SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một
PHẬT KHAI THỊ NGUỒN GỐC DUYÊN KHỞI CỦA HIỆN TƯỢNG VẬT CHẤT
Phật dạy rằng:
A Nan! Bản thể của hiện tượng vốn chung cùng, do nhơn duyên mà biến hiện. Trong thể tánh không đồng không dị, phân giải sinh ra thành dị. Khác với các dị hóa hợp lại thành đồng. Tánh đồng dị đã phát minh, hai lực hấp dẫn và đề kháng cũng tự thành năng lực. Giữa sự nhiễu loạn mâu thuẫn bên trong của vật lý tâm lý và tánh hư không; những tánh chất năng động hợp thành thế giới, tánh thể bất động là hư không. Hư không là đồng, thế giới là dị. Đồng dị hay không đồng dị, tất cả đều gọi là pháp hữu vi.
Bản thể của hiện tượng là Như Lai Tạng thì bao trùm khắp mười phương pháp giới, khắp không gian và khắp cả thời gian. Nó chính là chơn không mà diệu hữu nghĩa là từ cái không trùm khắp mà biến hóa duyên khởi một cách thần diệu, nhiệm mầu để hình thành ra muôn sinh vạn vật của thế giới hữu vi. Nhưng khi duyên hết thì tất cả các đại sẽ thu về với tự tánh ban đầu chớ không có cái gì thật mất. Vì thế không có vật gì là thật sinh hay thật mất mà chỉ là hiện tượng duyên khởi của thế gian vũ trụ trong tiến trình bất biến tùy duyên và tùy duyên bất biến. Nói cách khác, bản thể là chung cùng, nhưng tùy theo nhân duyên mà biến hiện thành ra thế giới hữu vi.
Trong chân tâm thường trụ của pháp giới nhất chân vốn không có tướng đồng tướng dị, nhưng vì một niệm vọng động mà biến chân như chuyển theo duyên mà có sinh có diệt, tạo nên A lại da thức. Thí dụ như trong không khí thì tất cả đều giống nhau tức là không đồng không dị, nhưng nếu đem phân tích thì không khí có chứa nào là dưỡng khí, nào là khí Nitrogen, nào là hơi nước, nào là những thứ khí ô nhiễm khác...tức là có đồng có dị rồi. Nên nhớ ngày nay con người dựa theo khoa học mà phân tích những thành phần trong không khí, nhưng 2500 trước Đức Phật cũng đã nhìn thấu suốt như vậy thì đủ biết trí tuệ thâm sâu của bậc Đại Giác Ngộ quả thật là bất khả tư nghì.
Tánh đồng dị nghĩa là âm dương đối chọi. Có ba trường hợp về tánh đồng và dị :
1) Đồng năng tương bội nghĩa là tất cả các đồng cùng trợ lực cho nhau thì sẽ tăng thêm sức mạnh. Thí dụ một người không thể kéo một khúc cây to được, nhưng nếu cộng thêm năm mười người nữa thì việc kéo rất dễ dàng.
Dị năng tương để nghĩa là ngược lại của đồng năng tương bội. Mười người đang kéo khúc cây dễ dàng như vậy, bỗng nhiên bốn năm người vì có việc phải đi nên chỉ còn lại 5 người kéo thành thử kéo khúc cây bây giờ rất khó khăn.
2) Đồng tánh tương cự nghĩa là cùng giống thì khắc nhau và Dị tánh tương hấp nghĩa là khác giống thì hạp nhau. Thí dụ hai người đàn ông nói chuyện vài phút đã thấy chán sinh ra cãi vã, trong khi một cặp nam nữ nói chuyện suốt ngày. Cũng như cực âm và dương của một cục nam châm. Để hai cực dương hay cực âm gần với nhau thì nó sẽ đẩy ra, nhưng nếu để cực âm gần với cực dương thì nó sẽ hút lại.
3) Đồng chủng tương ứng, Dị chủng tương xích nghĩa là cùng loại thì phụ cho nhau nhau và khác loại thì bị khai trừ. Thí dụ cọp chỉ sống với cọp còn bỏ dê hay thỏ vào là bị cọp ăn sống ngay.
Vì thế trong Như Lai Tạng, chủng tử cơ bản của vạn pháp có thể kết hợp thành từng nhóm quyện chặt với nhau để tạo thành một chỉnh thể hiện tượng vạn hữu. Ngược lại những chủng tử cũng có thể phân giải hoàn toàn hoặc chuyển hóa dần dần từ lượng dẫn đến chuyển hóa hoàn toàn về chất để rồi sự vật củ mất đi để hình thành sự vật mới nối tiếp.
Tất cả sự vật dù là đồng tánh hay dị tánh, đồng chủng hay dị chủng, đồng năng hay dị năng duyên khởi mà tạo ra muôn loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Mà đã là vạn vật hữu hình thì tất cả đều là pháp hữu vi. Tại sao lại là pháp hữu vi? Bởi vì các pháp đó là do duyên khởi, duyên sanh hội hợp lại mà thành, chớ không có gì chắc thật cả. Vì thế mà kinh Kim Cang có câu : “Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyển, như bọt nước, như bóng, như sương, như điện chớp, có đó rồi mất đó.
PHẬT DẠY RÕ VỀ 3 TƯỚNG TƯƠNG TỤC
1) THẾ GIỚI TƯƠNG TỤC :
Phật bảo rằng :
-Phú Lâu Na! Tánh giác thì sáng suốt; hư không thì bất động vô tri. Hai thứ tác động thành tác năng dao động. Do đó, trong thế giới có hiện tượng lay động phát sinh (gió: phong đại). Trong tánh năng dao động, những thứ đồng chủng hòa hợp với nhau kết thành tánh chất ngại. Đây là hiện tượng kim luân được hình thành để bảo trì quốc độ (kim luân là dị dạng của địa đại, nhiếp thuộc về địa đại).
Kim luân cọ sát với không khí trong hư không biến ra năng lượng. Hiện tượng hỏa đại phát huy từ đó. Kim luân sanh nước. Tánh nước chảy xuống. Tánh lửa bốc lên. Thủy đại chảy xuống, hỏa đại bốc lên, địa đại bảo trì. Từ đó hiện tượng vật chất đủ điều kiện hoàn thành viên mãn. Chỗ sâu có là nước biển, chỗ cạn là cồn bãi, lục địa. Do nguyên nhân đó, trong biển lửa thường sanh khởi. Cồn, bãi, lục địa, sông lạch thường tuôn chảy không ngừng. Chỗ thế nước kém thế lửa kết tụ thành núi cao cho nên đánh đá thì lửa nhoáng ra. Chỗ thế đất kém thế nước hay sinh cây cỏ. Vì vậy, rừng cháy thành đất, vắt ép gỗ chảy ra nước.
Sự vật hiện tượng trong thế giới tương quan làm nhân quả cho nhau mà sanh. Xoay vần làm nhân duyên cho nhau không dứt, vì vậy thế giới duy trì tương tục vô cùng. Phần trên Đức Phật đã chỉ rõ nguyên nhân của các pháp hữu vi là do không giác ngộ chơn tánh khiến vọng tưởng phân biệt phát sinh mà thành. Vì sự mê lầm ấy mà phát sinh ra thế giới, chúng sinh và nghiệp quả.
Phong đại là gió, tượng trưng cho sức lay động vô hình. Mà vô hình là hư không vốn không có tri giác nghĩa là hư không, không hề biết thế nào là lay động hay thế nào là không lay động. Nhưng vì tâm mê mờ chơn tánh nên có năng có sở đối đãi phân biệt tạo thành vọng tưởng. Vọng tưởng này kích động tâm thể, chứa đầy hư vọng rồi biến thành tập khí đầy ắp trong hư không mà biến thành gió. Tất cả cảnh giới ở thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh mà tồn tại, cho nên có phong đại (gió) nắm giữ trong thế giới là vậy.
Địa đại cũng là loài vô tri vô giác, không tự mình biết là loài hữu tình hay vô tình, là lỏng hay cứng, là to hay vi tế. Nhưng vì giác tánh phân biệt, nương theo nghiệp mà phát minh ra tính cứng, lập ra sự ngăn ngại cho nên trong thế gian mới có đất, đá, sỏi, cát khắp mọi nơi. Vì địa đại có tánh ngăn ngại nên tất cả những gì mà choáng một phần không gian to lớn như núi cao rừng thẳm và cực nhỏ như những vi tử trong nước hay trong không khí đều là địa đại cả. Quả địa cầu cũng như tất cả những hành tinh khác trong thế gian vũ trụ này đều kết cấu giống như nhau. Đó là bên ngoài được kết tập bằng những lớp đất đá rất cứng, nhưng bên trong là những nham thạch rất nóng ở thể lỏng, xoay động dựa theo tiến trình di động của trái đất mà nhà Phật gọi là Kim luân tức là cái nền móng căn bản để kiến tạo vật thể trên thế gian.
Gió thì lay động gặp đất ngăn cản nên có sự ma xát mà sinh ra lửa (hỏa đại). Hỏa đại không nhất thiết phải là lửa, mà có thể là tất cả sự nóng lạnh. Khi độ nóng tăng cao thì những chất cứng sẽ chảy thành nước. Nước là thể lỏng nên chảy từ cao xuống thấp trong khi lửa cháy thành khí nên bốc lên cao. Vậy tánh lửa bốc lên, tánh nước chảy xuống và tánh đất thì ngăn ngại và từ đó hiện tượng vật chất có đủ điều kiện hình thành viên mãn mà tạo ra hình dáng của thế giới.
Thời gian trôi qua khiến vật chất thay hình đổi dạng. Chỗ sâu nước dồn xuống thì gọi là biển, chỗ cạn là cồn, bãi. Chỗ đất cao nổi lên thì gọi là đồi. Vì sự sinh biến mà trong biển lửa thường sinh khởi. Thí dụ ngày nay chúng ta thấy có rất nhiều vụ núi lửa nổ tung tận đáy biển sâu khoảng 4,000 ft ở Thái Bình Dương. Lửa cháy ở đáy biển cũng giống y như lửa cháy ở trên mặt đất vậy. Gần đây nhất, có vụ núi lửa nổ tung tận dưới lòng nước ở xứ Iceland mà ngọn lửa bốc lên cao hơn mặt nước biển. Khoa học ngày nay cũng mới khám phá một loại nham thạch trong các rặng san hô mà chỉ cháy trong nước.
1) Chỗ nào thế lửa (hỏa đại) bốc lên mạnh hơn thế nước (thủy đại) thì đất nổi lên thành núi cao. Vì thế, nếu lấy hai viên đá đập vào nhau sẽ phát ra tia lửa hoặc nấu các cục đá kia thì nó sẽ chảy thành nước.
2) Chỗ nào thế đất (địa đại) yếu hơn thế nước (thủy đại) thì đất hóa ra mềm làm sinh ra cây cỏ. Nhưng nếu đem những cây đó đốt đi thì nó sẽ cháy thành tro (đất, địa đại) hoặc nếu đem ép những cây gỗ thì có nước chảy ra (thủy đại). Xét như vậy thì đâu đâu cũng đều có đất, nước, gió, lửa tùy theo nhân duyên mà phát sinh những hiện tượng khác nhau. Sự vật hiện tượng trong thế giới làm nhân làm duyên cho nhau, khi thành, khi trụ, khi hoại, khi không, không ngừng, không dứt. Vì vậy thế giới được duy trì tương tục vô cùng vô tận.
Vậy “Tánh giác diệu minh” làm mê mờ chân lý vũ trụ quan khiến vọng tưởng phát sinh mà tạo thành vạn pháp trong vũ trụ. Nói cách khác vạn pháp trong thế giới này là do tâm niệm của chúng sinh phát khởi mà thành. Vì thế nếu thế gian có được mưa thuận gió hòa cũng bởi con người có tâm niệm lành, biết thương yêu đồng loại, biết xóa bỏ tranh chấp đố kỵ. Ngược lại nếu con người vì tư lợi, tranh chấp, giết hại lẫn nhau thì dĩ nhiên vọng tưởng phát sinh liên tục khiến cho đất, nước, gió, lửa bất hòa mà tạo thành cuồng phong, bảo tố. Ngày nào con người còn tranh chấp, còn ý nghĩ tiêu diệt lẫn nhau thì ngày ấy còn động đất lớn, còn có những lượn sóng thần, còn bảo tố, còn núi lửa để cảnh giác con người. Do đó muốn sống hạnh phúc thanh nhàn thì do con người mà gánh chịu cảnh tang tóc đau thương thì cũng do con người chớ trời Phật không can dự vào.
2) CHÚNG SINH TƯƠNG TỤC :
Lại nữa, Phú Lâu Na! “Vọng minh” không phải là cái khác lạ. Do vì chúng sinh dùng cái kiến minh tri để minh tánh giác mà có sự lỗi lầm. Từ đó có cái sở minh. Sở minh đã có thì cái năng minh bị lệ thuộc vào. Vì vậy, tánh nghe không ngoài âm thanh, tánh thấy không ngoài màu sắc; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sáu vọng trần đã hình thành làm đối tượng cho “vọng năng”. Những cái thấy, nghe, ngửi, nếm, biết sanh khởi. Hễ đồng nghiệp thì hấp dẫn lúc hợp lúc ly, khi tình khi tưởng. Tánh thấy “năng minh” có thì đương nhiên có sắc sở minh hiển hiện. Chủ thế đối tượng tác động vào nhau, từ cảm tính chuyển sang lý tính, từ lý tính nảy sinh khái niệm, từ khái niệm dẫn đến tư duy.
Do tư duy có sự tưởng tượng nhận thức: Hễ ý kiến bị phủ nhận, sanh tâm lý ghen ghét. Tư tưởng được đồng tình, sanh tâm lý yêu thương. Dòng nước yêu thương kết thành chủng tử, thu nạp tưởng tượng hấp dẫn nghiệp đồng, tác hợp với “yết la lam” thành trạng thái của phôi trong thời gian gọi là “ngưng hoạt” (tinh trùng và noãn sào mới hợp nhau trong ba bốn tuần đầu). Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, tuỳ nghiệp đồng và thích ứng của mỗi loài mà cảm ứng. Thai nhơn tình mà có. Noãn do tưởng mà sinh. Thấp bởi hợp mà cảm. Hóa vì ly mà ứng. Tình, tưởng, hợp, ly luôn luôn vận động đổi thay theo nghiệp sở hành mà cảm thọ : Khi đi lên, lúc đi xuống xoay vần trong sáu nẻo. Đó là nguồn gốc làm chúng sinh tương tục không dừng.
Trong pháp giới thanh tịnh vốn không có chúng sinh, nhưng vì do vọng niệm từ vô thỉ mà thành vô minh rồi dần dần biến thành căn nguyên sinh ra chúng sinh. Do vậy vọng minh chính là vô minh và cũng từ cái vô minh này mà dần theo thời gian hình thành sở tướng của tứ đại và hấp thụ tứ đại để làm thân. Vọng tưởng sai lầm đã biến con người thành “vọng năng” và dĩ nhiên chấp nhận có “sở năng” bên ngoài. Một khi chấp có “năng sở” nghĩa là chấp có chủ thể và đối tượng tức là chấp có sự đối đãi phân biệt. Năng minh là lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ở bên trong của con người và sở minh chính là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tức là ngoại trần. Vì thế tuy thế giới vạn pháp có bao la vô cùng vô tận, nhưng cũng không ra ngoài căn, trần cả.
Thật vậy, khi lục căn tiếp xúc với lục trần nghĩa là năng minh hòa nhập với sở minh thì ý thức vọng niệm được phát khởi. Vì nhân duyên đó mà con người chỉ nghe khi có tiếng, có âm thanh và chỉ thấy khi có sắc tướng chớ không thể thấy, nghe xa được. Nói cách khác lúc ấy kiến, văn, giác, tri nghĩa là thấy, nghe, hay, biết được hình thành. Tuy thế giới thay đổi tùy theo sở minh, nhưng tựu trung tất cả cũng nằm trong quy luật thành, trụ, hoại, không nghĩa là có đó rồi mất đó. Khi năng minh, sở minh hòa hợp thì tư tưởng phát sinh. Nếu chúng sinh đồng một tư tưởng thì thương yêu nhau, ngược lại, nếu ý bất đồng thì ghét nhau. Dòng nước ân ái yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Ba món “Căn, Trần, Thức” hòa hợp làm nhân tạo nghiệp cho nên quả khổ tứ sinh cũng bám theo. Nếu đồng nghiệp ràng buộc nhau thì hình thành vào thai sinh hay noãn sinh. Còn ly nghiệp thì hình thành vào loài thấp sinh hay hóa sinh.
Thí dụ thai sinh là con người sinh ra con người hay con bò cũng sinh ra con bò… Noãn sinh là con vật được sinh ra bằng trứng. Chẳng hạn như con gà, con vịt, con chim, con cá sấu đẻ trứng rồi trứng mới nở thành con gà..Thấp sinh là do những cơ cảm, biến đổi của thiên nhiên tạo thành. Thí dụ như con đom đóm là do hợp với khí ẩm ướt của những cây rơm, cây lúa và mưa. Do đó con đom đóm là loài thấp sinh. Còn hóa sinh là hóa hiện để sinh về một cõi tốt lành hơn mà không cần đầu thai vào người mẹ. Thí dụ, ngày xưa trưởng giả Cấp Cô Độc Tu Đạt Đa đã cúng dường tịnh xá Kỳ Viên cho Phật và chư đệ tử nên khi chết được hóa thân vào cung trời Đầu Suất (Tushita) để hưởng phước lợi.
Nhưng nguyên nhân của sự đầu thai như thế nào?
Thật ra chúng sinh trong loài tứ sinh cũng đều do một niệm vô minh mà hình thành. Chúng sinh vì tạo vọng nghiệp nên sau khi chết đi vào thân trung ấm, sắc thân không còn mà chỉ còn ngũ thông nên mắt nhìn thấy rất xa. Do tập khí ái nhiễm nên thần thức nhất định phải tìm một cảnh để yêu, cho dù xa xôi ngàn dặm, nhưng do chiêu cảm nên thấy rất gần cho nên thấy sáng thì sắc phát hiện. Khi chiêu cảm cảnh ái ân, thần thức liền chạy đến chỗ đó và “tưởng” bắt đầu hình thành.
Ngay trong lúc nam nữ đang giao cấu thì “tưởng” trong thân trung ấm phát hiện. Nếu thân trung ấm là nam thì ghét cha thương mẹ, nếu thân trung ấm là nữ thì ghét mẹ thương cha. Đó là “dị kiến thành ghét, đồng tưởng thành yêu” và thân trung ấm hấp thụ dòng ái đó mà lưu vào thai mẹ rồi thành chủng tử thọ hình. Bây giờ “tưởng” bám vào tinh cha huyết mẹ mà lập thành chấp ngã. Do “nghiệp ái làm nhân, cảnh ái làm duyên” mà ở trong thai bảy ngày nên gọi là yết-ma-lam. Được hai tuần thì bào thai gọi là Át-bồ-đàm. Ba tuần thì gọi là Tế-thi. Kiện nam là bốn tuần và Bát-la-xa là hình thể khoảng 35 ngày. Sau 35 ngày thì lục căn mới đầy đủ.
Nói tóm lại, tùy theo nghiệp đã tạo mà cảm ứng sinh vào một trong bốn loài : thai, noãn, thấp và hóa. Đó là theo nghiệp mà lưu chuyển và do dòng nước ái ân yêu thương kết thành tập khí chủng tử. Nếu hấp dẫn đồng nghiệp thì tác hợp với phôi. Phôi lớn thành thai rồi dần theo thời gian mà lục nhập, xúc, thọ, ái…được phát triển. Vì vậy thai sinh là do nhân tình mà có. Noãn sinh là do tưởng (niệm) mà sinh nghĩa là loài thú không có lòng yêu thương như con người mà chỉ có tưởng niệm về dục vọng. Thấp sinh nhờ hợp mà thành và Hóa sinh bởi phân ly mà ứng hiện. Tưởng thì nhẹ nhàng còn tình thì nặng nề. Bởi nhân duyên đó mà chúng sinh tương tục.
3) NGHIỆP QUẢ TƯƠNG TỤC :
Phật bảo :
- Phú Lâu Na! Tưởng và ái gắn bó ràng buộc lẫn nhau. Ái mãi không rời kết thành nghiệp nhân tương tục : Cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu tương tục sanh lên sanh xuống không có thời kỳ chấm dứt. Hạng chúng sinh này do “dục tham” làm gốc. Tham và ái đắm đuối nặng nề, tham ái mãi không thôi. Nghiệp nhơn này khiến cho các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh trong thế gian, tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau. Hạng chúng sinh này do “sát tham” làm gốc.
Phú lâu Na! Do những bất thiện nghiệp như vậy, người này mắc nợ thân mạng người kia. Người kia trả nợ cũ cho người này. Người này thương cái lòng tốt của người kia. Người kia yêu cái sắc đẹp của người này. Do nhơn duyên đó trải trăm nghìn kiếp ở mãi trong ràng buộc sinh tử khổ đau. Ba món Sát, Đạo, Dâm là những yếu tố căn bản tạo thành nghiệp quả tương tục.
Phú Lâu Na! Sở dĩ có ba thứ tương tục điên đảo là do nhận thức sai lầm : Rằng phải nhờ lấy cái minh để minh tánh giác; Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu, đại địa san hà vũ trụ vạn hữu là hiện tượng hữu vi, có sinh có diệt là do kiến chấp vọng tưởng của con người. Sự thật, thể tánh của các hiện tượng vốn thanh tịnh bản nhiên là diệu dụng của Như Lai Tạng biểu hiện. Khi tư tưởng yêu thương ràng buộc lẫn nhau thì con người trôi nổi trong sinh tử trầm luân. Lúc thì tái sinh làm cha, làm mẹ. Khi thì đầu thai làm con làm cháu, lên xuống không cùng không tận. Tưởng ái đồng kết lại thì lòng yêu thương không thể rời cho nên cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh em…sanh nhau trong thế gian không bao giờ dứt. Cái khổ quả sinh tử này chung quy cũng tại vì lòng tham dục.
Tham và ái hổ tương cho nhau thì lòng tham không bao giờ ngừng dứt. Con người vì bị vô minh che lấp nên chạy theo ái dục mà phải chịu luân hồi. Thí dụ, bà vì quá thương cháu mà tái sinh làm con của cháu mình. Vì thế mà thế giới này mới là dục giới. Một khi tâm dục nghĩa là lòng mình muốn chiếm hữu hay đoạt lấy vật gì thì lòng tham bắt đầu phát khởi. Một khi lòng tham phát khởi thì tất cả các loài như thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh tùy theo sức mạnh của nó mà ăn nuốt những loài khác để tạo thành sát nghiệp. Thí dụ, con cọp ăn thịt con nai yếu đuối. Loài người săn bắn giết hại vô số súc vật. Ở biển cả sông ngòi, cá lớn nuốt cá bé…Bởi cũng vì sát nghiệp mà loài người, loài vật thay nhau tái sinh để chịu quả báo luân hồi. Thí dụ con người đi săn giết hại con nai. Con nai chết tức tưởi nên một kiếp nào đó nó tái sinh làm người và cũng đi săn để giết chết con nai khác chính là người thợ săn quả báo làm nai.
Nói cách khác vì nghiệp sát sinh mà bốn loài sát hại giết chết nhau, ăn nuốt nhau và sau cùng phải thọ báo để bị thảm hại, ăn nuốt trở lại. Đời này qua, đời khác đến vô cùng vô tận biết đến chừng nào mới chấm dứt. Do đó tư tưởng Phật giáo khuyên chúng sinh nên phát triển lòng từ bi để thương yêu tất cả mọi loài và chấm dứt nghiệp sát hại thì quả báo luân hồi mới có thể chấm dứt được. Con người vì sống với lòng tham dục nên phải chạy theo sinh tử luân hồi. Cũng vì tham dục mà con người giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Chủ nhân, phú hộ muốn giàu thêm nên chèn ép người nghèo khó, thế cô. Kiếp này mình ỷ thế chèn ép người tức là cướp không của người, là nợ người vì thế sang đến đời sau phải đầu thai trả nợ cho người.
Nói chung con người có chìm đắm trong sinh tử khổ đau cũng chỉ vì chạy theo tham, sân, si. Từ đó Sát, Dâm, Đạo hình thành, sai sử khiến con người càng ngày càng lún sâu trong vòng tội nghiệp. Trong Phật giáo nghiệp sát hại là đại nghiệp vì thế người Phật tử vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, thương người như thương mình và thấy nỗi đau của chúng sinh chính là nỗi đau của mình nên không giết hại. Con người ăn thịt chúng sinh thì ngày sau chúng sinh đổi kiếp ăn thịt con người trở lại. Nếu cưỡng giết mạng chúng sinh để lấy thịt ăn thì gọi là Đạo. Mà có nợ thân mạng thì cũng là do sát tham mà ra. Do đó, nếu đền nợ cũ cho người thì gọi là đạo tham vậy. Ngày xưa tôn giả Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông, có tài thiên biến vạn hóa, thế mà trong tiền kiếp làm nghề chài lưới giết hại quá nhiều chúng sinh nên vào thời Đức Phật tuy đã tu thành Thánh mà những chúng sinh đã bị Ngài sát hại bây giờ tái sinh làm bọn ngoại đạo để sát hại Ngài.
Do đó, ngày nay ta sát hại chúng sinh thì ngày mai chúng sinh quay trở lại sát hại lại chúng ta. Vì thế nếu muốn tiêu diệt nghiệp sát sinh thì ngay bây giờ phải chấm dứt sát hại làm đau thương đến muôn loài và bồi dưỡng cũng như phát huy tình thương, lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh. Tuy không còn tâm sát hại, nhưng nếu vẫn còn tâm dâm thì con người vẫn bị tái sinh luân hồi vì thần thức trong thân trung ấm còn cảm nhận dục tình khi thấy cảnh ái ân của nam nữ mà lưu vào thai mẹ để trở thành chủng tử thọ hình. Muốn thoát khỏi luân hồi thì tâm dâm phải dứt cho nên thần thức lúc nào cũng như như bất động cho dù đứng trước cảnh dục tình. Lấy của người làm người đau khổ tức là nợ của người đó rồi nên kiếp sau phải đầu thai để trả cho hết những mối nợ này. Vì thế không tham, không dâm, không sát hại, không đạo thì sẽ không còn sinh tử và dĩ nhiên chặt đứt dây luân hồi.
GIÁC KHÔNG SINH MÊ THẤT ĐẠI DUNG ĐƯỢC NHAU MÀ KHÔNG CÓ GÌ TRỞ NGẠI
GIÁC KHÔNG SINH MÊ
Ông Phú Lâu Na thưa :
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh giác vốn nhiệm mầu trong sáng cùng với tâm Như Lai không kém không hơn. Thế mà vô cớ bỗng nhiên lại sinh núi sông, đất liền các hiện tượng hữu vi sinh diệt. Vậy hiện nay Như Lai đã chứng nhập bản thể giác minh (tánh giác diệu minh, bản giác diệu minh ấy) ví phỏng chừng nào Như Lai sinh lại vọng tưởng phân biệt đối với các pháp hiện tượng hữu vi? Và chừng nào hoặc lậu của Như Lai sinh trở lại?
Phật bảo :
- Phú Lâu Na! Ví như có người do mê mà lầm cho phương Nam là phương Bắc, cái mê như vậy, không nhân mê mà có, vì mê vốn không có gốc rễ, không có hình dáng kích thước, cũng không phải màu sắc, càng không phải nhân ngộ, vì ngộ là tỉnh, là sáng suốt, ngộ không sinh mê. Người mê đang lúc mê bỗng có người ngộ giải thích chỉ bày cho được ngộ; người mê hóa giải, dứt được cái mê thì phương hướng Bắc Nam không còn lầm lẫn nữa. Mười phương Như Lai cũng vậy. Mê vốn không gốc rễ, tánh của nó là không. Xưa vốn không có mê, tựa hồ như có mê, có giác. Giác được mê thì mê diệt, giác vốn không sanh ra mê. Lại cũng như người nhặm mắt, thấy hoa đóm đầy khắp hư không. Nếu trị dứt bịnh nhặm mắt thì hoa đóm trong không tự hết. Nếu ao đó mong chờ cho hư không sanh hoa trở lại là kẻ quá ngu si, với hạng người như vậy, không thể nói : Rằng họ là người ngu hay trí.
- Lại nữa! Phú Lâu Na! Ví như quặng vàng lẫn lộn với vàng rồng. Khi vàng đã nấu lọc tinh rồi thì vàng không là quặng nữa. Lại cũng như gỗ đã đốt thành tro, tro không thể hoàn nguyên thành gỗ được.
- Phú Lâu Na! Vấn đề Niết bàn của mười phương Như Lai cũng như vậy. Như Lai không bao giờ sanh lại vọng tưởng phân biệt để chấp mắc các hiện tượng hữu vi. Và cũng không có việc Như Lai sanh lậu hoặc trở lại.
Ngài Phú Lâu Na là đại đệ tử đã chứng Thánh quả nên chính Ngài đã thừa hiểu rằng một khi chúng sinh đạt được “Chơn tâm thường trú, Thể tánh tịnh minh” thì cái thường, cái thật, cái có sẳn là của chính mình. Còn cái bất giác (chưa giác ngộ), cái mê, cái tham, sân, si, mạn, nghi…là những cái vọng thành. Chúng chỉ là những “khách trần” phiền não có đến rồi đi. Vì thế câu hỏi của Phú Lâu Na là để giúp cho những người hữu học có một cái nhận định chắc chắn trên con đường tu học.
Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà được gọi là “tánh giác”. Đối với con người thì cái tánh giác này là Phật tánh. Phật tánh hay tánh giác thì lúc nào cũng thanh tịnh, trong sáng, thường diệu, thường minh nên gọi là “tánh giác diệu minh” mà không cần cái minh bên ngoài tức là sở minh để có minh. Nhưng con người vì lầm lẫn chạy theo vọng chấp tham-sân-si nên mới tạo nghiệp và tự cột họ vào trong sinh tử luân hồi. Bây giờ biết hồi đầu thị ngạn, tự quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác sẽ trở thành bản giác tức là cái giác tính bản lai sẳn có của mình. Cái bản giác này thường minh và thường diệu nên gọi là bản giác minh diệu. Phật tánh thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh, vì thế, Phật tánh hay tánh giác diệu minh là Chánh Nhân Phật tánh nghĩa là tánh mầu nhiệm vốn sẵn có. Còn bản giác minh diệu là Liễu Nhân Phật tánh nghĩa là Phật tánh nhờ công phu tu tập rồi mới ngộ.
Như thế cái bản thể giác minh mà ông Phú Lâu Na hỏi Đức Phật chính là Liễu Nhân Phật tánh tức là bản giác minh diệu của Ngài. Khi Chư Phật đã loại bỏ tất cả phiền não chướng, tri kiến chướng để trở thành Liễu Nhân Phật tánh thì cái bản giác minh diệu này là thường hằng, là cái thật có, là cái minh cái diệu lúc nào cũng sẵn có trong Như Lai.
Thí dụ, chúng ta ở Hoa Kỳ lái xe bên tay mặt, nhưng người Anh Quốc lại lái xe bên tay trái nên khi đi du lịch qua bên đó, chúng ta lái xe lộn bên, lầm lẫn dễ gây ra tai nạn, may có người chỉ cho thì bây giờ chúng ta đâu còn lái xe bên tay mặt nữa. Do đó một khi đã chứng ngộ, đạt được minh tâm kiến tánh hay nhất tâm bất loạn thì không bao giờ trở lại làm phàm phu.
Trong kinh Duy Ma Cật, khi nói về chứng đắc tôn giả Xá Lợi Phất đã hỏi vị Thiên nữ rằng :
- Chừng nào người được Vô thượng Bồ-đề, thưa Thiên nữ?
- Chừng nào ngài Xá Lợi Phất trở lại làm phàm phu thì tôi mới thành Vô thượng Bồ-đề.
- Tôi không bao giờ trở lại làm phàm phu.
- Thì tôi cũng không bao gờ được quả Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì Bồ-đề “vô sở trụ”. Thế nên Bồ-đề không có cái “được”.
Bồ-đề, Phật tánh đối với chúng sinh cũng ví như vàng còn lẫn lộn trong mỏ với đất cát sỏi đá. Nay nếu đem về rửa sạch đất cát cũng như con người loại bỏ tất cả tham-sân-si mạn nghi thì sẽ thấy vàng nguyên chất cũng như Phật tánh sẽ hiện bày. Một khi đã có vàng nguyên chất thì làm gì còn đất cát sỏi đá cũng như chúng sinh đã liễu ngộ thì không bao giờ trở lại làm phàm nhân lầm lẫn.
Cũng như có bịnh lòa thì thấy có hoa đóm giữa hư không. Nhưng hoa đóm là do bệnh lòa mà có chớ không phải thật có. Đến khi chữa trị hết bệnh lòa thì hoa đóm cũng không còn. Vì vậy tất cả các pháp hữu vi đều do cái bệnh bất giác (mê) biến thành chớ không phải thật có. Do đó khi thức tỉnh giác ngộ thì cái hữu vi cũng chẳng có và tướng hữu vi cũng chẳng còn.
Lại như cây đã đốt thành tro thì không thể đâm chồi mọc lá được. Vì thế, Chư Phật đã giác ngộ hoàn toàn, diệt trừ tận gốc tất cả những mê lầm sinh diệt thì làm sao còn sinh được các pháp hữu vi?
Như thế tuy chúng sinh có đồng tánh giác diệu minh như Chư Phật, không thêm không bớt, nhưng vì sống trong điên đảo nên không nhận được giác tính thường diệu thường minh nên phải trôi nổi trong sinh tử luân hồi. Ngược lại, Chư Phật hoàn toàn thức tỉnh nên các Ngài đã trừ hết cội gốc của mê lầm, nên tuy cùng giác tính đó mà các Ngài đã thực chứng giác tính, diệu dụng của mình tức là đã có bản giác minh diệu nên sẽ không bao giờ còn mê lầm được nữa. Nói cách khác, khi đã giác ngộ thì sẽ không bao giờ còn mê lầm nghĩa là khi đã thành Phật sẽ không bao giờ trở lại làm chúng sinh.
Chỉ Các Đại Có Thể Dung Nhau
Phật bảo :
- Này Phú Lâu Na! Ông còn nghi ngờ. Vì sao thất đại : Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức lại có thể dung nhau? Trong thực tế ông thấy chúng thường tự xâm đoạt hủy diệt nhau.
- Phú Lâu Na! Ví như hư không, không thể của nó vốn không phải hình tướng, nhưng nó không chống đối các tướng phát huy trong nó. Phú Lâu Na! Bầu hư không vô cực kia, hễ mặt trời soi thì sáng, mây ùn thì tối, gió lay thì động, trời tạnh thì trong, hơi đọng thì đục, bụi nổi thì mù, nước lặng thì lóng lánh. Phú Lâu Na! Ông hiểu thế nào? Các tướng hữu vi sai khác dường ấy. Vậy nó nhân những cái đã có kia mà tự sinh hay nhân hư không mà có? Phú Lâu Na! Nếu bảo rằng do những cái kia tự sanh, vậy khi mặt trời soi, mặt trời sáng thì mười phương thế giới đều thành sắc của mặt trời, làm sao giữa hư không lại còn thấy mặt trời tròn? Nếu bảo rằng hư không sáng thì hư không tự soi lấy, cớ sao giữa lúc đêm mây mù không có ánh sáng soi? Vậy nên biết rằng : Cái sáng không phải mặt trời, không phải hư không, nhưng không ngoài hư không và mặt trời.
- Phú Lâu Na! Ông nên biết rằng : Đứng bên hiện tượng mà nhìn thì hiện tượng vốn vọng, cho nên không làm sao chỉ bày chính xác và đích thực được. Nhưng đứng trên bản thể mà tư duy, ta sẽ thấy bản thể là chơn : “Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu”, cho nên “địa” vốn không là “địa”. “Không” vốn chẳng là “không”. Thủy, hỏa, phong…cũng vậy thì làm chi có việc trở ngại không dung nhau được.
Trong bản tánh minh diệu của Như Lai Tạng, ông cần phát minh hư không thì có hư không hiện ra. Ví như một dòng nước in bóng mặt trăng. Hai người cùng trông thấy bóng mặt trăng in đáy nước. Rồi người đi về Đông, người đi về Tây cả hai đều thấy có mặt trăng theo mình mà không có chuẩn đích cho mặt trăng cố định. Trước sự kiện đó không nên gạn hỏi : Mặt trăng là một, sao có thể đi theo hai hướng khác nhau? Cũng không được hỏi : Mặt trăng đã thành hai, sao trước kia hiện ra có một?
Phú Lâu Na! “Duyên sanh như huyển” là vậy đó. Vì vậy mà Như Lai dạy : ”Tánh sắc chơn không”. Và cũng vì vậy, Như Lai nói: “Tánh không chơn sắc…” Không có pháp nào có tự thể độc lập cố định của chính mình.
Tôn giả Phú Lâu Na đã dùng ý thức của tâm phân biệt mà nghi rằng bản tính của tứ đại vốn trái ngược và tiêu diệt lẫn nhau như nước kỵ lửa hay gió kỵ đất thì làm sao các đại có thể nương tựa, dung nạp với nhau? Đối với Phật giáo, khi chúng sinh còn chấp vào ý thức phân biệt thì họ còn chấp chặc vào sự tướng sinh diệt biến đổi nên không thể nhìn thấu thật tướng của vạn pháp bằng trí tuệ Bát nhã được. Các đại có thể dung nhau là vì tánh chất duyên sanh của nó. Vì thế hiện tượng vạn pháp là do nhân duyên sanh cho nên không có pháp nào có tự thể độc lập hay cố định đích thực cho riêng mình.
Tất cả vạn pháp trong thế gian hay tứ đại nói riêng đều là pháp giới tánh, đều là bản tánh chân như trong Như Lai Tạng. Mà đã là pháp giới tánh thì bao trùm khắp cả thì làm sao lại không dung được nhau.
Bởi vậy Phật mới dạy rằng :
Tánh sắc chơn không, tánh không chơn sắc…
Tánh thủy chơn không, tánh không chơn thủy…
Tánh hỏa chơn không, tánh không chơn hỏa…
Tánh phong chơn không, tánh không chơn phong…
Tất cả đều thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, nhưng tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng mà tuần nghiệp phát hiện.
Thật tánh của tất cả sắc, thủy, hỏa, phong là không nên trong chơn không các đại dung nạp nhau rất tự tại. Nhưng một khi nhân duyên xuất hiện thì từ trong chơn không mà diệu hữu một cách nhiệm mầu để biến thành sắc, thủy, hỏa, phong. Chơn không, pháp giới tánh thì lúc nào cũng bản nhiên thanh tịnh, nhưng pháp giới tánh duyên khởi trùng trùng vô cùng vô tận. Mỗi khi có tâm niệm thì pháp giới tánh cũng duyên theo tâm niệm ấy mà thay đổi. Nếu chúng sinh tâm niệm nước thì pháp giới tánh duyên ra thành nước.
Nếu bây giờ chúng sinh tâm niệm về gió thì pháp giới tánh duyên ra thành gió. Nếu tâm niệm tất cả thì pháp giới tánh duyên ra tất cả đầy đủ đất, nước, gió, lửa. Trong hư không thì không thấy gì cả, mà thật ra cũng chính cái hư không này ngầm chứa đầy đủ các đại. Tại sao? Bởi vì trong hư không, không hề có tướng cho nên nó không ngăn ngại các tướng phát huy trong đó. Thí dụ như trong cái bầu trời này, nơi nào cũng có lửa, nơi nào cũng có gió, nơi nào cũng có nước, nơi nào cũng có sắc. Chúng dung nạp, nương tựa vào nhau và chỉ xuất hiện khi nào chúng sinh có tâm niệm cần đến nó mà thôi. Hiện tượng này là bất biến tùy duyên. Vì vậy hư không chỉ xuất hiện là do tướng sở minh từ tánh giác diệu minh vọng tưởng mà sinh ra. Nói cách khác, nếu tâm mình vọng tưởng hư không thì hư không mới xuất hiện.
Các đại cũng thế, nếu chúng sinh vọng tưởng gió thì sẽ có gió. Vọng tưởng đất, nước, lửa thì các đại này sẽ dần dần xuất hiện. Nói tóm lại, nếu chúng sinh không còn vọng tưởng thì tất cả các tướng hữu vi sinh diệt sẽ bị tiêu diệt và dĩ nhiên tâm sẽ biến thành bản giác diệu minh nên lúc nào cũng có thanh tịnh, an vui và tự tại. Cũng như khi còn trong chiêm bao, tất cả những cảnh tướng hiện ra rất rõ ràng, nhưng khi thức giấc (giác ngộ) thì cảnh tan, tướng mất, đâu còn. Vì thế nếu chúng sinh quay về soi thấu tự tâm của chính minh để sống với tánh giác diệu minh, với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh thì tất cả những hình tướng hữu vi trong thế giới này sẽ hoàn toàn biến mất trong tâm của họ. Khi ấy vọng tưởng không còn và chúng sinh sẽ sống trong cảnh giới thanh tịnh, an lạc mà nhà Phật gọi là chơn như tịch tịnh Niết bàn.
Thí dụ, có hai người đứng gần nhau trên một hồ nước. Cả hai cùng thấy có một mặt trăng soi chiếu dưới hồ. Bây giờ nếu một người đi về hướng Tây thì thấy ánh trăng cũng đi theo người đó về hướng Tây. Đến khi người khác đi về hướng Đông thì ánh trăng cũng theo người kia về hướng Đông. Thế thì mỗi người đi mỗi hướng mà mỗi người đều thấy ánh trăng đi theo mình. Vì là huyển, nên ánh trăng tuy chỉ có một mà có thể theo hai hướng khác nhau và cũng là huyển, nên ánh trăng trước là một mà nay lại biến thành hai. Bởi vậy, sự vật duyên khởi như huyển như hóa tùy theo tâm niệm, nhưng tự tánh vẫn là pháp giới tánh, Như Lai Tạng thanh tịnh nhiệm mầu.
CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỀ NHƯ LAI TẠNG, RỜI CẢ HAI NGHĨA “PHI” (KHÔNG LÀ) VÀ “TỨC” (TỨC LÀ)
CHỈ VỀ TRÁI VỚI GIÁC TÁNH, HỢP VỚI TRẦN TƯỚNG
Phật bảo :
- Phú Lâu Na! Do nhận thức đánh giá của ông về Sắc Không của Như Lai Tạng thì Như Lai Tạng theo cái nhận thức của ông mà có Sắc Không khắp cùng pháp giới. Vậy nên ông thấy gió thì động, hư không thì tịnh, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối. Ông và tất cả chúng sinh mê lầm, sống trái với giác tánh mình mà hợp với trần tướng cho nên sanh khởi cái nhận thức trần lao. Do đó có các tướng thế gian đối tượng.
Đoạn kinh này chỉ về cái tướng trái với giác tánh và hợp với trần tướng. Giác tánh chính là bản tâm thanh tịnh của chúng sinh và trần tướng là những tướng trần lao bên ngoài như nhà cửa, xe cộ….Như lai Tạng là chơn tâm thường trú nên rất tịch tịnh, vắng lặng, nhiệm mầu. Nhưng nếu chúng sinh vọng tưởng thì Như Lai Tạng sẽ tùy theo vọng tưởng Sắc hay Không Sắc đó mà hiển bày. Thí dụ như chúng sinh vọng tưởng về gió thì gió sẽ lay động, vọng tưởng về nước thì sẽ có nước chảy…Tại sao? Vì những hiện tượng này phát khởi từ trong tâm thức của con người.
Đó cũng tại vì chúng sinh mê chấp nên từ bản tánh thanh tịnh sinh lầm ra vọng tưởng, trái với giác tánh chân thật. Và một khi vọng tưởng được thiết lập thì nó sẽ duyên theo cảnh giới bên ngoài nên mới gọi là hợp với trần tướng. Con người thường nhận thức, đánh giá và đặt tên cho những sự vật trên thế gian tùy theo tri kiến chủ quan của mình vì thế mới có chủ thể và đối tượng tức là có năng và có sở. Vì có năng có sở nên vọng thức phân biệt sinh khởi làm bản tánh thanh tịnh biến mất. Ngược lại, Đức Phật không nhận thức đánh giá sai lầm những sự vật hiện tượng trong thế gian theo tri kiến điên đảo chủ quan, mà Đức Phật sống đúng, sống hợp với tánh giác diệu minh, với chơn tâm thường trú, với Như Lai Tạng tịnh tịch và tánh duyên sanh của tất cả hiện tượng vạn hữu nên Ngài mới có Vô thượng Bồ-đề và Vô thượng Niết bàn là vậy. Thí dụ, mắt thấy cảnh đẹp làm tâm thích, tâm chạy theo si mê cảnh giới này.
Cảnh giới bên ngoài là trần tướng mà con người đem chặt vào tâm nên vọng tưởng si mê phát sinh. Không có cảnh đẹp là lòng không vui, như thiếu vắng cái gì. Niệm ưa thích phát khởi rồi con người sinh ra ái nhiễm, say đắm vào nó. Do đó khi vọng tưởng phát sinh ra hợp với trần tướng rồi thì các tướng hữu vi trần lao thay nhau sinh khởi trong tâm. Vì vậy muốn trở về với bản tâm thanh tịnh, con người phải diệt hết vọng niệm. Chính Lục Tổ ngày xưa đã dạy trong Pháp Bảo Đàn kinh rằng muốn trở về với bản lai diện mục thanh tịnh của mình, chúng sinh đừng để tâm trụ vào sự tướng bên ngoài (vô sở trụ) nghĩa là thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe…thì tâm mới được tự tại. Và vô niệm là tâm đừng vọng tưởng, hướng ngoài mà phải quay vào bên trong. Khi tâm không còn niệm thiện, niệm ác, niệm tốt, niệm xấu nghĩa là tâm không còn phân biệt chấp trước thì lúc ấy tâm sẽ trở về với thể tánh thanh tịnh tịch tĩnh của nó. Đó chính là chơn tâm, Phật tánh, bản lai diện mục, tánh giác diệu minh của tất cả mọi chúng sinh.
CHỈ TÁNH DIỆU MINH HỢP VỚI NHƯ LAI TẠNG
- Phú Lâu Na! Như Lai sử dụng tánh giác diệu minh không sai lầm nhận thức, không đánh giá điên đảo. Như Lai Tạng là tánh giác diệu minh khắp trùm pháp giới. Vậy nên đối với Như Lai : Một là tất cả, tất cả là một. Trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, ngồi tại đạo tràng bất động mà như ở khắp mười phương. Một thân mà trùm cả hư không vô tận, đầu một mảy lông mà hiển hiện ra vô vàn cõi Phật. Ngồi trong vi trần bé bỏng mà vận chuyển đại pháp luân, diệt hết nhận thức sai lầm trần tướng, sống hợp với giác tánh cho nên Như Lai nhìn đâu cũng là tánh chơn như sáng suốt nhiệm mầu.
Tánh giác vốn trong sáng thanh tịnh, thường diệu, thường minh nên được gọi là tánh giác diệu minh. Tánh giác luôn bao trùm khắp pháp giới, là bản thể chân không nên không có trọng lượng, kích thước, không tùy thuộc vào sự biến dịch của thời gian hay sự thay đổi của không gian. Trong tánh diệu chân như ấy, tất cả đều bình đẳng, không có lớn, không có nhỏ, không có một hay không có nhiều mà tất cả đều là bất nhị, không hai không khác. Vì Như Lai Tạng chính là tánh giác diệu minh chiếu soi khắp pháp giới cho nên mới có khả năng bao bọc cho nhau, lớn nhỏ dung nhiếp vào nhau. Do vậy mà trên đầu một sợi lông có thể hiện ra tam thiên đại thiên thế giới, hiện ra các cõi nước Phật và trong mây bụi trần mà Đức Phật chuyển bánh xe pháp. Nếu chúng sinh diệt trần để quay về với tánh giác thì sẽ phát khởi chân như diệu giác minh tánh. Chính Đức Phật đã chứng nhập pháp giới tánh và Ngài đã diệu dụng pháp giới tánh đến chỗ tột cùng nên có thể biến hiện tất cả hoàn toàn tự tại vô ngại.
CHỈ NHƯ LAI TẠNG LÀ “PHI” (KHÔNG LÀ) TẤT CẢ
Như Lai Tạng vốn là bản thể nhiệm mầu viên mãn. Tuy nhiên, nó không phải là tâm, không phải là không, không phải địa, không phải thủy, không phải hỏa, không phải phong. Nó không phải nhãn, không phải nhĩ, không phải tỷ, không phải thiệt, không phải thân, không phải ý. Nó không phải là sắc, không phải thanh, không phải hương, không phải vị, không phải xúc, không phải pháp. Nó không phải nhãn thức giới cho đến không phải ý thức giới. Nó không phải minh, không phải vô minh, không phải hết vô minh cho đến không phải lão tử, không phải hết lão tử. Nó không phải khổ, không phải tập, không phải diệt, không phải đạo. Nó không phải trí cũng không phải đắc. Nó không phải bố thí, không phải trì giới, không phải nhẫn nhục, không phải tinh tấn, không phải thiền định, không phải trí tuệ. Nó không phải là Như Lai, là ứng cúng, chánh biến tri. Nó không phải đại niết bàn, không phải thường, lạc, ngã, tịnh vì Như Lai Tạng không phải là pháp thế gian mà cũng không phải là pháp xuất thế gian.
Đoạn kinh trên cũng chính là Bát Nhã Tâm kinh. Đó là khi Quán Tự Tại Bồ Tát đã hành thâm Bát Nhã đến chỗ rốt ráo tột cùng thì Ngài thấy tất cả là không. Có thể nói rằng Bát Nhã Tâm kinh đã được trích ra từ trong đoạn “Như Lại Tạng là “không là” tất cả” của kinh Lăng Nghiêm cho nên Thủ Lăng Nghiêm mới được xiển dương là kinh khai mở trí tuệ, giúp chúng sinh tiến sâu vào Bát Nhã, thông hiểu tường tận tánh không mà nhập vào đại định để có giải thoát giác ngộ.
Cũng như Ngài Quán Tự Tại hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa trong Tâm Kinh, ở đây Như Lai Tạng bản thể cũng không có chứa bất cứ tướng nào cả, cho dù đó là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian. Cái mà con người gọi là trí tuệ để đạt, Niết bàn để chứng đắc, thành tựu Như Lai, Ưng cúng, Chánh biến tri, ngay cả lục căn, lục trần, mười tám pháp giới…đều là tướng của thế gian, chớ không phải là tướng của Như Lai Tạng bởi vì Như Lai Tạng là bản thể chơn như của hiện tượng vạn pháp. Vì thế khi hành giả đi sâu vào đại định Thủ Lăng nghiêm thì tất cả các niệm ngay cả vi tế niệm cũng không còn. Nếu tâm chúng sinh còn một chút vọng niệm về thực chứng hay mong cầu mong đạt được đại định cho dù đó là vi tế thì đại định biến mất. Nói cách khác khi chúng sinh ly được tất cả các pháp của thế gian ngay cả xuất thế gian (chứng đắc) thì mới có thể hòa nhập vào trong Như Lai Tạng bản tánh thanh tịnh hoàn toàn mà được gọi là Thủ Lăng Nghiêm đại định.
CHỈ NHƯ LAI TẠNG “TỨC” (LÀ) TẤT CẢ
Nhưng cái bản thể nhiệm mầu viên mãn Như Lai Tạng lại cũng tức là tâm, là không, là địa, là thủy, là hỏa, là phong. Cũng tức là nhãn, là nhĩ, là tỷ, là thiệt, là thân, là ý. Cũng tức là sắc, là thanh, là hương, là vị, là xúc, là pháp. Cũng tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Cũng tức là minh, là vô minh cho đến là lão tử, là hết lão tử. Cũng tức là khổ, là tập, là diệt, là đạo. Cũng tức là trí, là đắc. Cũng tức là bố thí, là trì giới, là nhẫn nhục, là tinh tấn, là thiền định, là trí tuệ cho đến cũng tức là Như Lai, là ứng cúng, là chánh biến tri. Cũng tức là đại niết bàn, là thường, là lạc, là ngã, là tịnh. Vì vậy, Như Lai Tạng biểu hiện qua tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian.
Đoạn kinh trên, Đức Phật dạy rằng trong Như Lai Tạng bản thể chơn như thì tất cả đều là không. Không có các pháp thế gian ngay cả đến các pháp xuất thế gian như chứng đắc, trí tuệ, Niết bàn…cũng là không. Nhưng đến đoạn kinh này, Đức Phật lại dạy rằng trong bản thể nhiệm mầu Như Lai Tạng thì tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian là có, là thật. Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy? Trong Như Lai Tạng bản thể chân như thì không có tướng trạng nên tất cả đều hòa đồng, dung nhiếp nên gọi là không. Nhưng trong cái chơn không lại duyên khởi một cách mầu nhiệm để phát sinh ra mọi vật mà tạo thành cái thế giới hữu vi sinh diệt này. Trong pháp giới duyên khởi gọi hiện tượng này là bất biến tùy duyên nghĩa là từ cái chơn không mà diệu hữu ra tất cả nên mới có pháp thế gian và ngay cả pháp xuất thế gian là vậy. Nói cách khác hai đoạn kinh giúp chúng sinh thấu hiểu tường tận ý nghĩa sắc tức là không và không tức là sắc để phá bỏ cái chấp phải là “toàn sắc” hay “toàn không”.
DÙNG PHẬT NHÃN NHÌN HIỆN TƯỢNG VẠN PHÁP, KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ “LÀ) HAY “KHÔNG LÀ” TRONG NHƯ LAI TẠNG BẢN THỂ CHÂN NHƯ NHIỆM MẦU
Này Phú Lâu Na! Như Lai Tạng vốn nhiệm mầu trong sáng, vượt ngoài sự phê phán đánh giá “là” hay “không là”. Vậy nên, chúng sinh trong ba cõi và hàng Thanh văn, Duyên giác dùng cái tri thức cạn cợt thì làm sao mà đo lường Bồ-đề vô thượng của Như Lai. Đem ngôn ngữ hạn hẹp của thế gian mà diễn đạt cái tri kiến Phật thậm thâm sao cho đến được. Ví như những cây đàn cầm, sắt, không hầu, tỳ bà, tuy có tiếng hay, nhưng nếu không có ngón tay thì rốt cuộc cũng không phát ra những tiếng hay. Ông và chúng sinh cũng vậy. Chơn tâm giác minh mọi người đều đầy đủ. Thế mà Như Lai ấn ngón tay thì rực rỡ hào quang, còn các ông vừa móng tâm thì trần lao đã nổi dậy. Đó là do các ông không siêng năng cầu vô thượng giác mà ham ưa pháp tiểu thừa, được chút ít cho là đủ.
Khi ra biển ngắm những làn sóng lặn hụp lên xuống thì “sóng “là” nước hay sóng “không là” nước? Nếu nói sóng và nước thì chắc chắn sóng và nước là hai tức là sóng “không là” nước. Còn nếu nói rằng nếu sóng mà không có nước thì làm gì có sóng do đó sóng “là” nước và nước “là” sóng. Như vậy sóng là hiện tượng của nước và nước là bản thể của sóng, tuy hai nhưng mà một bất khả phân ly. Khi động (có gió) thì nước nổi thành sóng, nhưng khi tịnh (gió tan) thì sóng trở về với thể tánh yên tịnh của nước vậy thôi. Như Lai Tạng cũng vậy, là bất tức bất ly bởi vì Tạng là tổng thể trùm chứa tất cả mọi nguyên nhân và kết quả của sự vật hiện tượng. Còn Như Lai là thường hằng bất biến, nhưng trong cái thường hằng bất biến này lại tùy duyên mà phát sinh ra muôn sinh vạn vật. Đó là bất biến mà tùy duyên. Thí dụ, trong thế gian này nơi nào cũng đều có đất tức là dạng của địa đại, nhưng cũng từ đất này mà tùy duyên tạo thành nhà cửa, chén đĩa, lâu đài, thành quách….nhưng một ngày nào đó thì những sự tướng kia cũng theo thời gian mà biến đổi và cuối cùng cũng trở về lại với đất. Đây là tùy duyên mà bất biến vậy.
Như Lai Tạng bây giờ nếu tùy duyên tác động vào tâm chúng sinh, con người sẽ phát sinh ra những cảm giác vui buồn, hờn giận, thương ghét, tốt xấu, hơn thua, phải quấy…nhưng nếu chúng sinh biết xoay về bản thể chân thật của mình thì vui buồn tan biến, thương ghét không còn và tâm sẽ trở về với tự tánh thanh tịnh bất biến của nó. Nói cách khác, Như là bất biến còn Lai là tùy duyên. Vì thế Như Lai là bất biến tùy duyên và cũng tùy duyên bất biến. Có tùy duyên bất biến nên chúng sinh mới có thể hóa giải vô minh phiền não để trở về sống với chơn tâm, tánh giác diệu minh của chính mình.
Như Lai Tạng là bản thể chơn như của tất cả hiện tượng vạn pháp, vốn thanh tịnh bản nhiên nên lìa tất cả các pháp. Vì thế trong Như Lai Tạng bản thể, không có gì gọi là chứng đắc, không có gì gọi là đạt được (bất khả đắc). Như Lai Tạng tuy rời tất cả tướng thế gian, nhưng nó không phải là cảnh giới xa xôi nào khác vì Như Lai Tạng chính là tất cả các pháp tức là Như Lai Tạng “là” và “không là”. Con người vì sống trong vô minh điên đảo nên chỉ biết hiện tượng vạn pháp mà không hề nghĩ đến bản thể Như Lai Tạng mầu nhiệm này.
Nhưng nếu suy nghĩ kỷ lại thì tất cả những thứ buồn vui, thương ghét, tánh tham, tật đố…đều phát xuất từ bản tâm hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng của tất cả mọi người. Vì thế thanh tịnh thì do ta mà phiền não thì cũng do ta do đó mà trong kinh Duy Ma Cật mới có câu : ” Tùy kỳ tâm kinh, tắc Phật độ tịnh” là vậy. Cái thể tánh tuyệt đối Như Lai Tạng không thể dùng ngôn ngữ hạn hẹp của con người để chứng nhập nó được. Thật ra cái thể tánh tuyệt đối đó con người vốn có sẳn như Chư Phật, nhưng chúng sinh phải quay về thể nghiệm mà trực nhận thể tánh ấy thẳng nơi tự tâm của mình (thực chứng Bát nhã) chớ không thể chỉ biết nghiên cứu qua lời Phật dạy (văn tự Bát nhã) mà quên đi tâm tánh của chính mình.
Ở đây, Phật ví Như Lai Tạng như người có cây đàn tốt mà không biết đàn thì rốt cuộc cũng không phát ra những âm thanh hay được. Bây giờ cây đàn tốt gặp người chơi đàn giỏi thì sẽ phát ra những âm thanh huyền diệu tuyệt vời. Như Lai Tạng cũng thế, tuy chúng sinh vốn đã có sẵn tâm tánh nhiệm mầu, nhưng con người cần phải có trí tuệ sáng suốt để phát khởi diệu dụng, quay về sống với chơn tâm thường trú, tánh giác diệu minh của chính mình thì mới thoát khỏi trần lao phiền não và phá trừ chấp ngã, chấp pháp mà có được giải thoát giác ngộ.
Đức Phật vì tâm hoàn toàn thanh tịnh nên chơn tâm hiển bày, Pháp thân hiển lộ nên Ngài có hào quang sáng chói, rực rỡ huy hoàng. Ngược lại chúng sinh vì tâm còn chất đầy vọng tưởng nên trần lao nổi dậy mà sống trong điên đảo khổ đau. Đối với các vị trong hàng Thanh văn, Duyên giác tuy mới chứng đắc lục căn thanh tịnh mà cho là đầy đủ nên không cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác vì thế các vị trong hàng Nhị thừa chưa thấy được Pháp thân thanh tịnh Như Lai, chưa vào được trong Như Lai Tạng bản tánh chơn như. Không chứng được Pháp thân thanh tịnh viên mãn thì làm sao thành Phật được?
Nói tóm lại, trong tất cả mọi chúng sinh ai ai cũng đều có Phật tánh, chơn tâm là bản tánh thanh tịnh Bồ-đề, nhưng con người vì chạy theo dục vọng, làm nô nệ cho vô minh phiền não mà quên bỏ đi cái trí tuệ Bồ-đề sẳn có của mình nên sống trong trần lao, khổ ải và phải chịu sinh tử khổ đau. Bản tánh Bồ-đề vốn thanh tịnh, nhưng vì một niệm vô minh mà sinh ra muôn vàn cảnh giới để phải chịu sinh tử luân hồi.
MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NGUYÊN NHÂN. HẾT MÊ TỨC LÀ BỒ ĐỀ (GIÁC)
Ông Phú Lâu Na thưa :
- Bạch Thế Tôn! Chơn tâm thanh tịnh giác ngộ viên mãn của tôi và của Như Lai không hai; vậy mà tôi thì bị vọng tưởng vô thỉ sai sử cho nên ở trong luân hồi lâu xa nhiều kiếp. Nay dù được thánh quả mà còn chưa rốt ráo. Thế Tôn thì các vọng tưởng được gạn lọc sạch trong, còn thuần một tâm tánh chơn thường mầu nhiệm. Tôi xin hỏi Như Lai : Tất cả chúng sinh do nguyên nhân nào mà có vọng để rồi tự che mất tâm tánh sáng suốt nhiệm mầu của mình, phải chịu luân hồi trôi nổi khổ đau?
Câu hỏi này của Ngài Phú Lâu Na rất thực dụng cho hoàn cảnh của tất cả chúng sinh vì Đức Phật dạy rằng trong tất cả mọi người ai ai cũng đều có Phật tánh, chơn tâm thế mà tại sao chỉ có Như Lai mới sống được trong tự tánh thanh tịnh nhiệm mầu này, còn chúng sinh do nguyên nhân nào mà chạy theo khách trần phiền não trần lao để phải chịu trôi mình trong sinh tử trầm luân? Vậy Như Lai có chứng đắc gì chăng? Cái mà con người gọi là chứng đắc chẳng qua là trở về với bản tánh cố hữu tức là bản lai diện mục của mình vậy thôi.
Quả vị Phật mà Như Lai chứng đắc là vô thực mà vô hư. Tại sao? Bởi vì quả vị Phật mà Như Lai thành tựu thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có văn tự diễn tả nên cái chứng đắc này là không thật có, không tìm đâu ra. Nhưng nếu không thật thì quả vị Phật phải là hư? Thế mà cái chứng đắc trên lại là vô hư. Tại sao? Mặc dù không ai thấy được hình tướng của sự chứng đắc, nhưng chính Đức Phật có được bảo sở thanh tịnh Niết bàn, có được vô thượng Bồ-đề nên Ngài không bao giờ còn bị vô minh phiền não quấy phá. Thế thì cái chứng đắc chính là vô hư tức là có thật.
Phật dạy rằng :
Phú Lâu Na! Ông dù trừ được tâm nghi, nhưng tư tưởng mê lầm chưa dứt. Ông há không nghe trong thành Thất La Phiệt có chàng Diễn Nhã Đạt Đa vào một buổi sáng mai, đứng trước gương soi mặt, bỗng dưng ham thích cái đầu trong gương, còn cái đầu của mình tự bấy lâu nay anh ta cho là đồ yêu quái vì anh chẳng thấy được mày, mắt, mặt, mũi, đẹp đẽ như cái mặt trong gương. Rồi chàng ta kinh hãi phát điên ôm đầu chạy hoảng.
Phú Lâu Na! Ông nghĩ thế nào! Diễn Nhã Đạt Đa do nguyên nhân gì bỗng dưng phát điên ôm đầu chạy hoảng?
- Bạch Thế Tôn! Tâm người ấy điên chớ không duyên cớ gì khác.
- Phú Lâu Na! Tánh giác thì tròn đầy sáng suốt nhiệm mầu từ xa xưa đến nay vẫn không lúc nào tạm vắng ở trong ông. Còn cái vọng? Đã gọi là vọng thì làm sao có nguyên nhân! Nếu có nguyên nhân thì sao gọi là vọng được? Vọng tưởng tự xoay vần làm nhân cho nhau, từ cái mê này thêm cái mê khác tích lũy qua số kiếp như vi trần cho nên dù Phật chỉ rõ mà ông hãy còn chưa biết trở về. Cái nhân của mê do mê mà tự có. Biết được cái mê không có nguyên nhân thì cái vọng không có chỗ gá sanh. Thế thì cái sinh còn không có, còn đem cái gì để làm cái diệt? Giả sử có cái diệt thì diệt để diệt cái gì?
Phú Lâu Na! Người được đạo Bồ-đề ví như người tỉnh giấc, kể chuyện trong chiêm bao. Tâm ghi nhớ rõ ràng nhưng không sao lấy vật trong chiêm bao ra được. Huống chi cái mê vốn không, không nhân, không gì cả thì tìm sao cho nó có cội nguồn? Như cái điên của chàng Diễn Nhã đâu có nguyên nhân, tự sợ đầu mình mà bỏ chạy. Khi hết điên thì cái đầu cũng vẫn là cái đầu của anh vốn có. Lúc điên loạn, cũng không vì vậy mà anh tạm mất cái đầu.
Phú Lâu Na! Tánh của cái vọng là như vậy, làm sao tìm có nguyên nhân? Ông chỉ cần đi ngược dòng tương tục của ba thứ : Thế gian, nghiệp quả và chúng sinh. Ba duyên đã chặt đứt thì ba nhân chẳng có cơ sở để sanh. Bấy giờ cái tánh điên cuồng Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm ông tự hết. Hết tức là Bồ-đề. Cái chơn tâm trong sáng khắp cùng pháp giới xưa nay, không do ai cho mà tự được, chẳng cần tu chứng nhọc nhằn vất vả lôi thôi. Ví như người có hạt như ý châu trong vạt áo mà không biết không hay, gần suốt cuộc đời tha phương cầu thực cùng khổ lang thang bỗng có người thiện hữu phát hiện, chỉ hạt châu cho, bấy giờ người cùng khổ trở thành giàu có nhất đời. Ngồi gẫm lại nửa đời lưu lạc tự hận cho số kiếp dại khờ :
Thì ra viên như ý châu không phải từ ngoài, ai đem đến. Trước khi trả lời ông Phú Lâu Na về nguyên nhân nào mà có vọng để che mất tâm tánh sáng suốt nhiệm mầu của mình, Đức Phật dùng phương tiện lấy một người điên trong thành Thất La Phiệt mà làm thí dụ để diệt trừ mối nghi hoặc trong tâm ông Phú Lâu Na. Anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa một buổi sáng mai, lấy gương soi mặt, thấy cái đầu trong gương mặt mày, mắt, mũi đẹp đẽ mà nghĩ rằng cái đầu mình biến mất nên bổng phát điên, rồi sợ hãi bỏ chạy.
Vậy nguyên nhân nào khiến anh chàng này phát điên mà ôm đầu bỏ chạy? Thật ra chả có nguyên nhân nào cả, chỉ vì anh ta sống trong mộng tưởng điên đảo, lấy giả làm chân rồi đâm ra sợ hãi bỏ chạy.
Bát Nhã Tâm kinh dạy rằng : ”Y Bát Nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết bàn” nghĩa là Bồ-tát y theo Bát Nhã ba-la-mật-đa nên tâm không còn ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không còn sợ hãi, xa lìa điên đảo, mộng tưởng và đạt đến cứu cánh Niết bàn. Vậy anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa nếu không phải sống trong mộng tưởng điên đảo chớ là gì?
Nếu đã là mộng tưởng thì làm gì có thật. Tưởng là những sự phân biệt thương ghét, vui buồn, hờn giận hằng ngày. Còn mộng cũng là những sự phân biệt vui buồn, thương ghét nhưng ở trong chiêm bao vì thế mộng, tưởng đều là vọng thức, là giả huyển, là không thật. Cho nên Bồ-tát nếu lìa xa những vọng thức giả huyển này thì tâm mới được thanh tịnh mà có được Niết bàn. Vậy vọng thì làm gì có nguyên nhân.
Tại vì con người còn chấp ngã, chấp pháp nên sinh ra vọng. Nhưng tâm tánh của con người luôn luôn sáng suốt nhiệm mầu, lúc nào cũng ở trong tâm của chúng sinh, chớ không bao giờ mất cả. Con người vì nhận thức chủ quan sai lầm thiếu sáng suốt nên vọng thức mới sanh. Cái vọng này sang cái vọng khác, xoay vần mãi mãi trong vô lượng kiếp ngay đến khi được Phật chỉ dạy rõ ràng mà vẫn không chịu giác ngộ tâm tánh của mình. Có hồi đầu thị ngạn, quay về với chơn tâm thường trú và thể tánh tịnh minh của mình thì vọng tan, chơn hiện mà sống trong thanh tịnh, an lạc của Niết bàn.
Vọng là do mê, là tánh mê, tánh bất giác chớ không có nguyên nhân gì khác. Vì thế trong Bát Nhã, không có cái gì gọi là diệt. Không có vô minh cũng không có cái hết vô minh. Không có tuổi già sự chết và cũng không có cái hết tuổi già sự chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ cũng không có chứng đắc chi cả. Vì là phàm nhân nên còn thấy có vô minh phiền não cần phải diệt. Còn thấy có khổ, tập, diệt, đạo nên cần tu chứng để có trí tuệ và chứng đắc.
Nhưng trong trí tuệ Bát Nhã thì vạn pháp duyên sanh như huyễn nên không có cái gì là thật cả. Đã là không thật thì lấy gì để diệt, để trừ, để chứng, để đắc, vô minh hay hết vô minh. Đối với phàm nhân thì họ nhìn thế gian là thật, đau khổ là thật, vô minh là thật, phiền não là thật nên cả đời lo tìm cách hóa giải, diệt trừ. Trừ phiền não này chưa xong, phiền não khác lại đến. Vô minh này chưa hết thì vô minh khác lại hiện ra nên cả đời sống trong điên đảo khổ đau. Ngược lại, Bồ-tát cũng nhìn cái thế gian này mà đối với họ tất cả đều là huyển nên tâm không bao giờ dính mắc. Phàm nhân thấy cái gì cũng thật nên mới ham, mới thích khiến tham-sân-si dấy khởi mà tạo nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời.
Người mê ví như người còn ngủ trong giấc chiêm bao, thấy cảnh tượng cho là thật nên mới có khổ vui, thương ghét, hờn giận đến khi thức tỉnh thì cảnh hãi hùng tan biến, cơn ác mộng bay đi vì tất cả chỉ là giả huyển. Cũng như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa khi điên thì ôm đầu chạy, nhưng cái đầu đâu có mất bao giờ. Con người cũng thế. Tuy chúng sinh sống trong vô minh phiền não, nhưng tánh giác diệu minh, chơn tâm vĩnh hằng của mình không hề bị mất. Khi thức tỉnh giác ngộ thì chơn tâm tự hiển bày, vô minh phiền não biến mất. Trong đạo Phật không hề có chứng đắc.
Tại sao? Bởi vì một khi chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, biết quay thuyền trở lại bến xưa để sống đúng với chơn tánh, với tánh giác trong sáng của mình thì người đời gọi là chứng đắc chớ thật ra cái tánh giác trong sáng kia đã có sẳn trong tất cả mọi chúng sinh rồi vì thế tu hành trong nhà Phật thì gọi là hồi đầu thị ngạn thế thôi. Cũng như người trong túi đã có sẵn viên ngọc bích mà không biết nên cả đời sống trong lầm than đau khổ. Nay có người thương tình chỉ cho nên đem viên ngọc bán đi thì cái nghèo biến mất, đâu còn. Nhưng nghĩ lại viên ngọc bích lúc nào cũng có chớ đâu phải làm ăn khổ cực gì để tạo ra hay do ai cho?
Vậy đoạn kinh này dạy chúng sinh phải tin vào khả năng thành Phật của mình mà khi thành đạo, chính Đức Phật đã khẳng định rằng : ”Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, giai kham tác Phật” nghĩa là trong tất cả mọi chúng sinh, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật. Chúng sinh phải tin vào khả năng hóa giải tất cả mọi vô minh phiền não bằng chính khả năng và nghị lực của chính mình. Người đệ tử Phật không thể cầu khẩn nơi thần thánh, tha nhân nào đó hay gởi gắm tâm hồn nơi vô định để có được an vui hạnh phúc, Bồ-đề hay Niết bàn là một sự tin tưởng sai lầm đáng thương xót.
Con người vì chạy theo trần cảnh làm nhiễm ô tâm tánh của mình mà phát sinh ra ngã chấp và pháp chấp. Ngày xưa Đức Phật chỉ có tam y nhất bát, ngày ngày đi khất thực thính chúng, đêm ngủ dưới gốc cây không quá ba ngày cũng là một hình thức đối trị để phá bỏ hoàn toàn ngã chấp. Hễ có chấp ngã như địa vị, chức tước, quyền hành…thì sẽ có ngã sở hữu như danh vọng, tiền tài, nhà cửa, xe cộ…Con người có làm những điều tàn ác, giết hại lẫn nhau cũng chỉ vì muốn bảo vệ bản ngã và ngã sở hữu của mình mà cội nguồn của nó vẫn là vô minh, si mê tăm tối. Bao cuộc chiến tranh trên thế giới từ xưa đến nay cũng không ngoài mục đích thỏa mãn bản ngã và ngã sở hữu của mình.
LẠI RƠI VÀO NHẬN THỨC ĐỐI ĐÃI CỦA THUYẾT NHƠN DUYÊN VÀ TỰ NHIÊN
Bấy giờ ông A Nan đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch rằng :
- Đức Thế Tôn nói về các nghiệp sát, đạo, dâm và ba duyên đoạn rồi thì ba nhân không sanh, tánh Diễn Nhã Đạt Đa trong tâm tự hết. Hết tức Bồ-đề, không do ai đem đến.
- Bạch Thế Tôn! Như thế rõ là nhân duyên rồi, tại sao Như Lai bác bỏ nghĩa nhân duyên? Chẳng riêng gì tôi mà một số Thanh Văn trong hội này : Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất, ông Tu Bồ-đề…đều do nghe lý nhân duyên của Phật mà phát tâm tỏ ngộ, được thành quả lậu.
Nay Phật dạy Bồ-đề không do nhân duyên, vậy thì các thuyết tự nhiên của bọn ngoại đạo Câu Xa Ly, thành Vương Xá lại là đệ nhất nghĩa rồi sao? Xin Phật rũ lòng đại bi chỉ giáo cho kẻ chưa hết mê mờ.
Diệu tánh bản nhiên vốn tự viên thành chớ không do người khác đưa tới và cũng không phải nhờ khổ công tu tập. Trong đoạn kinh trên, Đức Thế Tôn bất đắc dĩ tạm mượn chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa mê cái đầu để chứng minh điều đó nhằm khai thị cho chúng sinh biết nguồn vọng vốn không nhân. Bởi diệu giác minh tâm xưa nay không hư vọng, mà đã là vọng thì đâu có nhân gì bởi vì có nhân thì không gọi là vọng được. Ba duyên tức là sát, đạo, dâm đã dứt thì ba nhân tức là thế giới, chúng sinh và nghiệp quả cũng không thể phát sinh được. Thế thì diệu giác minh tâm xưa nay vốn không mê, không phải có được do bên ngoài cũng giống như tâm điên của Diễn Nhã Đạt Đa nếu hết thì anh chàng này sẽ biết rằng cái đầu kia không phải do bên ngoài mà được.
Tuy A Nan nghe Phật nói diệu tâm đốn chứng chớ không phải nhờ sự tu hành, nhưng tôn giả vẫn cho rằng đó là do nhân duyên bởi vì A Nan nghĩ rằng Phật tánh nhờ nhân duyên mà hiển bày. Mà Phật tánh là thứ sẵn có chớ không cần tu mà được thì rõ ràng Phật tánh chính là tự nhiên rồi. Thêm nữa, ông A Nan lại còn dẫn chứng nhiều vị đệ tử Phật và ngay cả ông nữa, cũng do nhân duyên mà được giác ngộ. Vì thế nếu giác ngộ không do nhân duyên, thì không lẽ giác ngộ lại do tự nhiên và đã là tự nhiên thì giáo pháp của Như Lai có khác gì những thuyết tự nhiên của ngoại đạo? Trên thế gian này tất cả hiện tượng vạn hữu không có sự vật nào tự nhiên mà có. Muốn no thì phải ăn chớ không tự nhiên mà no được.
Ngay cả trong thiên nhiên như mưa, nắng, bão tố cũng không có cái gì là tự nhiên cả. Hằng năm vào mùa hè, những tiểu bang miền trung Tây Hoa Kỳ và dọc theo vịnh Mễ Tây Cơ thường có những cơn bão và gió lốc tàn phá nhà cửa và giết hại chúng sinh. Thật ra khi khí nóng từ miền Nam gặp khí lạnh từ miền Bắc tạo thành những vòng xoáy với vận tốc rất lớn mà con người gọi là gió lốc. Nếu không có những dòng khí nầy thì làm gì tự nhiên mà có gió lốc được? Lý luận của A Nan chứng tỏ ông chưa thật viên ngộ chơn tâm, Như Lai tạng tánh, diệu giác minh tâm, bản thể chơn như của hiện tượng vạn pháp bởi vì nhân duyên chỉ đúng trong thế giới tương đối còn trong thế giới bản thể tuyệt đối, đệ nhất nghĩa đế thì làm gì có nhân duyên hay tự nhiên. Mà chưa viên ngộ thì không thể viên tu được cũng bởi vì ông A Nan học rộng nhớ nhiều mà không chịu tu chứng nên còn thấy biết lầm lẫn. Có rời văn tự, ly ngôn thuyết mới nhận chứng được Bản thể chơn như.
Bây giờ Phật mới bảo rằng :
- A Nan! Theo ý ông thì chàng Diễn Nhã Đạt Đa kia, nếu diệt trừ hết “nhân duyên điên” thì tánh “tự nhiên không điên” hiện ra. Lý nhân duyên tự nhiên theo hiểu biết của ông, luận đến cùng là như vậy?
Này! A Nan! Cái đầu chàng Diễn Nhã Đạt Đa vốn là “tự nhiên”. Nếu nó đã “tự nhiên”, vậy do “nhân duyên” gì mà sợ cái đầu phát điên ôm chạy? Đầu vốn” tự nhiên” vì “nhân duyên” gì mà điên? Tại sao không vì “nhân Duyên” gì mất đi để khỏi điên? Cái đầu không mất, cũng chẳng thay đổi chút nào. Còn cái điên là do mê vọng mà có, không bởi, cũng chẳng tại “nhân duyên” mà có ra. Nếu tánh điên vốn “tự nhiên”, tự nhiên sẵn có tánh hoảng sợ, vậy lúc chưa điên, cái điên ẩn trú chỗ nào? Tánh hoảng sợ nương náu ở đâu? Nếu tánh không điên là tự nhiên thì trong đầu chẳng có việc gì, cớ sao lại phải phát điên ôm đầu chạy? Nếu hiểu kỹ rằng : Cái đầu là đầu của mình sẵn có rồi. Biết chắc rằng : vì điên mà ôm đầu chạy hoảng thì cái thuyết “nhân duyên” “tự nhiên” đều là hý luận. Thế nên Như Lai nói :
Ba duyên đoạn rồi là Bồ-đề tự hiện. Nếu bảo rằng: Đoạn ba duyên rồi thì Bồ-đề tâm sanh, vì tâm sanh diệt đã diệt thì đó cũng chỉ là “sanh”, “diệt” trong vòng đối đãi. Diệt và sanh đều xóa hết, mới đến chỗ “vô công dụng”. Ông A Nan xưa nay luôn chấp vào quan niệm nhân duyên, tự nhiên cũng là việc thường tình vì ông chưa thâm nhập vào bản thể chân như, vào chơn tâm tuyệt đối. Giáo lý của Đức Phật có thể chia làm hai mặt : Nếu đứng về phương diện không gian thì đạo Phật chủ trương rằng vạn pháp là do nhân duyên hòa hợp mà thành. Còn đứng về phương diện thời gian thì vạn pháp là do nhân và quả mà thành tựu.
Thí dụ vì do nhân duyên như gạch, ngói, cây, gỗ nên cái nhà được xây dựng. Trong khi đó, nếu ngày nay chuyên cần học tập thì năm mười năm sau chúng ta sẽ có nghề nghiệp vững chắc. Nhưng đây chỉ là chân lý tục đế tức là chân lý tương đối, có sinh có diệt. Còn đệ nhất nghĩa đế là chân lý tuyệt đối, bất sinh bất diệt, vô cùng vô tận thì làm gì có nhân duyên hay tự nhiên. Vì thế Đức Phật mới mượn câu chuyện anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa để khai thị cho A Nan. Nếu nói rằng Diễn Nhã Đạt Đa tự nhiên điên thì không đúng. Bởi vì trước khi chưa điên thì “cái tự nhiên điên” nó ở đâu?
Còn nếu cho rằng Diễn Nhã Đạt Đa tự nhiên điên thì lúc nào anh chàng này cũng điên chớ đâu phải đợi đến lúc soi mặt mình trong gương thì mới phát điên ôm đầu chạy. Vậy thuyết “tự nhiên” dĩ nhiên là không đúng cho nên Phật mới bác bỏ. Nếu tự nhiên không đúng thì nhân duyên như thế nào? Nếu cho rằng vì do nhân duyên mà anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa bị điên, ôm đầu chạy như thế khi cơn điên hết thì nhân điên và duyên điên ở đâu, cái nhân duyên điên đó phát xuất từ chỗ nào? Nếu đã là tự nhiên không điên thì nhân duyên gì phát điên ôm đầu chạy hoảng? Nhân đã không tìm thấy thì duyên làm sao có được. Vì thế thuyết tự nhiên sinh, tự nhiên có không phải là của Phật giáo, không đúng chân lý mà là triết lý của Lão Tử trong Đạo Đức kinh. Còn nói về nhân duyên là nói về tục đế tức là giáo lý tương đối nhưng trong đệ nhất nghĩa đế không hề có nhân duyên và cũng chẳng có tự nhiên.
Phật lại dạy rằng :
A Nan! Bồ-đề Niết bàn còn xa, nếu ông không siêng năng tu tập, dù ông có nhớ diệu nghĩa 12 bộ kinh của thập phương Như Lai cũng chỉ thêm nhiều hý luận. Dù ông có huân tập đa văn, ông cũng không tự hóa giải nạn Ma Đăng Già, dù nhiều kiếp nhớ ghi diệu pháp của Phật, cũng không bằng một ngày chuyên tu vô lậu nghiệp. Xa lìa hai khổ thương ghét thế gian. Ma Đăng Già trước kia là dâm nữ, do được nghe Thủ Lăng Nghiêm mà diệt được lòng ưa muốn. Nay trong Phật pháp nàng có tên Tánh tỳ kheo ni, cùng với mẹ La Hầu La là Da Du Đà La, đồng ngộ nhân trước, biết đã trải qua nhiều đời, nhân vì tham ái mà khổ, một niệm huân tu pháp vô lậu thiện, thì người đã ra khỏi ràng buộc, người thì được Phật thọ ký, làm sao, ông còn tự dối mình, mắc míu mãi trong vòng nghe thấy.
A Nan là một điển hình cho chúng sinh tập khí giỏi văn chương, giàu ngôn từ, nhưng không chịu tham thiền, nhập định nên không bao giờ thấy được Pháp thân thanh tịnh của mình. Tuy Phật pháp cao siêu mầu nhiệm và được dung chứa trong 12 bộ kinh, nhưng Đức Phật giáo hóa chúng sinh dựa theo 8 phương thức (tám khoa) khác nhau :
1) Tạng giáo : là các pháp môn tu học có dạy chung trong tam tạng kinh (Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng).
2) Thông giáo : là giáo pháp dạy chung cho tất cả ba hạng căn cơ : Thượng, Hạ, Trung và ba thừa : Tiểu, Trung và Đại.
3) Biệt giáo : là giáo pháp dạy riêng cho mỗi căn cơ hoặc Thượng, hoặc Trung, hoặc Hạ, hoặc riêng cho Tiểu thừa, hoặc riêng cho Trung thừa, Duyên giác, hoặc riêng cho Đại thừa Bồ-tát.
4) Viên giáo : là giáo pháp viên tròn, đầy đủ cũng còn gọi là “liễu nghĩa”. Thí dụ như kinh Hoa Nghiêm chỉ chuyên dạy cho các hàng Bồ-tát Đại sĩ Pháp thân (từ Thập trụ đến Thập Địa Bồ-tát).
5) Đốn giáo : là giáo pháp đốn ngộ tức là giác ngộ nhanh chóng. Đây là pháp môn trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật hay là “Trực chỉ Thiền” của Tổ Bồ-đề Đạt Ma hay Lục Tổ Huệ Năng.
6) Tiệm giáo : là giáo pháp dạy tu chứng dần dần, từ bậc thấp lên đến bậc cao. Thiền thì có Ngài Thần Tú và cũng là Tịnh độ pháp môn.
7) Bí mật giáo : là dạy vế cách bắt ấn, trì chú, tam mật tương ưng tức thân thành Phật. Nói cách khác thân, khẩu, ý của mình tương ứng với thân, khẩu, ý của Phật. Đây là Mật tông.
8) Bất định giáo : là giáo pháp mà Đức Phật tùy theo cơ nghi thuyết dạy chớ không nhất định là phải thuộc riêng về một căn cơ nào cả.
Khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa vào thế kỷ thứ 7, ở phương Bắc có Ngài Thần Tú trong khi đó ở phương Nam có Lục Tổ Huệ Năng. Chính Lục Tổ đã dạy chúng sinh “Trực chỉ thiền” mà về sau được chia ra làm năm nhánh. Đó là Vân Môn, Pháp Nhãn, Tào Động, Quy Ngưỡng và Lâm Tế. Tất cả hiện tượng vạn pháp đều phát nguyên từ bản thể chơn như mầu nhiệm, nhưng con người phải lìa văn tự, ly ngữ ngôn, hồi quang phản chiếu để thấy được bản tâm thanh tịnh thì Bồ-đề, Niết bàn mới hiển lộ.
Tuy nhiên, người đệ tử Phật khi tu hành để muốn được chứng đắc nên dùng tâm muốn lấy, muốn kiến, muốn đắc thì họ lại lọt vào vọng rồi. Thí dụ, tham thiền để muốn được kiến tánh tức là kiến tánh thành Phật hay niệm Phật để muốn được nhất tâm thì tâm này là vọng tâm. Tại sao? Bởi vì Phật của mình đã thành sẵn rồi chớ không phải khi kiến tánh mới đắc được, do vậy mà chư Tổ đã dạy rằng : ”Vô sở cầu, vô sở đắc, vô sở sợ” là vậy. Nếu còn hy vọng chứng đắc là vọng. Vì thế Đức Thế Tôn mới thương xót khuyên A Nan cố gắng tu hành. Bồ-đề, Niết bàn vẫn còn xa lắm nếu A Nan không siêng năng trải qua nhiều kiếp tu hành thì không thể chứng nghiệm chân lý.
Cho dù A Nan có ghi nhớ toàn bộ 12 bộ kinh thì cũng chẳng ích lợi gì. Đa văn là do nhiều kiếp huân tập mà có, nhưng vẫn không tránh khỏi nạn Ma Đăng Già mà phải nhờ thần chú Thủ Lăng Nghiêm mới giải cứu ông ta được. Vì thế tuy A Nan trải qua nhiều kiếp học rộng, biết nhiều nhưng vẫn không bằng một ngày tu vô lậu nghiệp. Đến như dâm nữ Ma Đăng Già và công chúa Da Du Đà La chỉ cần một niệm huân tu vô lậu thiện mà một người đã thoát ly phiền trược trở thành A la hán, một người được Phật thọ ký về sau sẽ thành Phật (kinh Pháp Hoa).
Còn A Nan là một nam tử đại trượng phu cớ sao không dũng mãnh huân tu mà còn mắc kẹt trong vòng nghe thấy (kiến, văn, giác, tri). Người đệ tử Phật phải tin rằng mình đã sẳn có diệu tâm sáng tỏ, không phải do tu mới thành, do chứng mới đắc. Tất cả kinh điển của Phật chỉ là phương tiện dùng để phá tư tưởng chấp thật của mình. Vì thế, khi thức tỉnh thì mới biết mình có tất cả. Tự tánh Bồ-đề, tự tánh Niết bàn thì lúc nào cũng sẵn có trong tất cả mọi chúng sinh cũng như mây tan thì trời sáng hay đào ao có nước thì ánh trăng sẽ hiện mà không cần phải trông chờ mong đợi gì hết.