Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Phẩm "Tùy Thuận" (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên; Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

26/05/202009:52(Xem: 7785)
17. Phẩm "Tùy Thuận" (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên; Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

 


pham tuy thuan-kinh bat nha
TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

PHẨM "TÙY THUẬN"

Giữa quyển 61, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Hội Tông” quyển 07, Kinh MHBNBLM)

 Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng








 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Như Lai trước bảo Tôn giả Thiện Hiện tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật, nhưng nay sao lại nói về Đại thừa?

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Vừa rồi con nói Đại thừa đối với Bát nhã Ba la mật không chống trái, vượt qua, có phải vậy không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Ngươi vừa nói Đại thừa, đối với Bát Nhã, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái, vượt qua. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ Tát pháp, Phật pháp, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì là tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ Tát pháp, Phật pháp, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Hoặc 6 Ba la mật; hoặc 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc; hoặc 37 pháp trợ đạo; hoặc Tam giải thoát môn; hoặc 5 loại mắt, 6 phép thần thông; hoặc Phật mười lực, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Thiện Hiện! Vì tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ Tát pháp, Phật pháp, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí. Bát Nhã hoặc sắc, hoặc thọ tưởng hành thức, hoặc 12 xứ, 18 gii; hoặc Tứ đế; 12 duyên khởi; hoặc Dục, Sắc, Vô sắc giới; hoặc pháp thiện, pháp phi thiện; hoặc pháp hữu ký, vô ký; hoặc pháp hữu lậu, vô lậu; hoặc pháp hữu vi, vô vi; hoặc pháp thế gian, xuất thế gian; hoặc 4 tịnh lự, hoặc 4 vô lượng, 4 định vô sắc; hoặc 8 giải thoát, hoặc 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ; hoặc 37 pháp trợ đạo; hoặc tam giải thoát môn; hoặc 5 loại mắt, hoặc 6 pháp thần thông; hoặc Phật mười lực, hoặc 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; hoặc các đức Như Lai, hoặc pháp mà các đức Phật giác ngộ như đã nói; hoặc 18 pháp không; hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn, tất cả các pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, vừa rồi, ông nói Đại thừa đối với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái, vượt qua. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại thừa chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác sáu Ba la mật; sáu Ba la mật chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí, Bát nhã Ba la mật, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác tám giải thoát, tám giải thoát chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa hoặc tám giải thoát, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác 37 pháp trợ đạo, ba mươi bảy pháp trợ đạo chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc ba mươi bảy pháp trợ đạo, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác tam giải thoát môn, tam giải thoát môn chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc tam giải thoát môn, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác năm loại mắt, sáu thần thông, năm loại mắt, sáu thần thông chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc năm loại mắt, hoặc sáu thần thông tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác Phật mười lực, chẳng khác bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; Phật mười lực cho đến Nhất thiết tướng trí chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Phật mười lực cho đến Nhất thiết tướng trí, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Đại thừa chẳng khác pháp uẩn, xứ, giới không, bất không v.v… các pháp uẩn, xứ, giới không, bất không v.v... chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc pháp uẩn, xứ, giới không, bất không, tánh nó không hai, vì không hai phần.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên ông vừa nói Đại thừa đối với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái vượt qua. Nói Đại thừa tức là nói Bát nhã Ba la mật; nói Bát nhã Ba la mật tức nói Đại thừa, vì hai pháp như vậy, không phân biệt.

 

Lược giải:

 

Đọc toàn thể phẩm “Tùy Thuận” từ trên xuống dưới từng pháp một trong “tất cả các pháp mầu Phật đạo”, bất cứ pháp nào cũng tùy thuận Đại thừa hay nói khác là toàn thể tất cả các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát, Bồ Tát đạo, Bồ Tát hạnh… là Đại thừa. Chúng ta cũng biết rằng tất cả pháp Phật cũng nhiếp thu vào Bát Nhã. Nên kinh nói Bát nhã Ba la mật là mẹ của tất cả chư Phật, chư Bồ Tát sanh ra tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa, Đại thừa không khác Bát nhã Ba la mật, cả hai không phân biệt.

Phẩm “Tán Đại Thừa”, phần sau quyển 56, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo:

“Thiện Hiện! Đại thừa như vậy, phải biết tức là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy, phải biết tức là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không thảy (18 pháp không).

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là Kiện hành Tam ma địa, cho đến Vô nhiễm trước như hư không Tam ma địa thảy vô lượng trăm ngàn Tam ma địa môn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi (37 pháp trợ đạo).

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là ba Tam ma địa cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại thừa như vậy phải biết tức là văn tự Đà la ni, tất cả Đà la ni môn. Thiện Hiện! Như vậy thảy vô lượng vô biên công đức thù thắng. Phải biết đều là Đại thừa của đại Bồ Tát”.

Tóm lại, Đại thừa là tất cả các thiện pháp, Bồ đề phần pháp, Thanh văn pháp, Độc giác pháp, Bồ Tát pháp, Phật pháp. Tất cả pháp này cũng đều nhiếp thọ vào Bát nhã Ba la mật như trên đã nói. Nên để kết luận phẩm này, Phật bảo:

“Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên ông vừa nói Đại thừa đối với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái vượt qua. Nói Đại thừa tức là nói Bát nhã Ba la mật; nói Bát nhã Ba la mật tức nói Đại thừa, vì hai pháp như vậy, không phân biệt”./.

 

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/03/2011(Xem: 5418)
The Buddhist Channel is pleased to present to you the last book written by the late Chief Ven. Dr K Sri Dhammananda. To fulfill the wish of the late venerable, this e-Book shall be distributed free of charge. Please help to fulfill his wish by forwarding it to as many people as you can.
19/02/2011(Xem: 12771)
Hết lòng trân quí và ghi nhớ ân đức sâu dầy của sư Sán Nhiên đã biên soạn và hiệu đính tập sách này, cũng như đã hoan hỷ cho phép Hội Thiện Đức ấn tống nhằm góp phần vào công cuộc hoằng hóa Phật pháp đem đến lợi lạc cho nhiều người. Hội Thiện Đức xin biết ơn sự ủng hộ tinh thần và tán thán sự phát tâm đóng góp tịnh tài của quý Phật tử và ân nhân cho công trình ấn tống này. Xin tri ân chị Thân Thục & anh Thân Phúc đánh máy tập sách; anh Thân Hòa trình bày sách bao gồm thiết kế bìa sách; anh Chúc Giới, anh Thiện Tánh, cùng anh Chúc Tùng cung cấp tài liệu và hình ảnh; Tâm Hân Huệ thỉnh ý sư Sán Nhiên; chị Tâm Thiện, chị Chơn Hạnh Bạch, chị Diệu Âm, Thân Hồng, cùng anh chị Lê Lộc (Lancaster, PA) phụ giúp sổ sách, liên lạc, và kêu gọi cho quỹ ấn tống.
22/01/2011(Xem: 14653)
Đại Hội Khoáng Đại kỳ 04 được tổ chức tại Chùa Pháp Hoa, Nam Úc
10/01/2011(Xem: 51995)
Website Liên Kết từ Trang Nhà Quảng Đức
13/12/2010(Xem: 10283)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
10/12/2010(Xem: 11627)
Tập sách này gồm 2 bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV, được ngài Rajiv Mehrotra – đệ tử của đức Đạt-lai Lạt-ma – trực tiếp ban cho chúng tôi cùng với 4 bài giảng khác nữa, kèm theo một văn bản cho phép chuyển dịch tất cả sang Việt ngữ và phát hành ở dạng song ngữ Anh-Việt. Phát tâm Bồ-đề là bài giảng được chúng tôi hoàn tất trước tiên và được chọn làm tựa đề cho tập sách này vì tính phổ quát của nó đối với mọi người Phật tử. Bài giảng này có nội dung khuyến khích và hướng dẫn việc phát tâm Bồ-đề, một yêu cầu tối thiết yếu đối với bất cứ ai muốn bước chân vào con đường tu tập theo Phật giáo Đại thừa.
09/11/2010(Xem: 7260)
Các Sa-di-ni thân mến, Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikṣamānā, 式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theo lý tưởng cao cả và hạnh nguyện độ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăng trong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này. Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩ vô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡng và ép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đường tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.
08/10/2010(Xem: 5303)
Truyện thiền không những có tính tôn giáo, triết lý mà còn có giá trị văn học cao. Nó mang ý nghĩa siêu hình, với hình thức ngụ ngôn, bố cục giản lược, trào lộng, kết thúc đột ngột, lại dùng những phương pháp tu từ đặc biệt như điệp ngữ, nghịch lý, đa nghĩa, chữi để mà khen, buông thỏng nửa chừng không kết thúc, lấy câu hỏi để trả lời câu hỏi vv…Đó là đặc sắc của truyện thiền. Cho nên đọc chuyện thiền là vừa học đạo[1] vừa thưởng thức một tác phẩm văn chương kỳ thú.
20/09/2010(Xem: 6351)
ĐứcThế Tôn thường nói: “Cái gì vô thường là khổ. Cái gì khổ là vô ngã. Cái gì vô ngã cần phải như thật quán với chánh trí tuệ là 'Cái này khôngphải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã củatôi.'” Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tư tưởng vô ngã lại được diễn đạt như là hệ quả từ thực tế khổ? Lý do để giải thích có thể rút ra từ Tiểu kinh Saccaka (Cūḷasaccaka Sutta), Trung Bộ kinh... Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
28/06/2010(Xem: 18976)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567