- 1. Bích Nham Lục Giải Đề
- 2. Tắc 01 - Tắc 03
- 3. Tắc 04 - Tắc 06
- 4. Tắc 07 - Tắc 09
- 5. Tắc 10 - Tắc 12
- 6. Tắc 13 - Tắc 16
- 7. Tắc 17 - Tắc 19
- 8. Tắc 20 - Tắc 22
- 9. Tắc 23 - Tắc 25
- 10. Tắc 26- Tắc 30
- 11. Tắc 31 - Tắc 34
- 12. Tắc 35 - Tắc 38
- 13. Tắc 39 - Tắc 43
- 14. Tắc 44 - Tắc 48
- 15. Tắc 49 - Tắc 52
- 16. Tắc 53 - Tắc 56
- 17. Tắc 57 - Tắc 62
- 18. Tắc 63 - Tắc 67
- 19. Tắc 68 - Tắc 72
- 20. Tắc 73 - Tắc 76
- 21. Tắc 77 - Tắc 81
- 22. Tắc 82 - Tắc 85
- 23. Tắc 86 - Tắc 90
- 24. Tắc 91 - Tắc 95
- 25. Tắc 96 - Tắc 98
- 26. Tắc 99 - Tắc 100
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980
TẮC 96
TRIỆU CHÂU BA CHUYỂN NGỮ
CÔNG ÁN: Triệu Châu dạy chúng ba chuyển ngữ.
GIẢI THÍCH: Triệu Châu dạy chúng ba chuyển ngữ xong, rốt sau lại nói: Chân Phật ngồi trong thất. Một câu này rõ ràng quá mức. Cổ nhân mở một con mắt đưa tay tiếp người, tạm mượn lời này để thông tin tức, cốt yếu vì người. Nếu ông một bề toàn nêu chánh lệnh thì trước pháp đường cỏ cao một trượng. Tuyết Đậu không hài lòng câu rốt sau ló đuôi của Sư, vì thế bỏ bớt chỉ tụng ba câu. Phật đất nếu độ nước thì tan hoại. Phật vàng nếu độ lò đúc thì chảy. Phật gỗ nếu độ lửa thì bị đốt. Có cái gì khó hiểu? Tuyết Đậu tụng cổ một trăm tắc, so sánh sắn bìm, chỉ có ba bài tụng này quả có hơi hám Thiền tăng. Chỉ bài tụng này cũng thật khóhiểu. Nếu ông thấu được ba bài tụng này, cho ông khỏi tham.
TỤNG:
Nê Phật bất độ thủy
Thần Quang chiếu thiên địa
Lập tuyết như vị hưu
Hà nhân bất điêu ngụy.
DỊCH:
Phật đất chẳng độ nước
Thần Quang soi trời đất
Đứng ngoài tuyết chưa thôi
Người nào chẳng dối trá.
GIẢI TỤNG: “Phật đất chẳng độ nước, Thần Quang soi trời đất”, hai câu tụng này rõ ràng rồi. Hãy nói vì sao lại dẫn Thần Quang? Nhị Tổ khi mới sanh, thần quang soi sáng nhà thẳng đến trên trời. Lại một đêm, thần nhân hiện bảo Nhị Tổ: Ở đây làm gì? Ông sẽ đắc đạo, thời cơ đã đến, nên sang phương Nam. Nhị Tổ do gặp thần nên gọi là Thần Quang. Ngài cư ngụ vùng Y Lạc, đọc hết các sách, mỗi khi than: “Khổng,Lão dạy về thuật phong qui.” Được nghe Đại sư Đạt-ma ở Thiếu Lâm, Ngàibèn đến đó sớm tối tham vấn. Tổ Đạt-ma ngồi thẳng ngó mặt vô vách, chẳng được nghe dạy bảo điều gì. Ngài tự suy nghĩ: Người xưa cầu đạo, chẻ xương lấy tủy, chích máu giúp người đói, trải tóc che bùn, gieo mình cho cọp ăn, xưa còn như thế, ta lại là sao? Ngày mùng chín tháng chạp năm ấy, ban đêm tuyết dày, Nhị Tổ đứng dưới thềm đến sáng, tuyết lên đến đầu gối. Tổ Đạt-ma thương hỏi: Ông đứng dưới tuyết như thế để cầu việc gì? Nhị Tổ buồn khóc thưa: Chỉ mong Ngài từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng sanh. Tổ Đạt-ma nói: Diệu đạo của chư Phật nhiều kiếp tinh cần, khó làm mà hay làm, khó nhẫn mà hay nhẫn, há lấy đức nhỏ trí nhỏ, tâm khinh tâm mạn, mong được chân thừa, không có lẽ ấy. Nhị Tổ nghe dạy răn, lòng mộ đạo càng thiết, lén lấy dao bén tự chặt tay trái, đến trước dâng Tổ Đạt-ma. Đạt-ma biết là pháp khí, bảo: Ông đứng ngoài tuyết chặt tay, sẽ vì việc gì? Nhị Tổ thưa: Tâm con chẳng an, xin Thầy pháp an tâm. Đạt-ma bảo: Đem tâm ra, ta vì ông an. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm trọn không thể được. Đạt-ma nói: Vì ông an tâm xong. Sau Đạt-ma đổi tên cho Ngài là Huệ Khả. Sau Ngài gặp được Tam tổ Tăng Xán, truyền pháp xong, ở ẩn tại núi Hoàn Công Thơ Châu, gặp thời Hậu Châu, vua Võ Đế phá diệt Phật pháp, sa thải Tăng Ni, Tam Tổ qua lại huyện Thái Hồ vùng núi Tư Không, không ở chỗ nào cốđịnh, hơn mười năm mà không có người biết. Cao Tăng Truyện của Tuyên luật sư chép việc Nhị Tổ không được rõ. Truyện Tam Tổ nói: Diệu pháp của Nhị Tổ chẳng truyền ở đời, nhờ sau gặp người như trước ngộ được chỗ của Ngài đứng trong tuyết. Vì thế Tuyết Đậu nói: “Đứng ngoài tuyết chưa thôi, người nào chẳng dối trá.” Đứng ngoài tuyết nếu chưa thôi, đủ khiến bọnngười dối trá bắt chước theo, một lúc chỉ thành dối trá, tức là bọn dối trá. Tuyết Đậu tụng Phật đất chẳng độ nước, vì sao lại dẫn nhân duyên này để dùng? Sư tham đến dưới ý căn không còn một việc, lột trần mới tụng được như thế. Ngũ tổ Diễn bình thường bảo người xem ba bài tụng này. Đâu chẳng thấy Hòa thượng Thủ Sơ có bài tụng dạy chúng: “Trên núi Ngũ Đài mây nấu cơm, trước nhà Phật cổ chó đái trời, ở đầu cột phướn toan nướng bánh, ba đứa trẻ Hồ đêm rải tiền.” Hòa thượng Đỗ Thuận tụng: “Hoài Châu trâu ăn lúa, Ích Châu ngựa no đầy, mọi người tìm thầy thuốc, chích heo đùi trái này.” Phó Đại sĩ tụng: “Tay không cầm cây cuốc, bộ hành cỡi trâu đi, trên cầu người qua lại, cầu trôi nước chẳng trôi.” Lại nói: “Người máy đá giống ông, cũng biết bài ca hát, ông nếu giống người đá,bản tuyết nên cùng hòa.” Nếu hiểu được lời này là hiểu được bài tụng của Tuyết Đậu:
TỤNG:
Kim Phật bất độ lô
Nhân lai phỏng Tử Hồ
Bi trung sổ cá tự
Thanh phong hà xứ vô.
DỊCH:
Phật vàng chẳng độ lò
Người đến hỏi Tử Hồ
Trong bia có mấy chữ
Gió mát chỗ nào không.
GIẢI TỤNG: “Phật vàng chẳng độ lò, người đến hỏi Tử Hồ”, hai câu này cũng tụng xong, vì sao lại dẫn người đến hỏi Tử Hồ? Phải là hàng tác gia rèn luyện mới được. Hòa thượng Tử Hồ có làm tấm bia ở đường lên núi, trong bia viết: “Tử Hồ có một con chó, trên thì cắn đầu người, giữa thì cắn lưng người, dưới thì cắn chân người, suy nghĩ thì tan thân mất mạng.” Phàm thấy người mới đến liền hét: Coi chừng chó! Tăng vừa xoay đầu nhìn, Tử Hồ trở về phương trượng. Hãy nói vì sao cắnTriệu Châu chẳng được? Lại một đêm giữa khuya, Sư ở trong phòng kêu to: Bắt ăn trộm! Bắt ăn trộm! Trong lúc tối mù mịt gặp một vị Tăng, chụp vào ngực nói to: Bắt được rồi! Bắt được rồi! Tăng thưa: Bạch Hòa thượng! Con, chẳng phải. Tử Hồ bảo: Phải thì phải, chỉ chẳng chịu thừa nhận. Nếu ông hiểu lời nói này, nhận ông cắn chết mọi người, nơi nơi gió mát rười rượi. Nếu chưa được như thế, “trong bia có mấy chữ” quyết định không thể nào thông. Nếu cần thấy Sư, chỉ thấu được tột mới thấy.
TỤNG:
Mộc Phật bất độ hỏa
Thường tư Phá Táo Đọa
Trượng tử hốt kích trước
Phương tri cô phụ ngã.
DỊCH:
Phật gỗ chẳng độ lửa
Thường nhớ Phá Táo Đọa
Cây gậy chợt đánh đến
Mới biết cô phụ ta.
GIẢI TỤNG: “Phật gỗ chẳng độ lửa, thường nhớ Phá Táo Đọa”, hai câu này tụng xong. Tuyết Đậu nhân Phật gỗ chẳng độ lửa này thường nghĩ đến Phá Táo Đọa. Hòa thượng Phá Táo Đọa ở Tung Sơn chẳng biết tên họ, ngôn hạnh khó lường, thường ở ẩn Tung Sơn. Một hôm, Sư dẫn chúng vào lòng núi, có một cái miếu rất linh, trong điện chỉ để một vịtáo, gần xa đến cúng kính liên miên, sát sanh hại mạng rất nhiều. Sư vào trong miếu lấy cây gậy gõ vị táo ba cái, nói: Dốt! Ngươi vốn đất gạch họp thành, linh từ đâu lại, Thánh từ chỗ nào hiện, mà sát sanh hại mạng thế ấy? Lại gõ ba cái, táo tự nghiêng ngả rồi bể nát. Chốc lát, có người đầu đội mũ mặc áo xanh, bỗng nhiên đứng trước mặt Sư, lễ bái thưa: Tôilà thần Táo thọ nghiệp báo đã lâu, ngày nay nhờ Thầy nói pháp vô sanh,đã thoát khỏi chỗ này, sanh vào cõi trời, đến đây bái tạ. Sư nói: Tánhbản hữu của ông chẳng phải tôi gắng nói. Thần lại lễ bái rồi ẩn. Thị giả thưa: Chúng con theo hầu Hòa thượng đã lâu, chưa nhờ chỉ dạy, thần Táođược yếu chỉ thẳng tắt gì, liền sanh cõi trời? Sư đáp: Ta chỉ nói với y, ngươi vốn đất gạch hợp thành, linh từ đâu lại, Thánh từ chỗ nào hiện, mà sát sanh hại mạng thế ấy? Thị giả không nói được. Sư hỏi: Hiểu chăng? Thị giả thưa: Chẳng hiểu. Sư bảo: Lễ bái đi. Thị giả lễ bái. Sư bảo: Bể rồi! Bể rồi! Rơi rồi! Rơi rồi! Thị giả bỗng nhiên đại ngộ. Sau có người thuật lại cho Quốc sư Huệ An nghe. Quốc sư khen: “Kẻ này hiểu tột vật ngã nhất như, thần Táo ngộ lẽ này là phải, vị Tăng kia là năm uẩn hợp thành, cũng nói bể rồi rơi rồi, cả hai đều khai ngộ.” Vả lại, tứ đại ngũ uẩn cùng ngói gạch bùn đất là đồng là khác? Đã như thế, vì sao Tuyết Đậu dẫn nói “cây gậy chợt đánh đến, mới biết cô phụ ta”? Tại sao lại thànhcô phụ? Chỉ là chưa được cây gậy. Hãy nói Tuyết Đậu tụng Phật gỗ chẳngđộ lửa, tại sao lại dẫn công án Phá Táo Đọa? Lão tăng thẳng thừng vì ông nói: Ý kia chỉ là bặt được mất, tình trần ý tưởng lột trần, tự nhiên thấy chỗ thân thiết kia.
TẮC 97
KINH KIM CANG TỘI NGHIỆP TIÊU DIỆT
LỜI DẪN: Nắm một buông một chưa phải tác gia, đưa một rõ ba vẫn trái tông chỉ. Dù được trời đất bỗng đổi, bốn phương bặttiếng, sấm vang chớp nhoáng mây bay mưa đuổi, hồ nghiêng núi ngả, chậubể bồn nghiêng, cũng chưa đề được phân nửa. Lại có người khéo chuyển cửa trời hay dời trục đất chăng, thử cử xem?
CÔNG ÁN: Kinh Kim Cang nói: “Nếu bị người khinh tiện, người ấy tội nghiệp đời trước nên đọa đường ác, vì đời nay bị người khinh tiện nên tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt.”
GIẢI THÍCH: Kinh Kim Cang nói: “Nếu bị người khinh tiện, người ấy tội nghiệp đời trước nên đọa đường ác, vì đời nay bị người khinh tiện nên tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt.” Căn cứ chỗbình thường giảng cứu là thường luận trong kinh. Tuyết Đậu nêu ra tụnglà ý muốn đả phá các nhà giảng kinh nhằm trong hang quỉ tìm kế sống. Thái tử Chiêu Minh phân khoa phần này là “hay sạch nghiệp chướng”. Đạiý kinh nói, kinh này linh nghiệm, người như thế đời trước tạo nghiệp địangục, vì sức lành mạnh chưa thọ, do đời nay bị người khinh tiện, tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt. Kinh này vẫn hay tiêu tội nghiệp từ vô lượng kiếp đến giờ, chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ khỏi thọ, lại được Phật quả Bồ-đề. Cứ theo các nhà kinh luận thì tụng hơn hai mươi trang kinh này, gọi là trì kinh. Có gì dính dáng. Có người nói, kinh tự có linh nghiệm. Nếu như thế, ông thử đem một quyển kinh bỏ ở chỗ trống, xem có cảm ứng hay không? Pháp Nhãn nói: “Người chứng Phật địa gọi là trì kinh này.” Trong kinh nói: “Tất cả chư Phật và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ kinh này ra.” Hãy nói gọi cái gì là kinh này? Đâu phải là gáy vàng bìa đỏ là phải sao? Chớ nhận lầm trái cân bàn. Kim cang là dụ cho pháp thể kiên cố nên vật không thể phá hoại, vì cáidụng bén hay phá dẹp tất cả vật, nghĩ đến núi thì núi băng, nghĩ đến biển thì biển cạn, căn cứ trên dụ đặt tên, pháp ấy cũng vậy. Bát-nhã có ba thứ:
1) Thật tướng Bát-nhã.
2) Quán chiếu Bát-nhã.
3) Văn tự Bát-nhã.
Thật tướng Bát-nhã tức là chân trí, một đoạn đại sự đang ở dưới chân các ông, sáng tột xưa nay, vượt hẳn thấy biết, lột trần bày lồ lộ. Quán chiếu Bát-nhã tức là chân cảnh, trong mười hai giờ phóng quang khắp nơi, nghe tiếng thấy sắc. Văn tự Bát-nhã tức là văn tự nói ra, tức như hiện nay người nói kẻ nghe. Hãy nói là Bát-nhã hay chẳng phải Bát-nhã? Người xưa nói: Mỗi người tự có một quyển kinh. Lại nói: Tay chẳng cầm quyển kinh, thường tụng như thế. Nếu căn cứ sự linh nghiệm của kinh này, đâu những chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ khỏi thọ, giả sửcông năng bằng bậc Thánh cũng chưa phải là kỳ đặc. Ông Bàng cư sĩ nghegiảng kinh Kim Cang, hỏi Pháp sư: Kẻ tục có việc nhỏ muốn hỏi, chẳng biết được không? Pháp sư đáp: Có nghi xin hỏi. Bàng Uẩn hỏi: Không tướng ngã, không tướng nhân, đã không tướng ngã nhân, bảo ai giảng ai nghe? Pháp sư không đáp được, lại nói: Tôi y văn giải nghĩa chẳng biết ý này. Bàng Uẩn làm một bài tụng: “Không ngã cũng không nhân, làm gì có sơ thân, khuyên ông thôi đừng giảng, đâu bằng thẳng cầu chân. Tánh Kim cang Bát-nhã, ngoài dứt mảy bụi trần, tôi nghe cùng tin nhận, cả thảy đều giả danh.” Bài tụng này rất hay, rõ ràng một lúc nói xong. Khuê Phong phânkhoa tứ cú kệ nói: “Phàm đã có tướng, đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai.” Đây là nghĩa bốn câu kệ, giống như “người chứng Phật địa gọi là trì kinh này”. Lại nói: “Nếu do sắc thấy ta, do âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai.” Đây cũng là bốn câu kệ. Chỉ ở trong đó nhận nghĩa nó thì đúng vậy. Có vị Tăng hỏi Hối Đường: Thế nào là tứ cú kệ? Hối Đường đáp: Lời rơi rồi, chẳng biết. Tuyết Đậu ở trên “Kinh này” chỉ ra, nếu có người trì “Kinhnày” tức là Bản địa phong quang, Bản lai diện mục của các ông. Nếu căncứ Tổ lệnh đang hành Bản địa phong quang, Bản lai diện mục cũng chặt làm ba đoạn, chư Phật ba đời, mười hai phần giáo chẳng tiêu một cái ấn tay. Đến trong đây giả sử có muôn thứ công năng cũng không thể xem xét được. Người nay chỉ cần tụng kinh, trọn chẳng biết là đạo lý gì? Chỉ thích nói tôi một ngày tụng được nhiều hay ít, nhận lấy bìa vàng gáy đỏ, chạy theo những hàng chữ mực. Đâu chẳng biết toàn do tự kỷ trên bản tâm dấy khởi, cái này chính là chỗ tụng vậy. Hòa thượng Đại Châu nói: “Nhằm trong thất chồng mấy hòm kinh, xem có phóng quang chăng? Chỉ do chính mình một niệm phát tâm là công đức. Vì sao? Bởi muôn pháp đều xuất phát nơi tâm mình, một niệm tức linh, đã linh tức thông, đã thông tức biến.” Cổ nhân nói:“Trúc biếc xanh xanh trọn là Chân như, hoa vàng rợp rợp đều là Bát-nhã.” Nếu thấy được triệt tức là Chân như, nếu thấy chưa được hãy nói cái gìlà Chân như? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu người muốn biết rõ, tất cả Phậtba đời, nên quán tánh pháp giới, tất cả do tâm tạo.” Nếu ông biết đượcrồi, chạm cảnh gặp duyên làm chủ làm tông. Nếu chưa thể rõ được, hãy lắng nghe xử phân. Tuyết Đậu mở mắt tụng đại khái, cốt rõ sự linh nghiệm của “Kinh này”.
TỤNG:
Minh châu tại chưởng
Hữu công giả thưởng
Hồ Hán bất lai
Toàn vô kỹ lưỡng.
Kỹ lưỡng ký vô
Ba-tuần thất đồ
Cù-đàm! Cù-đàm!
Thức ngã dã vô?
DỊCH:
Minh châu trong tay
Có công ắt thưởng
Hồ Hán chẳng đến
Toàn không xét nét.
Xét nét đã không
Ba-tuần mất lối
Cù-đàm! Cù-đàm!
Biết tôi cùng chăng?
Lại nói: Khám phá xong.
GIẢI TỤNG: Hai câu “minh châu trong tay, có công ắt thưởng”, nếu có người trì được “Kinh này” có công nghiệm thì đem châu thưởng cho. Kia được châu này tự nhiên biết dùng, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán, vạn tượng sum la dọc ngang hiển hiện, đây là có công huân. Pháp Nhãn nói: Người chứng Phật địa gọi là trì kinh này. Hai câu này là tụng xong công án. Hai câu “Hồ Hán chẳng lại, toàn không xét nét”, Tuyết Đậu vặn lỗ mũi lại, nếu có Hồ Hán đến thì bảo ông hiện, nếu khi Hồ Hánđều chẳng đến thì làm sao? Đến trong đây con mắt Phật nhìn cũng chẳng thấy. Hãy nói là công huân, là tội nghiệp, là Hồ là Hán? Thật giống con linh dương mọc sừng, chớ nói là tiếng vang, dấu vết đến hơi hám cũng không, nhằm chỗ nào dò tìm? Dù là chư thiên dâng hoa cũng không có đường, ma ngoại lén nhìn cũng không có cửa. Thế nên Hòa thượng Động Sơn một đời trụ viện mà thần Thổ địa tìm không thấy dấu vết. Một hôm thấy trước nhà trù cơm bún rơi vung vãi, Ngài khởi tâm bảo: Đồ vật của thường trụ đâunên khinh rẻ như thế. Thần thổ địa thấy được Ngài liền lễ bái. Tuyết Đậu nói: “xét nét đã không”, nếu đến đây không có chỗ xét nét thì Ma-ba-tuần cũng phải mất lối. Thế Tôn xem tất cả chúng sanh như con đỏ, nếu có một người phát tâm tu hành thì cung điện Ba-tuần bị rạn nứt, nó liền đến não loạn người tu hành. Tuyết Đậu nói, dù cho Ma-ba-tuần đến thế ấy, cũng khiến mất hết đường lối, không thể đến gần chỗ người tu. Tuyết Đậu lạitự vỗ ngực nói: “Cù-đàm! Cù-đàm! Biết tôi cùng chăng?” Chớ nói là Ma-ba-tuần, dù là Phật đến, lại biết tôi cùng chăng? Ông già Thích-ca còn chẳng thấy, các ông nhằm chỗ nào dò tìm? Lại nói: Khám phá xong. Hãy nói là Tuyết Đậu khám phá Cù-đàm hay Cù-đàm khám phá Tuyết Đậu? Người đủ mắt thử xét định xem?
TẮC 98
THIÊN BÌNH HÀNH CƯỚC
LỜI DẪN: “Một hạ lăng xăng tạo sắn bìm, tợ hồ cột được Ngũ Hồ tăng. Kim cang kiếm báu ngay đầu chặt, mới hiểu từ lâu trăm bất năng.” Hãy nói thế nào là kiếm báu Kim cang? Nhìn lên lông mày, mời thử bày mũi nhọn xem?
CÔNG ÁN: Hòa thượng Thiên Bình khi đi hành cước, đến tham vấn Tây Viện, tự thường nói: “Chớ nói hội Phật pháp, tìm người nói thoại cũng không có.” Một hôm, Tây Viện xa thấy gọi: Tùng Ỷ! ThiênBình ngưỡng đầu. Tây Viện nói: Lầm! Thiên Bình đi hai ba bước. Tây Viện bảo: Lầm! Thiên Bình lại gần. Tây Viện bảo: Vừa rồi hai cái lầm, là Tây Viện lầm, là Thượng tọa lầm? Thiên Bình thưa: Tùng Ỷ lầm! Tây Viện nói: Lầm! Thiên Bình ra đi. Tây Viện nói: Hãy ở lại đây qua hạ, sẽ cùng Thượng tọa thương lượng hai cái lầm này. Khi ấy Thiên Bình liền đi. Sau Thiên Bình trụ viện bảo chúng: Ta khi ban đầu đi hành cước bị gió nghiệp thổi đến chỗ Trưởng lão Tư Minh, liên tiếp hạ hai cái lầm, lại cầm ta qua hạ sẽ cùng ta thương lượng, ta chẳng nói khi ấy là lầm, cất bước đi phương Nam, ta sớm biết lầm rồi.
GIẢI THÍCH: Tư Minh trước tham vấn Đại Giác, sau kế thừa tiền Bảo Thọ. Một hôm hỏi: Khi đạp nát Hóa thành đến thì thế nào?Thọ đáp: Kiếm bén chẳng chém kẻ chết. Minh nói: Chém. Thọ liền đánh. Tư Minh mười lần nói chém. Bảo Thọ mười lần đánh, nói: Kẻ này chết gấp, đem cái thây chết chống lại đòn đau, bèn nạt đuổi ra. Khi ấy có vị Tăng thưa Bảo Thọ: Vị Tăng hỏi thoại vừa rồi rất có đạo lý, Hòa thượng nên phương tiện tiếp y. Bảo Thọ cũng đánh đuổi vị Tăng này ra. Hãy nói Bảo Thọ cũng đánh đuổi vị Tăng này là vì nói phải nói quấy, hay riêng có đạo lý, ý thế nào? Về sau hai vị đều kế thừa Bảo Thọ. Một hôm Tư Minh ra yết kiến Nam Viện. Nam Viện hỏi: Ở đâu đến? Tư Minh thưa: Hứa Châu đến. Nam Viện hỏi: Đem được gì đến? Tư Minh thưa: Đem được con dao cạo tóc ở Giang Tây đến dâng Hòa thượng. Nam Viện hỏi: Đã từ Hứa Châu lại, tại sao có con dao cạo tóc ở Giang Tây? Tư Minh nắm tay Nam Viện bấm một cái. Nam Viện bảo: Thị giả nhận lấy. Tư Minh lấy y phất một cái rồi đi. Nam Viện nói: A thích thích! A thích thích! Thiên Bình từng tham vấn Tiến Sơn Chủ đến. Vì Sư đến các nơi tham được cái Thiền rau cải để trong bụng, đến nơi nào cũng khai đại khẩu nói ta hội thiền hội đạo, thường nói: “Chớ nói hội Phật pháp, tìm người nói thoại cũng không.” Phân hôi thúi huân người, chỉ quản tuôn cái khinh bạc. Vả như chư Phật chưa ra đời, Tổ sư chưa từ Ấn sang, trước khi chưa có vấn đáp, chưa có công án, lại có thiền đạo chăng? Cổ nhân sự bất đắc dĩ đối cơ dạy bảo, người sau gọi là công án.Nhân Thế Tôn đưa cành hoa, ngài Ca-diếp cười chúm chím. Sau đến A-nan hỏi Ca-diếp: Thế Tôn ngoài truyền y Kim Lan, còn truyền pháp gì riêng chăng? Ca-diếp gọi: A-nan! A-nan ứng: Dạ! Ca-diếp nói: Cây phướn trướccửa ngã. Nếu như trước khi chưa đưa cành hoa, A-nan chưa hỏi, chỗ nào được công án? Chỉ quản bị các nơi dùng ấn bí đao ấn định, rồi nói ta hội Phật pháp kỳ đặc chớ bảo người biết. Thiên Bình chính như thế, bị Tây Viện kêu liên tiếp hai chữ lầm khiến phải sợ hãi kinh hoàng bối rối, trước chẳng đến thôn sau chẳng tới điếm. Có người nói: Nói ý Tây sang sớm đã lầm rồi. Đâu chẳng biết chỗ rơi hai chữ lầm của Tây Viện. Các ông hãy nói rơi tại chỗ nào? Vì thế nói: Kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Thiên Bình ngưỡng đầu đã rơi hai rơi ba rồi. Tây Viện nói lầm, Sư lại không tiến được chỗ dùng hiện tại, chỉ nói ta trong bụng có thiền,chẳng cần người, lại đi hai ba bước. Tây Viện nói lầm, vẫn như xưa tốimù mịt. Thiên Bình đến gần, Tây Viện nói vừa rồi hai chữ lầm, là Tây Viện lầm hay Thượng tọa lầm? Thiên Bình nói Tùng Ỷ lầm. Đáng tức cười không dính dáng. Đã là đầu thứ bảy thứ tám rồi vậy. Tây Viện bảo: Hãy ởlại đây qua hạ, cùng Thượng tọa thương lượng hai chữ lầm. Khi ấy ThiênBình liền đi. Giống thì cũng giống, phải thì chưa phải, cũng chẳng nóiSư không phải, chỉ là tiến chẳng lên. Tuy nhiên như thế, cũng có chút ít hơi hám của Thiền tăng. Thiên Bình sau trụ viện bảo chúng: Ta buổi đầuđi hành cước bị gió nghiệp thổi đến chỗ Hòa thượng Tư Minh bị liên tiếp hạ hai chữ lầm, lại lưu qua hạ cùng ta thương lượng, ta chẳng nói khi ấy là lầm. Ta cất bước phương Nam, sớm biết lầm rồi vậy. Gã này dầu nói tột, chỉ là rơi vào đầu thứ bảy thứ tám, trước sau không liên hệ. Như hiện nay có người nghe Sư nói, khi cất bước sang phương Nam, sớm biết lầm rồi, liền suy nghĩ nói: Khi chưa đi hành cước không có nhiều Phật pháp thiền đạo, đến khi đi hành cước bị các nơi quở gạt. Chẳng bằng khi chưa đi hành cước, gọi đất là trời, gọi núi là nước, may thay không một việc. Nếu khởi kiến giải lưu tục thế ấy, sao chẳng mua một chiếc mũ đội cho tất cả để qua thời, có dùng được chỗ gì? Phật pháp chẳng phải đạo lý này. Nếu luận việc này há có nhiều thứ sắn bìm. Nếu ông nói tôi hội, kia chẳng hội, là gánh một gánh thiền chạy quanh khắp thiên hạ, bị người mắt sáng khám phá, một điểm sử dụng cũng không được, Tuyết Đậu chính như thế tụng ra:
TỤNG:
Thiền gia lưu, ái khinh bạc
Mãn đổ tham lai dụng bất trước
Kham bi, kham tiếu Thiên Bình lão
Khước vị đương sơ hối hành cước.
Thố! Thố!
Tây Viện thanh phong đốn tiêu thước.
DỊCH:
Dòng thiền gia, thích đơn sơ
Đầy bụng tham rồi dùng chẳng được
Đáng thương, đáng cười lão Thiên Bình
Lại bảo ban sơ hối hành cước.
Lầm! Lầm!
Tây Viện gió lành thổi tiêu sạch.
Lại nói: Chợt có Thiền tăng ra nói lầm. Tuyết Đậu lầm đâu giống Thiên Bình lầm.
GIẢI TỤNG: Hai câu “dòng thiền gia, thích đơn sơ, đầy bụng tham rồi dùng chẳng được”, gã này hiểu thì hiểu chỉ là dùng chẳngđược. Bình thường mắt nhìn trời mây nói kia hội nhiều ít thiền, đến khi gặp lò lửa vừa đốt thì một điểm sử dụng cũng không được. Ngũ Tổ tiên sư nói: “Có một nhóm người tham thiền giống như giã bánh dầy trong bình lưu-ly, xoay lăn không được, trút ra chẳng ra, chạm đến thì bể. Nếu cần chỗ linh động, chỉ tham được cái thiền vỏ rách, đi thẳng lên núi cao nhào xuống cũng không bể không hư.” Cổ nhân nói: “Giả sử trước lời nóitiến được, vẫn là kẹt vỏ dính niêm, dù cho dưới câu tinh thông, chưa khỏi chạm đường thấy loạn.” Hai câu “đáng thương đáng cười lão Thiên Bình, lại bảo ban sơ hối hành cước”, Tuyết Đậu nói đáng thương Sư đối người nói chẳng ra, đáng cười Sư hiểu một thứ thiền da bụng, lại dùng chút ít chẳng được. “Lầm! Lầm!” Hai cái lầm này, có người nói Thiên Bình chẳng hội là lầm. Lại có người nói: Không lời nói ấy là lầm. Có dính dáng gì? Đâu chẳng biết hai cái lầm này như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, là chỗ hành lý của người hướng thượng. Như cầm kiếm chém người, phải chặt ngay cổ người thì mạng căn mới chết. Nếu nhằm trên kiếm bén này đi được, liền bảy dọc tám ngang. Nếu hiểu hai cái lầm, có thể thấy “Tây Viện gió lành thổi tiêu sạch”. Tuyết Đậu thượng đường cử thoại đầu này rồi, ý nói lầm. Tôi hỏi ông cái lầm của Tuyết Đậu có giống cáilầm của Thiên Bình chăng? Hãy tham ba mươi năm.