạo đức là không ngạigió, nối hương là nối mùi hương đạo đức. Tiếp lửalà mồi đèn tiếp đuốc để cho nó sáng mãi ở cõi nhângian. Vì đạo Phật lấy sự giác ngộ làm chủ yếu, và víánh sáng giác ngộ như ánh sáng của ngọn đuốc, của mặttrời mặt trăng. Cho nên thế gian này có người giác ngộthì thế gian có ánh sáng, nếu không người giác ngộ thìthế gian sẽ tối tăm. Do đó bổn phận của người tu làphải tu cho sáng đạo, rồi chỉ dạy mọi người để đèntrí tuệ luôn luôn được thắp sáng ở cõi thế gian nhiềutăm tối này. Nên nói ánh sáng trí tuệ soi khắp để độchúng hữu tình.
ChânPhật, chân kinh thảy ở tâm,
Khobáu nhà mình chớ chạy tầm.

Cóai thử hỏi đâu là Phật ?
Ngaykhi hỏi đáp tại mắt, âm (lời).
Âm:
ChânPhật chân kinh tổng tại tâm,
Tựgia bảo tạng mạc tha tầm.

Hữunhân thí vấn Phật hà tại,
Ứngđối đương thời tại nhãn âm.
ChânPhật, chân kinh thảy ở tâm, kho báu nhà mình chớ chạy tầm.Cóai thử hỏi đâu là Phật ? Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm(lời).Phật thật kinh thật đều ở trong tâm, đó là kho báu củamình đừng chạy ra ngoài để tìm kiếm. Chúng ta có thói quenhễ nói đến Phật thì nghĩ rằng Phật thờ ở chùa, nóiđến kinh thì chỉ thấy kinh là những pho sách ghi chép lờiPhật dạy để trong tủ. Nhưng Phật ngồi trên bàn, kinh đểtrong tủ có phải là chân Phật chân kinh mà ngài Chân Nguyênnói ở đây không ? Phật ngồi trên bàn là Phật tượng, nhìnPhật tượng chúng ta phải nhớ lại ông Phật thật của mình,ông Phật của mình thì giác và linh động nói năng đi lạilà Phật thật. Còn Phật tượng thì ngồi im lìm không nóinăng hoạt động, sao gọi là Phật thật được ? Kinh nằmtrong tủ thì ghi chép những lời Phật dạy, nương lời dạyấy chúng ta tu ngộ được bản tâm, mở sáng mắt tuệ. Bảntâm và mắt tuệ không phải là giấy mực chữ nghĩa. KinhViên Giác nói rằng: Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nươngtheo ngón tay để nhìn thấy mặt trăng, chớ ngón tay khôngphải là mặt trăng. Cũng thế kinh ghi lại những lời Phậtdạy để chúng ta đọc ngộ được bản tâm, nhưng nếu chúngta chỉ đọc lời Phật mà không ngộ bản tâm thì chưa phảilà chân kinh. Chân kinh chân Phật đều là tự tâm. Vì Phậtlà giác, mà giác là tâm mình giác, Phật tượng vô tri khônggiác. Tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác, mà kinh bằnggiấy mực văn tự không trigiác, nên không phải là chân kinh.ChânPhật chân kinh, kho báu gốc từ tâm mình mà ra chớ không phảiở ngoài. Như vậy muốn thấy Phật thật thấy kinh thật,thì ngay nơi tâm mình là kho báu vô tận ai ai cũng sẵn đủ.Quay lại kho báu nhà mình thì có đầy đủ tất cả chớ chạytìm ở đâu cho nhọc.Nếu hỏi đâu là Phật thì đáp: Lời hỏi mắtnhìn, ngay khi hỏi đáp là Phật. Thiền sư Huệ Hải khi đếnchỗ Mã Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ hỏi:

-Ông đi đâu ?

Sưthưa:

-Con đến cầu Phật pháp.

Tổbảo:

-Kho báu nhà mình không đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cáigì ?

Sưthưa:

-Thế nào là kho báu nhà mình ?

Tổbảo:

- Chínhkhi ngươi hỏi ta đó là kho báu của ngươi,đầy đủ tất cả, tự do sử dụng đâu nhờ tìm cầu bênngoài.

Cáithưa hỏi là kho báu, vì lời nói phát xuất từ tâm, nên mớiphát ra âm thanh, phát ra cái nhìn đều từ tâm Phật, nhưngtại sao chúng ta không chịu nhận ? Bởi vì từ thuở bé chođến lớn chúng ta có thói quen hễ mắt thấy sắc, tai nghetiếng thì phân biệt đẹp xấu hay dở. Mũi lưỡi thân ýcũng lại như vậy. Chúng ta luôn luôn chạy theo phân biệt,phân biệt rành rẽ thì gọi là người khôn. Ví dụ hôm nayPhật tử cúng dường cho chư Tăng một bữa ăn. Ăn xong Phậttử đó hỏi: Thưa Thầy thức ăn hôm nay ngonkhông ? Phải trả lời như thế nào ? Nếu nói ngon thì họvui, còn nói tôi ăn chỉ biết ăn thì họ buồn. Bởi vì họcố tình nấu cho ngon để cúng dường cho quí thầy, thế mànói ăn chỉ biết ăn thì họ buồn, nếu nói ngon thì họ rấtlà hoan hỷ. Cho nên khi ăn phải biết ngon hay dở, lại ngonnhiều ngon ít nữa. Như vậy tất cả sinh hoạt ở thế gianđều huân tập cho chúng ta thói quen phân biệt rành rẽ, màphân biệt thì đã rơi vào tìnhthức chúng sanh, chớ không phải là tâm Phật giác ngộ.Nếutâm giác ngộ thì thấy nghe hay biết rất rành rẽ mà khôngcó tình thức phân biệt xen vào, điều này nói nghethì dễ nhưng rất khó làm. Vì, môi trường gia đình xã hộiluôn luôn tạo cơ hội thuận tiện lôi cuốn chúng ta chạytheo thức tình phân biệt. Do đó, ông Phật của chính mìnhẩn khuất mất tiêu. Như vậy Phật cũng rất gần ta mà cũngrất xa ta. Nếu tỉnh Phật ở ngay lời hỏi câu đáp, ngaynơi bốn mắt nhìn..., nếu mê chạy theo tình thức phân biệthay dở, khen chê tốt xấu thì không bao giờ nhận ra kho báucủa chính mình. Chủ yếu bốn câu kệ này Ngài chỉ cho chúngta nhận ra Phật thật kinh thật ngay nơi tâm mình, đó là khobáu sẵn có của chính mỗi người. Kho báu đó không có xalạ mà ngay nơi lời hỏi câu đáp, ngay nơi mắt thấy tai nghecủa chính mình, đừng nên chạy đi đâu tìm kiếm nhọc nhằn.

IX-

Chânkinh chẳng đổi vốn như thường,
Chưatừng mở miệng hiện tỏ tường.
Nghĩtoan nắm bắt lầm qua mất,
Mộtchữ vô sanh thẳng thừa đương.
Âm:
Chânkinh bất dịch bổn như thường,
Vịtằng khai khẩu hiển đường đường.
Bấtkhả nghĩ trì sai thác quá,
Vôsanh nhất cú trực thừa đương.
Chânkinh chẳng đổi vốn như thường, chưa từng mở miệng hiệntỏ tường.Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất, một chữ vô sanh thẳngthừa đương.X-Chân kinh làchỉ cho tâm Phật xưa nay nó vốn như vậy không hề thay đổi.Nó đã có sẵn không đợi nói, không đợi đọc tụng mớicó kinh, mà kinh đã hiện đầy đủ không có ẩn giấu chútnào cả. Cho nên nói "chưa từng mở miệng hiện tỏ tường".Vừa khởi nghĩ tìm chân kinh, thì lầm quamất. Chỉ ngay tâm phẳng lặng hiện tiền hằng giác hằngtri không khởi diệt là tâm vô sanh luôn luôn bảo nhậm ngaynơi đó mà sống đừng quên, thế nhưng chúng ta quen sốngvới tâm sanh diệt, cho nên thấy cái đồng hồ liền hỏihiệu gì, sản xuất ở đâu tốt hay xấu, bền hay không bền...Thấy không nhớ mình có cái hay thấy, mà khởi lên nhiềuniệm là sanh chớ không còn vô sanh. Ví dụ có người đi từtrên chùa xuống tới cổng nội viện, bất thần có ngườikêu tên chửi, lúc đó vị ấy có tỉnh giác vô sanh đượckhông ? Có ngoại duyên chạm đến là sanh liền. Có khi sanhnhững cái tốt đẹp hiền lành, cũng có khi sanh những thứdữdằn xấu xa. Cho nên sống với cái vô sanh không phải chuyệnđơn giản dễ làm. Ngồi một mình ở một mình khả dĩ giữđược, còn khi đối duyên xúc cảnh rất khó giữ. Bởi vìgặp cảnh thì niệm sanh diệt dấy khởi khó dừng được,cho nên chủ yếu của sự tu hành là đừng để cái sanh diệtchi phối, luôn luôn sống với cái tâm vô sanh đó là cái gốccủa sự tu.
Khôngvăn không chữ đấy chân kinh,
Mộtquyển trường không quá phân minh.
Miệngnói còn xa ba ngàn dặm,
Tainghe thêm tiến chục vạn trình.
Âm:
Vôvăn vô tự thị chân kinh,
Trườngkhông nhất quyển thái phân minh.
Khẩutuyên thượng cách tam thiên lý,
Nhĩthính tăng dao thập vạn trình.
Khôngvăn không chữ đấy chân kinh, một quyển trường không quáphân minh.Miệngnói còn xa ba ngàn dặm, tai nghe thêm tiến chục vạn trình.XI-Chân kinh thìkhông có văn tự chữ nghĩa, tuy không văn tự chữ nghĩa, nhưngquyển kinh này rất là rành rẽ, trùm khắp cả hư không.Kinh này vì không văn tự chữ nghĩa, nên mở miệng nói thìxa ba ngàn dặm, nếu dùng tai nghe thì càng xa hơn đến mườivạn trình, tức là mười vạn cây số. Như vậy không dùngngôn ngữ để diễnđạt chân kinh, không dùng tai ngheđể nghe chân kinh mà chỉcó tâm vô sanh là hiển bày chân kinh rồi. Tóm lại, ý bốncâu kệ nói chân kinh vốn không ngôn ngữ không văn tự, nótrùm cả hư không. Dùng ngôn ngữ không diễn đạt được,dùng tai nghe lại càng xa hơn. Chỉ sống với tâm vô sanh làđầy đủ chân kinh.
ChânPhật chân kinh vốn một đồng,
Tịchquang tròn lặng suốt hư không.
Thậttế nhất như gồm mọi lý,
Tạmbày muôn pháp độ quần mông.
Âm:
ChânPhật chân kinh bổn nhất đồng,
Tịchquang viên trạm đẳng hư không.

Thậttế nhất như bao chúng lý,
Quyềnkhai vạn pháp độ quần mông.
ChânPhật chân kinh vốn một đồng, tịch quang tròn lặng suốthư không.Thậttế nhất như gồm mọi lý, tạm bày muôn pháp độ quần mông.

XII-
Phật thật kinhthật vốn đồng một thể, ánh sáng lặng lẽ của nó xuyênsuốt hư không. Như vậy nói chân Phật chân kinh tuy hai tênmà chỉ là một pháp thân thanh tịnh trongsáng trùm khắp cả hư không chớ không có gì lạ.Bờ mé chân thật thì nhất như không lý lẽ, nhưng bao trùmmọi lý lẽ, nên tạm bày ra muôn pháp để hóa độ ngườimê muội. Thế nên Tổ Qui Sơn nói: "Thật tế lý địa bấtthọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp".Nghĩa là chỗ chân thật thì không dính một mảy bụi, màtrong cửa vạn hạnh (cửa phương tiện) thì không xả bỏmột pháp nào. Ðể thấy rằng mọi phương tiện đều y cứnơi thể chân thật mà lập, lập phương tiện là vì kẻ mêmuội giáo hóa cho họ thức tỉnh.
Lýmầu Phật pháp không văn tự,
Cơhuyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn.
Rộngtiếp người sau thông một tuyến,
Thượngcăn mắt thấy đạo tâm còn.
Âm:
Phậtpháp diệu lý vô văn tự,
Tổđạo huyền cơ mạc ngữ ngôn.
Hoằngtiếp hậu lai thông nhất tuyến,
Thượngcăn mục kích đạo tâm tồn.
Lýmầu Phật pháp không văn tự, cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữngôn.Lý nhiệm mầu củaPhật pháp thì không dùng văn tự, cơ huyền của chư Tổ thìchẳng dùng ngôn ngữ. Nghĩa là lý nhiệm mầu của Phật phápchỉ dùng tâm ấn tâm, chớ không dùng văn tự giải thích,và cơ huyền đạo của chư Tổ thì không dùng ngôn ngữ, vìngôn ngữ là đầu mối của sự phân biệt. Thế nên các Ngàithường dùng hành động để chỉ thẳng cho người học đạonhận ra cái chân thật. Nếu có tạm mượn ngôn ngữ đểchỉ thì ngôn ngữ ấy không làm cho người học đạo mắckẹt vào phân biệt đối đãi.Sauđây là những câu chuyện không dùng ngôn ngữ của các Thiềnsư. Có người tới hỏi Thiền sư Ðả Ðịa: Thế nào làPhật ? Ngài cầm cây gậy đập xuống ba cái. Ðó là ngônngữ gì ? Ngài Lâm Tế đến hỏi Tổ Hoàng Bá: Thế nào làđại ý Phật pháp ? Ba lần hỏi ba lần bị đánh. Ðó làngôn ngữ gì ?Nhữngcơ huyền như thế không có ngôn ngữ, nhưng người hỏi khéonhận thì nhận được cái chỗ không ngôn ngữ. Không khéonhận thì khóc lóc khổ sở hoặc ra về tay không.

Rộngtiếp người sau thông một tuyến, thượng căn mắt thấy đạotâm còn.Vì rộng độ người sau nên lập bày phương tiện,người thượng căn nếu nhận được cái chân thật thì tâmđạo của họ còn mãi không bao giờ mất. Tóm lại bài kệnày ý nói, lý mầu của Phật pháp không dùng văn tự, phươngtiện chỉ bày chỗ huyền diệu của chư Tổ không dùngngữngôn, nhưng vì độ người sau cho nên tạm lập bày phươngtiện, người thượng căn nhân phương tiện đó nhận ra cáichân thật thì đạo tâm không bao giờ mất.

XIII-

Tâmtông Bát-nhã ai lãnh ngộ,
Rõràng tự tánh tức Như Lai.
Kẻkẻ viên thành đồng chứng Phật,
Ngườingười đầy đủ chẳng cầu ai.
Âm:
Bát-nhãtâm tông thùy lãnh ngộ,
Liễuminh tự tánh tức Như Lai.
Cácá viên thành đồng chứng Phật,
Nhânnhân cụ túc bất cầu ai (tha).
Tâmtông Bát-nhã ai lãnh ngộ, rõ ràng tự tánh tức Như Lai.Kẻkẻ viên thành đồngchứngPhật,người người đầy đủ chẳng cầu ai.

XIV-
Tâm tông là tông chủ đích chỉ thẳng về tâm, chỉ thẳnglý Bát-nhã tột cùng, hỏi ai lãnh ngộ chỗ không có ngườikhông có pháp. Thì rõ ràng tự tánh mình tức là Phật, tứclà Như Lai, tức là Bát-nhã.Nếu nhận được tự tánh của mình là Phật thì ai ai cũngthành Phật quả hết, và mọi người sẵn đủ tánh Phậtthì không còn cầu xin, không còn trông cậy vào người khác.Ý bốn câu kệ này nói người ngộ được tâm tông Bát-nhãthì biết rõ tự tánh mình là Phật và tất cả mọi ngườiđều sẽ thành Phật, mọi người đều sẵn đủ tánh Phậtnên không cầu xin ai cả.
Kinh,Lục trùng trùng phương tiện biển,
Cơduyên Phật Tổ lưới giáo bao.
Mộttông vô trụ tâm ấn Phật,
Muônpháp hữu vi bọt nước xao.
Âm:
Kinh,Lụctrùng trùng phương tiện hải,
PhậtTổ cơ duyên giáo võng bao.
Vôtrụ nhất tông Phật tâm ấn,
Hữuvi vạn pháp thủy phù bào.
Kinh,Lục trùng trùng phương tiện biển, cơ duyên Phật Tổ lướigiáo bao.Mộttâm vô trụ tâm ấn Phật, muôn pháphữu vi bọt nước xao.XV-Câu này phá chấp niệm muốn đọc hết Kinh hếtLục. Ngài nói, Kinh lời dạy của Phật, Lục là lời dạycủa Tổ. Kinh Lục chỉ là phương tiện, nhiều như biển cả.Còn cơ duyên của Phật Tổ giáo hóa chúng sanh là lưới giáobao trùm tất cả. Nói về Kinh Lục của Phật Tổ chúng tathấy Ðại Tạng Kinh chữ Hán trên năm ngàn quyển,nhưng chúng ta giỏi lắm đọc được vài trăm quyển là cùng.Còn Lục của chư Tổ thì Thiền tạng gom lại có một trămlẻ một quyển. Phương tiện thì nhiều. Nhưng:Chỉ một tâm vô trụ đólà tâm ấn của chư Phật, còn các pháp hữu vi sanh diệt vínhư bọt nước ngoài biển cả bị sóng vỗ là tan ngay. Tómlại ý bài kệ nói Kinh Lục là phương tiện truyền bá củaPhật Tổ nhiều như biển, cơ duyên giáo hóa của Phật Tổlà lưới giáo bao trùm tất cả mọi người. Phương tiệntuy nhiều nhưng người học đạo ngộ được tâm vô trụ,tâm vô trụ là tâm ấn của chư Phật. Người ngộ đượctâm ấn của chư Phật thì thấy các pháp hữu vi chỉ là vôthường tạm bợ như hòn bọt ngoài biển cả.
Bathuở Như Lai truyền diệu chỉ,
Haingười bốn mắt đối nhìn nhau.
Nguồnlinh nước pháp sa giới chảy,
Ðuốctuệ sáng thông cõi cõi nào.
Âm:
Tamthế Như Lai truyền diệu chỉ,
Nhịnhân tứ mục nhãn tương giao.
Linhnguyên pháp thủy lưu sa giới,
Tuệchúc quang thông sát hải dao.
Bathuở Như Lai truyền diệu chỉ, hai người bốn mắt đốinhìn nhau.Nguồnlinh nước pháp sa giới chảy, đuốc tuệ sáng thông cõi cõinào.Chonên Tổ sư Ðại Huệ nói: "Học đạo vốn không nhiều pháp,chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép. Ðời nay nếu chẳnglãnh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhã trên đất tánh, đờiđời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thânngười, chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma,mầm linh giống trí, đồng tử đi xuất gia, theo Phật tu hành,một nghe ngàn ngộ". Giả sử tham học như trên mà chưa triệt,vẫn kết chủng duyên Phật; tu mà chưa thành, còn hơnquả trời người. Chúngsanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ.Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡngtrông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu tự mìnhchẳng đoạn trừ nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứuđộ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiện nơiđời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đếnnay, chẳng thể thành Phật ? Phải biết tự tu, tự độ, Phậtchẳng thể độ. Nên biết,phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tậnlý này. Hãy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực.Ba đời chưPhật truyền yếu chỉ qua bốn mắt nhìn nhau. Nếu bốn mắtnhìn nhau mà nhận ra yếu chỉ nhiệm mầu của đạo thì:Nguồn sáng suốt nhiệm mầu chảy khắp hết hằngsa cõi nước và ánh sáng của ngọn đuốc trí tuệ thông hếttất cả chỗ. Ý bài kệ nói rằng: ba đời chư Phật truyềndiệu chỉ nếu người nào qua bốn mắt nhìn nhau mà ngộ đượcthì nguồn sáng suốt chảy khắp sa giới và ánh sáng trí tuệchiếu soi tất cả cõi. Chúng ta thấy ngài Chân Nguyên ngộở chỗ bốn mắt nhìn nhau nên kết thúc mười lăm bài kệ,ở bài kệ thứ mười lăm Ngài chỉ thẳng: Bốn mắt nhìnnhau là cái gốc nhận ra tâm mìnhlà Phật. Sau đó truyền bá mãi không cùng tận.

Sauđây là dẫn lời ngài Ðại Huệ, một Thiền sư nổi tiếngở Trung Hoa đời Tống. Ngài nói rằng: Học đạo vốn khôngnhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép,Ðời nay nếu chẳng lãnh ngộ cũng gieo đượctrí Bát-nhã trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đườngác, kiếp kiếp chẳng mất thân người.Chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loàiquân ma.Mầm linh giống trí, đồng tử xuất gia theo Phật tuhành, một nghe ngàn ngộ.nghĩa là người học đạo lấy cái ngộ tự tánh làm cănbản. Bởi vì chúng ta tu mà không nhận ra tự tánh sẵn cócủa mình thì chưa giác ngộ, cho nên nói lấy tin ngộ làmkhuôn phép. Người chỉ tinngộ tự tánh, tuy ngay trong đời này chưa lãnh ngộ như nhữngngười căn cơ nhạy bén, cũng gieo được trí Bát-nhã trênđất tánh của mình. Người nhận được bản tánh thì đờiđời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp tái sanh vẫn đượclàm người. Người tin mình có tự tánh thì đời sau khôngsanh vào nhà ngoại đạo tà kiến, cũng chẳng kẹt vào quânma. Người tin mình có tự tánh đãsẵn có mầm linh, sẵn hạt giống trí nên còn bé (đồng tử)đã theo Phật xuất gia tu hành, một nghe ngàn ngộ tức lànghe một câu mà ngộ cả ngàn câu.Nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu nghĩa là sao ? Nhưchúng ta tu Thiền khi nghe một câu nói của một vị Tổ màngộ, thì một ngàn câu của chư Tổ ta đều thông suốt. Nhưvậy chỉ cần ngộ một câu là mọi câu đều thông suốt,cho nên nói một nghe ngàn ngộ. Cũng như các vị tham công ánmà ngộ thì giải được tất cả các công án.

Giảsử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyênPhật, tu mà chưa thành, còn hơn quảtrời người.Chúngsanh phảigắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ.Nếuchẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trôngPhật đến cứu độ, không có lẽ ấy.Nếutự mình chẳng đoạn nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đếncứu độ, thì chư Phật quá khứ đã thành đạo, ứng hiệnnơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúngsanh ? Vì sao chúng ta còn trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đếnnay chẳng thể thành Phật ?phải biết tự tu tự độ,Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phânnửa ở ta, xét cho tường tận lý này, hãy gắng sức tựtu chớ ỷ lại vào tha lực.NgàiChân Nguyên nói: Giả sửngườitham học nhưtrên mà chưa thấu triệt vẫn có chủng duyên với Phật, tuytu chưa thành chánh quả nhưng vẫn hơn quả vị ở cõi trờicõi người. Chúng ta tu làphải tự độ mình, chớ Phật không thể độ được. Ởđây nói như thế cũng hơi cực đoan, đoạn sau sẽ bù lại.Nếu mình chẳngthật tâm tu, trai giới không giữ, mà cứ trông cầu Phậtđến cứu độ thì không bao giờ có Phật đến cứu.Nếu tu mà cứ mong Phật tớicứu độ thì ở đây Ngài nói, Phật ra đời ứng thân vôsố sao Phật không độ cho mọi người hết mê ? Thực tếthì chúng sanh còn nhiều mê lầm, vậy thì trông cậy Phậtđộ bằng cách cầu xin khấn nguyện có được như ý không? Chắc chắn là không. Cho nên Ngài nhắc chúng ta phải tựtu tự độ chớ Phật không thể độ mình được. Tuy nhiênphân nửa ở Phật phân nửa ở ta. Câu này có an ủi chúngta một chút. Phân nửa nào ở Phật, phân nửa nào ở ta ?Ví dụ đứa học trò đến trường học, nó học được lànhờ thầy dạy, nếu nó không học thì không thuộc bài. Nhưvậy thầy giáo dạy là phân nửa của thầy, nó học thuộcbài là phân nửa của nó. Nhờ phân nửa của thầy và phânnửa của nó mà làm thành cho đứa học trò. Cũng vậy đứcPhật đem chánh pháp truyền bá chỉ dạy, chúng ta hiểu rồiphải nỗ lực thực hành, phân nửa của Phật cộng với phânnửa của chúng ta thì mới viên mãn sự tu hành, chớ khôngphải cực đoan một bên. Như vậy khi tu chúng ta tha thiếtlạy Phật cầu gia bị, mà cũng phải học hiểu lời dạycủa Ngài, ứng dụng tu thì mới được thành tựu viên mãn.Ngài khuyên chúng ta phải xét cho kỹ lý này để nỗ lựctu hành, không nên ỷ lại vào kẻ khác. Một người học tròỷ lại vào ông thầy thì người học trò đó sẽ hư. Cũngvậy, người tu mà cứ ỷ lại nơi Phật không chịu tu thìsẽ không đạt kết quả.

Xưađức Phật Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phậtcòn tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấyGiới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tựtánh xưa nay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, nhưnhư đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng khôngcó lý khác. Nên biết người có trí phải lập chí, phướchuệ song tu, chân như riêng chứng. Niệm niệm từ bi, cửacửa lợi ích, thường nói diệu pháp Bát-nhã, phương tiệntiếp dẫn người sau. Người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏngộ, nếu chưa thành mong khiến cho chóng thành. Kinh nói: tàithí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, pháp thí nhưmặt trời sáng đầy khắp mười phương. Tự tánh nếu mê,phước làm sao cứu? Thân người khó được, Phật pháp khógặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, lòng tin khósanh, bạn lành khó hội ngộ. Phước duyên kim cải, mừng đãhợp nhau. May thay như rùa mù gặp được bộng cây. Chúng tabỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ? Chớ tham đắmdanh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quên mình, lô�i nướctrèo non, kính lễ thưa hỏi.

Xưađức Phật Bổn sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn dò: Phậtcòn tại thế lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấyGiới làm thầy.Phật tức là tâm, tâm tức là Phật, tự tánh xưanay rỗng lặng tròn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đólà chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lýkhác.Nên biếtngười có trí phải lậpchí,phước huệ song tu, chân như riêng chứng, niệm niệm từ bi,cửa cửa lợi ích.Thườngnói diệu pháp Bát-nhã, phương tiện tiếp dẫn người sau,người chưa ngộ thì chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thànhthì mong khiến cho chóng thành.Ðây là dẫn lời Phật dạy trong kinh DiGiáo. Ngài nói Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. VậyPhật mà Ngài nói đây không phải Phật ở Ấn Ðộ, mà làPhật tâm của mỗi người chúng ta. Phật tâm của chúng taxưa nay vốn rỗng lặng, nhiệm mầu, tròn sáng, như như khôngđộng, ấy mới là chân Phật. Dẫu cho Phật Thích Ca còn tạithế cũng như vậy chớ không có lý nào khác. Ngài dạy rằng người có trí tuệthì khi tu hành phải lập chí cho vững, phải phước huệ songtu, phải chứng ngộ chân như của chính mình. Mỗi niệm mỗiniệm phải phát khởi tâm từ bi, phải khéo vận dụng phươngtiện thiện xảo đểlàm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ quên và bỏ họ.Ngài dạy rằng muốn làmlợi ích cho người sau, thì phải nói pháp nhiệm mầu củakinh Bát-nhã cho họ hiểu. Người chưa ngộ thì giúp cho họtỏ ngộ, người chưa thành tựu công phu làm cho họ thànhtựu công phu. Nhưng muốn thực hiện được điều nói trên,trước hết chúng ta phải tỏ ngộ, phải thành tựu công phutu hành. Nếu chúng ta chưa tỏ ngộ chưa thành tựu công phutu hành mà giúp cho người tỏ ngộ, thì e rằng không có kếtquả. Ðó là điều tối quan trọng trong việc lợi tha. Nếukhông hiểu chỗ này, nhiều khi chúng ta nhiệt tình quá, muốnlàm cho người ngộ mà chính mình chưa ngộ, dù có làm thếmấy cũng không tới đâu.

Kinhnói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn phòng, phápthí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương.Tự tánh nếu mê phước làm sao cứu.Ngàidẫn lời trong kinh nói người bố thí tiền của, giống nhưngọn đèn sáng để ở trong căn phòng, tuy có ánh sáng nhưngchỉ sáng trong phạm vi nhỏ hẹp. Còn pháp thí tức là đemPhật pháp giảng dạy cho mọi người nghe, thì lợi ích rấtnhiều, như ánh sáng mặt trời soi khắp mười phương. Vídụ như chúng ta có một trăm ngàn đồng đem ra bố thí, thìchỉ giúp được một vài gia đình qua cơn thiếu thốn, vậychỉ cứu được cái khổ tạm thời. Còn nếu chúng ta thâmnhập Phật pháp thì một buổi giảng, một hai ngàn ngườinghe, hiểu, ứng dụng tu lợi ích rất nhiều. Hơn nữa họnghe Phật pháp họ tu, để hết khổ an vui lâu dài thì chúngta sẽ cứu được cái khổ vĩnh viễn. Như vậy bố thí phápPhật không có giới hạn nên ví như mặt trời soi sáng mườiphương. Bố thí tiền của có giới hạn nên ví như ngọnđèn có ánh sáng soi trong một phạm vi nhỏ hẹp. Hiểu rõnhư thế nên người tu hành phải thâm nhập chánh pháp, đemra giảng dạy để cứu khổ vô minh cho chúng sanh, đó mớilà việc quan trọng. Còn chúng ta làm ra tiền để giúp đỡngười nghèo, đó chỉ là việc thiện nhỏ thôi. Bởi vì sứcngười có chừng mực, tiền của có giới hạn, biết bao nhiêutiền của mà chia cho đủ, chỉ có bố thí pháp là khắp cùngkhông giới hạn. Ngài nói nếu người mê không nhận ra tự tánh, tức tánhPhật của mình thì dù có làm việc phước thiện bao nhiêuđi nữa, cũng không cứu được họ. Cho nên muốn cứu mìnhthì trước hết phảinhậnra tự tánh. Ví dụ như có người còn rất nhiều tham sânsi, phiền não đủ thứ, nhưng họ có nhiều tiền đem ra bốthí giúp đỡ người này người kia. Tuy làm việc bố thílà có phước, nhưng vẫn không cứu được cái mê của họ,vì họ chưa nhận ra tánh giác của chính mình. Cho nên ngườitu mà mê tự tánh là điều đáng sợ, chúng ta không nên xemthường. Có nhiều người nói tôi tu sơ sơ, hoặc tôi tu phướclà đủ rồi, cho nên suốt đời lo giúp người này, cứu khổngười kia, mà quên cứu mình, chuyện giác ngộ đối vớihọ rất là xa xôi.

Thânngười khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy,chánh pháp khó nghe, tín tâm khó phát sanh, bạn lành khó hộingộ.Ngài nói được sanh thân làm người là cái khó thứnhất. Cho nên Phật tử đã được thân người, sáu căn đầyđủ, mà gặp chuyện buồn khổ đòi tự tử là không hiểuđạo, chẳng những mang tiếng ngu, mà còn bị người ta chêcười, Phật tử mà không xứng đáng là con Phật. Phật tửgặp chuyện buồn tự tử còn bị người đời chê ngu, khôngxứng đáng là đệ tử Phật, huống nữa là người xuấtgia. Người xuất gia gặp chuyện buồn đòi tự tử có thểtha thứ được không ? Người xuất gia hiểu đạo, biết thânnày khó được, nương thân giả tạm để tu hành như ngườinương bè qua sông, qua chưa tới bờ mà đòi phá bè là chuyệnlàm của kẻ ngu. Người tu mà đòi tự tử là ý phạm giớisát, mình tự sát mình đáng ăn đòn không biết bao nhiêu gậy.Chúng ta tu nếu chưa được an lạc thì phải khéo léo chuyểnhóa nội tâm cho được an lạc. Hơn nữa được thân ngườirất khó mà tự tử là hủy hoại thân, người hủy hoạithân là người đáng chêtráchnhất.Cho nên ở trong chùa mà nói tự tử thật là khó nghe.

Cáikhó thứ hai là Phật pháp khó gặp. Song có người nói muốngặp Phật pháp, thì đến các nhà phát hành kinh sách thỉnhbao nhiêu cũng có, sao nói khó gặp ? Kinh Phật để lại rấtnhiều, nói Phật pháp khó gặp là khó chỗ nào ? Chúng ta đừnghiểu rằng gặp Phật pháp là thấy được quyển kinh Phật,mà gặp ở đây là nghe Phật pháp nhận hiểu để ứng dụngtu, đó mới là khó. Hiểu Phật pháp là khó, còn xem kinh bằngmắt là chuyện dễ. Thế mà có người cầm quyển kinh Phậtlên xem thì buồn ngủ, ngồi trong giảng đường nghe giảngthì ngủ gục, còn xem truyện, xem tiểu thuyết thì quên ănbỏ ngủ, xem truyền hình suốt ngày, nhất là xem phim chưởngđấm đá với nhau, suốt ngày không biết chán. Như vậy vớingười không biết tu gặp kinh Phật xem bằng mắt cũng làchuyện khó, huống là nhận hiểu Phậtpháp bằng tâm để ứng dụng tu lại càng khó hơn.

Cáikhó thứ ba là Thánh tăng khó gặp. Ðiều này dĩ nhiên, nhấtlà ở thời kỳ mạtpháp,phàm Tăng thì dễ kiếm, chớ Thánh tăng thì rất khó gặp.

Cáikhó thứ tư là chánh pháp khó nghe. Người đời thường nói"Thuốc đắng đã tật lời thật trái tai". Chánh pháp là phápchân chánh đúng đắn nói lên lẽ thật của con người vàsự vật. Ví dụ có người thấy chúng ta liền khen thầy làngười có phước tướng, thông minh... nói như vậy rất làdễ nghe và cảm thấy vui trong lòng. Nếu họ nói thầy làcái túi da hôi thúi, là cái bô đựng đồ dơ được đậykín và sơn vẽ bên ngoài. Nói như vậy là nói sự thật màngười nghe cảm thấy khó chịu không vui. Chánh pháp khó nghelà khó ở chỗ đó. Vì chánh pháp luôn nói lên sự thật màmọi người muốn che đậy.

Cáikhó thứ năm là tín tâm khó phát sanh. Tại sao khó ? Giả sửtôi nói tụng kinh chừng bảy biến thì được phước nhiều,đó là điều dễ tin, nếu tôi nói quí vị hãy tin tâm mìnhlà Phật, đó là điều khó tin. Bởi vì có nhiều người khinghe nói tâm mình là Phật thì lắc đầu từ chối con khôngdám tin đâu, con không có phần chỉ mong cầu phước báo ởcõi nhơn thiên thôi. Tin tâm mình là Phật ít người dám tincho nên nói lòng tin khó phát sanh.

Cáikhó thứ sáu là bạn lành khó hội ngộ, tức là bạn lànhkhó gặp. Trước hết chúng ta phải phân biệt thế nào làbạn lành, thế nào là bạn dữ. Giả sử ở trong Thiền Viện,nếu có một sư huynh thấy mộtsư đệ đang ngồi Thiền bỏ đi xuống, hôm sau hỏi lý dosư đệ đáp rằng đau bụng. Vài ba lần như thế và lầnnào cũng trả lời có lý do. Sư huynh biết sư đệ này đangmang bệnh lười biếng cho nên rầy rà: đệ tu hành gì màlười biếng quá, cưng chiều cái thân này lắm,phải nỗ lực vượt qua chớ ! Nghenhưthếsưđệ nọ hết muốn gần sư huynh. Nhưng nếu có mộtsư huynh khác nghe sư đệ nói đau bụng, thì lấy dầu xoa,nghe than buồn ngủ thì bảo đi ngủ, nghe nói đau chân thìbảo thôi đừng rán, coi chừng bệnh à... Một người rầyquở, một người săn sóc an ủi, chúng ta thử xét ai là bạnlành ? Nếu trong Thiền Viện năm chục chúng mà có ba chụcvị thương sư đệ giống như vị sư huynh thứ hai thì sưđệ tu có tiến không ? Chắc chắn là không tiến. Như vậyngười khó khăn rầy rà để thúc đẩy mình tiến lên đólà bạn lành. Người dễ dãi chìu chuộng theo cái sở thíchcủa mình, làm cho mình tu không tiến đó là bạn chẳng lành.Tổ Qui Sơn có dạy "Gần gũi bạn lành như đi trong sươngmóc, tuy thấy chẳng ướt áo, nhưng lần lần thấm nhuận.Lân la đứa dữ ắt nhiễm lấy hung hăng gây ra nhiều tộilỗi, quả báo ngay trước mắt". Song theo thường tình thìbạn dữ dễ gần hơn bạn lành. Ðó là chuyện trong chùa.Sau đây là chuyện ngoài đời. Ví dụ có một Phật tử namđi ngang qua quán rượu, có người bạn đang ngồi uống rượutrong quán kêu vô nài ép bảouống,Phật tử ấy từ chối, bị người bạn chê cười cho rằngđàn ông mà không có chí khí của kẻ nam nhi, giống như đànbà. Giả sử lúc đó Phật tử kia nhận lời mời của ngườibạn uống rượu say sưa. Nhưng có người bạn thứ hai canrằng: Bạn là Phật tử đã thọ qui giới uống rượu làphạm giới cấm của Phật. Quí vị xét coi người ép uốngrượu và người la rầy khuyên can không cho uống rượu, ngườinào là bạn lành ? Quí vị thích người nào hơn ? Dĩ nhiênlà thích người ép uống, nhưng người đó đem đến điềukhông tốt cho mình. Như vậy bạn chẳng lành dễ gần hơnlà bạn lành, cho nên nói bạn lành khó hội ngộ. Chúng talà người học đạo phải biết rõ ai là bạn lành, để gầngũi được thấm nhuần những điều tốt, ai là bạn chẳnglành phải khéo dùng phương tiện để chuyển hóa họ, nếukhông đủ đạo lực thì không nên gần nhiều, gần nhiềusẽ có hại cho việc tiến tu. Xét qua sáu điều khó đượcNgài nêu ở trên, đa số chúng ta đều có đủ. Như vậy làquá tốt, nếu người nào chưa đủ thì hãy rán tạo nhânduyên cho đủ.

Phướcduyên kim cải, mừng đã hợp nhau.Người ta thường nói cây kim hạt cải, hai cái đó gặp thìhút vào nhau, ý muốn nói mừng cho mình đã có phước duyêntốt, hội đủ những điều kiện tốt, những điều khó thựchiện được mà mình thực hiện được như: Phật pháp khógặp mà mình gặp, chánh pháp khó nghe mà mình được nghe v.v...

Maythay như rùa mù gặp bô�ng cây.Chúng ta bỏ sựnghiệp đi xuất gia nên cầu việc gì ?Chớtham đắm danh lợi, phải chọn bạn tìm thầy, vì pháp quênmình lội nước trèo non kính lễ thưa hỏi.thưahỏi chỗ thâm áo của Phật pháp, có như thế mới không uổngmột đời tu. Nếu đi tu vì mục đích an nhàn, sung sướngcho bản thân thì chưa phải là người thật tâm xuất gia cầuđạo giải thoát.Câu chuyện rùa mù gặpbộng cây, trong kinh A-hàm đức Phật có kể: Có một cái bộngcây trôi giạt ngoài biển cả, sóng gió đưa đẩy nay ở bênÐông, mai qua bên Tây. Có con rùa mù ở dưới đáy biển, mộttrăm năm nó trồi đầu lên một lần, nó muốn tìm bộng câyđể chui vào. Vậy rùa mù tìm được bộng cây dễ hay khó? Rất khó. Ý đức Phật nói con người sau khi mất thân này,muốn được thân trở lại khó như rùa mù tìm gặp bộngcây vậy. Ngày nay chúng ta được thân này thật là có nhiềuphúc duyên, nếu không chịu nỗ lực tu hành theo lời Phậtdạy, khi mất thân này rồi sẽ ra sao ? Chúng ta bỏ nhà,bỏ cha mẹ thân bằng quyến thuộc vào chùa tu, mục đíchcầu cái gì? Phải xét kỹ, cầu no ấm sung sướng, hay cầugiác ngộ, giải thoát khổ sanh tử cho chính mình và chúngsanh ? Ðây là câu hỏi mỗi người phải tự trả lời. Ngài răn nhữnglời hết sức thực tế và tha thiết vô cùng. Chúng ta đitu đừng tham đắm danh lợi vì danh lợi làm chướng ngạisự tu hành. Ði tu thì phải cầu thầy sáng, để hướng dẫnmình tu đúng chánh pháp Phật dạy. Chọn bạn lành để trợnhững duyên tốt cho đường tu được tiến bộ hanh thông.Phải vì Phật pháp quên thânmạng, phải vượt suốibăngrừng để tìm những bậc đạo cao đức trọng mà

Hỏi:Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó.Thế nào là hai việc khó ?

Dạyrằng : Sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Ðây là haiviệc thật rất khó. Song này các người, do hai việc này màbỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham tìm minhsư, bạn tốt, cúi đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Ðạiđức từ bi, mở rộng phương tiệnchỉ bày cho sáng tỏ lý này, sớm được ngộ đạo.

Hỏi:Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân ngườinày sanh từ đâu đến ?

Ðáp:Vốn từ vô vi đến.

Lạihỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết, chết đi vềđâu ?

Ðáp:Lại từ vô vi đi.

Hỏi:Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nàolà hai việc khó ?sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ?Song này các người do hai việcnày mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, thamtìm minh sư, bạn tốt, cuối đầu lễ bái thưa hỏi: Kínhmong Ðại đức từ bi, mở rộng phương tiện cho sáng tỏlý này, sớm được ngộ đạo.Câu hỏi này nghe hơi khó hiểu. Thếgian không việc khó, lại nói thếgian có hai việc khó, nếu không việc khóthìlàm gì có hai việc khó ? Ý Ngài muốn nói rằng trên thếgian không có việc gì khó, nhưng xét kỹ có hai việc khó,đó là Ðâylà hai việc rất khó, vì hai điều này là hai điều thắcmắc lớn lao của con người. Tất cả chúng ta đều thắcmắc mình từ đâu đến đây và sau khi chết mình sẽ vềđâu ? Ðó là hai câu hỏi mà tất cả chúng ta không ai giảiđáp được. Chính hai điều này khi xưa đức Phật Thích Calúc còn là Thái tử, Ngài cũng thắc mắc như chúng ta. Và,Ngài quyết phăng tìm cho ra manh mối, bằng cách từ bỏ hoàngcung vượt thành đi tu. Ngày nay chúng ta là người tu theo đứcPhật cũng phải quyết tâm tìm cho ra manh mối. Muốn thựchiện điều đó Ngài dạy: Muốn giải quyết hai mốinghi trên, người học đạo phải lội suối trèo non, tìm thầysáng bạn lành cầu chỉ dạy cho mình tu, khi ngộ đạo thìgiải quyết được hai mối nghi trên. Khi xưa Thái tử Sĩ-đạt-tangồi tu dưới cội Bồ-đề trong suốt bốn mươi chín ngàyđêm. Ðêm cuối cùng khoảng canh hai Ngài chứng được túcmạng minh, biết được đời sống vô số kiếp về trướcnên giải quyết được câu hỏi "ta từđâu đến đây". Khoảng canh ba Ngài chứng được thiênnhãn minh, thấy rõ con người sau khi chết theo nghiệp dẫnđi luân hồi trong lục đạo, kẻ đi lên, người đi xuốngv.v... Như vậy muốn giải đáp câu hỏi thứ nhất ngườitu phải chứng túc mạng minh, giải đáp câu hỏi thứ hai phảichứng thiên nhãn minh. Ngày nay chúng ta tu còn mờ mịt thật làkhó giải quyết được hai mối nghi "sanh từđâu đến,chết đi về đâu".

Hỏi:Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân ngườinày sanh từ đâu đến ?

Ðáp:Vốn từ vô vi đến.

Lạihỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết chết đi vềđâu ?

Ðáp:Lại từ vô vi đi.

Ðếntừ vô vi đến, đi cũng từ vô vi đi. Nhưng vô vi là cái gì? "Vô vi" là từ ngữ của đạo Lão, khi Phật giáo du nhậpvào Trung Quốc, nói đến lý bất sanh bất diệt, các Ngàimượn từ vô vi của đạo Lão để dùng. Nhà Phật dùng từvô vi, là đối lại từ chữ hữu vi. Phàm tất cả sự vậtcó hình tướng ở thế gian có sanh có diệt là hữu vi, phápkhông sanh diệt gọi là vô vi. Hỏi rằng: khi cha mẹ chưa sanhta từ đâu đến ? Ðáp: từ vô vi đến tức là từ chỗ bấtsanh bất diệt đến. Hỏi sau khi chết rồi đi về đâu ? Ðáprằng: trở về chỗ bất sanh bất diệt. Câu đáp này hơigượng một chút, không sát nghĩa lắm. Sauđâytôi giải thích kỹ hơn về câu đáp sanh từ vô vi đến. KinhLăng Nghiêm nói: Chân như không giữ tự tánh hốt nhiên mộtniệm vô minh dấy khởi, tất cả tướng sanh diệt dấy khởitheo nên đi vào sanh tử. Từ chân mà khởi vọng niệm đi vàosanh tử nghe khó hiểu quá. Song tôi ví dụ cho dễ hiểu: Hiệngiờ chúng ta đang mở mắt tỉnh táo, nhưng một lúc sau nghemỏi mệt, gió mát thổi qua chúng ta thiu thiu ngủ gục. Vậythử hỏi ngủ gục đó từ đâu đến ? Có phải từ cái tỉnhtáo hồi nãy đến không ? Nếu không có cái tỉnh làm gì cócái mê, cái mê ngủ gục từ cái tỉnh. Nếu ai đánh thứcchúng ta tỉnh lại thì không còn mê nữa. Như vậy cái mênó đến lúc nào chúng ta không dự biết trước được, cóai biết mình sửa soạn buồn ngủ không ? Chỉ quên cái tỉnhlà bị cái mê xâm chiếm, mê xâm chiếm thì ngủ say mộngmị đủ thứ. Cũng vậy, nếu chúng ta quên tự tánh chân nhưthì sẽ dấy sanh vọng niệm, vì vọng niệm dấy khởi nênsanh ra đủ thứ khổ đau. Cho nên hỏi sanh từ đâu đến ?Ðáp từ vô vi, tức là quên cái không sanh diệt nên dấy niệmsanh diệt rồi đi vào trong sanh tử, chịu sanh tử khổ đau.Khi chết trở về vô vi tức là trở về chỗ không sanh diệt.Nghe như thế có người hiểu lầm cho rằng không tu chết cũngtrở về chỗ không sanh diệt. Hiểu như thế là sai lầm, chúngta phải tu dứt hết mầm sanh diệt mới được trở về chỗkhông sanh diệt, nếu không tu thì vẫn tiếp tục đi trong sanhtử.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com